Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Đánh giá hiệu quả hai năm gia nhập WTO trong lĩnh vực bảo hiểm Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 88 trang )




TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
  



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài:
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HAI NĂM GIA NHẬP WTO
TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM VIỆT NAM




Họ và tên sinh viên
Lớp
Khoá
Giáo viên hướng dẫn
: NguyÔn ThÞ Trang
: Anh 4
: 44 H
: Hoµng ThÞ §oan Trang










Hà Nội, tháng 5 năm 2009



MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM VÀ
CAM KẾT VỀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM CỦA VIỆT NAM TRONG WTO 4
I. KHÁI QUÁT VỀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM 4
1. Rủi ro và những biện pháp đối phó rủi ro 4
1.1. Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro 5
1.2. Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro 6
2. Lịch sử ra đời và phát triển ngành bảo hiểm 6
2.1. Lịch sử phát triển ngành bảo hiểm trên thế giới 6
2.2. Lịch sử phát triển ngành bảo hiểm Việt Nam 9
3. Khái niệm và bản chất của dịch vụ bảo hiểm 10
3.1. Khái niệm 10
3.2. Bản chất của bảo hiểm 11
4. Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm 12
5. Phân loại bảo hiểm 13
5.1. Căn cứ vào cơ chế hoạt động của bảo hiểm 13

5.2. Căn cứ vào tính chất của bảo hiểm 14
5.3. Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm 14
5.4. Căn cứ theo quy định của pháp luật 14
6. Vai trò và tác dụng của bảo hiểm 15
6.1. Vai trò của bảo hiểm đối với sự phát triển kinh tế. 15
6.2. Tác dụng của bảo hiểm 17
6.2.1. Đối với nền kinh tế 17
6.2.2. Đối với người tham gia bảo hiểm 18
6.2.3. Đối với các công ty bảo hiểm 18
II. MỘT VÀI NÉT VỀ THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM TRƯỚC
KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO 19
1. Giai đoạn 1965 -1993 19
2. Giai đoạn 1994 đến nay 19


III. CÁC CAM KẾT VỀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM KHI VIỆT NAM GIA
NHẬP WTO 21
1. Những cam kết về thương mại dịch vụ của Việt Nam trong WTO 21
1.1. Dịch vụ bảo hiểm: 21
1.2. Dịch vụ chứng khoán: 21
1.3. Dịch vụ ngân hàng: 21
2. Cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong WTO 22
2.1. Các cam kết chung 22
2.2. Các cam kết riêng trong lĩnh vực hoạt động KDBH 23
CHƢƠNG II: HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA LĨNH VỰC BẢO HIỂM
TẠI VIỆT NAM SAU 2 NĂM VIỆT NAM GIA NHẬP WTO. 25
I. KHÁI NIỆM VỀ HIỆU QUẢ VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU
QUẢ 25
1. Khái niệm hiệu quả: 25
2. Khái niệm hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm 25

3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm 26
3.1. Năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. 26
3.2. Quy mô thị trường. 26
3.3. Đóng góp vào việc ổn định kinh tế xã hội 26
3.4. Đầu tư trở lại nền kinh tế. 27
3.5. Sản phẩm bảo hiểm. 27
3.6. Chất lượng phục vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm 27
II. HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA LĨNH VỰC BẢO HIỂM TẠI VIỆT
NAM 28
1. Năng lực tài chính 28
1.1. Vốn điều lệ 28
1.2. Quỹ dự phòng nghiệp vụ 29
2. Quy mô thị trường 30
2.1. Kết cấu thị trường 30
2.2. Doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm 31
2.2.1. Doanh thu toàn thị trường bảo hiểm 31
2.2.2. Doanh thu phí bảo hiểm 32
2.2.3. Thu nhập từ hoạt động đầu tư của các công ty BH 34
2.3.Đóng góp vào GDP 35
2.4. Phí bảo hiểm bình quân đầu người 36


3. Đóng góp vào ổn định kinh tế xã hội 38
3.1. Bồi thường và trả tiền bảo hiểm 38
3.2. Tạo công ăn việc làm cho người lao động 39
4. Sản phẩm bảo hiểm 39
5. Chất lượng phục vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm 41
5.1. Doanh nghiệp bảo hiểm trong nước 41
5.2. Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài 42
III. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA LĨNH VỰC BẢO HIỂM

VIỆT NAM SAU 2 NĂM GIA NHẬP WTO 44
1. Điểm mạnh 44
1.1. Phát triển thị trường 44
1.2. Công tác xây dựng chính sách, chế độ và quản lý, giám sát bảo
hiểm. 47
1.3. Hiệp hội bảo hiểm 47
2. Điểm yếu 48
2.1. Về phía doanh nghiệp bảo hiểm. 48
2.1.1. Khối doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ và tái bảo hiểm 48
2.1.2. Khối doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. 50
2.1.3. Khối doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 50
2.1.4. Các vấn đề khác 51
2.2. Về phía cơ quan quản lý bảo hiểm. 52
2.3. Về phía Hiệp hội bảo hiểm 52
3. Cơ hội 52
3.1. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và phát triển 52
3.2. Lượng hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng tăng 53
3.3. Đời sống nhân dân được cải thiện 53
3.4. Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện 53
4. Thách thức. 55
4.1. Số lượng doanh nghiệp BH tăng, gây sức ép cạnh tranh lớn 55
4.2. Nguồn nhân lực trong lĩnh vực bảo hiểm còn hạn chế. 56
4.3. Tình trạng trục lợi bảo hiểm. 56
CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LĨNH VỰC BẢO
HIỂM TẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM GIA NHẬP
WTO 57
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN LĨNH VỰC BH ĐẾN 2010 57


II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LĨNH VỰC BẢO HIỂM TẠI VIỆT

