Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.65 KB, 103 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH KINH DOANH QUỐC TẾ
***


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
Giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới hiện nay




Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thùy Liên
Lớp : Anh 1
Khóa : 44
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Lan Anh






Hà Nội - 11/2009
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO DỊCH THƢƠNG MẠI
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 4


I. Khái niệm và những đặc trƣng cơ bản của giao dịch thƣơng mại của ngân
hàng thƣơng mại 4
1. Khái niệm giao dịch thương mại của các ngân hàng thương mại 4
1.1. Quan niệm về giao dịch thương mại 4
1.2. Khái niệm giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại 5
1.2.1. Khái niệm ngân hàng thương mại 5
1.2.2. Khái niệm giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại 7
1.2.3. Quan niệm về giao dịch thương mại chủ yếu của ngân hàng thương
mại 8
2. Những đặc trưng cơ bản của giao dịch thương mại của ngân hàng thương
mại 9
3. Sự tác động của hội nhập kinh tế thế giới đối với giao dịch thương mại
của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay 10
3.1. Cơ hội đối với ngành ngân hàng khi hội nhập kinh tế thế giới 11
3.2. Thách thức 13
II. Một số vấn đề pháp lý cơ bản của giao dịch thƣơng mại của ngân hàng
thƣơng mại 18
1. Tư cách chủ thể của ngân hàng thương mại trong giao dịch thương mại 19
1.1. Năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại 19
1.1.1. Quan niệm về năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại và các
yếu tố ảnh hưởng đến năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại 19
1.1.2. Cơ chế hình thành, thay đổi và chấm dứt năng lực pháp luật của
ngân hàng thương mại 20
1.1.3. Xác định người đại diện hợp pháp của ngân hàng thương mại 21
1.2. Quyền sở hữu vốn kinh doanh 22
2. Cơ chế xác lập giao dịch và hệ quả pháp lý của việc xác lập giao dịch
thương mại của ngân hàng thương mại 22
2.1. Cơ chế xác lập giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại 22
2.2. Hệ quả pháp lý của việc xác lập giao dịch thương mại của ngân hàng thương
mại 24

2.3. Hiệu lực của giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại 25
2.3.1. Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch thương mại của ngân hàng
thương mại 25
2.3.2. Giao dịch thương mại vô hiệu của ngân hàng thương mại và hậu quả
pháp lý của giao dịch vô hiệu 27
CHƢƠNG 2 GIAO DỊCH THƢƠNG MẠI CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG
MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ THẾ GIỚI HIỆN NAY 28
I. Tổng quan về hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam 28
II. Các hoạt động giao dịch thƣơng mại của ngân hàng thƣơng mại Việt Nam
32
1. Giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại trong lĩnh vực huy động
vốn 32
1.1. Giao dịch nhận tiền gửi 33
1.1.1. Khái niệm giao dịch nhận tiền gửi của ngân hàng thương mại 34
1.1.2. Phân loại 34
1.1.3. Quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong giao dịch nhận tiền gửi
35
1.2. Giao dịch phát hành giấy tờ có giá 36
1.2.1. Khái niệm 36
1.2.2. Phân loại 36
1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch phát hành giấy tờ có
giá 36
1.3. Giao dịch vay vốn của ngân hàng thương mại từ ngân hàng Nhà nước Việt
Nam 38
1.4. Giao dịch vay vốn của ngân hàng thương mại từ các tổ chức tín dụng
khác 38
2. Giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại trong lĩnh vực cấp tín
dụng 39
2.1. Giao dịch cho vay của ngân hàng thương mại 39
2.1.1. Khái niệm về cho vay 39

2.1.2. Phân loại cho vay 40
2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch cho vay của ngân
hàng thương mại 40
2.2. Giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá 41
2.2.1. Khái niệm chiết khấu giấy tờ có giá 41
2.2.2. Các phương thức giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá 41
2.2.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch chiết khấu giấy tờ có
giá 42
2.3. Giao dịch bảo lãnh ngân hàng 42
2.3.1. Khái niệm về bảo lãnh: 42
2.3.2. Phân loại bảo lãnh ngân hàng 43
2.3.3. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong giao dịch bảo lãnh của
ngân hàng thương mại 44
3. Giao dịch mở tài khoản tiền gửi thanh toán và cung ứng dịch vụ thanh
toán 45
3.1. Khái niệm 45
3.2. Giao dịch mở tài khoản tiền gửi thanh toán và cung ứng dịch vụ thanh
toán 46
III. Đánh giá các giao dịch thƣơng mại của ngân hàng thƣơng mại Việt Nam
hiện nay trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới 47
1. Thực trạng và nguyên nhân 47
1.1. Thực trạng 47
1.2. Nguyên nhân 49
CHƢƠNG 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIAO DỊCH THƢƠNG MẠI CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM 57
I. Đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc 57
1. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong ngân hàng 57
2. Sử dụng đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ nhằm phát huy hiệu lực,

hiệu quả các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ. 58
3. Định hướng 58
II. Các mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật điều
chỉnh giao dịch thƣơng mại của ngân hàng thƣơng mai 59
2.1. Các mục tiêu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh giao dịch
thương mại của ngân hàng thương mại 59
2.2 Một số nguyên tắc cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh giao
dịch thương mại của ngân hàng thương mại 60
III. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh giao dịch thƣơng mại
của ngân hàng thƣơng mại 64
1. Hoàn thiện các quy định về tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng 64
2. Ban hành đầy đủ và đồng bộ các quy chế pháp lý về những giao dịch
thương mại chủ yếu của ngân hàng thương mại 68
3. Hoàn thiện quy chế cung ứng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng 71
4. Tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường tiền tệ, góp phần thúc đẩy và
phát triển thị trường vốn 75
4.1. Tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường tiền tệ 75
4.2. Góp phần thúc đẩy và phát triển thị trường vốn 76
5. Hoàn thiện cơ bản thể chế pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng
phù hợp với định hướng, chiến lược phát triển ngành ngân hàng và lộ trình
thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. 77
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 0

