Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tt xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.82 KB, 17 trang )

Mục lục của luận văn
Trang

Kết luận

104

danh mục các văn bản quy phạm pháp luật về

106

mở đầu

1

sở hữu công nghiệp

Chương 1: Khái quát chung về quyền sở hữu

7

Danh mục tài liệu tham khảo

109

phụ lục

115

công nghiệp và xác lập quyền sở hữu
công nghiệp



1.1 Khái quát chung về quyền sở hữu công
.
nghiệp

7

1.2 Khái quát chung về xác lập quyền sở hữu
.
công nghiệp

24

1.3 Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo các
.
điều ước quốc tế và theo quy định của pháp
luật một số nước trên thế giới

35

Chương 2: Hệ thống xác lập quyền sở hữu

56

Trang

công nghiệp theo quy định của pháp
luật Việt Nam

2.1 Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo

.
nguyên tắc tự động

56

2.2 Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo
.
nguyên tắc đăng ký tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền

64

Chương 3: Thực trạng xác lập quyền sở hữu

85

công nghiệp ở Việt Nam và phương
hướng hoàn thiện

3.1 Thực trạng xác lập quyền sở hữu công nghiệp
.
ở Việt Nam

85

3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống
.
pháp luật Việt Nam về xác lập quyền sở
hữu công nghiệp


93

1** Expression is faulty **

1


mở đầu
1. Lý do lựa chọn đề tài
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam từ
2001-2010 đã vạch rõ một trong những mục tiêu cơ bản
trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam là "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình
phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện
những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương
tiến tới gia nhập WTO...".
Trong bối cảnh nhu cầu hội nhập đang trở thành một
vấn đề mang tính tất yếu khách quan, kinh tế tri thức chiếm
tỷ trọng ngày càng cao trong nền kinh tế toàn cầu, vấn đề
bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) đã trở thành yếu tố không thể
bỏ qua và ngày càng khẳng định vai trị quan trọng của nó.
SHTT được đề cập đến trong tất cả mọi mặt của đời sống:
kinh tế, thương mại, khoa học - cơng nghệ, văn hóa - nghệ
thuật... Vấn đề bảo hộ quyền SHTT xuất hiện trong hầu
hết các hiệp định thương mại song phương, đa phương; nó
được coi là một trong những yếu tố nhằm khuyến khích,
thúc đẩy đầu tư sáng tạo trí tuệ, góp phần phát triển nền
kinh tế quốc gia.
Trong những năm qua, để đáp ứng u cầu, địi hỏi của
q trình hội nhập quốc tế, bên cạnh việc tham gia các

hoạt động về SHTT của các tổ chức khu vực và quốc tế,
Việt Nam đã đàm phán ký kết với nước ngoài các hiệp
định về SHTT, đồng thời nỗ lực, gấp rút chuẩn bị các điều
kiện cần thiết trong đó có một nội dung trọng yếu là hoàn
thiện hệ thống pháp luật SHTT và cơ chế bảo hộ SHTT để
gia nhập WTO.
2** Expression is faulty **

Vào thời điểm nộp đơn gia nhập WTO (1995), hệ thống
pháp luật SHTT của Việt Nam bị đánh giá là còn nhiều điểm
"chưa phù hợp và thiếu hụt lớn so với TRIPS" và "chưa phải
là một hệ thống đầy đủ và hiệu quả". Để cải thiện tình hình
này, đồng thời nhằm bảo đảm thi hành các nghĩa vụ quốc
tế, Việt Nam đã xây dựng một Chương trình hành động về
SHTT khá cụ thể và nhất quán nhằm hoàn thiện cơ chế
bảo hộ SHTT. Với những nỗ lực to lớn trong việc thực hiện
Chương trình hành động về SHTT, cho tới nay có thể nói
chúng ta đã đạt được những mục tiêu quan trọng làm cho
hệ thống pháp luật SHTT của Việt Nam có những bước tiến
đáng kể. Một trong những kết quả nổi bật là Luật SHTT đã
được Quốc hội khóa IX thơng qua ngày 19/11/2005 tại kỳ
họp thứ 8 và sẽ có hiệu lực ngày 1/7/2006.
Trong cơ chế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
(SHCN), việc xác lập quyền là điều kiện tiên quyết. Để
được bảo hộ, trước hết quyền phải được thừa nhận. Quyền
SHCN có thể được xác lập một cách tự động hoặc trên cơ
sở đăng ký bảo hộ tại cơ quan có thẩm quyền. Là một nội
dung thuộc cơ chế bảo hộ SHTT, vấn đề xác lập quyền
SHCN của Việt Nam hiện nay cũng đang trong giai đoạn
xây dựng và hoàn thiện theo hướng hài hịa hóa với các

u cầu của TRIPS và các điều ước quốc tế khác mà Việt
Nam đã hoặc đang dự định ký kết, tham gia.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài
"Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo quy định
của pháp luật Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu để tìm
hiểu, đánh giá về hệ thống xác lập quyền SHCN Việt Nam và
đưa ra những định hướng, đề xuất nhằm hoàn thiện vấn
đề nghiên cứu.
2


2. Tình hình nghiên cứu
Có thể nói, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, sách
chun khảo, bài viết của các tác giả trong và ngoài nước
khai thác về các vấn đề liên quan đến SHCN dưới nhiều
góc độ nghiên cứu khác nhau; nhiều hội thảo, lớp tập
huấn quy mô quốc gia và quốc tế về cơ chế, hệ thống xác
lập quyền SHCN đã được tổ chức và thực hiện. Tuy nhiên,
những nội dung chuyên sâu về xác lập quyền SHCN hiện
chưa được nhiều người nghiên cứu.
Các cơng trình nghiên cứu, sách chuyên khảo có thể
kể đến: Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện
khung pháp luật Việt Nam về bảo hộ sở hữu trí tuệ trong
xu thế hội nhập quốc tế và khu vực (đề tài nghiên cứu
khoa học QG 01.10 do Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội thực hiện); cuốn Bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ ở Việt
Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn của Viện Khoa
học Pháp lý - Bộ Tư pháp, Nxb Tư pháp, 2004; cuốn Các
yếu tố của quyền sở hữu trí tuệ của TS. Phùng Trung Tập,
Nxb Tư pháp, 2004; Luận văn thạc sĩ: Quyền ưu tiên đối

với việc đăng ký sở hữu công nghiệp tại Việt Nam của Lê
Mai Thanh, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà nội, 1999.
Ngồi ra, cịn có các đề án nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp
Bộ, cấp cơ sở về xác lập quyền SHCN và tăng cường hiệu
quả hệ thống xác lập quyền SHCN do Cục SHTT chủ trì
thực hiện.
Các chuyên đề, bài viết có thể đến các bài viết của TS.
Nguyễn Thị Quế Anh: Bảo hộ tên thương mại ở Việt Nam
và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hộ tên
thương mại, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số
4/2002; Một số vấn đề về bảo hộ bí mật kinh doanh và hồn
3** Expression is faulty **

