Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.42 KB, 74 trang )




TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH KINH DOANH QUỐC TẾ
***







KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TÊN ĐỀ TÀI:

MÔI TRƯỜNG KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH ĐỒ GỖ – THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP






Họ và tên sinh viên : Đào Xuân Minh
Lớp : Anh 5
Khoá : 44
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Trọng Hải







Hà nội, tháng 5 năm 2009

1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, việc xây dựng và thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất
công nghiệp đóng một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Chính vì vậy, để
giúp cho mỗi ngành có được điều kiện phát triển tốt nhất, việc xem xét, đánh
giá tác động của những yếu tố thuộc môi trường kinh doanh đến hoạt động
của các doanh nghiệp trong ngành là hết sức cần thiết. Điều đó không chỉ có ý
nghĩa với bản thân các doanh nghiệp sản xuất mà nó còn là cơ sở để chính
phủ cũng như các cơ quan quản lý nhà nước có những chính sách, điều chỉnh
kịp thời nhằm hỗ trợ cho ngành.
Trong một thập kỷ trở lại đây, nước ta đã chứng kiến sự vươn lên
nhanh chóng của một ngành sản xuất công nghiệp, đó là ngành sản xuất và
kinh doanh đồ gỗ. Sự gia tăng nhanh chóng của các doanh nghiệp, cùng với
việc hình thành các khu vực công nghiệp lớn chuyên sản xuất đồ gỗ trên cả
nước đã cho thấy tiềm năng phát triển và tầm quan trọng của ngành đối với
nền kinh tế đất nước. Đến thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế nước ta đang
ngày càng hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới, ngành đã trở thành một trong
những lĩnh vực xuất khẩu hàng đầu và tạo được mối quan hệ giao thương,
buôn bán trên phạm vi quốc tế. Việc chính phủ kí kết các hiệp định thương
mại và tham gia các tổ chức kinh tế càng làm cho ngành tham gia sâu hơn vào

thị trường toàn cầu. Do đó, các doanh nghiệp trong ngành ngày càng phải đối
mặt với nhiều biến động phức tạp của môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến
sự phát triển của mình. Vấn đề đặt ra hiện nay của ngành sản xuất kinh doanh
đồ gỗ nói riêng và tất cả các ngành sản xuất nói chung là những tác động từ
môi trường kinh doanh có ảnh hưởng như thế nào đến toàn ngành, bản thân
các doanh nghiệp trong ngành sẽ ứng phó ra sao đối với những biến động đó.
Mặt khác, chính phủ cần phải làm gì để trợ giúp và tạo cơ chế thuận lợi cho

2
doanh nghiệp vượt qua được khó khăn. Đó cũng chính là lý do khiến em
quyết định lựa chọn vấn đề: “Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp
sản xuất và kinh doanh đồ gỗ: Thực trạng và giải pháp” làm đề tài khoá
luận tốt nghiệp.

2. Mục đích nghiên cứu:
Thứ nhất, từ cơ sở lý luận chung về môi trường kinh doanh và các yếu
tố bên trong môi trường kinh doanh, tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng
tác động của chúng đến ngành sản xuất và kinh doanh đồ gỗ.
Thứ hai, từ sự phân tích, đánh giá thực trạng tác động của môi trường
kinh doanh đến ngành sản xuất và kinh doanh đồ gỗ, đưa ra định hướng, giải
pháp và đề xuất để cải thiện môi trường kinh doanh của ngành.
Thứ ba, đưa ra các bài học, kinh nghiệm cho các ngành sản xuất và
kinh doanh khác.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là môi trường kinh doanh, thực
trạng tác động của các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là “các doanh nghiệp sản xuất và kinh
doanh đồ gỗ”.


4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Khoá luận được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp phân
tích-tổng hợp, kết hợp với thực tiễn, đi từ cái chung đến cái riêng, từ số liệu
thống kê đến phân tích, đánh giá để đưa ra các giải pháp, đề xuất góp phần
hoàn thiện.

5. Kết cấu khoá luận:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương như sau:

3
Chƣơng I: Tổng quan về môi trƣờng kinh doanh.
Chƣơng II: Thực trạng môi trƣờng kinh doanh của các doanh nghiệp sản
xuất và kinh doanh đồ gỗ ở Việt Nam.
Chƣơng III: Một số giải pháp và đề xuất góp phần hoàn thiện môi trƣờng
kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ ở Việt
Nam.

Người viết mong muốn qua khoá luận này có thể nghiên cứu và đóng
góp ý kiến của bản thân về những vấn đề quan trọng đang được nhiều doanh
nghiệp trong ngành quan tâm. Tuy nhiên do trình độ có hạn, khóa luận này
chắc chắn không thể tránh khỏi nhiều khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến bổ sung, sửa chữa của thầy cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Trọng Hải và những người đã
giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này !

















4
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƢỜNG KINH DOANH

I. Khái niệm về môi trƣờng kinh doanh.
Môi trường kinh doanh luôn là vấn đề được các nhà quản trị doanh
nghiệp, hiệp hội ngành nghề, cơ quan quản lý nhà nước và chính phủ quan
tâm bởi nó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và của
toàn bộ nền kinh tế. Dưới góc độ nhìn nhận của các nhà quản trị, môi trường
kinh doanh được hiểu [5,83] là:
Môi trường kinh doanh là khung cảnh bao trùm lên toàn bộ hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nó bao gồm tổng thể các yếu
tố khách quan và chủ quan vận động tương tác lẫn nhau có tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
II. Các nhân tố của môi trƣờng kinh doanh và tác động của chúng đến
doanh nghiệp.
Khi xem xét đến các nhóm yếu tố của môi trường kinh doanh có ảnh
hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, cũng như đến quyết định của ban
lãnh đạo doanh nghiệp nhằm đưa ra giải pháp đối phó với những yếu tố đó,
môi trường kinh doanh được chia ra làm 2 nhóm [7,16]: Môi trường kinh
doanh bên ngoài và môi trường bên trong nội bộ doanh nghiệp.

Môi trường kinh doanh bên ngoài là những yếu tố hay lực lượng bên
ngoài doanh nghiệp có khả năng ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của doanh
nghiệp, ở đó chứa đựng hàng loạt các yếu tố khác nhau rất phức tạp. Trong đó
môi trường bên ngoài lại bao gồm hai yếu tố: môi trường vĩ mô và môi trường
vi mô hay còn gọi là môi trường ngành.
1. Môi trƣờng vĩ mô.
Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô thuộc loại yếu tố không kiểm soát
được, không lệ thuộc và không bị doanh nghiệp chi phối. Khi diễn ra sự thay
đổi, chúng thường không tác động nhanh bằng các yếu tố trong môi trường
ngành đối với doanh nghiệp. Các nhà nghiên cứu đã phân các yếu tố không

