Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tt chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.79 KB, 16 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đất
nước ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
với nhiều nước trên thế giới. Sự vận hành của nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang đem lại
sự chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, được bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu ở trên, nền kinh tế
thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong
đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Các vụ án giết
người, cướp tài sản, hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em, lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, tham nhũng, buôn lậu, các tội phạm về
ma túy... xảy ra nhiều, với tính chất, mức độ ngày càng
nghiêm trọng. Tình hình trên khơng những xâm hại tính mạng,
sức khỏe của người dân, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ
chức, làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, mà còn thực sự
đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế - xã hội, làm giảm lòng tin
của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý
của Nhà nước, gây ra những hậu quả nặng nề về mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thậm chí tình hình tội phạm cịn
tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tình báo nước ngoài lợi
dụng tiến hành các hoạt động mua chuộc, thu thập tình báo,
phá hoại sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trước tình hình trên, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã áp
dụng các biện pháp có hiệu quả trong đấu tranh phịng,
chống tội phạm, xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi hành vi
1** Expression is faulty **


phạm tội và người phạm tội. Tòa án các cấp đã xử phạt tử
hình nhiều người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, có tác
dụng răn đe, phịng ngừa tội phạm, phục vụ yêu cầu chính
trị chung. Việc thi hành hình phạt tử hình đã được các cơ
quan chức năng tiến hành theo đúng quy định của pháp
luật, được dư luận nhân dân đồng tình, đồng thời có tác
dụng đề cao sự cần thiết phải áp dụng hình phạt này trong
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành hình phạt tử hình cũng đã
đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật tố
tụng hình sự phải nghiên cứu giải quyết như khái niệm thi
hành hình phạt tử hình, các hình thức thi hành hình phạt tử
hình, việc người bị kết án tử hình xin hiến xác cho khoa học,
gia đình người bị kết án xin xác về mai táng theo phong tục,
tập quán, sự phân công trách nhiệm giữa các cơ quan chức
năng với chính quyền địa phương nơi có pháp trường trong
việc quản lý khu vực chôn cất người bị thi hành hình phạt tử
hình... Trong khi đó, xét về mặt lý luận, chế định thi hành
hình phạt tử hình chưa được quan tâm nghiên cứu một cách
thỏa đáng và xung quanh chế định này, cịn nhiều ý kiến
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Chế định thi hành hình
phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam", mang
tính cấp thiết, khơng những về lý luận, mà còn là đòi hỏi thực
tiễn nhằm nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tử hình ở Việt
Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Thi hành hình phạt tử hình là vấn đề quan trọng và nhạy
cảm, đã được một số nhà luật học ở trong và ngoài nước quan
tâm nghiên cứu. TS. Giang Sơn - Văn phòng Chủ tịch nước đã

1** Expression is faulty **


có cơng trình "Một số vấn đề về thi hành án tử hình" (Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 9 năm 1996); Tịa án nhân dân tối
cao có cơng trình nghiên cứu khoa học cấp bộ: "áp dụng và
thi hành hình phạt tử hình - những vấn đề lý luận và thực tiễn"
(Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội, 2002); ThS. Vũ Trọng Hách Học viện Hành chính Quốc gia có cơng trình: "Nhu cầu hồn
thiện pháp luật về thi hành án hình sự ở nước ta hiện nay"
(Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 năm 2002);…
Các cơng trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh
khác nhau về thi hành hình phạt tử hình, nhưng chưa có
cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ
thống về chế định hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình
sự, cũng như thực tiễn thi hành hình phạt tử hình ở Việt
Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên
cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách tồn diện,
có hệ thống những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tử
hình, phân tích, đánh giá đúng thực trạng những quy định về
thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự hiện
hành, thực tiễn thi hành hình phạt tử hình, xác định những
vướng mắc trong thực tiễn thi hành hình phạt tử hình, để trên
cơ sở đó, đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả
việc áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
thi hành hình phạt tử hình.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và

giải quyết các nhiệm vụ sau:
2** Expression is faulty **

- Làm sáng tỏ khái niệm thi hành hình phạt tử hình, các
hình thức thi hành hình phạt tử hình.
- Phân tích, làm rõ sự hình thành và phát triển các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử
hình ở Việt Nam.
- Nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật về thi
hành hình phạt tử hình của một số nước trên thế giới.
- Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình ở nước ta.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình
phạt tử hình.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý
luận về thi hành hình phạt tử hình, các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự hiện hành về thi hành hình phạt tử hình và
thực tiễn thi hành hình phạt này ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu đề tài này dưới góc độ luật tố tụng
hình sự.
Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng
những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành
hình phạt tử hình từ năm 1993 đến năm 2002.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng
sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
2** Expression is faulty **


nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, về chính sách đấu
tranh phịng, chống tội phạm nói chung, về thi hành hình phạt
tử hình nói riêng.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quán triệt các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về
đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cơ sở thực tiễn của luận văn
là các báo cáo chuyên đề thi hành hình phạt tử hình của cơ
quan Cơng an, các báo cáo tổng kết, số liệu của Tòa án nhân
dân tối cao về thi hành hình phạt tử hình.
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực
hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp hệ thống,
phân tích, tổng hợp, lịch sử, lơgíc, thống kê, so sánh pháp
luật, xã hội học để hoàn thành các nhiệm vụ mà tác giả
luận văn đã đặt ra.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Đây là cơng trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học
pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên
cứu một cách tồn diện, có hệ thống về chế định thi hành
hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ
sở đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình ở Việt
Nam. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp
mới của luận văn:


- Nghiên cứu, so sánh những quy định của pháp luật tố
tụng hình sự của Việt Nam về thi hành hình phạt tử hình với
những quy định tương ứng trong pháp luật tố tụng hình sự của
một số nước trên thế giới để rút ra những giá trị hợp lý về
hoạt động lập pháp tố tụng hình sự.
- Đề xuất phương hướng nâng cao hiệu quả việc áp dụng
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình
phạt tử hình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý
nghĩa quan trọng đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung, thi hành hình phạt tử hình nói riêng. Thông
qua kết quả nghiên cứu và các đề xuất, tác giả mong muốn
đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của kho
tàng lý luận luật tố tụng hình sự và tổng kết, nghiên cứu thực
tiễn thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam. Với việc đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình,
tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học cho
việc đổi mới tổ chức, bộ máy, bố trí cán bộ các cơ quan có
trách nhiệm trong việc thi hành hình phạt tử hình, góp phần
vào cơng cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Vì vậy, luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu tham

- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt
tử hình.

khảo trong cơng tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp

- Phân tích làm rõ thực trạng những quy định của pháp


hình sự, tội phạm học nói riêng, cũng như trong đào tạo, bồi

luật tố tụng hình sự hiện hành về thi hành hình phạt tử hình

dưỡng cán bộ chuyên ngành về thi hành hình phạt tử hình

và thực tiễn áp dụng ở nước ta.

thuộc các ngành Tịa án, Viện Kiểm sát, Cơng an.

3** Expression is faulty **

lý nói chung, khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học kỹ thuật

3** Expression is faulty **


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 mục.

Chương 1
Một số vấn đề lý luận chung
về Thi hành hình phạt tử hình
Trong chương này, tác giả tập trung làm sáng tỏ một số vấn
đề lý luận chung về thi hành hình phạt tử hình như khái niệm,
các hình thức thi hành hình phạt tử hình, ý nghĩa của chế định
thi hành hình phạt tử hình, sự hình thành và phát triển các quy
định về thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt

Nam trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;
những quy định về thi hành hình phạt tử hình trong pháp luật tố
tụng hình sự một số nước trên thế giới.
1.1. Khái niệm, các hình thức thi hành hình phạt tử
hình và ý nghĩa của chế định thi hành hình phạt tử hình
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Trên cơ sở phân tích, làm rõ khái niệm hình phạt tử hình,
khái niệm thi hành án hình sự, tác giả đã đưa ra định nghĩa
khoa học của khái niệm thi hành hình phạt tử hình như sau:
Thi hành hình phạt tử hình là hoạt động của cơ quan nhà
nước, cá nhân có thẩm quyền đưa bản án tử hình của Tịa án
đã có hiệu lực pháp luật ra thực hiện trên thực tế theo những
trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Từ khái
niệm này, tác giả đã rút ra ba đặc điểm của thi hành hình
phạt tử hình:
Đặc điểm thứ nhất, thi hành hình phạt tử hình là sự thực
hiện trên thực tế việc tước đi quyền sống của người phạm tội,
do đó cơ quan thi hành án hình sự phải tuân theo những thủ
tục hết sức nghiêm ngặt, chặt chẽ. Đây là đặc điểm chủ yếu
nhất để có thể phân biệt việc thi hành hình phạt tử hình với
thi hành các loại hình phạt, biện pháp tư pháp khác.

4** Expression is faulty **

4** Expression is faulty **


Đặc điểm thứ hai, khác với việc thi hành các hình phạt,
biện pháp tư pháp khác, nếu việc thi hành hình phạt tử hình
có sai lầm, thì khơng thể khắc phục được hậu quả. Đặc điểm

này bắt nguồn từ bản chất của hình phạt tử hình là tước đi
quyền sống của người bị kết án.

quan hệ của chế định này với một số ngành khoa học pháp lý
có liên quan chặt chẽ với khoa học luật tố tụng hình sự như tội
phạm học, tâm lý học tư pháp, khoa học kỹ thuật hình sự... và
nêu ra ý nghĩa của chế định này đối với các ngành khoa học
nói trên.

Đặc điểm thứ ba, việc thi hành hình phạt tử hình khơng
những tước đi sự sống của người bị kết án, mà còn gây ra nỗi
đau thương, mất mát lâu dài cho người thân của họ, đồng thời
có những tác động tâm lý tiêu cực nhất định lên những cá
nhân trực tiếp thực hiện việc thi hành hình phạt tử hình. Đây
là đặc điểm chúng ta cần lưu ý khi thực hiện cơng tác chính trị,
tư tưởng đối với người thân của người bị kết án, cũng như đối
với số cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm nhiệm vụ tước đi mạng
sống của người bị kết án.

1.2. Sự hình thành và phát triển của các quy định về
thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003

Tác giả đã phân tích, làm rõ 21 hình thức thi hành hình phạt
tử hình: 1) treo cổ; 2) chặt đầu; 3) đun người bị kết án trong vạc
dầu, nước sôi; 4) dùng bánh xe cán chết; 5) xé xác người bị kết
án ra thành các mảnh nhỏ; 6) thiêu chết; 7) chơn sống; 8) bóp
cổ hoặc làm cho chết ngạt trong bao tải; 9) lột da người bị kết
án cho đến chết; 10) mổ bụng, moi ruột; 11) cho ngồi lên cọc

nhọn hoặc dùng cọc nhọn đâm thủng người; 12) đốt cổ họng
bằng chì đun sơi; 13) đẩy người bị kết án từ đỉnh núi xuống
vực; 14) thắt cổ; 15) voi dày, ngựa xéo; 16) quăng người bị
kết án cho hổ, báo ăn thịt; 17) dùng đá ném đến chết; 18) cho
người bị kết án chết đói, chết khát; 19) đầu độc chết; 20)
dùng gậy đánh chết; 21) xử bắn. Trên cơ sở đó, phân loại các
hình thức thi hành hình phạt tử hình và tập trung làm sáng tỏ
bảy hình thức thi hành hình phạt tử hình đang được áp dụng ở
các nước trên thế giới: xử bắn, treo cổ, chém đầu, ném đá đến
chết, ngồi ghế điện, dùng hơi ngạt, tiêm thuốc độc.
Tác giả đã phân tích ý nghĩa, vai trị của chế định thi hành
hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, mối
5** Expression is faulty **