thiện pháp luật bảo hộ bí mật kinh doanh ở Việt Nam, Tạp
chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 3/2004; bài viết
Một số vấn đề về nhãn hiệu nổi tiếng của tác giả Nguyễn
Như Quỳnh, Tạp chí Luật học số 2/2001.
Các tài liệu nước ngoài khá nhiều, nổi bật như: cuốn
Cẩm nang Sở hữu trí tuệ: chính sách, pháp luật và áp dụng
(IP Law handbook: policy, law and use), Nhà xuất bản WIPO,
2000 (Bản dịch của Cục Sở hữu trí tuệ, 2005); cuốn Sở hữu
trí tuệ - một cơng cụ đắc lực để phát triển kinh tế
(Intellectual property - a power tool for economic growth)
của Kamil Idris, Nhà xuất bản WIPO, 1999 (Bản dịch Tiếng
Việt của Cục Sở hữu trí tuệ, 2005). Ngồi ra, cịn có các dự
án quốc tế nghiên cứu về hệ thống xác lập quyền của các
quốc gia thuộc các cộng đồng, khu vực: ASEAN, APEC,
EU...
Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nghiên cứu khoa
học nào về "Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo quy

định của pháp luật Việt Nam".
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
a) Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về
SHCN và hệ thống xác lập quyền SHCN cùng với việc phân
tích, so sánh các quy định của pháp luật thực định và thực
trạng của hoạt động xác lập quyền SHCN ở Việt Nam và
một số nước trên thế giới, tác giả đưa ra những đề xuất,
kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
về xác lập quyền SHCN, nâng cao hiệu quả hoạt động xác
lập quyền SHCN.
b) Nhiệm vụ nghiên cứu
3


Với mục đích nghiên cứu nêu trên, trong luận văn này
tác giả tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính
sau:
- Làm rõ và hệ thống hóa những vấn đề lý luận xác lập
quyền SHCN;
- Tìm hiểu các nguyên tắc và hệ thống xác lập quyền
SHCN theo quy định của các điều ước quốc tế và quy định
pháp luật của một số nước trên thế giới;
- Phân tích hệ thống xác lập quyền SHCN theo quy
định của pháp luật Việt Nam và thực trạng hoạt động xác
lập quyền SHCN, từ đó đặt ra những vấn đề, nội dung bất
cập cần được khắc phục, sửa đổi, bổ sung;
- Đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện
các quy định pháp luật Việt Nam về xác lập quyền SHCN.
4. Phạm vi nghiên cứu

Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận liên quan đến hệ thống xác lập
quyền SHCN và pháp luật thực định của Việt Nam, của
một số nước trên thế giới cũng như quy định của các Điều
ước quốc tế về xác lập quyền SHCN cùng với việc đánh giá
thực trạng xác lập quyền SHCN ở Việt Nam từ đó đưa ra
những lập luận nhằm hoàn thiện vấn đề nghiên cứu.
5. Những cơ sở lý luận và phương pháp nghiên
cứu
Những cơ sở lý luận của luận văn là các thành tựu của
các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp
luật, lý luận về pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình
sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học trong
các cơng trình nghiên cứu, sách chun khảo và các bài
đăng trên tạp chí của các nhà khoa học - luật gia Việt Nam
4** Expression is faulty **

và nước ngồi. Ngồi ra, để góp phần phân tích khoa học
nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
SHCN và xác lập quyền SHCN, trong quá trình viết luận
văn, tác giả còn sử dụng hệ thống các văn bản pháp luật
của Nhà nước cũng như những văn bản hướng dẫn, cụ thể
hóa của các cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề này.
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chuyên ngành với cơ sở phương pháp luận là triết học Mác
- Lênin, bao gồm: phân tích, hệ thống hóa, so sánh, thống
kê, tổng hợp…
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là
tác giả đã làm rõ những vấn đề sau:

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về xác lập quyền
SHCN;
- Làm rõ tiến trình phát triển của pháp luật về bảo hộ
quyền SHCN và xác lập quyền SHCN trên thế giới và ở Việt
Nam qua đó làm sáng tỏ tính kế thừa và phát triển của
vấn đề;
- Phân tích, đánh giá về hệ thống xác lập quyền SHCN
theo quy định của các điều ước quốc tế và của một số
nước trên thế giới;
- Đưa ra một bức tranh toàn cảnh về thực trạng hoạt
động xác lập quyền SHCN theo quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành, chỉ ra những hạn chế, bất cập và
nguyên nhân đồng thời đánh giá, so sánh với các quy định
mới trong Luật SHTT;
- Đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động xác lập quyền SHCN và những kiến
4


nghị đề xuất cụ thể về trình tự, thủ tục xác lập quyền
SHCN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục văn bản
pháp luật, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1:
lập quyền SHCN.

Khái quát chung về quyền SHCN và xác


Chương 2:
Hệ thống xác lập quyền SHCN theo
quy định của pháp luật Việt Nam - thực trạng và những
vấn đề đặt ra.
Chương 3:
Thực trạng hoạt động xác lập quyền
SHCN ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện.
Nội dung cơ bản của Luận văn
Chương 1
Khái Quát CHUNG Về Quyền sở hữu công nghiệp
Và Xác Lập Quyền sở hữu công nghiệp
Trong chương này, tác giả làm rõ một số vấn đề lý
luận, khái quát về quyền SHCN và xác lập quyền SHCN, bao
gồm: khái niệm quyền SHCN, đặc điểm của quyền SHCN,
phân biệt quyền SHCN với quyền tác giả và quyền sở hữu đối
với tài sản hữu hình, ý nghĩa của việc bảo hộ quyền SHCN
và sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về
bảo hộ quyền SHCN.
1.1. Khái quát chung về quyền sở hữu công
nghiệp
1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
5** Expression is faulty **

Trên cơ sở phân tích về nội hàm, phạm vi, các quan
điểm, trường phái quyền SHTT nói chung và quyền SHCN
nói riêng dưới những góc độ khác nhau, tác giả đưa ra
khái niệm quyền SHCN dưới giác độ pháp lý như sau:
- Theo nghĩa khách quan, quyền SHCN là một chế định
pháp luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình

chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các đối tượng SHCN được
Nhà nước bảo hộ.
- Theo nghĩa chủ quan, quyền SHCN là các quyền dân sự
cụ thể của các chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt các đối tượng SHCN.
1.1.2. Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp
Để làm rõ về đặc điểm của quyền SHCN, tác giả tiến
hành so sánh sự khác biệt giữa quyền SHCN với quyền tác
giả và với quyền sở hữu các loại tài sản hữu hình theo các
khía cạnh, tiêu chí cụ thể.
(i) So với các loại tài sản hữu hình
Sự khác biệt giữa quyền SHCN và quyền sở hữu đối với
tài sản hữu hình xuất phát từ thuộc tính vơ hình hay hữu
hình của các đối tượng quyền. Nếu như tài sản hữu hình là
những vật có thật, hiện hữu trên thực tế thì quyền SHCN
là một loại quyền tài sản mang tính vơ hình.
- Về căn cứ xác lập quyền: Quyền sở hữu đối với tài
sản hữu hình được xác lập theo những sự kiện pháp lý quy
định trong Bộ luật Dân sự. Quyền SHCN được xác lập một
cách tự động nếu đối tượng SHCN đáp ứng những tiêu
chuẩn luật định hoặc khi có quyết định cấp văn bằng bảo
hộ của cơ quan có thẩm quyền.
5