5
kiểm soát được thành những nhóm sau đây [7,17] tuỳ theo tính chất của
chúng:
1.1. Môi trường kinh tế.
Thực trạng nền kinh tế và xu hướng biến đổi trong tương lai đều ảnh
hưởng đến thành công trong các hoạt động của doanh nghiệp cũng như tác
động đến quá trình điều hành của nhà quản trị. Các yếu tố chính mà doanh
nghiệp thường phân tích là: Tốc độ tăng trưởng và tình hình chung của nền
kinh tế, thu nhập và sức mua, lãi suất và khả năng vay tín dụng, lạm phát,
chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái.
Thực vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong các giai đoạn thịnh vượng, suy
thoái hay khủng hoảng sẽ ảnh hưởng đến chi tiêu và nhu cầu tiêu dùng của người
dân, từ đó ảnh hưởng đến mức doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi nền
kinh tế đang ở giai đoạn có tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập của người tiêu dùng
tăng và công việc được đảm bảo sẽ dẫn đến sức mua trong xã hội tăng. Bởi vậy,
doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội để thu lợi, đầu tư mở rộng hoạt động. Ngược lại,
khi nền kinh tế lâm vào suy thoái, khủng hoảng dẫn đến giảm thu nhập, tỷ lệ thất
nghiệp tăng, người dân có xu hướng thắt chặt chi tiêu thì lúc này doanh nghiệp sẽ
phải đối mặt với nhiều thách thức để tồn tại. Lợi nhuận sụt giảm đồng thời còn

làm tăng mức độ cạnh tranh trong ngành. Thông thường khi nền kinh tế sa sút,
chính phủ các nước buộc phải vào cuộc để đưa ra chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
còn doanh nghiệp sẽ phải tái cơ cấu lại hoạt động và thực hiện nhiều biện pháp
kích cầu tiêu dùng như khuyến mại, hạ giá.
Bên cạnh đó, mức lãi suất cũng ảnh hưởng đến cầu cho các sản phẩm,
đến chi phí vốn của doanh nghiệp Với mức lãi suất tiết kiệm và cho vay thấp,
các doanh nghiệp có thể vay vốn với mức chi phí thấp hơn, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp phát triển. Người tiêu dùng cũng sẽ chi tiêu hay đầu tư vào các
lĩnh vực khác thay vì gửi nhiều tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Mặt khác, nếu
lãi suất cao, doanh nghiệp sẽ khó khăn trong vay vốn vì phải chịu áp lực về
mức chi phí vốn cao. Lợi nhuận của doanh nghiệp do vậy bị giảm và người

6
dân khi đó đi gửi tiền tiết kiệm nhiều hơn. Ngoài ra, mức độ khó dễ trong các
khoản vay tín dụng cũng là yếu tố ảnh hưởng đến tiêu dùng, hoạt động vay
vốn đầu tư của các doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ
thường xuyên phải đi vay vì bị hạn chế về vốn hay các doanh nghiệp có nhu
cầu vốn lớn cho đầu tư sản xuất kinh doanh thì mọi biến động trong lãi suất
và khả năng vay tín dụng đều có thể ảnh hưởng mạnh đến những doanh
nghiệp này. Đặc biệt cả các mặt hàng có nhu cầu lớn, có mức độ nhạy cảm
cao đối với thu nhập và giá cũng chịu tác động. Cụ thể là khi ngân hàng tiến
hành giảm thiểu các điều kiện và tiêu chuẩn cho vay, mở rộng các khoản vay
ưu đãi dành cho khách hàng khi mua một mặt hàng nào đó, cầu đối với mặt
hàng này tất yếu có xu hướng tăng lên dẫn đến việc đẩy giá mặt hàng này tăng
lên. Điều này cũng hoàn toàn tương tự đối với doanh nghiệp, khi đó doanh
nghiệp sẽ đi vay để đầu tư nhiều hơn cho lĩnh vực được ưu đãi. Trái lại, nếu
ngân hàng siết chặt các khoản vay và đẩy mạnh việc thu hồi, người đi vay bao
gồm cả người tiêu dùng lẫn doanh nghiệp lúc này sẽ buộc phải nhanh chóng
tìm cách đẩy nhanh quá trình thu hồi vốn nếu như họ không còn đủ tiền để trả
nợ ngân hàng . Do đó, họ sẽ phải tìm cách bán nhanh các mặt hàng, đối tượng

mà mình đã mua hoặc đầu tư dẫn đến giá mặt hàng có xu hướng sụt giảm.
Lạm phát và vấn đề chống lạm phát cũng là một yếu tố quan trọng
khác cần xem xét và phân tích. Nếu để tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế cao,
doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn. Thứ nhất, giá cả hàng hoá
tăng khiến cho sức mua và nhu cầu tiêu dùng đối với các hàng hoá giảm. Thứ
hai là chi phí đầu vào và chi phí hoạt động của doanh nghiệp cũng tăng.
Chính hai điều này khiến cho doanh thu và lợi nhuận doanh nghiệp giảm.
Thêm vào đó, các dự án đầu tư lúc này cũng trở nên mạo hiểm hơn, rốt cuộc
là các doanh nghiệp sẽ giảm nhiệt tình đầu tư phát triển sản xuất và thậm chí
buộc phải tạm ngừng các dự án đầu tư đó. Không những vây, bản thân nhà
nước cũng sẽ phải vào cuộc, đề ra các biện pháp nhằm kiểm soát chặt chẽ giá
cả và kiềm chế lạm phát. Trên thực tế, tại một số nơi trên thế giới, việc kiểm

7
soát giá cả đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính phủ, lạm phát cao khiến
cho doanh nghiệp không thể kinh doanh thuận lợi và thu được mức lợi nhuận
mong muốn trước sự sụt giảm trong tiêu dùng. Tóm lại, lạm phát cao là mối
đe doạ của doanh nghiệp.
Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái cũng có thể tạo ra cơ hội hoặc nguy
cơ cho doanh nghiệp. Về mặt lý thuyết, tỷ giá hối đoái là sự so sánh về giá trị
giữa đồng tiền trong nước với đồng tiền của các quốc gia khác. Giá trị của đồng
nội tệ giảm sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Doanh nghiệp xuất
khẩu có cơ hội tăng lợi nhuận còn doanh nghiệp nhập khẩu phải chịu chi phí đầu
vào cao hơn . Ngược lại, giá trị đồng nội tệ tăng sẽ hạn chế xuất khẩu và khuyến
khích nhập khẩu. Lúc này, lợi nhuận thu đuợc từ hoạt động xuất khẩu giảm, các
doanh nghiệp nhập khẩu cũng như nước ngoài lại được lợi.
1.2. Môi trường chính trị, pháp luật .
Hoạt động kinh doanh và quyết định của ban lãnh đạo doanh nghiệp
cũng chịu tác động mạnh mẽ của những diễn biến trong môi trường chính trị,
pháp luật. Trong đó, chính phủ, cơ quan quản lý chuyên ngành đóng vai trò

chính trong việc tạo ra những diễn biến trong môi trường này. Họ có ảnh
hưởng đến những gì mà mà các tổ chức có thể và không thể làm. Khi sản xuất
càng phát triển, sự can thiệp của chính phủ, cơ quan quản lý tăng dần theo
thời gian. Tác động đem lại có thể là cơ hội, trở ngại thậm chí là rủi ro cho
doanh nghiệp. Những tác động này được thể hiện qua: sự ổn định về mặt
chính trị, chính sách thương mại và chính sách phát triển của chính phủ, hệ
thống pháp luật điều chỉnh.
Sự ổn định về chính trị trong hay ngoài nước (nơi doanh nghiệp hoạt
động) là một trong những yếu tố thu hút đầu tư từ nước ngoài.
Thêm vào đó, các chính sách thương mại, chính sách phát triển kinh
tế xã hội của chính phủ còn cho thấy rõ được chiến lược, thái độ quan điểm
của chính phủ đối với từng ngành liên quan. Căn cứ vào những chính sách
này, doanh nghiệp và nhà đầu tư có thể biết đươc những định hướng phát