Tác giả đã phân tích sự hình thành và phát triển của các
quy định về thi hành hình phạt tử hình từ năm 938, sau khi
Ngơ Quyền lên ngơi đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003. Từ sự phân tích này, tác giả đã làm rõ các
điểm ưu việt và hạn chế, những tiến bộ trong lịch sử về pháp
luật thi hành hình phạt tử hình và rút ra bài học kinh nghiệm
cho việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
1.3. Những quy định về thi hành hình phạt tử hình
trong pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế
giới
Tác giả đã nghiên cứu những quy định về thi hành hình
phạt tử hình trong pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang
Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Vương quốc Nhật Bản...,
trong đó tập trung phân tích những quy định về hình thức thi
hành hình phạt tử hình, trình tự gửi đơn xin ân giảm và xét đơn
xin ân giảm, ra quyết định thi hành hình phạt tử hình, cơ quan

được giao nhiệm vụ thi hành hình phạt tử hình, thủ tục lập
biên bản việc thi hành hình phạt tử hình, vấn đề thi thể người
bị kết án, các trường hợp hỗn thi hành hình phạt tử hình. Từ
đó rút ra kết luận: những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự các nước nói trên về các trường hợp hỗn thi hành hình
phạt tử hình là những tài liệu tham khảo có giá trị cho việc
5** Expression is faulty **


nghiên cứu, hồn thiện chế định thi hành hình phạt tử hình
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2
Những quy định của pháp luật
tố tụng hình sự hiện hành về thi hành
hình phạt tử hình và thực tiễn áp dụng
Trong chương này, tác giả tập trung nghiên cứu, làm rõ
những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thi
hành hình phạt tử hình và thực tiễn áp dụng.
2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành về thi hành hình phạt tử hình
Tác giả đã phân tích làm rõ về các cơ quan được giao
nhiệm vụ thi hành hình phạt tử hình: Tòa án nhân dân, Viện
Kiểm sát nhân dân và cơ quan Công an; làm sáng tỏ những
quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về trình tự,
thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành. Tác
giả đã làm rõ hai điều kiện để có thể ra quyết định thi hành
hình phạt tử hình, đó là: điều kiện thứ nhất, có quyết định
khơng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của Chánh án
Tịa án nhân dân tối cao và quyết định khơng kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Viện trưởng Viện

kiểm sát nhân dân tối cao; điều kiện thứ hai, trong trường hợp
người bị kết án xin ân giảm hình phạt tử hình, phải có quyết
định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm của người bị kết
án. Tác giả cũng đã phân tích cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn
của những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
về việc kiểm tra căn cước của người bị kết án; phân tích
những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
6** Expression is faulty **

trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình đối với người bị kết
án tử hình là phụ nữ để phù hợp với quy định tại Điều 35 Bộ
luật hình sự năm 1999. Đặc biệt, tác giả đi sâu, làm rõ những
quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về trình tự,
thủ tục thi hành hình phạt tử hình tại pháp trường, những nội
dung cần công bố ở thời điểm trước khi thi hành hình phạt tử
hình như: bản tóm tắt tội trạng của người bị kết án, quyết
định không kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, quyết định không kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, quyết định của Chủ tịch nước bác đơn
xin ân giảm (nếu người bị kết án có đơn xin ân giảm); quyết
định thi hành án và quyết định thành lập Hội đồng thi hành
án.
Tác giả cũng đã phân tích, làm rõ những quy định tại
Hướng dẫn số 655/HD-P1 ngày 28-9-1991, Quyết định số
355/QĐ-P5 ngày 12-5-1998 của Cục Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ
tư pháp về quy trình đội vũ trang thi hành án tử hình, các thủ
tục về việc mai táng xác người bị kết án, chi phí cho mai táng
người bị kết án tử hình, thủ tục lập biên bản về việc thi hành
hình phạt tử hình, các trường hợp hỗn thi hành hình phạt tử
hình.

2.2. Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình ở
Việt Nam
2.2.1. Thực tiễn xem xét bản án tử hình trước khi
đưa ra thi hành
Nghiên cứu thực tiễn xem xét bản án tử hình trước khi đưa
ra thi hành, tác giả đã rút ra những sai sót về căn cước, lý lịch
của người bị kết án tử hình được thể hiện trong hồ sơ vụ án,
6** Expression is faulty **


chủ yếu về: 1) họ tên của người bị kết án; 2) năm sinh của
người bị kết án; 3) địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú và đăng
ký tạm trú của người bị kết án; 4) họ tên bố mẹ của người bị
kết án.
Nghiên cứu đơn xin ân giảm của những người bị kết án,
tác giả cũng đã rút ra năm vấn đề:

tiễn xử lý các trường hợp đơn có nội dung vừa xin ân giảm,
vừa kêu oan; đơn có nội dung kêu oan hồn tồn; đối với
những đơn khiếu nại; đối với những đơn xin sớm thi hành hình
phạt tử hình… Qua đó nhận biết được những vấn đề cần
nghiên cứu, bổ sung những quy định của pháp luật hiện hành.
2.2.2. Thực tiễn thi hành hình phạt tử hình

Thứ nhất, phần lớn các đơn xin ân giảm đề gửi Chủ tịch
nước nhưng vẫn còn nhiều đơn người bị kết án đề gửi Tổng Bí
thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.


Nghiên cứu thực tiễn thi hành hình phạt tử hình cho thấy,
sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, thời gian người bị
kết án bị giam để chờ thi hành án là khá dài, từ một năm đến
hai năm, có trường hợp kéo dài đến 5 năm. Ngun nhân của
tình hình này có có nhiều, nhưng chủ yếu do:

Thứ hai, nhiều đơn không đề quê quán, hộ khẩu thường
trú mà chỉ đề đề nơi bị bắt, nơi tạm trú.

Thứ nhất, số lượng người bị kết án tử hình ở nước ta có xu
hướng gia tăng

Thứ ba, khi trình bày các tình tiết để xin Chủ tịch nước
xem xét ân giảm xuống tù chung thân, thì người bị kết án lại
trình bày xen kẽ những tình tiết mang tính chất khiếu nại
khác, do vậy, đơn xin ân giảm của những người này vừa có nội
dung đề nghị Chủ tịch nước xem xét ân giảm, đồng thời lại có
nội dung đề nghị Chủ tịch nước cho điều tra lại vụ án.