- Về chủ thể quyền: Chủ thể quyền sở hữu tài sản nói
chung có thể là bất kỳ ai: cá nhân, pháp nhân, tổ chức và
cũng có thể là Nhà nước - người chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản hợp pháp; Trong khi đó, chủ thể quyền SHCN
chỉ có thể là những cá nhân, tổ chức thỏa mãn, đáp ứng

các điều kiện tương ứng với từng loại đối tượng SHCN theo
quy định của pháp luật.
- Về đối tượng quyền: Đối tượng của quyền sở hữu tài
sản nói chung là các loại vật chất hữu hình có thể "cầm,
nắm, giữ" được và một số quyền tài sản luôn xác định được
bằng một số lượng vật chất cụ thể. Đối tượng của quyền
SHCN là những sản phẩm vơ hình chỉ có thể được định
tính, định lượng khi ứng dụng vào sản phẩm hữu hình
hoặc các hoạt động cụ thể.
- Về phạm vi bảo hộ: Quyền sở hữu đối với tài sản
thông thường được bảo hộ vô thời hạn và chỉ chấm dứt khi
có các căn cứ chấm dứt quyền sở hữu hoặc khi tài sản bị
tiêu hủy; quyền này thông thường khơng bị giới hạn về
mặt khơng gian. Trong khi đó, quyền SHCN chỉ có thể
được bảo hộ trong một khoảng thời gian xác định và chỉ
giới hạn trong một phạm vi lãnh thổ xác định.
- Về nội dung, ý nghĩa của các quyền năng sở hữu: Đối
với tài sản hữu hình, quyền chiếm hữu dường như là
quyền cơ bản và quan trọng nhất. Điều này xuất phát từ
các đặc tính của tài sản hữu hình: trong hầu hết các
trường hợp, chủ sở hữu phải chiếm hữu tài sản thì mới có
thể khai thác cơng dụng của tài sản đó. Trong khi đó, đối
với quyền SHCN, quyền sử dụng lại được coi là quyền
năng cơ bản nhất. Điều này xuất phát từ thuộc tính vơ
hình của các đối tượng SHCN. Chủ sở hữu không thể
6** Expression is faulty **

chiếm hữu (cầm, nắm, giữ) tài sản, việc khai thác giá trị
quyền được thực hiện thông qua hành vi sử dụng đối
tượng. Bản thân các đối tượng SHCN không tạo ra giá trị

mà chúng phải được ứng dụng vào những loại vật chất
hữu hình cụ thể và chỉ phát sinh giá trị thơng qua quá
trình sử dụng, vận hành, khai thác các loại vật chất hữu
hình này.
(ii) So với quyền tác giả
- Lịch sử hình thành: Quyền SHCN xuất hiện cùng với
sự phát triển của lực lượng sản xuất và giao lưu thương mại.
Quyền SHTT xuất hiện cùng với sự tiến triển của xã hội loài
người nhằm đáp ứng nhu cầu về tinh thần, văn hóa, tình
cảm của con người.
- Lĩnh vực áp dụng: Quyền SHCN chủ yếu áp dụng
trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ. Quyền
tác giả chủ yếu áp dụng trong lĩnh vực văn học, nghệ
thuật.
- Đối tượng quyền: Đối tượng quyền SHCN là các kết
quả của hoạt động sáng tạo kỹ thuật, mỹ thuật ứng dụng
hay sáng tạo trong thương mại. Đối tượng của quyền tác
giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật và các sản phẩm
sáng tạo liên quan trực tiếp đến việc thể hiện tác phẩm
- Nội dung bảo hộ: Quyền SHCN được bảo hộ nhằm
cấm người khác không được sử dụng đối tượng đang được
bảo hộ để thu lợi nhuận mà không xin phép chủ sở hữu.
Quyền tác giả bảo hộ hình thức sáng tạo của tác phẩm
nhằm cấm người khác sao chép tác phẩm nếu không được
phép của tác giả/chủ sở hữu tác phẩm.

6


- Thời hạn bảo hộ: Thời hạn bảo hộ quyền SHCN ngắn

hơn so với quyền tác giả một số quyền nhân thân của tác
giả được bảo hộ vô thời hạn.

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của xác lập
quyền sở hữu công nghiệp

1.1.3. ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp

Việc xác lập quyền SHCN thường được thực hiện theo hai
nguyên tắc: xác lập quyền một cách tự động và xác lập
quyền trên cơ sở đăng ký với cơ quan có thẩm quyền. Tác
giả giới hạn nội dung nghiên cứu trọng tâm của đề tài là
xác lập quyền SHCN theo nguyên tắc đăng ký bảo hộ, từ
đó đưa ra khái niệm về đăng ký xác lập quyền SHCN dưới
giác độ pháp lý:

Mục này tác giả nêu và phân tích ý nghĩa của việc bảo
hộ quyền SHCN đối với các nhóm đối tượng khác nhau: chủ
thể sáng tạo/ chủ sở hữu quyền, xã hội/ cộng đồng nói
chung, sự phát triển của nền kinh tế và quá trình giao lưu,
hợp tác quốc tế.
1.1.4. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển
của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
và xác lập quyền sở hữu công nghiệp trên thế giới
và ở Việt Nam
Trong mục này, tác giả phân tích sơ lược lịch sử hình
thành và phát triển của pháp luật bảo hộ quyền SHCN và
hoạt động xác lập quyền SHCN nhằm làm rõ tiến trình phát
triển của các hệ thống pháp luật về bảo hộ SHCN trên thế

giới cũng như quá trình xây dựng, hoạt thiện hệ thống
pháp luật SHCN ở Việt Nam về bảo hộ SHCN, sự hình
thành, phát triển của cơ chế, nguyên tắc và các hệ thống
xác lập quyền SHCN.
1.2. Khái quát chung về xác lập quyền sở hữu
công nghiệp
Mục này đề cập đến các vấn đề khái quát chung về xác
lập quyền SHCN bao gồm khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa
của xác lập quyền SHCN, căn cứ xác lập quyền SHCN, cơ
quan xác lập quyền SHCN và xu hướng phát triển của hệ
thống xác lập quyền SHCN.
7** Expression is faulty **

a) Khái niệm

- Theo nghĩa khách quan, đăng ký xác lập quyền là các
thủ tục pháp lý do pháp luật quy định mà các chủ thể phải
tiến hành nhằm chính thức ghi nhận sự bảo hộ từ phía
Nhà nước quyền sở hữu của mình đối với đối tượng SHCN
cụ thể.
- Theo nghĩa chủ quan, đăng ký xác lập quyền là hành
vi của các chủ thể thực hiện các trình tự, thủ tục theo quy
định của pháp luật nhằm đạt được sự công nhận từ phía
nhà nước quyền sở hữu của họ đối với đối tượng SHCN và
hệ quả là sự bảo hộ của nhà nước đối với đối tượng đó.
b) Đặc điểm
Để làm rõ những đặc điểm của xác lập quyền SHCN,
tác giả luận văn tiến hành so sánh với xác lập quyền sở
hữu đối với tài sản hữu hình và xác lập quyền tác giả.
(i) So với xác lập quyền đối với tài sản hữu hình