NAM 59
1. Những giải pháp đối với Nhà nước: 59
1.1. Xây dựng hàng rào kỹ thuật về tiêu chuẩn thành lập DN BH 59
1.2. Hoàn thiện từng bước luật KDBH và các văn bản hướng dẫn 60
1.3. Hình thành bộ máy quản lý Nhà nước về hoạt động KDBH 63
2. Những giải pháp đối với Hiệp hội bảo hiểm 64
3. Những giải pháp đối với các doanh nghiệp bảo hiểm 65
3.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh 65
3.2. Tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm 68
3.3. Nâng cao chất lượng phục vụ 69
3.4. Nâng cao năng lực quản lý điều hành, quản trị rủi ro. 70
KẾT LUẬN 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
PHỤ LỤC 1. DANH SÁCH CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM, MÔI GIỚI BẢO
HIỂM NĂM 2008 76
PHỤ LỤC 2. DOANH THU - THỊ PHẦN PHÍ BH GỐC NĂM 2004, 2005,
2006, 2007 VÀ ƢỚC NĂM 2008 77
PHỤ LỤC 3: CƠ CẤU ĐẦU TƢ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
PHI NHÂN THỌ 79
PHỤ LỤC 4: BỒI THƢỜNG, TRẢ TIỀN BH GIAI ĐOẠN 2004 - 2008 80











DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

AAA Công ty cổ phần bảo hiểm AAA
AIG Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm phi nhân thọ AIG Việt Nam
ACE Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm ACI
BH Bảo hiểm
BIC Công ty bảo hiểm Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
GIC Công ty cổ phần bảo hiểm toàn cầu
KDBH Kinh doanh bảo hiểm
MIC Công ty cổ phần bảo hiểm Quân đội
MSIG Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm Mitsui Sumitomo
Pjico Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
PTI Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu điện
PVI Công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí
QBE Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm QBE Việt Nam
TBCN Tư bản chủ nghĩa
UIC Công ty liên doanh bảo hiểm liên hiệp
VASS Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông
VIA Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam
VN Việt Nam
VNI Công ty cổ phần bảo hiểm Hàng không Việt Nam
WTO Tổ chức thương mại thế giới







DANH MỤC BẢNG BIỂU


Bảng 1: Số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm theo khối doanh nghiệp giai
đoạn 2004 – 2008 30
Bảng 2: Doanh thu toàn thị trường bảo hiểm giai đoạn 2004 – 2008 31
Bảng 3: Số lượng lao động và đại lý bảo hiểm giai đoạn 2004 – 2008 39


Biểu đồ 1: Tổng dự phòng nghiệp vụ 29
Biểu đồ 2: Doanh thu phí bảo hiểm gốc 32
Biểu đồ 3: Doanh thu phí bảo hiểm của các DNBH trong nước so với các
DNBH có vốn đầu tư nước ngoài 33
Biểu đồ 4: Thu nhập từ hoạt động đầu tư và tổng nguồn vốn đầu tư của thị
trường bảo hiểm 34
Biểu đồ 5: Đóng góp vào GDP của toàn ngành bảo hiểm 35
Biểu đồ 6: Phí bảo hiểm bình quân đầu người 37
Biểu đồ 7: Tình hình bồi thường và trả tiền bảo hiểm 38









1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2007 và 2008 là hai năm đầu tiên Việt Nam tiến hành thực hiện
các cam kết WTO với rất nhiều thách thức và cơ hội đan xen. Nền kinh tế

Việt Nam đã tận dụng được cơ hội và đẩy lùi thách thức để tiếp tục tăng
trưởng mạnh. Tuy nhiên, khi đã là thành viên của Tổ chức thương mại thế
giới WTO thì chúng ta cũng chịu tác động rất mạnh mẽ từ nền kinh tế thế
giới; năm 2008 kinh tế thế giới có rất nhiều biến động lớn và bắt đầu đi vào
suy thoái, kinh tế Việt Nam cũng không tránh khỏi tình trạng đó, nền kinh tế
tiếp tục tăng trưởng nhưng với tốc độ chậm hơn so với dự báo ban đầu. Trong
bối cảnh nền kinh tế như vậy, nhưng ngành bảo hiểm hai năm qua vẫn tăng
trưởng mạnh.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Kinh doanh bảo hiểm được coi
như tấm lá chắn kinh tế của nền kinh tế - xã hội, góp phần ổn định sản xuất
kinh doanh, ổn định đời sống khi những rủi ro hiểm họa xảy ra. Thị trường
bảo hiểm Việt Nam sau một thời gian dài hoạt động theo cơ chế độc quyền từ
năm 1965 đến năm 1993 đã chuyển mình, phát triển nhanh chóng kể từ khi
Nghị định 100/NĐ-CP (18/12/1993) được ban hành nhằm tạo môi trường
pháp lý, thúc đẩy thị trường bảo hiểm. Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm Việt
Nam chỉ thực sự sôi động, phát triển khá toàn diện và cạnh tranh gay gắt khi
chúng ta bắt đầu mở cửa cho các công ty bảo hiểm nhân thọ 100% vốn nước
ngoài vào kinh doanh từ năm 1999. Nhiều công ty bảo hiểm lớn trên thế giới
đã có mặt ở thị trường Việt Nam. Khung pháp lý về hoạt động bảo hiểm cũng
đã được điều chỉnh và hoàn thiện, tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế, nhất là
với sự ra đời của Luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội thông qua ngày
09/12/2000. Như vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã có một thời