Thứ hai, ba Tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao
trong nhiều trường hợp phải đi xét xử lưu động ở các địa
phương, nên sau khi xét xử phúc thẩm về trụ sở mới hoàn
thiện hồ sơ vụ án, bản án để gửi về Ban Thư ký Tịa án nhân
dân tối cao. Vì vậy, sau khi xét xử phúc thẩm, nhanh nhất sau
một tháng, Tòa án nhân dân tối cao mới nhận được hồ sợ vụ
án. Trong thời gian đó, cịn phải chờ nhận đơn xin ân giảm
hoặc đơn xin khiếu nại của người bị kết án.

Thứ tư, nhiều trường hợp ngôn ngữ, văn phong trong đơn

xin ân giảm được người bị kết án sử dụng bằng ngơn ngữ địa
phương hoặc viết sai chính tả, khó hiểu, dẫn đến nhiều khó
khăn khơng đáng có trong q trình xem xét đơn xin ân giảm.
Thứ năm, trong một số đơn xin ân giảm không thống nhất
về một số chi tiết ghi ở đơn xin ân giảm với các tài liệu khác
trong hồ sơ vụ án như họ tên, năm sinh, quê quán… dẫn đến
phải mất rất nhiều thời gian xác minh làm rõ.
Về đơn kêu oan, pháp luật tố tụng hình sự hiện hành chưa
đề cập đến trình tự, thủ tục xem xét đơn kêu oan của người bị
kết án tử hình gửi Chủ tịch nước. Tác giả đã trình bày thực
7** Expression is faulty **

Thứ ba, phần lớn người bị kết án cùng với việc gửi đơn xin
ân giảm lên Chủ tịch nước, còn làm đơn gửi Tòa án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao để khiếu nại, đề nghị
xem xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ tư, một nguyên nhân ảnh hưởng rất lớn đến việc
chậm trễ thi hành án tử hình là do các cơ quan điều tra, truy
tố, xét xử cịn có sai sót trong việc xác định căn cước của
người bị kết án. Trong những trường hợp này, phải tiến hành

7** Expression is faulty **


xác minh lại căn cước của người bị kết án gây mất rất nhiều
thời gian.

người bị kết án; chi phí cho việc thi hành hình phạt tử hình cao
hơn so với pháp trường cố định...


Về pháp trường: Hiện nay, trong số 64 địa phương trong
cả nước, mới có 07 địa phương có pháp trường cố định, 18 địa
phương do thi hành hình phạt tử hình nhiều mà tự hình thành
pháp trường, số địa phương cịn lại chưa có pháp trường, mỗi
lần thi hành hình phạt tử hình phải đi liên hệ, nhờ pháp trường.

Những địa phương còn lại, khi cần tổ chức thi hành hình
phạt tử hình, phải đi liên hệ tìm pháp trường. Có nơi người dân
khơng cho làm pháp trường, vì sợ ảnh hưởng tới việc sản xuất,
có nơi chính quyền địa phương tìm lý do từ chối và yêu cầu
người bị kết án ở đâu hoặc gây án ở đâu thì đem đến đó mà
thi hành hình phạt tử hình.

Bảy địa phương có pháp trường cố định là: Hà Nội, Lào
Cai, Quảng Nam, Lai Châu, Kon Tum, Lạng Sơn, Bà Rịa - Vũng
Tàu, có những thuận lợi cơ bản, đó là: bảo đảm mức độ an
tồn cao cho việc thi hành hình phạt tử hình; pháp trường
thường ở gần trại tạm giam, cho nên rất thuận tiện cho việc
áp giải người bị kết án từ trại tạm giam đến pháp trường và
khơng mất thời gian tìm pháp trường, tạo ra pháp trường; bảo
đảm được bí mật cho tồn bộ q trình thi hành án, giảm tác
động tiêu cực đến tâm lý của những người thi hành án, nhất là
số đội viên Đội vũ trang thi hành hình phạt tử hình; các pháp
trường này có khu vực chơn cất xác người đã bị thi hành án,
nên không gây ảnh hưởng về mặt tâm lý đối với nhân dân địa
phương.
18 địa phương do thi hành hình phạt tử hình nhiều mà tự
hình thành pháp trường, đó là: Hà Nam, Thái Nguyên, Bắc Ninh,
Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Cao Bằng, Đà Nẵng, Bắc
Cạn, Ninh Bình, Hải Phịng, Đồng Nai, Cà Mau, Đắc Lắc, Bắc

Giang, Sơn La, Phú Thọ, Quảng Bình và Gia Lai. Các địa phương
này dựa vào điều kiện địa lý tự nhiên, thuận lợi cho việc thi
hành hình phạt tử hình như đồi núi, cồn cát cao, đê cao... chọn
nơi cho việc thi hành hình phạt tử hình. Những địa phương này
có một số khó khăn cho việc thi hành hình phạt tử hình như
sau: từ trại giam đến pháp trường phải đi xa, nên việc đi lại gặp
khó khăn, phải mất nhiều lực lượng tham gia vào việc áp giải
8** Expression is faulty **

2.2.3. Một số tồn tại, vướng mắc phát sinh trong
thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về thi hành hình phạt tử hình
Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về thi hành hình phạt tử hình ở nước ta trong thời gian
qua cho thấy, bên cạnh những thành tích đã đạt được, góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm,
cũng đã bộc lộ một số tồn tại, vướng mắc cần phải được
nghiên cứu, khắc phục:
Thứ nhất, việc chuyển hồ sơ các vụ án có hình phạt tử
hình đã có hiệu lực pháp luật cịn chậm. Nhiều trường hợp xét
xử án tử hình, Tịa án địa phương và các Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao chưa chú ý đúng mức đến việc xác định căn
cước, lý lịch của người bị kết án, nên đã để xảy ra những sai sót
khơng đáng có dẫn đến việc phải kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm, gây tốn kém về thời gian, công sức.
Thứ hai, đối với những trường hợp, người bị kết án gửi đơn
xin ân giảm lên Chủ tịch nước nhưng có nội dung kêu oan
hoặc đơn kêu oan, thì Chủ tịch nước khơng xét, Văn phòng
Chủ tịch nước trả những đơn này cho Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao giải

quyết theo thẩm quyền. Sau khi nhận được đơn, Tòa án nhân
8** Expression is faulty **


dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
phải nghiên cứu, xem xét lại một lần nữa. Nếu Tòa án nhân
dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao khẳng định vẫn
giữ quan điểm khơng kháng nghị bản án tử hình đã có hiệu lực
pháp luật, thì Chánh án Tịa án nhân dân tối cao làm công văn
gửi kèm theo bản sao Thông báo của Văn phòng Chủ tịch
nước để Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án đó tiến hành các thủ
tục cần thiết để thi hành án. Tuy nhiên, ở một số địa phương,
khi Chánh án Tòa án ra quyết định thi hành án, thì Viện Kiểm
sát khơng tham gia Hội đồng thi hành án với lý do phải chờ
Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm.