8
triển, những ưu tiên, khuyến khích cũng như hạn chế của chính phủ đối với
ngành để có những kế hoạch, bước đi, điều chỉnh sao cho phù hợp.
Nếu như 2 yếu tố trên đóng vai trò đánh giá mức độ thuận lợi và những
định hướng cho từng ngành thì hệ thống pháp luật lại là yếu tố chính điều chỉnh
hoạt động của doanh nghiệp trong ngành. Qua nhiều năm, hàng loạt đạo luật
được ban hành ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống pháp
luật được xây dựng và hoàn thiện là cơ sở để quản lý, điều tiết hoạt động của
doanh nghiệp, đáp ứng kịp thời và giải quyết những mối quan hệ mới phát sinh
từ đó tạo môi trường kinh doanh ổn định, công bằng, thuận lợi cho doanh
nghiệp. Hiện nay, các điều luật, các quy định, chính sách, văn bản pháp quy của
chính phủ và cơ quan quan lý luôn hướng tới việc đảm bảo lợi ích của cả 3 đối
tượng: doanh nghiệp, người tiêu dùng và xã hội. Có thể kể đến một số đạo luật
như: luật doanh nghiệp, luật cạnh tranh, luật thương mại, luật đầu tư, luật lao
động, luật thuế, luật bảo vệ người tiêu dùng, luật bảo vệ môi trường.
1.3. Môi trường văn hoá xã hội.

Xã hội mà mỗi người lớn lên trong đó đều đã định hình niềm tin cơ
bản, chuẩn mực và giá trị nhất định. Vì vậy, xem xét đến yếu tố văn hoá xã
hội là xem xét đến những chuẩn mực và giá trị được chấp nhận và tôn trọng
trong một xã hội hoặc trong một nền văn hoá cụ thể. Những chuẩn mực, giá
trị này được thể hiện qua:
+ Quan niệm về đạo đức, lối sống, thẩm mỹ, nghề nghiệp.
+ Phong tục, tập quán, tín ngưỡng, truyền thống, phong cách sống.
+ Trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội.
Các yếu tố này tác động đến nhu cầu, thị hiếu và nhận thức của người
tiêu dùng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chúng còn ảnh
hưởng đến hoạt động quản trị và chính sách nhân sự trong doanh nghiệp
Trong số các chuẩn mực và giá trị đó, có những chuẩn mực và giá trị
rất bền vững khó thay đổi nhưng có những chuẩn mực và giá trị biến đổi theo
thời gian. Bởi vậy, các doanh nghiệp khi đưa ra các sản phẩm, chiến lược hay

9
kế hoạch marketing cần lưu ý cả đến những giá trị chuẩn mực không thay đổi
đó để có được sự phù hợp trong các mối quan hệ và trong việc đáp ứng nhu
cầu với khách hàng. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần hết sức quan tâm
đến việc theo sát, phát hiện những biến đổi về văn hoá xã hội để có thể dự
báo, đáp ứng kịp thời những xu hướng mới trong tiêu dùng. Thị hiếu và trình
độ dân trí ngày càng cao là điều kiện kiên quyết buộc các doanh nghiệp đổi
mới, cải tiến sản phẩm.
1.4. Môi trường công nghệ.
Trong môi trường vĩ mô, các yếu tố công nghệ có sự thay đổi nhanh
nhất trong những năm qua. Con người đang sống trong một môi trường có
công nghệ không ngừng thay đổi. Chính công nghệ là lực lượng quan trọng
nhất định hình và thay đổi cuộc sống của con người. Trong kinh doanh, công
nghệ đã làm thay đổi nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ, tác động đến chất lượng
và giá thành sản phẩm, vòng đời sản phẩm, mở ra nhiều lĩnh vực mới và làm

mất đi lĩnh vực khác, đồng thời còn làm thay đổi cách thức quản lý, tổ chức
của doanh nghiệp. Những gì mà công nghệ đem lại vì vậy tạo ra cả cơ hội lẫn
thách thức cho doanh nghiệp.
+ Về mặt cơ hội, công nghệ mới làm cho năng suất cao hơn, giúp sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sản xuất ra với chất lượng tốt hơn, hoàn thiện
hơn, nhiều tính năng hơn từ đó tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Doanh
nghiệp ngoài ra có thể thâm nhập, mở rộng hoạt động sang các thị trường sản
phẩm dịch vụ mới. Không những vậy, bộ máy của doanh nghiệp sẽ trở nên
nhanh, gọn, giảm thiểu tối đa thời gian chi phí trong quá trình tác nghiệp.
+ Về mặt thách thức, công nghệ buộc các doanh nghiệp phải đổi mới
thường xuyên để có thể cạnh tranh trong môi trường mà các sản phẩm truyền
thống đang lưu hành luôn gặp phải sự đe doạ từ những sản phẩm thay thế. Vì
thế, nó làm tăng thêm áp lực rút ngắn thời gian khấu hao công nghệ và vòng
đời sản phẩm so với trước.

10
Các nhà quản lý doanh nghiệp luôn cần theo dõi chặt chẽ sự thay đổi
trong công nghệ và cả những quy định liên quan đến công nghệ định áp dụng.
Đối với họ, thách thức không chỉ là về mặt kỹ thuật, mà là cả về mặt thương mại,
pháp lý tức là phải lựa chọn, phát triển được những phương án vừa túi tiền cho
các sản phẩm đó, đồng thời đảm bảo phù hợp với quy định của chính phủ. Tóm
lại là họ phải có sự đánh giá chính xác, nắm kỹ những quy định này khi đề xuất,
phát triển và tung ra những sản phẩm mới hay sử dụng những công nghệ mới.
1.5. Môi trường tự nhiên.
Kinh tế ngày càng phát triển, hoạt động sản xuất tăng nhanh kéo theo
những vấn đề nảy sinh về môi trường tự nhiên. Ngày nay, môi trường tự nhiên
đang dần trở nên xấu đi và việc bảo vệ môi trường tự nhiên đã trở thành vấn đề
được đặc biệt quan trọng đặt ra trước các doanh nghiệp và công chúng. Môi
trường tự nhiên bao gồm các yếu tố như: vị trí địa lý, nguồn tài nguyên, khí hậu ,
đất đai. Tại những nơi có dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, đánh giá mức độ ảnh