2
gian dài chuẩn bị trước khi chúng ta gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
WTO (ngày 07/11/2006).
Vậy sau hai năm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới - WTO, ngành
bảo hiểm Việt Nam đã gặp phải những cơ hội và thách thức nào? Tăng trưởng
ra sao? Thị trường bảo hiểm trong nước đã làm được gì và còn thiếu sót gì

trong thời gian qua? Từ đó, chúng ta đưa ra những định hướng phát triển cho
thị trường bảo hiểm từ phía Nhà nước và các doanh nghiệp bảo hiểm trước
bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động như hiện nay. Việc nghiên cứu,
phân tích để tìm ra câu trả lời cho các vấn đề nói trên là một yêu cầu cấp thiết;
xuất phát từ thực tế đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Đánh giá hiệu quả hai
năm gia nhập WTO trong lĩnh vực bảo hiểm Việt Nam” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích cụ thể thực trạng lĩnh vực bảo hiểm Việt Nam
trong giai đoạn từ 2004 đến 2008; nghiên cứu các yếu tố tác động; phân tích
các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của lĩnh vực bảo hiểm; từ đó tác giả
đưa ra những định hướng nhằm giúp thị trường bảo hiểm Việt Nam tăng
trưởng mạnh và ổn định.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, khóa luận sẽ thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Làm rõ những vấn đề liên quan đến khái niệm dịch vụ bảo hiểm và
cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong WTO của Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng lĩnh vực bảo hiểm Việt Nam và đánh giá hiệu
quả hoạt động của lĩnh vực bảo hiểm Việt Nam trong hai năm gia nhập WTO.
- Đưa ra một số định hướng phát triển cho lĩnh vực bảo hiểm tại Việt
Nam nhằm giúp lĩnh vực này tăng trưởng mạnh và ổn định.

3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận sẽ tập trung nghiên cứu các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả thị
trường bảo hiểm; các cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong WTO tác động đến
thị trường bảo hiểm Việt Nam trong năm năm gần đây (từ năm 2004 đến năm
2008), từ đó đưa ra một số định hướng phát triển lĩnh vực bảo hiểm nhằm
giúp lĩnh vực này ở Việt Nam tăng trưởng mạnh và ổn định.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh và đối chiếu. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến các vấn đề theo
quan điểm phát triển, toàn diện, lịch sử và cụ thể nhằm phân tích một cách
xác thực thị trường bảo hiểm trong hai năm gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới WTO.
6. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh
mục bảng biểu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của khóa
luận được bố cục thành 3 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề chung về dịch vụ bảo hiểm và cam kết về
dịch vụ bảo hiểm của Việt Nam trong WTO.
Chương 2. Hiệu quả hoạt động của lĩnh vực bảo hiểm tại Việt Nam sau
2 năm Việt Nam gia nhập WTO.
Chương 3. Một số giải pháp phát triển lĩnh vực bảo hiểm tại VN trong
bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO.
Do những hạn chế về tài liệu, thời gian nghiên cứu cũng như nhận thức
của tác giả, khóa luận không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Tác giả rất mong
nhận được sự thông cảm, chỉnh sửa và góp ý của các thầy cô giáo và bạn bè.
Tác giả xin chân thành cảm ơn GV. Hoàng Thị Đoan Trang – người đã
dành thời gian tận tình hướng dẫn tác giả hoàn thành khóa luận này.


4
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DỊCH VỤ BẢO
HIỂM VÀ CAM KẾT VỀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM CỦA VIỆT
NAM TRONG WTO
I. KHÁI QUÁT VỀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM
1. Rủi ro và những biện pháp đối phó rủi ro
Có rất nhiều định nghĩa về rủi ro hiện nay đang được sử dụng. Dưới

con mắt của các nhà đầu tư chứng khoán thì “rủi ro là khả năng xảy ra nhiều
kết quả ngoài dự kiến, hay nói cách khác, mức sinh lời thực tế nhận được
trong tương lai có thể khác với dự tính ban đầu. Độ chắc chắn (hay độ dao
động) của lợi suất đầu tư càng cao thì rủi ro càng cao và ngược lại”
1
. Còn
dưới con mắt của các nhà bảo hiểm thì “rủi ro là những tai họa, tai nạn, sự cố
xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên”
2
. Trong khuôn khổ khóa luận này, tác
giả chỉ đề cập đến khái niệm rủi ro dưới góc nhìn của các nhà bảo hiểm.
Trong cuộc sống cũng như trong sản xuất, con người luôn có nguy cơ gặp
phải rủi ro vì những nguyên nhân khác nhau như: bão lụt, hạn hán, ốm đau,
bệnh tật, tai nạn…Rủi ro thường gây nên những hậu quả khó lường làm ảnh
hưởng đến đời sống, sản xuất và sức khỏe của con người. Chính vì vậy, ngay
từ khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu an toàn đối với con người cũng
xuất hiện và đó là một trong những nhu cầu vĩnh cửu. Khi cuộc sống và sản
xuất ngày càng phát triển thì nhu cầu an toàn càng được con người quan tâm
nhiều hơn. Khoa học, kỹ thuật, công nghệ phát triển, một mặt làm tăng năng
suất lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho đời sống của con người, mặt khác
nguy cơ gặp rủi ro của con người cũng ngày càng tăng. Để đối phó với rủi ro


1
Trích giáo trình phân tích và đầu tư chứng khoán; Ủy ban chứng khoán Nhà nước; Nxb Chính trị quốc gia 2003
2
Trích giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh; Chủ biên GS, TS Hoàng Văn Châu; Nxb Lao động xã hội 2006