Hầu hết quyền sở hữu đối với tài sản hữu hình là được
xác lập và bảo hộ một cách tự động, vô thời hạn trong khi
quyền đối với phần lớn các đối tượng SHCN được xác lập
trên cơ sở đăng ký bảo hộ tại cơ quan có thẩm quyền theo
7


thủ tục, trình tự chặt chẽ.
(ii) So với xác lập quyền tác giả
- Nguyên tắc xác lập quyền: Nguyên tắc xác lập quyền
SHCN chủ yếu là đăng ký bảo hộ; nguyên tắc xác lập
quyền tác giả là tự động bảo hộ
- Bản chất của xác lập quyền: Việc đăng ký quyền
SHCN có ý nghĩa là sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền.
Đối với quyền tác giả, đăng ký không phải là thủ tục bắt
buộc mà chỉ nhằm ghi nhận chính thức quyền của tác
giả/chủ sở hữu đối với tác phẩm làm căn cứ chứng minh
quyền trong trường hợp có tranh chấp.
- Trình tự, thủ tục xác lập quyền: Đối với quyền SHCN,
thời gian xét nghiệm dài, thủ tục phức tạp do cơ quan
đăng ký phải kiểm tra, đánh giá, xác định khả năng đáp
ứng các tiêu chuẩn bảo hộ của đối tượng. Đối với quyền
tác giả, thời gian xét nghiệm ngắn, đơn giản hơn do cơ
quan đăng ký chỉ xem xét tính hợp lệ của đơn đăng ký và
tác phẩm yêu cầu đăng ký là phù hợp, không tiến hành xét
nghiệm nội dung đối tượng yêu cầu bảo hộ.
c) ý nghĩa
Mục này tác giả phân tích ý nghĩa, mục đích, tầm quan
trọng của việc đăng ký xác lập quyền SHCN đối với các
nhóm chủ thể khác nhau: chủ thể sáng tạo, cộng đồng nói

chung và nhà nước.
1.2.2. Căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp
Mục này, tác giả cũng phân tích những vấn đề cơ bản
về căn cứ xác lập quyền SHCN, quy định của pháp luật
hiện hành và những thay đổi của Luật SHTT về vấn đề này.
Căn cứ xác lập quyền SHCN được quy định dựa trên những
đặc điểm, tính chất đặc thù của từng loại đối tượng theo
8** Expression is faulty **

nguyên tắc: các đối tượng quyền tác giả và một số đối
tượng SHCN đặc thù được xác lập tự động khi đáp ứng các
điều kiện luật định; các đối tượng còn lại được xác lập
theo quyết định cấp Văn bằng bảo hộ của cơ quan có
thẩm quyền theo trình tự, thủ tục luật định.
1.2.3. Cơ quan xác lập quyền sở hữu công
nghiệp
Phần này tác giả giới thiệu và phân tích mơ hình, cơ
cấu, phương thức tổ chức và hoạt động của một số cơ
quan xác lập quyền SHCN trên thế giới và mơ hình tổ chức
của Cục SHTT Việt Nam nhằm làm nổi bật những ưu điểm
và hạn chế của từng hệ thống.
1.2.4. Xu hướng phát triển của hệ thống xác lập
quyền sở hữu cơng nghiệp
Trên cơ sở phân tích các điều kiện chủ quan, khách
quan và tình hình thực tế hiện nay, tác giả đưa ra kết
luận: xuất phát từ nhu cầu, đòi hỏi của tình hình mới, hoạt
động xác lập quyền SHCN cũng phải được thay đổi, hoàn
thiện theo hướng đơn giản hóa về yêu cầu, điều kiện, thủ
tục; rút ngắn thời gian xét nghiệm nhằm tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho các chủ thể. Cơ chế xác lập quyền phải

được thực hiện sao cho việc đăng ký bảo hộ quyền SHCN
tại cơ quan có thẩm quyền diễn ra một cách nhanh chóng,
thuận tiện nhất. Cơ quan SHTT quốc gia phải đóng vai trò
hỗ trợ cho các chủ thể trong việc xác lập, bảo vệ và phát
triển tài sản trí tuệ của mình.
1.3. Hệ thống xác lập quyền sở hữu cơng nghiệp
theo các điều ước quốc tế và theo quy định của
pháp luật một số nước trên thế giới

8


1.3.1. Hệ thống xác lập quyền sở hữu công nghiệp
theo các điều ước quốc tế
Phần này, tác giả tập trung phân tích cơ chế, nguyên
tắc và các nội dung cơ bản về xác lập quyền SHCN theo
các điều ước quốc tế về SHCN và theo quy định pháp luật
của một số nước trên thế giới trong tương quan so sánh
với hệ thống xác lập quyền SHCN của Việt Nam, đồng thời
làm rõ những ưu điểm, hạn chế của từng hệ thống và
những lợi ích mà mỗi hệ thống mang lại cho các nhóm đối
tượng liên quan (người nộp đơn, cơ quan SHTT quốc
gia…).
Các điều ước quốc tế được chia thành hai nhóm: nhóm
điều ước Việt Nam đã tham gia và nhóm điều ước Việt
Nam chưa tham gia. Đối với các điều ước quốc tế mà Việt
Nam chưa tham gia, bên cạnh việc phân tích các nội dung
về xác lập quyền SHCN, những ưu điểm, hạn chế của điều
ước, tác giả nêu ra một số thuận lợi, khó khăn của Việt
Nam và kế hoạch, lộ trình dự kiến của Việt Nam trong việc

chính thức gia nhập điều ước.
1.3.2. Hệ thống xác lập quyền sở hữu công nghiệp
của một số nước trên thế giới
Mục này tác giả phân tích hệ thống xác lập quyền
SHCN của một số nước có hệ thống SHTT phát triển lâu đời
như Mỹ, Cộng đồng Châu Âu và hệ thống xác lập quyền
SHCN của các nước trong khu vực ASEAN nhằm làm rõ
những ưu điểm, nhược điểm của từng hệ thống từ đó rút ra
mơ hình tối ưu để có thể vận dụng, áp dụng vào điều kiện
thực tế của Việt Nam.
Chương 2
9** Expression is faulty **