hưởng của dự án đầu tư đến những yếu tố trên và tiến hành hoạt động kiểm tra,
giám sát trở thành điều kiện bắt buộc trong việc cấp phép đầu tư.
Theo giáo sư Philip Kotler [3,112], các doanh nghiệp cần nhạy bén
đối với những mối nguy cơ và cơ hội gắn liền với bốn xu hướng sau trong
môi trường tự nhiên:
+ Thứ nhất, đó là sự thiếu hụt về mặt nguyên nhiên liệu. Hiện nay,
những nguồn tài nguyên trên trái đất có loại vô hạn, loại hữu hạn, có thể tái
tạo được hoặc không thể tái tạo được. Đối với những loại tài nguyên hữu hạn
và tái tạo được cần khai thác và có chính sách tái tạo một cách hợp lý để vừa
có thể đáp ứng đủ nhu cầu xã hội, vừa có đủ lượng tài nguyên mới để tiếp tục
khai thác khi nguồn tài nguyên cũ dùng hết. Đối với những nguồn tài nguyên
hữu hạn nhưng không tái tạo được, vấn đề nghiêm trọng được đặt ra khi
chúng trở nên cạn kiệt. Vì vậy, các công ty buộc phải đầu tư vào nghiên cứu
và phát triển để tạo ra những sản phẩm sử dụng nguồn nguyên nhiên liệu mới
thay thế với hiệu suất cao.

11
+ Thứ hai, chi phí năng lượng ngày càng gia tăng. Vấn đề này diễn ra
với nguồn năng lượng thuộc nhóm tài nguyên hữu hạn, không thể tái tạo được
+ Thứ ba, mức độ ô nhiễm môi trường tăng. Trong đó, công nghiệp là
hoạt động ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên nhiều nhất Vấn đề xử lý môi
trường đã tạo ra một thị trường lớn cho các tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh
các giải pháp kiểm soát ô nhiễm. Đồng thời, nó còn dẫn đến nhu cầu trong
việc tạo ra và sử dụng các công nghệ sạch, nguồn năng lượng sạch.
+ Thứ tư, đó là sự thay đổi vai trò của các chính phủ trong việc bảo vệ
môi trường. Các chính phủ giờ đây đều coi trọng và kiểm soát chặt chẽ vấn đề
môi trường. Tuy nhiên, các chính phủ lại có mức độ quan tâm và nỗ lực khác
nhau trong việc bảo vệ môi trường. Điều này được thể hiện qua những chính
sách, điều luật, quy định mà họ ban hành.
Chính vì lý do trên, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

cũng như các chính sách đẩy mạnh phát triển của chính phủ đối với từng
ngành cần đáp ứng các yêu cầu sau:
+ Ưu tiên phát triển các hoạt động khai thác tốt điều kiện tự nhiên
trên cơ sở duy trì, tái tạo.
+ Tiết kiệm và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, chuyển dần từ
tài nguyên không thể tái sinh sang sử dụng vật liệu nhân tạo.
+ Đẩy mạnh việc nghiên cứu và phát triển công nghệ để bảo vệ môi
trường, giảm thiểu tối đa tác động gây ô nhiễm.
1.6. Toàn cầu hoá.
Toàn cầu hóa là xu hướng quốc tế hoá trên mọi lĩnh vực của đời sống.
Toàn cầu hoá đã, đang và sẽ là một xu hướng tất yếu mà mọi doanh nghiệp,
mọi ngành, mọi chính phủ phải tính đến. Hoạt động của con người lúc này
không còn bị giới hạn bởi biên giới quốc gia và ngày càng trải rộng ra toàn
thế giới với một tốc độ ngày càng cao trên tất cả mọi lĩnh vực. Điều đó làm
cho nền kinh tế thế giới trở thành một chỉnh thể thống nhất trong đó mỗi quốc

12
gia là một bộ phận, giữa chúng có sự liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau cũng như
gắn kết hay xung đột về mặt lợi ích.
Quá trình quốc tế hoá diễn ra ở những cấp độ khác nhau với xu hướng
khu vực hoá. Trong đó nhất thể hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ và được tăng
cường với sự nương tựa, hợp tác với nhau ngày càng nhiều giữa các quốc gia.
Xu hưóng khu vực hoá thể hiện ở việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực
với các hình thức đa dạng ví dụ như: Liên minh Châu Âu (EU), Khu vực mậu
dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Tổ chức diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái
Bình Dương (APEC), Hiệp hội quốc gia Đông Nam Á Xu hướng quốc tế
hoá đặt ra yêu cầu tất yếu là mỗi quốc gia cần phải mở cửa ra thị trường thế
giới và chủ động tham gia vào phân công lao động quốc tế và khu vực để có
được khuôn khổ phù hợp cho sự phát triển. Thông qua những liên kết kinh tế
khu vực đó, các quốc gia tiến dần tới việc hạ thấp hoặc xoá bỏ các rào cản

thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi, ưu đãi để thúc đẩy phát triển kinh tế
và quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước. Chính điều này đã làm thay đổi và
đem lại tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trước tiên, doanh nghiệp có cơ hội đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng
hóa, tiếp cận và mở rộng thị trường nhờ các quy chế ưu đãi cũng như những
thoả thuận mà các quốc gia trong cùng một liên kết kinh tế cam kết dành cho
nhau thông qua hiệp định được kí kết.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn có cơ hội học tập, tiếp thu công nghệ
tiên tiến, kinh nghiệm quản lý.
Tuy nhiên, thị trường mở cửa và rào cản thương mại giảm đồng thời cũng
là thách thức lớn đối với doanh nghiệp vì sức ép cạnh tranh sẽ tăng lên. Thêm vào
đó, doanh nghiệp cũng phải đối mặt với nhiều yếu tố rủi ro và bất định hơn do môi
trường kinh doanh giữa các nước lúc này trở nên liên thông có tác động qua lại và
ảnh hưởng lẫn nhau và cũng bởi sự phụ thuộc về mặt lợi ích trong quan hệ kinh
doanh buôn bán. Đặc biệt, doanh nghiệp ở các nước đang phát triển vốn phụ thuộc
vào xuất khẩu sẽ còn phải đối mặt với nhiều rào cản kỹ thuật, các vụ kiện pháp lý từ

13
phía các nước phát triển để nhằm mục đích bảo hộ sản xuất trong nước.
2. Môi trƣờng ngành:
Một ngành kinh doanh là tập hợp các doanh nghiệp cùng cung cấp các
sản phẩm dịch vụ có thể thay thế được cho nhau nhằm thoả mãn một nhu cầu
nào đó của người tiêu dùng [5,86]. Nếu như môi trường vĩ mô có ảnh hưởng
chung tới nhiều ngành kinh doanh khác nhau thì môi trường ngành lại có ảnh
hưởng trực tiếp và ngay lập tức tới từng doanh nghiệp trong ngành, tới các
quyết định của nhà quản lý doanh nghiệp và khả năng thực hiện mục tiêu của
doanh nghiệp [9,92]. Những yếu tố tạo nên môi trường ngành đó là: khách
hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn, sản phẩm thay thế.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý một điều là các doanh nghiệp trong cùng một lĩnh
vực sản phẩm, dịch vụ vẫn có thể có môi trường ngành khác nhau do hoạt

động trong các ngách thị trường khác nhau.
Mô hình 5 áp lực cạnh tranh [5,84] được giáo sư M.Porter xây dựng
dựa vào 5 yếu tố: khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh hiện tại, đối
thủ cạnh tranh tiềm ẩn, sản phẩm thay thế đã đem lại một sự phân tích, đánh
giá tổng quát về ảnh hưởng của chúng đến doanh nghiệp.
Một điều hiển nhiên là áp lực của mỗi yếu tố trong số 5 yếu tố trên
càng mạnh thì càng hạn chế cho doanh nghiệp trong việc áp đặt giá, khả năng
kiếm được lợi nhuận và ngược lại.
Mô hình 1.1. Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của M. Porter.