5
con người đã tìm ra nhiều cách thức khác nhau, các cách thức này được chia

ra làm hai nhóm biện pháp đó là kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
1.1. Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro
Tránh né rủi ro: là không làm một việc gì đó quá mạo hiểm, không
chắc chắn. Mỗi cá nhân, mỗi tổ chức đều có thể lựa chọn những biện pháp
thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra nhằm loại trừ nguy cơ dẫn đến bị tổn
thất. Chẳng hạn, để né tránh tai nạn giao thông, người ta đã hạn chế việc đi
lại, hay để phòng tránh tai nạn lao động, người ta sẽ lựa chọn những ngành
nghề ít nguy hiểm hơn…Tuy nhiên, biện pháp này có nhược điểm là làm cho
con người lúc nào cũng sợ sệt, không dám làm việc gì, điều này đồng nghĩa
với việc xã hội khó có thể phát triển được.
Ngăn ngừa tổn thất: Đây là biện pháp khá chủ động, thể hiện ở việc
các công ty, các cá nhân dùng những biện pháp để đề phòng, ngăn ngừa, hạn
chế rủi ro và hậu quả của nó. Chẳng hạn, để giảm bớt tai nạn lao động, người
ta đã tổ chức các khóa học cho người lao động về an toàn lao động, để phòng
chống hỏa hoạn, người ta đã xây dựng các hệ thống phòng cháy chữa cháy.
Tuy nhiên mặc dù con người đã cố gắng đưa ra các biện pháp để ngăn chặn,
hạn chế rủi ro nhưng cũng không thể ngăn chặn được hết rủi ro xảy ra.
Giảm thiểu tổn thất: Nếu như rủi ro không thể tránh được hay
không thể ngăn ngừa thì người ta sẽ đưa ra các biện pháp để giảm thiểu tối đa
thiệt hại, tổn thất. Chẳng hạn, khi xảy ra hỏa hoạn, để giảm thiểu tổn thất,
người ta đã sử dụng các biện pháp cứu hỏa. Hoặc khi xảy ra tai nạn, để giảm
thiểu các thiệt hại về người, người ta đã đưa những người bị thương đi cấp
cứu…Tuy nhiên, để làm được những việc như vậy, con người cần phải có
kinh phí tài trợ.


6
1.2. Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro
Chấp nhận rủi ro: Đây là biện pháp mà con người tự chấp nhận tổn
thất khi gặp phải rủi ro hay nói cách khác họ tự bảo hiểm cho mình. Chẳng

hạn, các cá nhân, tổ chức có thể tự lập ra quỹ dự trữ, dự phòng và những quỹ
này chỉ được dùng để bù đắp tổn thất khi gặp phải rủi ro. Hoặc khi xảy ra rủi
ro, người ta có thể đi vay mượn tiền bạc để khắc phục hậu quả. Tuy nhiên,
nếu tổn thất quá lớn, vượt quá quỹ dự phòng thì người ta khó mà có thể tự
khắc phục hậu quả và đứng dậy sau khi rủi ro xảy ra.
Bảo hiểm: Đây là biện pháp chuyển giao rủi ro rất hiệu quả. Một cá
nhân hay công ty khi tự mình nhận thấy không thể chịu đựng được một hoặc
nhiều rủi ro lớn, có tính chất thảm họa, phải tìm cách san sẻ bằng cách chuyển
nhượng rủi ro cho các công ty khác và trả một khoản tiền phí cho các công ty
này. Khi đã chấp nhận rủi ro, các công ty khác đó phải bồi thường những thiệt
hại do rủi ro đã thỏa thuận gây ra. Biện pháp này có nhiều ưu điểm lớn: không
gây động vốn trong xã hội, phạm vi bù đắp rộng lớn, có thể bù đắp những rủi
ro có tính chất thảm họa… và ngày nay nó đang phát triển rất mạnh mẽ.
2. Lịch sử ra đời và phát triển ngành bảo hiểm
2.1. Lịch sử phát triển ngành bảo hiểm trên thế giới.
Trước lợi nhuận mà ngành thương mại hàng hải mang lại cũng như
mức độ và số lượng rủi ro phải ứng phó, các chủ tàu, các nhà buôn, những
người vận tải luôn luôn tìm kiếm những hình thức bảo đảm an toàn cho quyền
lợi của mình.
Đầu tiên, vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên người ta đã tìm
cách giảm nhẹ tổn thất toàn bộ một lô hàng bằng cách san nhỏ lô hàng của
mình ra làm nhiều chuyến hàng. Đây là cách phân tán rủi ro, tổn thất và có thể
coi đó là hình thức sơ khai của bảo hiểm. Sau đó để đối phó với những tổn

7
thất nặng nề thì hình thức “cho vay mạo hiểm” đã xuất hiện; theo đó trong
trường hợp xảy ra tổn thất đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển, người
vay sẽ được miễn không phải trả khoản tiền vay cả vốn lẫn lãi. Ngược lại, họ
sẽ phải trả một lãi suất rất cao khi hàng hoá đến bến an toàn, như vậy có thể
hiểu lãi suất cao này là hình thức sơ khai của phí bảo hiểm. Song số vụ tổn

thất xảy ra ngày càng nhiều làm cho các nhà kinh doanh cho vay vốn cũng
lâm vào thế nguy hiểm và thay thế vào đó, hình thức bảo hiểm ra đời.
Vào thế kỷ XIV, ở Floren, Genoa nước Ý, đã xuất hiện các hợp đồng
bảo hiểm hàng hải đầu tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với
người được bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản mà người được
bảo hiểm phải gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra trên biển, đồng thời với việc
nhận một khoản phí. Hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy có
ghi ngày 22/04/1329 hiện còn được lưu giữ tại Floren. Sau đó, cùng với việc
phát hiện ra Ấn Độ Dương và tìm ra châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung và
bảo hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển rất nhanh.
Về cơ sở pháp lý thì có thể coi chiếu dụ Barcelona năm 1435 là văn
bản pháp luật đầu tiên trong ngành bảo hiểm. Sau đó là sắc lệnh của Philippe
de Bourgogne năm 1458, những sắc lệnh của Brugos năm 1537, Fiville năm
1552 và ở Amsterdam năm 1558. Ngoài ra, còn có sắc lệnh của Phần Lan năm
1563 liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hoá.
Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVI – XVII, cùng với sự ra đời của phương
thức sản xuất TBCN thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và ngày
càng đi sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Mở đường cho
sự phát triển này là luật 1601 của Anh thời Nữ hoàng Elisabeth, sau đó là Chỉ
dụ 1681 của Pháp do Colbert biên soạn và Vua Louis XIV ban hành, đó là
những đạo luật mở đường cho lĩnh vực bảo hiểm hàng hải.