Hệ thống xác lập quyền sở hữu công nghiệp
theo quy định của pháp luật Việt Nam
2.1. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo
nguyên tắc tự động
Trong mục này, tác giả phân tích các quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành về xác lập quyền SHCN theo
nguyên tắc tự động. Nguyên tắc xác lập quyền SHCN này
được áp dụng đối với các đối tượng SHCN mới, đặc thù
bao gồm: bí mật kinh doanh, tên thương mại, chỉ dẫn địa
lý và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan
đến SHCN. Tác giả cũng lý giải những nguyên nhân, căn
cứ của việc áp dụng nguyên tắc xác lập quyền một cách
tự động đối với các đối tượng này thay vì áp dụng nguyên
tắc đăng ký bảo hộ như đối với các đối tượng SHCN truyền
thống.
Trên cơ sở phân tích các quy định hiện hành áp dụng
cho từng đối tượng, tác giả chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập

giữa quy phạm pháp luật và thực tiễn áp dụng, so sánh với
các quy định mới của Luật SHTT về vấn đề liên quan
nhằm làm rõ thực trạng hệ thống xác lập quyền SHCN đối
với các đối tượng này theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2.2 Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo
nguyên tắc đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền
Mục này phân tích hệ thống xác lập quyền SHCN theo
nguyên tắc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và trình tự, thủ tục đăng ký xác lập quyền SHCN theo quy
định của pháp luật Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật hiện
hành, tác giả chỉ ra những mâu thuẫn, thiếu sót, bất cập
9


giữa luật thực định và thực tiễn áp dụng, đồng thời phân tích
các quy định của Luật SHTT trong tương quan so sánh với
các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề liên quan
nhằm làm rõ những nội dung đã được sửa đổi, bổ sung trong
Luật SHTT.
2.2.1. Đối tượng sở hữu công nghiệp và các tiêu
chuẩn bảo hộ
- Quy định về tính mới của sáng chế chưa đầy đủ do
chưa bao quát được tất cả các khả năng có thể xảy ra trên
thực tế (Luật SHTT đã sửa đổi quy định này);
- Quy định về đối tượng loại trừ không được bảo hộ với
danh nghĩa sáng chế (phần mềm máy tính), kiểu dáng
cơng nghiệp (hình dáng các sản phẩm chỉ có giá trị thẩm
mỹ) và nhãn hiệu (các hình hình học đơn giản, chữ số, chữ

cái khơng phát âm được như một từ ngữ) chưa phù hợp
(Luật SHTT giữ nguyên quy định này đối với sáng chế, quy
định đối với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu đã được
loại bỏ);
- Thiếu các quy định cụ thể về cơ chế và tiêu chuẩn bảo
hộ đối với một số loại nhãn hiệu đặc thù: nhãn hiệu nổi tiếng,
nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể… (Luật SHTT đã bổ
sung các quy định này).
2.2.2. Quyền nộp đơn đăng ký sở hữu công nghiệp
- Quy định về quyền nộp đơn yêu cầu đăng ký nhãn
hiệu chưa đầy đủ: thiếu các quy định về quyền nộp đơn
đăng ký bảo hộ đối với nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu
chứng nhận (vấn đề này đã được khắc phục trong Luật
SHTT);
- Quy định của Luật SHTT về quyền nộp đơn đăng ký chỉ
dẫn địa lý chưa hợp lý: quyền này phải thuộc về tổ chức tập
thể có chức năng, thẩm quyền quản lý chỉ dẫn địa lý thay vì
10** Expression is faulty **

thuộc về Nhà nước.
2.2.3. Thực hiện quyền nộp đơn đăng ký bảo hộ
sở hữu công nghiệp
- Quy định về việc yêu cầu hưởng quyền ưu tiên đã
loại bỏ trường hợp người nộp đơn được hưởng quyền ưu
tiên trên cơ sở đơn nộp trước tại Việt Nam, điều này gây
bất lợi đáng kể cho người nộp đơn đặc biệt là người nộp đơn
Việt Nam (bất cập này đã được khắc phục trong Luật
SHTT);
- Một số quy định về đại diện SHCN (điều kiện hành
nghề, điều kiện thành lập tổ chức dịch vụ đại diện…) còn

quá khắt khe, chưa phù hợp với thực tế, do đó kìm hãm sự
phát triển và hiệu quả của hoạt động này, ảnh hưởng đến
hiệu quả của hoạt động xác lập quyền SHCN nói chung.
2.2.4. Đơn và xét nghiệm đơn đăng ký quyền sở
hữu công nghiệp
- Các quy định về đơn và tài liệu kèm theo đơn còn
phức tạp, một số u cầu khơng cần thiết, gây khó khăn
cho người nộp đơn;
- Thiếu quy định về cơ chế xử lý đơn đăng ký sáng chế
trong trường hợp khơng có u cầu xét nghiệm đơn đúng
thời hạn;
- Cơ chế xét nghiệm đơn chưa được quy định thành quy
trình, điều này ảnh hưởng đến hiệu quả xét nghiệm, số lượng
đơn tồn đọng lớn, thời gian xét nghiệm kéo dài hơn nhiều so
với quy định (thời gian xét nghiệm theo quy định của pháp
luật cũng còn quá dài).
2.2.5. Quyết định cấp/từ chối cấp Văn bằng bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp
Thiếu các quy định về cơ chế, điều kiện yêu cầu và
giải quyết yêu cầu về rút ngắn thời hạn xét nghiệm đơn
10


đăng ký.
2.2.6. Khiếu nại, phản đối liên quan đến việc cấp
Văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
- Cơ chế khiếu nại, phản đối quyết định của cơ quan xác
lập quyền còn chưa phù hợp, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp
pháp của các chủ thể liên quan
- Quy định về hiệu lực của quyết định giải quyết khiếu

nại chưa phù hợp với TRIPS: pháp luật hiện hành quy định
quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Khoa
học và Công nghệ là quyết định cuối cùng nếu các bên lựa
chọn phương thức giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành
chính, trong khi đó, TRIPS u cầu mọi quyết định hành
chính của cơ quan xác lập quyền đều phải được khiếu nại
theo thủ tục tố tụng tại tòa án.
Chương 3
Thực trạng xác lập quyền sở hữu công nghiệp
ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện
3.1. Thực trạng xác lập quyền sở hữu công
nghiệp ở Việt Nam
Mục này nêu và phân tích thực trạng đăng ký xác lập
quyền SHCN ở Việt Nam thông qua hoạt động xác lập
quyền tại Cục SHTT.
Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết hoạt động xác lập
quyền của Cục SHTT kể từ khi thành lập (năm 1981) đến
nay, tác giả đưa ra những đánh giá, nhận xét về thực
trạng đăng ký xác lập quyền SHCN ở Việt Nam trên hai
phương diện: tích cực và hạn chế với sự minh họa bằng
các số liệu thống kê về tình hình nộp đơn đăng ký bảo hộ
11** Expression is faulty **