tử hình và khu các cơng trình phụ trợ. Như vậy, nếu cịn duy

Thứ ba, việc thi hành hình phạt tử hình bằng xử bắn có tác

Thứ tám, thi hành hình phạt tử hình là một loại hình lao
động đặc biệt, nhưng mức bồi dưỡng cho số cán bộ, chiến sĩ
tham gia thi hành án chưa hợp lý, chưa có tác dụng động
viên, khích lệ cán bộ, chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ được giao.

dụng răn đe, phịng ngừa tội phạm cao. Tuy nhiên, hình thức
thi hành hình phạt tử hình này làm cho thi thể người bị kết án
khơng cịn ngun vẹn, có ảnh hưởng nhiều tới tâm lý, tư
tưởng cán bộ, chiến sĩ Đội vũ trang thi hành án.
Thứ tư, thực tiễn thi hành hình phạt tử hình cho thấy,

trước khi thi hành án, có một số người bị kết án có nguyện
vọng hiến xác hoặc hiến một bộ phận trong cơ thể cho y học
để chuộc lại lỗi lầm. Đây là vấn đề phức tạp dưới góc độ kỹ
thuật cũng như góc độ tâm lý xã hội cần được nghiên cứu giải
quyết.
Thứ năm, theo những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành, khơng giải quyết cho thân nhân của họ xin xác
về mai táng. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập quốc tế và khu
vực, đây cũng là một trong những vấn đề về thi hành hình
phạt tử hình phải nghiên cứu giải quyết trong thời gian tới.
Thứ sáu, thực tiễn xây dựng pháp trường tại Hà Nội cho
thấy, pháp trường được thiết kế gồm ba khu vực: khu bắn đạn

trì quy định về việc thực hiện hình phạt tử hình bằng xử bắn,
thì Nhà nước phải đầu tư một lượng kinh phí lớn, cùng với quỹ
đất cho việc xây dựng pháp trường.
Thứ bảy, để việc thi hành hình phạt tử hình được tiến hành
thuận lợi, theo đúng các quy định của pháp luật, công tác
chuẩn bị cho việc thi hành án đóng vai trị rất quan trọng. Tuy
nhiên, do chưa có văn bản hướng dẫn về việc chuẩn bị thi
hành án, chưa quy định cơ quan nào sẽ đứng ra chủ trì cho
cơng việc này, nên ở mỗi địa phương lại quy định trách nhiệm
cho các cơ quan khác nhau.

Những tồn tại, vướng mắc nói trên có nhiều nguyên nhân,
nhưng chủ yếu gồm một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Một là, chế định thi hành hình phạt tử hình trong pháp luật
tố tụng hình sự hiện hành đã được hoàn thiện hơn so với trước
đây, nhưng thực tiễn thi hành hình phạt tử hình cho thấy cần
tiếp tục hoàn thiện các quy định của chế định này và cần có

các văn bản hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật của các
cơ quan có thẩm quyền.
Hai là, chế định thi hành hình phạt tử hình liên quan đến
một vấn đề rất nhạy cảm là tước đi mạng sống của người
phạm tội, nhưng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về pháp luật tố tụng hình sự nói chung, về chế định
thi hành hình phạt tử hình nói riêng chưa được chú trọng một
cách đúng mức.

thật (để cán bộ, chiến sĩ bắn đạn thật), khu thi hành hình phạt
9** Expression is faulty **

9** Expression is faulty **


Ba là, việc thi hành hình phạt tử hình được giao cho cả ba
cơ quan: Tòa án, Viện Kiểm sát, Tịa án, nhưng lại khơng giao
cho cơ quan nào chịu trách nhiệm chủ trì, cơ quan nào chịu
trách nhiệm phối hợp và do chưa có Quy chế phối hợp giữa ba
ngành Tịa án, Kiểm sát, Cơng an trong việc thi hành hình
phạt tử hình, cho nên ở một số địa phương, dẫn đến tình trạng
lúng túng trong việc thi hành án.
Bốn là, công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thi hành
hình phạt tử hình chưa được quan tâm đúng mức. Chúng ta
chưa có những hoạt động cần thiết phục vụ cho công tác này.
Đây là những vấn đề cần khắc phục trong thời gian tới.
Chương 3
Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng
những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
về thi hành hình phạt tử hình

Trong chương này, tác giả nghiên cứu sự cần thiết phải
nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình, những quan
điểm của Đảng và Nhà nước cần quán triệt trong việc nâng
cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về thi hành hình phạt tử hình và các giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về thi hành hình phạt tử hình thời gian tới.
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả việc áp dụng
những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi
hành hình phạt tử hình
Theo tác giả, việc nâng cao hiệu quả áp dụng những quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử
hình là do:
10** Expression is faulty **