8
Đến thế kỷ XVII, nước Anh đã chiếm vị trí hàng đầu trong buôn bán và
hàng hải quốc tế với Luân Đôn là trung tâm phồn thịnh nhất. Tàu của các
nước đi từ châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi đều về cập bến bên hai bờ
sông Thames của thành phố Luân Đôn. Các tiệm cà phê là nơi gặp gỡ của các
nhà buôn, chủ ngân hàng, người chuyên chở, người bảo hiểm … để giao dịch,
trao đổi tin tức, bàn luận trực tiếp với nhau.
Edward Lloyd’s là một thuyền trưởng về hưu bắt đầu mở quán cà phê

tại phố Great Tower ở Luân Đôn vào khoảng năm 1692. Các nhà buôn, chủ
ngân hàng, người chuyên chở, người bảo hiểm…thường đến đó để trao đổi
các thông tin về các con tầu viễn dương, về hàng hóa chuyên chở trên tàu, về
sự an toàn và tình hình tai nạn của các chuyến tàu…. Ngoài việc quản lý quán
cà phê, năm 1696 Edward Lloyd’s còn cho ra một tờ báo tổng hợp tình hình
các tàu bè và các vấn đề khác nhằm cung cấp thông tin cho các khách hàng
của ông. Tuy nhiên, việc làm chính của ông vẫn là cung cấp địa điểm để
khách hàng đến giao dịch bảo hiểm, hội họp. Sau khi Edward Lloyd’s qua
đời, người ta thấy rằng cần phải có một nơi tương tự như vậy để các nhà khai
thác bảo hiểm hàng hải tập trung giao dịch bảo hiểm và năm 1770, “Society
of Lloyd’s” với tư cách là một tổ chức tự nguyện đã được thành lập và thu
xếp một địa điểm ở Pope’s Head Alley cho các thành viên của họ. Sau đó, tổ
chức này rời địa điểm đến trung tâm hối đoái của Hoàng gia và ở đó đến năm
1828 thì rời đến toà nhà riêng của họ tại phố Leaden Hall. Tổ chức này hoạt
động với tư cách là tổ chức tư nhân, đến năm 1871 thì hợp nhất lại theo luật
Quốc hội và trở thành Hội đồng Lloyd’s. Sau này tổ chức đã trở thành nơi
giao dịch kinh doanh bảo hiểm và hãng bảo hiểm lớn nhất thế giới.
Sau nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải là sự xuất hiện của bảo hiểm hoả
hoạn, đánh dấu bằng vụ cháy thảm khốc ở Luân Đôn nước Anh ngày
2/09/1666, hủy diệt 13.000 căn nhà, trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4

9
ngày, gây thiệt hại quá lớn, không thể cứu trợ được. Sau đó, những nhà kinh
doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng cùng chia sẻ rủi ro hoả hoạn
bằng cách đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm hoả hoạn như : " Fire
Office" (năm 1667), "Friendly Society" (năm 1684), "Hand and Hand" (năm
1696), "Lom Bard House" (năm 1704) Lúc đó Công ty bảo hiểm Lloyds đã
ra đời nhưng chỉ hoạt động trong lĩnh vực hàng hải. Mãi tới thế kỷ XX, công
ty mới chuyển sang hoạt động trên cả lĩnh vực nội địa và tái bảo hiểm.
Nước Pháp do ảnh hưởng của vụ hỏa hoạn ở Luân Đôn, nên năm 1786,

công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên được thành lập, là “Company L'assurance
Centree L'incendie” và “Company Royade” (năm 1788). Sự kiện đáng được
lưu truyền thời gian này và trong lịch sử bảo hiểm là công trình toán học của
Pascal về "Hình học của rủi ro " (Lageometric Du Hasard) năm 1654 đã đưa
đến ngành toán học xác suất. Đó là cơ sở thống kê xác suất phục vụ cho hoạt
động bảo hiểm và ngày nay vẫn được coi là kỹ thuật cơ bản của ngành bảo
hiểm.
2.2. Lịch sử phát triển ngành bảo hiểm Việt Nam
Tại Việt Nam, người ta vẫn chưa tìm thấy một tài liệu nào chứng minh
một cách chính xác mà chỉ phỏng đoán vào năm 1880, các Hội bảo hiểm
ngoại quốc như Hội bảo hiểm Anh, Pháp, Thụy Sĩ, Hoa Kỳ…đã để ý đến
Đông Dương. Các công ty thương mại lớn đại diện cho các Hội bảo hiểm
ngoại quốc tại Việt Nam, ngoài việc buôn bán, còn mở thêm một trụ sở để
làm đại diện bảo hiểm. Năm 1926, công ty Franco-Asietique đặt chi nhánh
đầu tiên của mình tại Việt Nam. Sau đó đến năm 1929, mới có công ty Việt
Nam đặt trụ sở tại Sài Gòn, đó là “Việt Nam Bảo hiểm Công ty” và chỉ hoạt
động trong lĩnh vực bảo hiểm xe ô tô. Từ năm 1952 về sau, hoạt động bảo
hiểm mới được mở rộng dưới những hình thức phong phú với sự hoạt động
của nhiều công ty bảo hiểm trong và ngoài nước.