SHCN và số lượng văn bằng bảo hộ được cấp trong thời
gian qua.
Hoạt động đăng ký xác lập quyền SHCN của Cục SHTT
đã có những bước phát triển đáng kể, hiệu quả hoạt động
được nâng cao rõ rệt thể hiện thông qua sự tăng trưởng về
số lượng đơn và văn bằng bảo hộ các đối tượng SHCN
theo từng năm. Các hoạt động hỗ trợ, nâng cao hiệu quả

xác lập quyền SHCN được triển khai thực hiện và thu được
những thành tựu đáng kể: như tuyên truyền, đào tạo; khai
thác thông tin SHCN; hỗ trợ, tư vấn và hợp tác quốc tế...
Bên cạnh đó, hoạt động này cịn tồn tại khơng ít hạn chế
cần được nghiên cứu để đưa ra giải pháp khắc phục: tình
trạng tồn đọng đơn, kéo dài thời hạn xét nghiệm chưa có giải
pháp khắc phục, việc giải quyết khiếu nại liên quan đến xét
nghiệm đơn còn trì trệ, kém hiệu quả, số lượng đơn và văn
bằng bảo hộ của người Việt Nam còn thấp so với người nước
ngoài, số lượng đơn đăng ký tên gọi xuất xứ (TGXX) được
nộp nhiều nhưng số TGXX được đăng bạ cịn q ít, nhận
thức và sự quan tâm của cơng chúng nói chung đối với vấn
đề xác lập quyền SHCN chưa được cải thiện...
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam về xác lập quyền sở hữu cơng
nghiệp
Phần này tác giả đưa ra hai nhóm kiến nghị với 12 kiến
nghị cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện các quy định pháp
luật về xác lập quyền SHCN.
3.2.1. Nhóm kiến nghị nhằm hồn thiện và nâng
cao hiệu quả hệ thống xác lập quyền sở hữu công
nghiệp
11


Kiến nghị 1: Tiếp tục xây dựng và ban hành các quy
định bổ sung, hướng dẫn, cụ thể hóa các quy phạm pháp
luật về SHTT trong đó, các quy định về xác lập quyền
SHCN cần được quy định theo nguyên tắc minh bạch,
công khai và cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu của TRIPS.

Các vấn đề liên quan đến xác lập quyền SHCN chiếm
một phần khá lớn trong nội dung của Luật SHTT (35 điều),
tuy nhiên những quy định này chỉ mang tính ngun tắc
chung. Trong khi đó, các quy định về trình tự, thủ tục,
điều kiện, căn cứ xác lập quyền SHCN đòi hỏi phải được
quy định cụ thể, rõ ràng, minh bạch nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật
xác lập quyền SHCN. Thực tế này đặt ra nhu cầu xây dựng
và ban hành hệ thống các văn bản dưới luật nhằm quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy định của Luật
SHTT về vấn đề này.
Các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục xác lập
quyền SHCN cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Giảm đến mức tối thiểu giấy tờ, tài liệu phải đệ trình
cho cơ quan đăng ký trong quá trình làm thủ tục xác lập
quyền;
+ Bãi bỏ các thủ tục, yêu cầu phiền hà, khơng cần
thiết;
+ Tăng cường tính minh bạch, dân chủ trong quá trình
xử lý hồ sơ đăng ký và cấp Văn bằng bảo hộ SHCN;
+ Rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ.
Kiến nghị 2: Tăng cường hợp tác quốc tế về bảo hộ
SHCN nói chung và xác lập quyền SHCN nói riêng nhằm
tận dụng và tranh thủ kinh nghiệm, sự trợ giúp của các
12** Expression is faulty **

nước đặc biệt là các nước phát triển về kỹ thuật, kinh
nghiệm, trình độ quản lý… bổ sung cho hệ thống xác lập
quyền SHCN của nước ta.
Với điều kiện hiện nay của Việt Nam, việc học hỏi, tiếp

thu kinh nghiệm của nước ngồi từ đó áp dụng vào điều
kiện thực tế của mình là một giải pháp tốt và có khả năng
đem lại hiệu quả cao. Thời gian qua, chúng ta đã nhận
được sự hỗ trợ rất lớn từ phía các tổ chức quốc tế và các
quốc gia nhằm tăng cường năng lực bảo hộ SHCN cũng
như hiệu quả của hoạt động xác lập quyền SHCN.
Trong thời gian tới, chúng ta cần có chính sách duy trì và
phát huy mối quan hệ hợp tác sẵn có giữa Việt Nam (mà
cơ quan đầu mối chủ trì là Cục SHTT) với các tổ chức quốc
tế, các cơ quan SHTT quốc gia như CIPO, EPO, KIPO, WIPO,
JPO, INPI, IP Australia, DIP, ROSPATENT... Bên cạnh đó, cần
phát triển mối quan hệ đa phương giữa Việt Nam và các
đối tác khác trên cơ sở xây dựng các Chương trình, Dự án
hỗ trợ về SHTT như ECAP, JICA, SPC, ...
Kiến nghị 3: Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ
biến xác lập quyền SHCN nhằm nâng cao nhận thức của
công chúng về vấn đề này.
Để nâng cao nhận thức của cơng chúng cần xây dựng
những chính sách, chương trình quốc gia nhằm tuyên
truyền, phổ biến về SHTT trong đó có các nội dung đào
tạo, tập huấn về cơ chế, trình tự, thủ tục xác lập quyền
SHCN cho các nhóm đối tượng: cán bộ quản lý, doanh
nghiệp, nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên... ở các nước
có hệ thống SHTT phát triển (Nhật Bản, Hàn Quốc,
Australia...), các chương trình tuyên truyền, phổ biến
thường xuyên được tổ chức thực hiện dưới sự chủ trì của

12



Cơ quan SHTT quốc gia và đã thu được những kết quả
đáng kể.
Kiến nghị 4: Cơ quan đăng ký xác lập quyền SHCN
cần phải có sự chun mơn hóa về chức năng, nhiệm vụ
trong đó đặc biệt chú trọng đến việc chun mơn hóa
chức năng xác lập quyền.
Việc xây dựng cơ chế chun mơn hóa chức năng xác lập quyền cho
cơ quan SHTT quốc gia nhằm tránh hiện tượng chồng chéo về chức
năng, nhiệm vụ cản trở hiệu quả của hoạt động xác lập quyền SHCN.
Kiến nghị 5: Thành lập một tổ chức (độc lập hoặc trực thuộc cơ
quan SHTT quốc gia) chuyên nghiên cứu những vấn đề mang tính chiến
lược để phát triển hệ thống SHCN nói chung và hệ thống xác lập quyền
SHCN nói riêng.
Các vấn đề mang tính chiến lược để phát triển hệ thống xác lập quyền
SHCN bao gồm: những nguyên tắc định hướng cho hoạt động xác lập
quyền SHCN; giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xác lập quyền SHCN;
hệ thống tổ chức và hoạt động của cơ quan xác lập quyền SHCN; chính
sách, chiến lược phát triển nguồn nhân lực; chương trình, kế hoạch tuyên
truyền, phổ biến kiến thức cho cộng đồng về xác lập quyền SHCN...
Kiến nghị 6: Hoạt động đăng ký xác lập quyền SHCN
của cơ quan SHTT quốc gia cần phải được tiến hành dưới
hình thức cung cấp dịch vụ cơng; từng bước xóa bỏ quan
niệm coi việc đăng ký xác lập quyền SHCN là một thủ tục
mang tính mệnh lệnh hành chính theo cơ chế xin - cho.
ở Việt Nam, do ảnh hưởng của cơ chế cũ, hoạt động
xác lập quyền của cơ quan đăng ký SHCN vẫn còn mang
nặng tính hành chính, mệnh lệnh. Cơ chế này là một trong
những rào cản lớn trong quá trình thực hiện các cam kết
quốc tế của Việt Nam. Do đó, cần có những quy định
nhằm phát huy tốt nhất vai trị của cơ quan SHTT trong