Thứ nhất, bắt nguồn từ đòi hỏi xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, những quyền con người cơ bản, trong
đó có quyền sống được tôn trọng và bảo vệ, cho nên việc thi
hành hình phạt tử hình cũng phải được đổi mới cả về nội dung
lẫn hình thức, trong đó những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về thi hành hình phạt tử hình phải bảo đảm phục vụ
có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời
bảo đảm tơn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
kết án, cũng như của gia đình họ, tơn trọng phong tục, tập
quán của nhân dân.
Thứ hai, bắt nguồn từ đòi hỏi phải khắc phục những yếu kém
của hệ thống pháp luật hiện hành nói chung, những quy định

của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình nói
riêng để đáp ứng được những u cầu của thực tiễn khách
quan.
Thứ ba, bắt nguồn từ đòi hỏi xây dựng và phát triển các
mối quan hệ quốc tế theo đường lối mở cửa, chủ động hội
nhập quốc tế và khu vực của đất nước ta. Đây vừa là đòi hỏi,
vừa là một trong những nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Nhà
nước ta. Để thực hiện nhiệm vụ đó, việc nâng cao hiệu quả
việc áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
thi hành hình phạt tử hình cho phù hợp với những giá trị tiến
bộ của nhân loại là một điều hết sức cần thiết.
Thứ tư, bắt nguồn từ đòi hỏi làm phong phú thêm kho tàng
lý luận luật tố tụng hình sự Việt Nam về thi hành hình phạt tử
hình. Đây là địi hỏi khơng những của cán bộ nghiên cứu khoa
học pháp lý, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao
học và sinh viên thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự, mà cịn

10** Expression is faulty **


là đòi hỏi của những cán bộ thực tiễn như điều tra viên, kiểm
sát viên, thẩm phán, cán bộ các đội vũ trang thi hành án.

với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công cuộc cải cách tư
pháp, cải cách bộ máy nhà nước hiện nay.

3.2. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước cần quán
triệt trong việc nâng cao hiệu quả áp dụng những quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình
phạt tử hình


Thứ ba, việc nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình phải
bảo đảm để các bản án, quyết định hình sự của Tịa án đã có
hiệu lực pháp luật được thực thi trên thực tế.

Theo tác giả, để nâng cao hiệu quả việc áp dụng những
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt
tử hình, cần nghiên cứu quán triệt các chủ trương của Đảng
về thi hành án hình sự nói chung, thi hành hình phạt tử hình
nói riêng trong các văn kiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, VIII, IX, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa
VII), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) và nhất là
trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-02-2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới.

3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi
hành hình phạt tử hình trong thời gian tới ở nước ta

Qua nghiên cứu các văn kiện nói trên, tác giả rút ra một
số quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cần quán triệt
trong việc nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình như
sau:
Thứ nhất, thi hành hình phạt tử hình phải thực hiện đúng
đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát và phục vụ có hiệu
quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng,
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ

vững bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Thứ hai, việc nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành án hình sự cần đặt
trong tổng thể đổi mới cơng tác thi hành án nói chung, phù hợp

11** Expression is faulty **

3.3.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình
Trên cơ sở quán triệt những quan điểm của Đảng và Nhà
nước về thi hành hình phạt tử hình, tác giả kiến nghị trước mắt,
phải hồn thiện những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
hiện hành về thi hành hình phạt tử hình, tức là phải xem xét lại
chúng cả về cơ cấu, kỹ thuật lập pháp, nội dung quy phạm để
sửa đổi những quy định khơng hợp lý, bảo đảm tính khoa học,
tính chính xác, cụ thể, dễ nhận biết của quy phạm pháp luật.
Hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi
hành hình phạt tử hình cịn có nghĩa là phải hướng dẫn đầy đủ,
thống nhất các quy phạm pháp luật hiện hành cịn có vướng
mắc trong q trình nhận thức và áp dụng trong thực tiễn.
Theo tác giả, hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình như sau:
Thứ nhất, bổ sung khoản 1 Điều 258 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003.
Tác giả đề xuất sau cụm từ: "Trong thời hạn bảy ngày, kể từ
khi bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn
xin ân giảm lên Chủ tịch nước" tại khoản 1 Điều 258 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, bổ sung quy định về thời hạn xét đơn
11** Expression is faulty **



xin ân giảm của Chủ tịch nước như sau: "Trong thời hạn một
năm, Chủ tịch nước ra quyết định ân giảm hoặc quyết định bác
đơn xin ân giảm".

Từ đó, tác giả kiến nghị sửa đổi khoản 3 Điều 259 Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003 như sau: "Hình phạt tử hình được
thi hành bằng tiêm thuốc độc".

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 259 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003.

Thứ tư, ngồi những vấn đề chủ yếu của việc thi hành
hình phạt tử hình đã được đề cập trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, cần nghiên cứu quy định những vấn đề khác có
liên quan đến việc thi hành hình phạt tử hình trong Bộ luật thi
hành án hoặc trong Pháp lệnh về thi hành hình phạt tù.

Tác giả đề xuất, khoản 1 Điều 259 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 nên được sửa đổi, bổ sung như sau: "Trong thời hạn
bảy ngày sau khi Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm ra quyết định
thi hành án, Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương thành lập Hội đồng thi hành hình phạt tử hình. Hội đồng thi
hành hình phạt tử hình gồm đại diện Cơng an, Viện Kiểm sát,
Tịa án".
Thứ ba, sửa đổi khoản 3 Điều 259 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003.
Theo tác giả, việc thay đổi hình thức thi hành hình phạt tử
hình từ xử bắn sang tiêm thuốc độc, nếu được thực hiện là

hoàn toàn phù hợp với Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-022002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới: "Xây dựng Đề án thay đổi việc tổ
chức thi hành hình phạt tử hình và nghiên cứu hạn chế án tử
hình trong Bộ luật hình sự" và phù hợp với xu hướng nhân đạo
hóa việc thi hành hình phạt tử hình đang được nhiều quốc gia
trên thế giới áp dụng hiện nay. Xét về mặt kinh tế, thì việc thi
hành hình phạt tử hình bằng tiêm thuốc độc khơng phải tốn kém
trong việc xây dựng, không phải mất quỹ đất, không phải huy
động một lực lượng lớn tham gia như hình thức xử bắn và xét
về mặt y học, tạo điều kiện cho người bị kết án tử hình được
"ra đi" nhẹ nhàng, nhanh chóng.