Nguồn: PGS, TS Lê Văn Tân (2000), Giáo trình “Quản trị chiến lược”,
Nhà xuất bản Thống Kê, trang 84.

14
2.1. Khách hàng.
Các doanh nghiệp tồn tại để đáp ứng nhu cầu của khách hàng hay thị
trường tiêu thụ. Họ là người tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp. Khách hàng có
thể là cá nhân, tổ chức, chính phủ nhưng nếu xét dưới góc độ quy trình của
hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, khách hàng của doanh nghiệp lại
bao gồm người tiêu dùng cuối cùng, các nhà phân phối (đại lý, nhà bán buôn,
bán lẻ) và các doanh nghiệp khác (nếu yếu tố đầu ra của doanh nghiệp này là
yếu tố đầu vào của doanh nghiệp kia).
Trong quan hệ mua bán, khách hàng có thể gây sức ép thông qua khả
năng đàm phán đối với doanh nghiệp về mặt giá cả và chất lượng, và một vài
yếu tố khác như điều kiện giao hàng, điều kiện thanh toán qua đó làm ảnh

hưởng đến khả năng tìm kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp. Thêm vào đó, thị
hiếu cũng như nhu cầu của khách hàng luôn thay đổi. Rõ ràng, khách hàng là
yếu tố bất định đối với doanh nghiệp.
Trong một ngành, nếu áp lực từ phía khách hàng cao thì mức độ cạnh
tranh tăng lên tạo nguy cơ cho các doanh nghiệp hiện tại và ngược lại. Đánh
giá quyền lực đàm phán và khả năng tạo áp lực của khách hàng, giáo sư
M.Porter đưa ra các tiêu chí như [5,85]: số lượng khách hàng, tầm quan trọng
của khách hàng (thể hiện qua % doanh thu), chi phí chuyển đổi khách hàng.
Cụ thể là áp lực của khách hàng tăng lên khi:
+ Ngành cung cấp gồm nhiều doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
Trong khi đó, số lượng người mua ít và có quy mô lớn. Điều này cho phép
người mua chi phối các công ty cung cấp.
+ Khách hàng mua số lượng lớn. Trong hoàn cảnh này, người mua có
thể sử dụng như một ưu thế để mặc cả giảm giá. Điều này cũng tương tự khi
doanh nghiệp trong ngành phụ thuộc vào một khách hàng quan trọng nào đó
bởi số đơn đặt hàng của khách hàng này luôn chiếm tỷ lệ lớn trong % doanh
thu của doanh nghiệp.
+ Người mua có thể thay đổi nhà cung cấp cũ với mức chi phí thấp.

15
+ Đối với khách hàng là doanh nghiệp sản xuất cần mua các yếu tố
đầu vào từ doanh nghiệp khác. Áp lực cũng sẽ tăng lên nếu như khách hàng
có xu hướng khép kín sản xuất, có thể tự sản xuất gia công các bộ phận, chi
tiết, yếu tố đầu vào thay vì mua từ doanh nghiệp khác.
2.2. Nhà cung cấp.
Khi nói đến nhà cung cấp, chúng ta nghĩ ngay đến những doanh
nghiệp hay những người chuyên cung ứng các yếu tố đầu vào cho doanh
ngiệp như: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, vốn, lao động.
Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp, yêu cầu đặt ra chính là việc
tìm kiếm và đảm bảo cho doanh nghiệp của mình có được nguồn cung cấp

đầu vào ổn định với một mức chi phí hợp lý hay giá thấp nhất có thể.
Hoạt động doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng ngay khi những yếu tố đầu
vào này mang tính bất trắc- tức là nếu chúng không sẵn có hay bị trì hoãn thì
có thể sẽ giảm hiệu quả của doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất, kinh doanh
lúc đó sẽ bị ngưng trệ, kéo dài thời gian so với dự kiến và khiến doanh nghiệp
phát sinh thêm chi phí. Qua đó làm giảm khả năng kiếm lợi nhuận của doanh
nghiệp. Tình huống đó luôn là mối đe doạ tiềm ẩn, tạo áp lực cho doanh
nghiệp đặc biệt là với những doanh nghiệp bị phụ thuộc. Trên thực tế, áp lực
từ phía nhà cung cấp sẽ được tạo ra trong các trường hợp [5,86] sau:
+ Ngành chỉ có một số ít các nhà cung cấp thậm chí có một doanh
nghiệp độc quyền trong việc cung ứng.
+ Sản phẩm của nhà cung cấp có rất ít sản phẩm thay thế và là yếu tố
đầu vào quan trọng đối với doanh nghiệp.
+ Sản phẩm của nhà cung cấp có tính khác biệt hoá cao, tạo lợi thế
cho doanh nghiệp và được đánh giá cao bởi khách hàng.
+ Doanh nghiệp mua yếu tố đầu vào không phải là khách hàng quan
trọng và ưu tiên của nhà cung cấp.
+ Chi phí chuyển đổi nhà cung cấp đối với doanh nghiệp quá lớn.
2.3. Đối thủ cạnh tranh hiện tại.

16
Với mỗi doanh nghiệp, đối thủ cạnh tranh là những doanh nghiệp
cung cấp sản phẩm dịch vụ thoả mãn cùng loại nhu cầu, cùng một thị trường
[5,85]. Ngày nay, doanh nghiệp cạnh tranh trên nhiều phương diện, tạo sức ép
lẫn nhau thông qua giá, các dịch vụ đi kèm, tính năng sản phẩm và việc phát
triển sản phẩm mới.
Để đánh giá mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một
ngành, M.Porter đưa ra 3 nội dung sau, bao gồm: cơ cấu ngành, nhu cầu
ngành và rào cản rút lui khỏi ngành.
+ Về vấn đề cơ cấu ngành. Trước hết, cơ cấu ngành là sự phân bổ về