10
Ở Miền Bắc, ngày 15/01/1956 Công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là
Bảo Việt) mới chính thức đi vào hoạt động. Trong những năm đầu, Bảo Việt
chỉ tiến hành các nghiệp vụ về hàng hải như bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu, bảo hiểm tàu viễn dương…Sau đó, ngày 18/12/1993, Nghị định 100/CP
ra đời đã tạo ra một bước ngoặt có tính cách mạng đối với thị trường bảo
hiểm Việt Nam, phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt. Các công ty bảo hiểm
mới như Bảo Minh, Pjico, bảo hiểm Bưu điện …bắt đầu ra đời và phát triển
mạnh mẽ. Thị trường bảo hiểm Việt Nam bắt đầu bước sang một giai đoạn
mới, giai đoạn cạnh tranh và phát triển. Ngày 10/12/2001, Hiệp định thương

mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ bắt đầu có hiệu lực, thị trường bảo
hiểm dần mở cửa cho các doanh nghiệp Mỹ. Ngày 07/11/2006, Việt Nam
chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới
WTO, thị trường bảo hiểm lại một lần nữa được mở cửa cho tất cả các nhà
đầu tư thuộc các nước thành viên WTO với các điều khoản tương tự như Hiệp
định song phương Việt Nam – Hoa Kỳ. Cho đến nay, sau hai năm gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có những
bước phát triển đáng kể.
3. Khái niệm và bản chất của dịch vụ bảo hiểm
3.1. Khái niệm
Mặc dù đã ra đời từ khá sớm song cho đến nay vẫn chưa có một khái
niệm thống nhất về bảo hiểm. Người ta có những cách nhìn khác nhau về bảo
hiểm dưới mỗi một góc độ.
Dưới góc độ tài chính thì người ta cho rằng “Bảo hiểm là một hoạt
động dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không
mong đợi”.
Dưới góc độ pháp lý thì “ bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó, một
bên là người được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bảo hiểm hay

11
đóng góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để trong
trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên
khác là người bảo hiểm, người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù
thiệt hại theo Luật Thống kê”,
Dưới góc độ kinh doanh bảo hiểm, thì “Bảo hiểm là một cơ chế,
theo cơ chế này một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển
nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được
bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại
giữa tất cả những người được bảo hiểm”.
3.2. Bản chất của bảo hiểm

Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định cuộc sống và sản
xuất cho những người tham gia và thu hút nguồn vốn để đầu tư vào nền kinh
tế, thúc đẩy nền kinh tế của đất nước phát triển. Người ta tham gia một nghiệp
vụ bảo hiểm nào đó là để phòng khi có rủi ro, tổn thất xảy ra thì sẽ được
người bảo hiểm bồi thường một khoản tiền để bù đắp cho tổn thất và khôi
phục lại tình trạng của đối tượng được bảo hiểm như trước khi có tổn thất.
Khoản tiền mà công ty bảo hiểm bồi thường được lấy từ số phí bảo hiểm mà
tất cả những người tham gia bảo hiểm đã nộp. Trong số những người tham gia
bảo hiểm thì chỉ có một hoặc một số người gặp tổn thất. Những người không
bị tổn thất sẽ mất không số phí bảo hiểm mình đã đóng góp. Vì vậy, thực chất
của bảo hiểm là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả
những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Muốn tiến hành một nghiệp vụ
bảo hiểm thì phải có nhiều người tham gia, hay nói cách khác bảo hiểm hoạt
động dựa trên quy luật số đông. Càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì xác
suất xảy ra rủi ro đối với từng người càng nhỏ và công ty bảo hiểm càng có
lãi.


12
4. Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm
Để thực hiện mục đích góp phần ổn định kinh tế cho người tham gia
bảo hiểm, từ đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống; đồng thời tạo
nguồn vốn cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước thì bảo hiểm phải hoạt
động dựa trên các quy tắc sau đây:
Nguyên tắc bảo hiểm một rủi ro chứ không bảo hiểm một sự chắc
chắn. Bảo hiểm ra đời chính là do trong cuộc sống luôn luôn tiềm ẩn
những rủi ro mà con người không thể lường trước được, người ta tham
gia bảo hiểm là để chia sẻ rủi ro cùng nhau. Vì vậy mà người bảo hiểm
chỉ nhận bảo hiểm một rủi ro và bồi thường những tổn thất do rủi ro
gây ra chứ không phải cho những thiệt hại chắc chắn xảy ra, đương

nhiên xảy ra.
Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: Trong bảo hiểm thì người bán bảo
hiểm là người mua rủi ro, người mua bảo hiểm là người bán rủi ro. Xác
suất xảy ra rủi ro phụ thuộc rất nhiều vào đối tượng được bảo hiểm, vì
vậy cả hai bên trong mối quan hệ mua bán này đều phải tuyệt đối tin
tưởng, trung thực với nhau, không được lừa dối lẫn nhau. Người mua
bảo hiểm phải cho người bảo hiểm biết chính xác và đầy đủ tất cả
những thông tin về đối tượng được bảo hiểm kể cả những thay đổi của
đối tượng được bảo hiểm trong thời gian bảo hiểm. Ngược lại người
bán bảo hiểm phải tuyên bố công khai những điều kiện, phí bảo hiểm
cho người mua bảo hiểm biết.
Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm. Lợi ích bảo hiểm là lợi ích liên quan đến,
gắn liền hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng
được bảo hiểm. Nếu muốn mua bảo hiểm thì người được bảo hiểm
phải có lợi ích bảo hiểm. Lợi ích bảo hiểm không nhất thiết phải có khi
ký kết hợp đồng nhưng nhất định phải có khi tổn thất xảy ra. Khi tổn