12** Expression is faulty **

Tác giả kiến nghị thực hiện một trong hai phương án sau:
Phương án 1: Nếu Nhà nước ta sẽ ban hành Bộ luật thi
hành án, thì cần có một chương về thi hành hình phạt tử hình.
Phương án 2: Nếu Nhà nước ta chưa có chủ trương ban
hành Bộ luật thi hành án, thì chúng tôi xin kiến nghị Nhà nước
cần ban hành Pháp lệnh về thi hành hình phạt tử hình.
Trong cả phương án 1 hoặc phương án 2, thì nội dung của
chương về thi hành hình phạt tử hình hoặc của Pháp lệnh về
thi hành hình phạt tử hình phải có những nội dung chủ yếu
sau đây:
Một là, có quy định về chế độ giam giữ đặc biệt đối với người
bị kết án tử hình.
Hai là, cần có quy định về địa vị pháp lý của người bị kết
án tử hình.
Ba là, trong trường hợp chưa thay đổi hình thức thi hành
hình phạt tử hình, thì nên có quy định về pháp trường, ngày

giờ thi hành án.
Bốn là, cần có quy định về trình tự, thủ tục từ lúc bắt đầu
cho đến khi kết thúc việc thi hành hình phạt tử hình.

12** Expression is faulty **


Năm là, cần có quy định về trường hợp người bị kết án tự
nguyện xin hiến xác hoặc các bộ phận của cơ thể cho khoa
học vì mục đích nhân đạo.
Sáu là, cần phải quy định rõ ràng, cụ thể về các trường
hợp tạm hỗn thi hành hình phạt tử hình.
3.3.2. Đẩy mạnh cơng tác tun truyền, phổ biến,
giáo dục những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
về thi hành hình phạt tử hình
Tác giả cho rằng, để những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về thi hành án hình sự nói chung, về thi hành hình phạt
tử hình nói riêng thực sự đi vào cuộc sống, thì các quy định của
nó trước hết phải rõ ràng, dễ hiểu và phải được tuyên truyền
phổ biến để người bị kết án, cơ quan có thẩm quyền thi hành
án, cũng như người dân được biết, hiểu được theo đúng tinh
thần của điều luật.
Người bị kết án tử hình cần được phổ biến những quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình để
họ nắm, thực hiện những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy
định đối với họ. Mặt khác, cũng cần phổ biến kịp thời, đầy đủ
những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình
phạt tử hình đến các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để công
dân nâng cao ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu, chấp hành pháp
luật nói chung. Giải pháp này vừa giúp cho cơng tác thi hành án

được nhanh chóng vừa có tác dụng răn đe những người có ý
định phạm tội trong xã hội.
3.3.3. Giải pháp về công tác tổ chức, cán bộ có
nhiệm vụ thi hành hình phạt tử hình
Tác giả cho rằng, ngồi những vấn đề về tổ chức, bộ máy,
cơ sở vật chất kỹ thuật, vấn đề cán bộ có vai trị rất quan
trong trong việc nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định
13** Expression is faulty **

của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình.
Do tính chất đặc biệt phức tạp, nhạy cảm của thi hành hình
phạt tử hình, cho nên cán bộ được giao nhiệm vụ thực hiện
công tác này, ngoài những tiêu chuẩn chung của cán bộ thời kỳ
đổi mới, phải đáp ứng những yêu cầu nhất định.
Căn cứ vào những tiêu chuẩn trên, các ngành Công an, Tòa
án, Viện Kiểm sát cần xây dựng những tiêu chuẩn cụ thể cho
số cán bộ được giao nhiệm vụ trực tiếp thi hành hình phạt tử
hình, đồng thời tiến hành các biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, tổ chức học tập các nghị quyết của Đảng, nhất là
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-02-2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới, nâng cao nhận thức và phẩm chất đảng viên, kiểm điểm
nghiêm túc số cán bộ có tư tưởng khơng vững vàng trong khi
thi hành nhiệm vụ.
Thứ hai, trên cơ sở tiêu chí biên chế cán bộ của từng ngành,
cần nghiên cứu bố trí cán bộ làm cơng tác thi hành hình phạt
tử hình một cách chặt chẽ. Quy hoạch và đào tạo cán bộ lãnh
đạo công tác thi hành hình phạt tử hình phải đáp ứng đúng
những tiêu chuẩn nêu trên và tiêu chuẩn do Bộ Nội vụ quy
định.

Thứ ba, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ năng lực cán bộ có nhiệm vụ thi hành án hình sự nói
chung, thi hành hình phạt tử hình nói riêng. Chú trọng bồi
dưỡng, phát huy trình độ, tác dụng thi hành nhiệm vụ của số
cán bộ mới tuyển làm cơng tác thi hành hình phạt tử hình.
Thứ tư, coi trọng cơng tác chính trị, tư tưởng trong số cán
bộ được giao nhiệm vụ thi hành hình phạt tử hình, nhất là số
cán bộ các Đội vũ trang thi hành án, làm cho số cán bộ này
yên tâm cơng tác, gắn bó với cơng việc, khơng vi phạm kỷ

13** Expression is faulty **


luật, quán triệt và chấp hành tốt đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước.

đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, về thi hành hình
phạt tử hình nói riêng.

3.3.4. Tăng cường cơng tác hợp tác quốc tế trong
thi hành hình phạt tử hình

Thứ năm, quản lý chặt chẽ các hoạt động hợp tác quốc tế
nói chung, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thi hành hình phạt tử
hình nói riêng, kịp thời báo cáo, tham mưu với các cơ quan
Đảng, Quốc hội, Chính phủ về các vấn đề phát sinh.