13** Expression is faulty **

việc nâng cao hiệu quả hoạt động đăng ký xác lập quyền.
Cần phải tạo lập một cơ chế hoạt động theo đó, chất lượng
và hiệu quả hoạt động là vấn đề sống còn của cơ quan
SHTT.
Kiến nghị 7: Sửa đổi, bổ sung một số quy định về đại
diện SHCN
Cần mở rộng phạm vi các doanh nghiệp được phép kinh doanh dịch vụ
đại diện SHCN theo hướng không chỉ cho phép các doanh nghiệp được
thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp mà cả văn phịng Luật và
Cơng ty luật hợp doanh được thành lập và hoạt động theo Pháp lệnh Luật sư
và các Tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ được thành lập và hoạt động
theo Luật Khoa học và Cơng nghệ. Bên cạnh đó, cần bổ sung một quy định
chính thức khẳng định về việc khơng cấm các tổ chức có vốn đầu tư nước
ngồi tham gia vào kinh doanh dịch vụ đại diện SHCN cho phù hợp với Nghị
định số 87/2003/NĐ-CP ngày 22/7/2003 của Chính phủ về hành nghề của tổ
chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam.
3.2.2. Nhóm kiến nghị cụ thể về trình tự, thủ tục
xác lập quyền sở hữu công nghiệp
Kiến nghị 8: Các nội dung liên quan đến trình tự, thủ
tục đăng ký bảo hộ quyền SHCN cần phải được quy định
cụ thể, dễ hiểu, phù hợp với trình độ, nhận thức của cơng
chúng; bên cạnh đó, cần có sự hỗ trợ trực tiếp từ phía cơ
quan xác lập quyền SHCN.
Phần lớn các quy định pháp luật về SHCN của Việt Nam
được dịch từ các quy định của nước ngồi, do đó, nhiều
thuật ngữ, khái niệm phức tạp, khó hiểu đối với cơng
chúng, gây khó khăn trong q trình tiến hành các thủ tục
xác lập quyền SHCN. Để khắc phục vấn đề này, cần xây

dựng và ban hành hệ thống tài liệu hướng dẫn cụ thể, chi
tiết về trình tự, thủ tục xác lập quyền SHCN giúp cho
13


người nộp đơn có thể dễ dàng thực hiện các quy định
pháp luật.
Bên cạnh đó, cần thiết lập các cơ chế hỗ trợ trực tiếp
từ phía cơ quan SHTT cho các chủ thể liên quan, như: bổ
sung quy định về thẩm quyền cung cấp các dịch vụ hỗ trợ,
tư vấn (trong phạm vi giới hạn cho phép) cho cơ quan
SHTT; về cơ chế thu, nộp phí dịch vụ đối với người có yêu
cầu...
Kiến nghị 9: Xây dựng các quy định, hướng dẫn cụ
thể, chi tiết về trình tự, thủ tục xử lý các loại đơn quốc tế:
đăng ký nhãn hiệu quốc tế theo Thỏa ước và Nghị định thư
Madrid, đăng ký sáng chế theo Hiệp ước PCT.
Việc Việt Nam tiếp tục tham gia vào các điều ước quốc
tế về SHCN đồng nghĩa với sự gia tăng số lượng đơn đăng
ký SHCN được nộp theo các điều ước quốc tế đó. Trong khi
đó, hiện nay, thủ tục xử lý đơn và ra quyết định công nhận
đăng ký nhãn hiệu quốc tế theo Thỏa ước và Nghị định thư
Madrid cũng như thủ tục xử lý đơn sáng chế theo PCT vẫn
chưa được quy định cụ thể. Việc bổ sung quy định này là
cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả xem xét đối với các loại
đơn này. Vấn đề này đã được đề cập đến trong Luật SHTT.
Kiến nghị 10: Đối với nhãn hiệu, cần từng bước thay
đổi phương thức xét nghiệm nội dung đơn yêu cầu cấp
Văn bằng bảo hộ theo hướng giảm áp lực cho xét nghiệm
viên, tăng trách nhiệm cho chủ sở hữu, đảm bảo tính

khách quan trong các quyết định cấp Văn bằng bảo hộ.
Hiện nay, khi xét nghiệm đơn đăng ký nhãn hiệu,
ngoài việc tra cứu các nhãn hiệu có trước, các xét nghiệm
viên cịn phải tra cứu cả các kiểu dáng cơng nghiệp, chỉ
dẫn địa lý; ngồi ra phải kiểm tra khả năng nhầm lẫn của
14** Expression is faulty **

nhãn hiệu đối với các hình tượng, nhân vật thuộc quyền
tác giả của người khác đã được bảo hộ. Điều này là một
áp lực lớn đối với xét nghiệm viên nói riêng và cơ quan
đăng ký nói chung. Trong khi đó, hiện chưa có quy định
nào đề cập đến sự phối hợp giữa Cục SHTT và Cục Bản
quyền tác giả về việc sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu các
đối tượng SHCN và đối tượng quyền tác giả.
Để khắc phục vấn đề này, cần nghiên cứu để từng
bước áp dụng cơ chế xét nghiệm theo các căn cứ tuyệt đối
kết hợp với cơ chế phản đối đơn (tương tự như cơ chế xét
nghiệm của cơ quan nhãn hiệu Châu Âu) để xét nghiệm
nhãn hiệu nhằm giảm áp lực cho xét nghiệm viên trong
quá trình xét nghiệm đơn và đảm bảo tính khách quan,
chính xác của quyết định cấp Văn bằng bảo hộ.
Ngoài ra, cần thiết lập cơ chế công nhận và sử dụng kết
quả xét nghiệm nội dung giữa các cơ quan SHTT của các
quốc gia.
Kiến nghị 11: Đối với chỉ dẫn địa lý, không nên quy
định quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý của Việt Nam thuộc về
Nhà nước.
Cách quy định của Luật SHTT: quyền đăng ký chỉ dẫn
địa lý của Việt nam thuộc về Nhà nước không phù hợp với
thực tế. Pháp luật của các nước trên thế giới không quy

định theo hướng này. Chỉ dẫn địa lý là tài sản thuộc sở
hữu của tập thể các nhà sản xuất, kinh doanh thuộc địa
phương có sản phẩm đặc sản, quyền đăng ký chỉ dẫn địa
lý đương nhiên thuộc về tập thể đó. Bên cạnh quyền đăng
ký chỉ dẫn địa lý, tổ chức này có nghĩa vụ thực hiện các
biện pháp nhằm quản lý, kiểm soát và phát triển giá trị
chỉ dẫn địa lý. Quy định này nhằm tạo điều kiện tốt nhất
cho việc quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý.
14