số lượng các doanh nghiệp có quy mô khác nhau trong cùng 1 ngành sản xuất
kinh doanh. Cơ cấu ngành dựa vào khả năng phân phối, đáp ứng nhu cầu sản
phẩm của doanh nghiệp. Cơ cấu ngành khác nhau tạo ra sự cạnh tranh khác
nhau. Cơ cấu ngành thay đổi từ ngành phân tán cho tới ngành tập trung.
Đối với ngành phân tán, ngành này bao gồm một số lượng lớn các
doanh nghiệp, các doanh nghiệp này có quy mô vừa và nhỏ, hoạt động riêng
lẻ, độc lập với nhau và trong đó không có doanh nghiệp nào giữ vai trò chi
phối toàn ngành. Bởi vậy, mức độ cạnh tranh thường cao và cạnh tranh mạnh
về giá.
Đối với ngành tập trung, ngành này lại chỉ bao gồm một số ít các
doanh nghiệp, các doanh nghiệp này thường có quy mô lớn thậm chí có một
doanh nghiệp duy nhất giữ vai trò chi phối toàn ngành. Điều này khiến cho
mức độ cạnh tranh trở nên không rõ nét, khó phân tích dự đoán, các doanh
nghiệp có xu hướng theo nhau.
+ Nhu cầu ngành là một yếu tố khác quyết định đến mức độ cạnh
tranh trong nội bộ ngành. Thông thường, nhu cầu ngành tăng cao tạo cho
doanh nghiệp một cơ hội lớn để mở rộng thị trường. Tuy nhiên, nó cũng ẩn
chứa nguy cơ bởi sự hấp dẫn của ngành là nguyên nhân khiến cho nhiều đối
thủ mới muốn gia nhập ngành. Ngược lại, khi nhu cầu ngành giảm sẽ dẫn đến
sự cạnh tranh khốc liệt để các doanh nghiệp chiếm giữ thị phần. Lúc đó, nguy

17
cơ mất thị trường là điều các doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh
phải đối mặt.
+ Rào cản rút lui là yếu tố cuối cùng ảnh hưởng tới mức độ cạnh
tranh. Nó đem lại nguy cơ cho doanh nghiệp khi cầu của ngành giảm mạnh.
Rào cản rút lui cao, doanh nghiệp có thể bị bó buộc trong một ngành sản xuất
khiến cạnh tranh tăng lên. Rào cản rút lui khỏi ngành bao gồm:
Chi phí đầu tư về tài sản cố định, đào tạo, xây dựng kênh phân phối
và các chi phí khác. Trong đó, tài sản cố định khó thay đổi hoặc khó bán lại

được theo giá trị thực tế. Nếu rút khỏi ngành, doanh nghiệp buộc phải bỏ phí
những giá trị còn lại của những tài sản này cũng như kinh phí đã dùng cho
đào tạo, xây dựng kênh phân phối. Đó là chưa kể các khoản phí khác như chi
phí sa thải nhân công trong trường hợp cắt giảm và không sử dụng lao động
trong lĩnh vực đó nữa.
Ràng buộc về mặt pháp lý và ràng buộc về chiến lược, ví dụ như vấn
đề thủ tục hành chính phát sinh khi doanh nghiệp rút khỏi ngành, vấn đề quan
hệ chiến lược giữa các đơn vị kinh doanh khi một sản phẩm, dịch vụ có cùng
kênh phân phối hoặc cùng các phương tiện sản xuất với các sản phẩm khác.
Yếu tố tâm lý như giá trị, uy tín của nhà lãnh đạo, quan hệ với ngành
hoặc địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động và sẽ ảnh hưởng đến doanh
nghiệp nếu rời bỏ ngành.
2.4. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.
Bên cạnh việc phân tích, đánh giá đối thủ cạnh tranh hiện tại, doanh nghiệp
cũng cần lưu ý với mối đe doạ từ các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Đó là các doanh
nghiệp hiện tại chưa hoạt động trong cùng một ngành sản xuất kinh doanh nhưng có
khả năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và quyết định gia nhập ngành [5,87].
Sức hấp dẫn của ngành là yếu tố chính quyết định sự tham gia của đối
thủ tiềm ẩn. Nó xuất phát từ triển vọng cũng như thực trạng phát triển của
ngành. Nếu ngành có tốc độ phát triển cao, đem lại lợi nhuận lớn thì sẽ có
thêm nhiều doanh nghiệp muốn gia nhập ngành. Tuy nhiên, việc có thêm đối

18
thủ là điều mà các doanh nghiệp hiện tại không mong muốn. Họ luôn cố gắng
ngăn cản các đối thủ tiềm ẩn muốn gia nhập bởi càng có nhiều doanh nghiệp
trong ngành thì cạnh tranh càng trở nên khốc liệt hơn.
Mức độ thuận lợi và khó khăn cho việc gia nhập ngành của đối thủ
cạnh tranh tiềm ẩn phụ thuộc phần lớn vào rào cản gia nhập ngành. Xét về
mặt chi phí thì rào cản gia nhập chính là chi phí tối thiểu mà một doanh
nghiệp phải bỏ ra khi tiến hành hoạt động kinh doanh trong một ngành nào

đó. Nếu rào cản gia nhập ngành càng cao thì sẽ là cơ hội cho các doanh
nghiệp hiện tại trong ngành và cản trở đối thủ tiềm ẩn. Ngược lại, nếu rào cản
gia nhập thấp thì sẽ tạo điều kiện cho các đối thủ ngoài ngành gia nhập.
Có nhiều loại rào cản gia nhập ngành, với mỗi tiêu chí phân loại khác
nhau sẽ có những loại rào cản khác nhau. Căn cứ vào nguồn của rào cản, đối
thủ tiềm ẩn phải đối mặt với các loại rào cản gồm có:
+ Lợi thế kinh tế theo quy mô: Đây là sự giảm chi phí trên một đơn vị
sản phẩm khi khối lượng sản phẩm sản xuất hoặc kinh doanh tăng lên trong
một khoảng thời gian nhất định. Khi doanh nghiệp trong ngành có lợi thế theo
quy mô cao dẫn đến lợi thế về chi phí thì đó sẽ là rào cản với đối thủ.
+ Lợi thế chi phí tuyệt đối nhờ sự vượt trội về kỹ thuật sản xuất thông
qua công nghệ sử dụng, khả năng làm chủ công nghệ tốt, đội ngũ nhân lực có
tay nghề và kinh nghiệm cao sử dụng hiệu quả nguồn nguyên vật liệu đầu
vào.
+ Sự khác biệt hoá của sản phẩm và sự trung thành của khách hàng.
Sự khác biệt hoá càng cao, đối thủ càng khó gia nhập bởi chi phí cho một
chiến lược khác biệt hoá thường cao và mạo hiểm. Hơn nữa, việc khách hàng
đã quá quen với hình ảnh, nhãn hiệu của doanh nghiệp hiện tại cũng tạo ra
khó khăn cho đối thủ tiềm ẩn.
+ Yêu cầu về vốn đầu tư ban đầu: Vốn đòi hỏi lớn là cản trở cho
doanh nghiệp.