Tác giả đã phân tích sự cần thiết phải tăng cường hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực thi hành hình phạt tử hình và đề xuất:
Thứ nhất, phổ biến rộng rãi và tổ chức thực hiện các điều

ước quốc tế, trong đó có các điều ước quốc tế về quyền con
người mà Nhà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập. Chủ động
nghiên cứu để ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp với nước
ngoài, trong đó có quy định về thi hành hình phạt tử hình, trước
hết là với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các
nước có quan hệ truyền thống.
Thứ hai, phải nhận thức đầy đủ những thuận lợi, khó khăn
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác về tư pháp
trong trong có hợp tác về thi hành hình phạt tử hình để chủ
động triển khai các hoạt động xây dựng và hoàn thiện những
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt
tử hình theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước.
Thứ ba, tiếp tục tranh thủ, vận động thêm các dự án mới,
các nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế và nước ngoài, phục
vụ việc tìm hiểu kinh nghiệm về thi hành hình phạt tử hình,
nghiên cứu, đào tạo cán bộ thi hành hình phạt này, hỗ trợ việc
tăng cường năng lực, hiệu quả công tác của các đơn vị được
giao nhiệm vụ chuyên trách thi hành hình phạt tử hình thuộc
Bộ Cơng an, Tịa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao.
Thứ tư, đối với các nước láng giềng như Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Vương quốc
Cămpuchia, cần tăng cường trao đổi tình hình, kinh nghiệm về
14** Expression is faulty **

Kết luận
1. Trong lịch sử lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam, các
quy phạm pháp luật về thi hành hình phạt tử hình đã hình
thành và phát triển từ lâu đời. Chế định thi hành hình phạt tử

hình lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của nước ta, có
ý nghĩa về mặt lập pháp hết sức to lớn. So với các quy định về
thi hành án tử hình được ban hành trong các văn bản pháp
luật trước đó, việc thi hành án tử hình được điều chỉnh bằng
các quy phạm trong Bộ luật tố tụng hình sự là một sự kiện
pháp lý quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập
pháp ở nước ta.
Trong chế định thi hành hình phạt tử hình, khái niệm thi
hành hình phạt tử hình là khái niệm cơ bản, khái niệm xuất
phát, để từ đó xác định các quy phạm khác của chế định thi
hành hình phạt tử hình như hình thức thi hành hình phạt tử
hình, trình tự, thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra
thi hành, trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình, thủ tục
hỗn thi hành án... Việc nhận thức và áp dụng đúng đắn chế
định thi hành hình phạt tử hình trong thực tiễn là bảo đảm
quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nhằm thi hành hình
14** Expression is faulty **


phạt tử hình đúng người, khơng để xảy ra oan, sai trong lĩnh
vực cực kỳ nhạy cảm này.
2. Tử hình là một hình phạt đặc biệt có nội dung cưỡng
chế nghiêm khắc nhất, tước bỏ quyền sống của người bị kết
án, chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Bằng việc thi hành hình phạt tử hình, chúng ta đã loại bỏ người
bị kết án ra khỏi đời sống xã hội, Tuy nhiên, tính mạng con
người là vốn quý và được pháp luật bảo vệ, do đó việc thi hành
hình phạt tử hình địi hỏi phải được thực hiện theo một trình tự,

thủ tục rất chặt chẽ, bởi lẽ sai lầm trong việc thi hành hình
phạt tử hình khơng thể khắc phục được.
Trong thời gian qua, cơng tác thi hành án hình sự nói chung,
thi hành hình phạt tử hình nói riêng, đã góp phần quan trọng
vào việc giữ gìn trật tự kỷ cương pháp luật và xã hội, góp phần
tích cực thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội lành mạnh.
Tuy nhiên, các quy định về thi hành án tử hình cũng đã bộc lộ
một số thiếu sót như nhiều vấn đề quy định rất chung chung
hoặc chưa được đề cập, dẫn đến khó thống nhất áp dụng
pháp luật. Thực tiễn thi hành án tử hình cũng đã đặt ra một số
vấn đề vướng mắc cần nghiên cứu giải quyết như: cơ quan
chủ trì việc thi hành hình phạt tử hình, pháp trường, kinh phí
thi hành hình phạt tử hình, hình thức thi hành án tử hình...
3. Trong thời gian tới, để việc thi hành án tử hình có hiệu
quả, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
- Phải hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về thi hành án hình sự nói chung, thi hành hình phạt
tử hình nói riêng, cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cần nghiên cứu ban hành Bộ luật thi

15** Expression is faulty **

hành án, trong đó có chương quy định cụ thể về thi hành hình
phạt tử hình hoặc có Pháp lệnh về thi hành hình phạt tử hình.
- Cơng tác tun truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
thi hành án hình sự nói chung, thi hành án tử hình nói riêng là
giải pháp cơ bản, có tính chiến lược nhằm nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của nhân dân. Những quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về thi hành án tử hình cần được phổ biến
rộng rãi để mọi người dân, mọi cơ quan, tổ chức biết được

quyền và nghĩa vụ của mình, đảm bảo cho thi hành án tử hình
được nhanh chóng và đúng pháp luật. Có thể tuyên truyền,
giáo dục pháp luật trên các phương tiện truyền thông đại
chúng như: Đài phát thanh, Vô tuyến truyền hình, báo chí...
Giải pháp này vừa giúp cho cơng tác thi hành án tử hình được
thực hiện đúng pháp luật, vừa có tác dụng răn đe những kẻ có
ý định phạm tội trong xã hội.
- Phải kiện toàn tổ chức, bộ máy được giao nhiệm vụ thi
hành hình phạt tử hình của cả ba ngành Cơng an, Tịa án, Viện
Kiểm sát.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình
độ năng lực cán bộ có nhiệm vụ thi hành án hình sự nói
chung, thi hành hình phạt tử hình nói riêng. Chú trọng bồi
dưỡng, phát huy trình độ, tác dụng thi hành nhiệm vụ của số
cán bộ mới tuyển làm cơng tác thi hành hình phạt tử hình. Coi
trọng cơng tác chính trị, tư tưởng đối với số cán bộ được giao
nhiệm vụ thi hành hình phạt tử hình, nhất là số cán bộ các Đội
vũ trang thi hành án, làm cho số cán bộ này yên tâm công
tác, gắn bó với cơng việc, khơng vi phạm kỷ luật, quán triệt và
chấp hành tốt đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp hình sự nói
chung, về thi hành hình phạt tử hình nói riêng. Hoạt động hợp
15** Expression is faulty **


tác quốc tế về thi hành hình phạt tử hình nói riêng phải hướng
vào việc thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng
và Nhà nước là củng cố mơi trường hịa bình, tạo điều kiện
thuận lợi hơn nữa để góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước.

16** Expression is faulty **

16** Expression is faulty **



×