Kiến nghị 12: Đối với sáng chế, cần sửa đổi quy định
về các đối tượng bị loại trừ không được bảo hộ với danh
nghĩa sáng chế
Quy định của Luật SHTT về các đối tượng bị loại trừ
không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế về cơ bản
phù hợp với TRIPS và BTA. Tuy nhiên, hiện chưa có cơ chế
xử lý khi đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế có chứa một phần
hoặc sử dụng một số quy trình thuộc đối tượng bị loại trừ.
Pháp luật của một số nước quy định: cơ quan đăng ký
chỉ từ chối cấp bằng sáng chế khi tồn bộ giải pháp, quy
trình u cầu bảo hộ thuần túy là các quy trình, giải pháp
bị loại trừ. Nếu đối tượng yêu cầu bảo hộ chỉ chứa một
phần hoặc có sử dụng một số quy trình bị loại trừ thì vẫn
phải được xem xét để cấp bằng sáng chế. Pháp luật Việt
Nam nên quy định theo hướng này để phù hợp với tinh
thần của TRIPS và BTA.

sửa đổi Công ước Munich ngày 20/2/2002.
ở Việt Nam, việc khuyến khích các nhà sáng tạo là cần

thiết, tuy nhiên, thúc đẩy ngành công nghiệp phần mềm
phát triển là vấn đề quan trọng và có ý nghĩa thiết thực
hơn. Trong bối cảnh nền cơng nghiệp phần mềm Việt Nam
cịn nhiều hạn chế, nhà nước cần có chính sách bảo hộ để
các tác giả viết phần mềm có thể khai thác giá trị quyền
SHCN đối với chương trình máy tính do mình sáng tạo ra.
Hơn nữa, về mặt lơgic, nếu chương trình máy tính đáp ứng
đầy đủ các tiêu chuẩn bảo hộ thì hồn tồn có thể được
cấp bằng độc quyền sáng chế.

Luật SHTT quy định chương trình máy tính là đối tượng
không được bảo hộ là sáng chế, mà được bảo hộ theo
pháp luật về quyền tác giả. Việc áp dụng cơ chế này
nhằm khuyến khích sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển của
cơng nghệ thơng tin; nó cho phép những người độc lập
sáng tạo ra các chương trình máy tính sau khi chương
trình đã được đăng ký bảo hộ vẫn có quyền sử dụng
chương trình đó.
Pháp luật của một số nước phát triển áp dụng cả hai
cơ chế (quyền tác giả và sáng chế) cho đối tượng này.
Nhật Bản và Hoa Kỳ đã có hàng chục nghìn bằng độc
quyền sáng chế được cấp cho phần mềm máy tính. Trước
đây, Công ước Munich (1973) cũng quy định không cấp
bằng độc quyền sáng chế cho chương trình máy tính (Điều
52), tuy nhiên, quy định này đã được sửa đổi tại Dự thảo
15** Expression is faulty **

15



Kết luận
Bảo hộ quyền SHCN không chỉ bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho chủ sở hữu, bảo vệ quyền lợi chính đáng của
cộng đồng mà cịn là động lực quan trọng thúc đẩy hoạt
động sáng tạo, đổi mới, cải tiến kỹ thuật, khuyến khích
cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể thuộc mọi thành
phần kinh tế, khuyến khích đầu tư nước ngoài. Cũng như
các quốc gia đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường, vấn đề bảo hộ quyền SHCN đã trở thành mối quan
tâm mang tính định hướng, chiến lược của Việt Nam trong
quá trình xây dựng nền kinh tế dựa trên tri thức.
Thế kỷ XXI được đánh giá là thế kỷ của tri thức sáng
tạo và cơng nghệ thơng tin. Bên cạnh đó, xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế cũng đặt ra nhu cầu khẳng định vị thế
cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh
tế quốc gia nói chung. Chính vì vậy, xác lập, bảo hộ và
phát triển giá trị quyền SHCN đang trở thành một vấn đề
mang tính thời sự và được quan tâm chú trọng hơn bao
giờ hết.

Các đối tượng SHCN ngày nay không chỉ đơn thuần
là tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt của
riêng chủ sở hữu mà cịn là những đối tượng có khả năng
tác động lớn tới lợi ích và sự phát triển chung của toàn xã
hội. Hành vi xâm phạm quyền SHTT khơng chỉ làm thiệt
hại cho chủ sở hữu mà cịn gây thiệt hại cho hàng hoạt
các nhà sản xuất, người tiêu dùng và cho nền kinh tế. Việc
xác lập, thực thi và bảo hộ quyền SHTT một cách thỏa
đáng hay khơng sẽ có tác động lớn đến việc thúc đẩy hay
hạn chế sáng tạo trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật, sản

xuất, kinh doanh. Như vậy, để việc bảo hộ SHTT có hiệu
quả thì rõ ràng chúng ta phải xây dựng một hệ thống
pháp luật về SHTT đầy đủ, chặt chẽ và hoàn thiện từ khâu
xác lập quyền sở hữu cho đến cơ chế thực thi và các biện
pháp chế tài nhằm bảo vệ các quyền đã được xác lập.
Trong khi đó, hệ thống pháp luật về bảo hộ SHCN
nói chung và xác lập quyền SHCN nói riêng của Việt Nam
cịn nhiều thiếu sót, bất cập, chưa đáp ứng các u cầu,
địi hỏi đặt ra trong q trình hội nhập đặc biệt là yêu cầu
của Hiệp định TRIPS - một trong những yêu cầu then chốt
để Việt Nam có thể gia nhập WTO.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này mong góp
phần hồn thiện các quy định pháp luật về xác lập quyền
SHCN, từ đó nâng cao tính hiệu quả của hệ thống SHCN
quốc gia, đáp ứng nhu cầu của q trình hội nhập và
những địi hỏi của tình hình mới.

16** Expression is faulty **

16


Trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực thực hiện
những bước chuyển mình để hội nhập với nền kinh tế quốc
tế, việc hồn thiện pháp luật về SHCN nói chung và xác
lập quyền SHCN nói riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng.
Việc nhìn nhận vấn đề hồn thiện pháp luật về xác lập
quyền SHCN yêu cầu phải giải quyết một khối lượng lớn
các vấn đề nghiên cứu. Do vậy, mặc dù đã cố gắng đầu tư
nhiều thời gian, công sức trong q trình nghiên cứu, hồn

thiện luận văn, nhưng chắc chắn khơng thể tránh khỏi
những hạn chế, thiếu sót. Tác giả luận văn mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, các nhà nghiên
cứu, các chuyên gia và bạn bè, đồng nghiệp để hoàn thiện
vấn đề nghiên cứu đã đặt ra và định hướng cho những
nghiên cứu tiếp theo.

17** Expression is faulty **

17



×