19
+ Khả năng tiếp cận kênh phân phối. Nếu khả năng tiếp cận đối với
doanh nghiệp muốn gia nhập là cao thì rào cản trong ngành sẽ giảm, nhưng
nếu kênh phân phối chủ yếu đã được thiết lập giữa các doanh nghiệp hiện tại
thì đó lại là vật cản đối với doanh nghiệp muốn nhảy vào.
+ Chi phí chuyển đổi nhà cung cấp của người mua. Chi phí này càng
cao thì càng khó cho đối thủ tiềm ẩn.
+ Các loại rào cản khác như chi phí phải bỏ ra để có được bí quyết kỹ

thuật, bản quyền, phát minh sáng chế, rào cản trong khả năng tiếp cận nguồn
nguyên vật liệu, các quy định của chính phủ liên quan đến việc cho phép hoặc
hạn chế sự gia nhập ngành.
Ngoài ra, nếu căn cứ vào đặc điểm của rào cản, ta lại có thể phân
thành rào cản tài chính, rào cản công nghệ, rào cản thương mại.
2.5 Sản phẩm thay thế.
Sản phẩm thay thế là các sản phẩm khác có khả năng đáp ứng cùng
một loại nhu cầu của khách hàng như các sản phẩm của doanh nghiệp [5,88].
Sản phẩm thay thế có thể gây ra áp lực cho các doanh nghiệp hiện tại
ở các khía cạnh:
+ Buộc doanh nghiệp có sự điều chỉnh về mặt giá cả.
+ Doanh nghiệp luôn phải cải tiến tính năng, công dụng, mẫu mã hay
đổi mới sản phẩm để duy trì và tăng khả năng cạnh tranh.
+ Doanh nghiệp phải phân tích, theo dõi thường xuyên sự tiến bộ của
kỹ thuật công nghệ vốn liên quan trực tiếp đến sản phẩm cộng với sự thay đổi
của nhu cầu thị trường, xu thế tiêu dùng.
3. Môi trƣờng nội bộ doanh nghiệp.
Môi trường nội bộ là bối cảnh bên trong doanh nghiệp. Ở đây chứa
đựng những yếu tố có thể kiểm soát được hay có thể nói là chứa đựng những
yếu tố chủ quan của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể điều chỉnh được để
quản lý và đẩy mạnh hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình [7,16]. Những
nhân tố kiểm soát được đồng thời đóng vai trò là các bộ phận chức năng trong

20
doanh nghiệp có thể kể ra là: Marketing, tài chính kế toán, sản xuất, nghiên
cứu và phát triển, đội ngũ nhân lực.
3.1. Hoạt động Marketing.
Để đánh giá hoạt động Marketing trong doanh nghiệp, các vấn đề
chính cần tập trung bao gồm việc phân tích và nghiên cứu thị trường, các
chính sách marketing của doanh nghiệp với 4 vấn đề: sản phẩm, vấn đề định

giá, vấn đề phân phối và các hoạt động xúc tiến thương mại. Thông qua đó, ta
có thể thấy được bức tranh tổng quan về tình hình hoạt động Marketing trong
doanh nghiệp cũng như hiệu quả mà chúng đem lại cho doanh nghiệp.
Đối với hoạt động nghiên cứu thị thị trường, bộ phận Marketing phải
đảm bảo đem lại những thông tin chính xác, kịp thời về sự phát triển, những biến
động của thị trường. Đó là những thông tin về khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ
cạnh tranh. Chất lượng trong thông tin được điều tra, báo cáo sẽ ảnh hưởng lớn
đến các quyết định sau này cũng như các kế hoạch của doanh nghiệp.
Đối với chính sách sản phẩm, trước và sau khi đưa ra thị trường,
doanh nghiệp cần phải đảm bảo và có được những đánh giá của khách hàng
về chất lượng sản phẩm của mình để xem chúng có thực sự hữu ích, đa dạng,
mới mẻ đối với khách hàng và được khách hàng yêu thích hay không. Điều
này ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh, doanh thu, uy tín, thương hiệu của
doanh nghiệp. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, khả năng
dự báo được nhu cầu trong tương lai đối với sản phẩm, đưa ra được ý tưởng,
giải pháp để cải tiến hay tạo ra sản phẩm mới, thử nghiệm sản phẩm mới của
doanh nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng.
Đối với vấn đề giá cả, việc định giá cho sản phẩm cần phải phù hợp
với các chính sách, mục tiêu, thị trường mà doanh nghiệp hướng tới. Quan
trọng nhất là mức giá đó đảm bảo khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Mặt
khác, thị trường tiêu thụ luôn đa dạng, biến đổi và chịu ảnh hưởng bởi nhiều
nhân tố. Thị trường ở hoàn cảnh khác nhau sẽ chấp nhận mức giá khác nhau.

21
Bởi vậy, khi phân loại sẽ có khá nhiều kiểu giá được doanh nghiệp áp dụng để
phù hợp với tình hình như:
+ Giá hớt váng: đây là mức giá được doanh nghiệp đưa cao ngay từ
đầu nhằm mục đích thu hồi vốn, tập trung vào đối tượng khách hàng có thu
nhập cao.
+ Giá thâm nhập: mức giá đưa ra nhằm giành thị phần, chiếm lĩnh thị

trường, cụ thể là đưa giá thấp ngay từ đầu so với đối thủ cạnh tranh.
+ Ngoài ra, còn có các loại giá khác như giá theo mùa, theo vùng,
theo đối tượng khách hàng.
Đối với hoạt động phân phối, doanh nghiệp phải lựa chọn được hình
thức phân phối, kênh phân phối, chiến lược phân phối sao cho hiệu quả. Có
thể là phân phối trực tiếp hay gián tiếp, phân phối độc quyền, chọn lọc hay tập
trung. Tất cả đều tuỳ thuộc vào khả năng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
doanh nghiệp cũng cần đặc biệt quan tâm đến quan hệ đối với các đối tượng
đóng vai trò làm kênh phân phối, đội ngũ bán hàng trong các kênh phân phối
và cả hoạt động kiểm soát các kênh phân phối. Nếu như quan hệ với các kênh
phân phối ảnh hưởng đến việc duy trì, phát triển mạng lưới phân phối thì đội
ngũ bán hàng và hoạt động kiểm soát lại ảnh hưởng trực tiếp đến việc đưa sản
phẩm đến tay người tiêu dùng cũng như hình ảnh lẫn uy tín của doanh nghiệp.
Đối với hoạt động xúc tiến thương mại hay nói cách khác là các hoạt
động đóng vai trò quảng bá, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Trước khi tiến hành
các hoạt động quảng bá và khuyếch trương, doanh nghiệp cần chọ ra các công
cụ quảng bá đảm bảo phù hợp với ngân sách nhất. Sau đó, doanh nghiệp phải
thu thập, đánh giá được thông tin phản hồi từ phía khách hàng. Trong quá
trình tiến hành quảng bá theo công cụ đã chọn, cách thức thực hiện là nhân tố
chính quyết định đến hiệu quả của việc quảng bá. Kết quả thu về sẽ cho thấy
hoạt động quảng bá của doanh nghiệp có đạt được hiệu quả hay không để có
sự điều chỉnh kịp thời. Ngoài ra, còn phải kể đến cả những công cụ khuyến

22
mại, cách thức tổ chức bán hàng sao cho tạo ra được sự hấp dẫn, quan tâm của
khách hàng.
3.2. Hoạt động tài chính, kế toán.
Hoạt động này giúp các nhà quản lý cũng như đối tượng bên ngoài cần
quan tâm đến doanh nghiệp biết được tình trạng doanh nghiệp. Do đó, bộ phận
này cần phải phản ánh đúng và trung thực thông tin tài chính của doanh nghiệp.