13
thất xảy ra mà người được bảo hiểm không còn lợi ích bảo hiểm nữa
thì cũng không được bồi thường. Chẳng hạn, trong bảo hiểm hàng hải,
chủ hàng mua bảo hiểm cho hàng hóa của mình khi vận chuyển hàng
hóa nhưng chủ hàng này lại bán hàng hóa ngay trên đường đi. Sau khi
hàng hóa được chuyển giao quyền sở hữu nhưng vẫn nằm trong thời
hạn bảo hiểm thì bị tổn thất. Trong trường hợp này chủ hàng đó không
được bồi thường vì không có lợi ích bảo hiểm khi rủi ro xảy ra.
Nguyên tắc bồi thường. Khi có tổn thất thì người bảo hiểm phải bồi
thường cho người được bảo hiểm để làm sao khôi phục lại được tình
trạng tài chính cho người được bảo hiểm như trước khi xảy ra rủi ro.
Nguyên tắc thế quyền. Người bảo hiểm sau khi bồi thường cho người
được bảo hiểm có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người

thứ ba có trách nhiệm, bồi thường cho mình. Người được bảo hiểm
phải cung cấp cho người bảo hiểm tất cả những giấy tờ, tài liệu có liên
quan cần thiết để người bảo hiểm thực hiện được quyền này.
5. Phân loại bảo hiểm
Có nhiều tiêu chí để phân loại bảo hiểm, theo mỗi tiêu chí thì bảo hiểm
lại được phân ra thành các loại khác nhau.
5.1. Căn cứ vào cơ chế hoạt động của bảo hiểm
Bảo hiểm xã hội: là loại hình bảo hiểm không mang tính kinh
doanh, do các tổ chức của Nhà nước thực hiện dưới hình thức bắt
buộc nhằm góp phần thực hiện chính sách phúc lợi xã hội của
Nhà nước. Có các loại bảo hiểm xã hội như bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp…Trong khuôn khổ của bài khoá luận này, tác
giả không đề cập đến bảo hiểm xã hội.

14
Bảo hiểm thương mại: là loại hình bảo hiểm mang tính kinh
doanh, kiếm lời, không mang tính bắt buộc. Loại hình bảo hiểm
này đảm bảo sự ổn định tài chính cho nền kinh tế, chống lại các
nguy cơ rủi ro, huy động thêm nguồn lực trong nước, đáp ứng
nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm
cho người lao động.
5.2. Căn cứ vào tính chất của bảo hiểm
Bảo hiểm nhân thọ: là loại nghiệp vụ bảo hiểm áp dụng cho
trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết; bao gồm: bảo
hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm hỗn
hợp, bảo hiểm trả tiền định kỳ…
Bảo hiểm phi nhân thọ: là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách
nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo
hiểm nhân thọ; bao gồm: bảo hiểm tín dụng vào rủi ro tài chính,
bảo hiểm thiệt hại kinh doanh, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm

sức khỏe và tai nạn con người, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển,
bảo hiểm hàng không, bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm xe cơ giới…
5.3. Căn cứ vào đối tƣợng bảo hiểm
Bảo hiểm tài sản.
Bảo hiểm con người.
Bảo hiểm trách nhiệm.
5.4. Căn cứ theo quy định của pháp luật
Bảo hiểm tự nguyện
Bảo hiểm bắt buộc; bao gồm:
 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới;

15
 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng
không đối với hành khách;
 Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn
pháp luật;
 Bảo hiểm trách nghiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi
giới bảo hiểm;
 Bảo hiểm cháy nổ.
6. Vai trò và tác dụng của bảo hiểm
6.1. Vai trò của bảo hiểm đối với sự phát triển kinh tế.
Bảo hiểm là một trong số ba phân ngành lớn của dịch vụ tài chính,
đóng một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế; dưới đây là những vai trò
chủ yếu của bảo hiểm:
Thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, tạo lập các quỹ đầu tư. Khi
mua bảo hiểm, các cá nhân và tổ chức phải đóng cho công ty bảo hiểm
một số tiền nhất định gọi là phí bảo hiểm. Số tiền phí này được dùng để
bồi thường cho những tổn thất khi xảy ra rủi ro, nhưng khi chưa có rủi
ro xảy ra, công ty bảo hiểm được phép sử dụng khoản tiền này đem đi
đầu tư trở lại nền kinh tế. Cùng với việc huy động vốn từ các cổ đông,

công ty bảo hiểm đã thu hút được một lượng tiền rất lớn để tạo lập các
quỹ đầu tư. Kênh đầu tư thông thường và chủ yếu của các công ty bảo
hiểm là gửi tiền vào các tổ chức tín dụng, mua trái phiếu chính phủ,
ngoài ra các công ty bảo hiểm còn đầu tư kinh doanh bất động sản, ủy
thác đầu tư, góp vốn vào các doanh nghiệp khác, đầu tư vào thị trường
chứng khoán, cho vay…
Ổn định sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội. Các cá nhân, tổ chức
tham gia bảo hiểm sẽ được bồi thường tổn thất khi xảy ra rủi ro được

16
bảo hiểm. Khoản tiền bồi thường cho phép các cá nhân và hộ gia đình
khôi phục tình trạng tài chính của mình như trước khi tổn thất xảy ra.
Như vậy, họ có thể nhanh chóng ổn định tình hình tài chính của mình
mà không cần đến sự trợ cấp của Nhà nước, giúp Nhà nước giảm bớt
một phần gánh nặng phúc lợi xã hội. Đối với các doanh nghiệp, việc
bồi thường giúp doanh nghiệp nhanh chóng ổn định và tiếp tục phát
triển sản xuất, quá trình sản xuất không bị đình trệ, người lao động vẫn
tiếp tục có việc làm, Nhà nước vẫn thu được các khoản thuế từ doanh
nghiệp. Tóm lại, thông qua việc bồi thường, bảo hiểm giúp các cá nhân
và doanh nghiệp nhanh chóng phục hồi tình trạng tài chính và ổn định
đời sống, sản xuất kinh doanh.
Tạo được tâm lý an tâm trong hoạt động sản xuất và đời sống. Khi
tham gia bảo hiểm, kể cả trước khi tổn thất xảy ra, người được bảo
hiểm sẽ có được cảm giác an toàn do họ đã có sự đảm bảo chắc chắn,
được bồi thường khi xảy ra rủi ro. Chẳng hạn, khi mua bảo hiểm cho
hàng hóa của mình trong quá trình vận chuyển, chủ hàng sẽ ít phải lo
lắng hơn về tình trạng hàng hóa của họ khi có thiên tai, bão lụt xảy ra,
đe dọa đến sự an toàn của chuyến hàng. Hoặc giả khi có tổn thất do rủi
ro được bảo hiểm gây nên thì người tham gia bảo hiểm cũng không
phải hoang mang, lo lắng làm sao để nhanh chóng phục hồi lại sản