Các chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính, bảng cân đối kế toán, kết
quả kinh doanh cũng phải được tính toán đầy đủ, chính xác để phục vụ kịp
thời cho việc ra quyết định của các đối tượng liên quan. Về cơ bản, chỉ tiêu và
những số liệu đưa ra trong báo cáo tài chính cần phải giúp đối tượng quan tâm
phân tích được diễn biến tình hình, chỉ ra được nguyên nhân của hiện tượng.
Căn cứ vào đó, chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư, người cho vay cùng nhiều đối
tượng khác nữa sẽ đưa ra những điều chỉnh và kế hoạch của riêng mình.
Một số chỉ tiêu chính mà các đối tượng quan tâm là:
+ Chỉ tiêu về khả năng thanh toán. Nếu công tác tài chính kế toán
không tính toán tốt điều này, không đưa ra những cảnh báo kịp thời cho doanh
nghiệp thì có thể sẽ dẫn tới tình trạng mất khả năng thanh toán của công ty.
+ Chỉ tiêu về đòn cân nợ, chỉ số nợ
Các chỉ tiêu về vốn của doanh nghiệp bao gồm:
+ Chỉ tiêu phản ánh nhu cầu về vốn và cơ cấu các nguồn vốn trong
doanh nghiệp.
+ Chỉ tiêu phản ánh thực trạng phân bổ các nguồn vốn có trong doanh
nghiệp.
+ Chỉ tiêu về thực trạng hiệu quả sử dụng vốn.
Nhóm chỉ tiêu này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến các quyết định về đầu tư,
huy động vốn, phân chia lợi nhuận trong doanh nghiệp và các đối tượng liên quan.
3.3. Hoạt động sản xuất.
Đây là hoạt động biến đổi các yếu tố đầu vào thành sản phẩm đầu ra
nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, tạo ra giá trị sử dụng cho khách hàng. Để

23
đảm bảo hoạt động này vận hành tốt, doanh nghiệp cần kiểm soát được các vấn
đề về năng lực sản xuất, thời gian sản xuất và chất lượng sản phẩm tạo ra.
Đối với quá trình sản xuất, xác định mức năng lực sản xuất là việc
doanh nghiệp đưa ra những tính toán dự kiến về các yếu tố như: lượng hàng
nhập, lượng hàng lưu kho, lượng hàng xuất đi, sản lượng tạo ra, công suất

hoạt động của máy móc thiết bị, bố trí ca sản xuất. Thêm vào đó, mỗi một lần
quay vòng sản xuất, doanh nghiệp còn phải chịu nhiều loại chi phí đi kèm
khác như chi phí đặt hàng, chi phí vận chuyển. Bởi vậy, các yếu tố trên cần
phải được tính toán sao cho phù hợp với nhu cầu, tránh xảy ra tình trạng tách
biệt và chênh lệch giữa các bộ phận. Nếu không, nó sẽ ảnh hưởng đến hiệu
quả kinh doanh, khiến doanh nghiệp phát sinh thêm nhiều chi phí.
Mỗi một đơn hàng hay cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp đều có
giới hạn về mặt thời gian. Vì vậy, khả năng đáp ứng đơn hàng của doanh
nghiệp đóng vai trò quan trọng. Doanh nghiệp có khả năng đáp ứng càng
nhanh và tốt thì họ mới có cơ hội nhận được những hợp đồng lớn và nâng cao
uy tín.
Đảm bảo chất lượng sản phẩm tạo ra là vấn đề then chốt cuối cùng
của hoạt động sản xuất, nó quyết định đến hình ảnh của doanh nghiệp đối với
người tiêu dùng. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng được hệ thống
quản lý chất lượng hiệu quả thông qua các tiêu chí về thông số kỹ thuật,
phương thức kiểm tra, khả năng cũng như trình độ công nghệ.
3.4. Hoạt động nghiên cứu và phát triển.
Nghiên cứu và phát triển là nhân tố đem lại cho doanh nghiệp một sự phát
triển về chất. Hoạt động này không chỉ giúp doanh nghiệp tìm ra những phương
pháp sản xuất mới, phát triển sản phẩm mới mà nó còn giúp doanh nghiệp củng cố
vươn lên so với vị trí hiện tại, tạo ra lợi thế cạnh tranh với đối thủ.
Ở đây, phương pháp sản xuất mới có thể là những công nghệ mới góp
phần cải tiến quy trình sản xuất qua đó làm giảm chi phí hay nâng cao chất
lượng sản phẩm, còn sản phẩm mới là những sản phẩm được cải tiến từ những

24
sản phẩm trước đó hoặc là những sản phẩm hoàn toàn mới so với sản phẩm
hiện tại.
Để tiến hành hoạt động nghiên cứu và phát triển. Trước tiên, doanh
nghiệp cần xem xét kỹ lưỡng các hoạt động nghiên cứu phát triển cũng như

những xu hướng phát triển trong ngành để tìm ra phương hướng phù hợp
trong nghiên cứu và phát triển. Sau khi đã định ra phương hướng, giờ đây
công ty sẽ phải cân nhắc và quyết định một mức ngân sách cho hoạt động
này. Nếu thành công, nó có thể đem lại lợi ích dài hạn cho doanh nghiệp.
Cuối cùng, doanh nghiệp cần đánh giá về tình hình đội ngũ nhân lực cùng với
các trang thiết bị máy móc để xem 2 yếu tố đó có đảm bảo thực hiện được
hoạt động nghiên cứu và phát triển hay không. Hoạt động nghiên cứu và phát
triển rõ ràng không thể nào thiếu đi những người lao động có tay nghề, những
bộ óc sáng tạo, khả năng cảm nhận tốt biến đổi trong nhu cầu xã hội cũng như
trang thiết bị dùng cho hoạt động này.
3.5. Nguồn nhân lực.
Đội ngũ nhân lực là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, nếu công việc của doanh nghiệp
được đề ra chỉ nhằm mục tiêu giải quyết mong muốn của ban lãnh đạo mà
không đếm xỉa tới người lao động thì sẽ nó gây ra tác hại nhất định và ảnh
hưởng ngược lại đến hiệu quả công việc. Để người lao động làm việc với
năng suất cao, thoả mãn và tìm thấy niềm vui trong công việc là điều rất quan
trọng đối với doanh nghiệp. Do đó, trước tiên, công việc phải bố trí phù hợp
với năng lực, phẩm chất và mong muốn của họ.
Vấn đề quan trọng khác và tác động thường xuyên đến đội ngũ nhân
viên chính là những chính sách sử dụng, quản lý lao động của doanh nghiệp.
Nó bao gồm các chính sách về tuyển dụng, đào tạo, đãi ngộ và đánh giá thành
tích, kiểm soát nhân viên. Hoạt động tác nghiệp sẽ diễn ra với hiệu quả cao
nếu doanh nghiệp thực hiện tốt các chính sách này. Ví dụ như: Việc tuyển
dụng cần chọn ra được đúng người mà doanh nghiệp cần cho vị trí tuyển dụng

×