xuất, đời sống như trước kia vì họ đã có sự đảm bảo bồi thường của
công ty bảo hiểm.
Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất. Để hạn chế tổn thất, từ đó giảm số tiền
phải bồi thường, các công ty bảo hiểm rất tích cực tham gia vào các
chương trình đề phòng và hạn chế tổn thất. Các công ty bảo hiểm
thường cho lắp đặt gương cầu lồi ở các ngã tư, các đoạn đường giao
nhau, nơi dừng đỗ tàu xe ; đặt các biển báo; xây dựng các đường cứu

17
nạn trên các đoạn đường đèo nguy hiểm… để hạn chế tai nạn giao
thông. Ngoài ra, các công ty bảo hiểm còn tham gia rất tích cực vào các
hoạt động ngăn ngừa tổn thất trong hỏa hoạn, giảm các bệnh nghề
nghiệp, chống mất cắp ô tô, phòng chống nổ nồi hơi…Chính các hoạt
động này đã mang lại lợi ích rất lớn cho toàn xã hội.
Đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Hàng năm, các doanh nghiệp bảo
hiểm đóng góp một khoản tiền khá lớn vào ngân sách Nhà nước thông
qua việc đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp, giúp tăng thu cho cán
cân thanh toán quốc gia. Đồng thời, khi thực hiện bồi thường tổn thất,
bảo hiểm cũng giúp giảm chi cho cán cân thanh toán do Nhà nước
không phải chi ra các khoản trợ cấp cho các cá nhân và tổ chức khi có
tổn thất xảy ra do rủi ro được bảo hiểm gây nên.
6.2. Tác dụng của bảo hiểm
6.2.1. Đối với nền kinh tế
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia; kinh doanh bảo hiểm được coi
như một tấm lá chắn kinh tế bảo vệ cho các tổ chức cá nhân, đồng thời huy
động nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Bảo hiểm giúp nền kinh tế phát triển an
toàn, ổn định, đặc biệt là khi xảy ra rủi ro, tổn thất. Bảo hiểm giúp các cá
nhân, tổ chức nhanh chóng hồi phục lại tình trạng tài chính, tiếp tục phát triển
sản xuất thông qua việc bồi thường tổn thất mà các cá nhân, tổ tức tham gia

bảo hiểm phải gánh chịu do rủi ro được bảo hiểm gây ra. Ngoài việc bảo vệ
các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế trước những rủi ro, thảm họa không
lường trước được, bảo hiểm còn là kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh
tế. Nền kinh tế ngày càng phát triển thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh bảo hiểm phát triển, ngược lại hoạt động kinh doanh bảo
hiểm phát triển lại tạo ra tấm lá chắn an toàn bảo vệ các cá nhân tổ chức trong

18
nền kinh tế và huy động ngày càng nhiều vốn để đầu tư trở lại nền kinh tế.
Tóm lại, sự phát triển của bảo hiểm và nền kinh tế có mối liên hệ mật thiết với
nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
6.2.2. Đối với ngƣời tham gia bảo hiểm
Khi tham gia bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm sẽ có được cảm giác
yên tâm kể cả trước và sau khi rủi ro xảy ra với họ, họ sẽ chuyên tâm vào việc
sản xuất, kinh doanh hơn, không phải phân bổ một phần tinh thần và nguồn
lực cho việc lo lắng rủi ro có xảy ra với họ hay không, nếu nó xảy ra thì phải
khắc phục thế nào. Điều đó giúp cho họ kinh doanh, sản xuất hiệu quả hơn.
Nếu như rủi ro có xảy ra thì việc sản xuất kinh doanh của họ cũng sẽ không bị
đình trệ, gián đoạn lâu vì họ sẽ được các công ty bảo hiểm bồi thường một
khoản tiền để nhanh chóng khôi phục lại tình trạng tài chính như trước khi
xảy ra tổn thất, tiếp tục ổn định sản xuất kinh doanh. Thị trường bảo hiểm
ngày càng phát triển thì người tham gia bảo hiểm ngày càng được lợi. Các
công ty bảo hiểm sẽ đưa ra nhiều loại sản phẩm đa dạng và phong phú, đáp
ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội, đồng thời các công ty cạnh tranh với nhau sẽ
khiến cho người tham gia bảo hiểm được hưởng mức phí bảo hiểm thấp hơn
cùng với chất lượng dịch vụ tốt hơn.
6.2.3. Đối với các công ty bảo hiểm
Bảo hiểm chính là một kênh tập trung vốn của các công ty bảo hiểm.
Với số tiền mà khách hàng đóng vào, sẽ giúp các công ty bảo hiểm đầu tư vào
các ngành kinh doanh khác, mang lại lợi nhuận nhiều hơn, qua đó, giúp gia

tăng khả năng tài chính của công ty, đồng thời bảo đảm nguồn tiền mặt đối
với các hoạt động thường ngày của 1 công ty.

×