DANH MỤC BẢNG, HÌNH

Bảng 1: Thị phần của Ngân hàng thương mại trong hệ thống ngân hàng Việt
Nam từ 2004-2007 31

Hình 1: Cơ chế xác lập giao dịch pháp nhân ngân hàng thương mại 24

Hình 2: Tỷ trọng huy động vốn 33
Hình 3: Cơ cấu tổng phương tiện thanh toán 46

1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nếu vốn được coi là điều kiện vật chất để duy trì các hoạt động trong một
nền kinh tế thì sự tồn tại của ngân hàng lại được coi là điều kiện cần thiết cho việc
lưu thông các nguồn vốn trong xã hội. Do vậy, việc tổ chức và đảm bảo sự an toàn
cả về phương diện kinh tế và pháp lý cho các giao dịch của ngân hàng được xem là
vấn đề đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của
một quốc gia. Trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới như hiện nay, bởi các yếu tố
mới phát sinh trong quá trình hội nhập cho nên hoạt động ngân hàng là một trong
những lĩnh vực chịu sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc nhất. Các yếu tố này thể hiện
ở những đòi hỏi khách quan về việc thỏa mãn nhu cầu vốn ngày càng tăng cho các
hoạt động kinh tế trong hội nhập kinh tế thế giới, thông qua việc xác lập vốn giữa
các chủ thể kinh tế với nhau, trong đó có các giao dịch thương mại do ngân hàng
xác lập và thực hiện đối với khách hàng.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới như ngày nay thì việc nghiên cứu
một cách nghiêm túc, sâu sắc và toàn diện về các giao dịch tương mại của ngân
hàng thương mại để thông qua đó xây dựng cơ sở lí luận cho việc hoàn thiện pháp
luật điều chỉnh giao dịch thương mại của ngân hàng cũng như hoàn thiện kỹ thuật
nghiệp vụ ngân hàng trong điều kiện hiện nay là điều hết sức cần thiết và cấp bách.
Đó là lý do để em chọn vấn đề: “Giao dịch thương mại của ngân hàng
thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới hiện nay” làm đề
tài khoá luận cho mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Nghiên cứu đề tài: “Giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại Việt

Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới hiện nay” nhằm góp phần làm rõ các
vấn đề lý luận về giao dịch thương mại của ngân hàng nói chung và bản chất pháp
lý của các giao dịch thương mại chủ yếu của ngân hàng thương mại nói riêng, trên

2
cơ sở đó nhằm đưa ra các ý kiến đánh giá thực trạng giao dịch thương mại của ngân
hàng Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
giao dịch thương mại của các ngân hàng thương mại.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ:
- Phân tích, giải thích nhằm làm rõ các vấn đề lý luận chung về giao dịch
thương mại của ngân hàng thương mại
- Phân tích các giao dịch thương mại chủ yếu của các ngân hàng thương mại
- Phân tích và đánh giá thực trạng giao dịch thương mại chủ yếu của ngân
hàng thương mại
- Đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật điều chỉnh giao dịch
thương mại của ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
thế giới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là các giao dịch thương mại của ngân
hàng thương mại Việt Nam
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của khoá luận này, nội dung nghiên cứu giới hạn ở việc
làm rõ các vấn đề lý luận và bản chất pháp lý của các giao dịch thương mại chủ yếu
của ngân hàng thương mại trên ba lĩnh vực, đó là: lĩnh vực huy động vốn, cấp tín
dụng, mở tài khoản tiền gửi thanh toán và cung ứng dịch vụ thanh toán.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Khoá luận sử dụng các phương pháp nghiên cứư tổng hợp như hệ thống hoá,
phân tích, thống kê, sưu tập tài liệu và luận giải ngoài ra phương pháp so sánh cũng

được áp dụng để hoàn thành khoá luận này.
5. Cơ cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm có ba chương với tiêu đề như sau:

3
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giao dịch thương mại của ngân hàng
thương mại
Chương 2: Giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới hiện nay
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh nhằm nâng cao
hiệu quả giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại Việt Nam
Khó khăn mà em gặp phải trong quá trình thực hiện đề tài khá lớn, không chỉ
vì tài liệu, thông tin còn ít ỏi, mà còn vì kiến thức và năng lực tổng hợp phân tích
của em còn rất khiêm tốn, thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp. Bởi vậy, những thiếu
sót là không thể tránh khỏi. Sự chỉ dẫn, góp ý của thầy cô là những ý kiến vô cùng
quý báu và bổ ích đối với em trong quá trình tiếp tục hoàn thiện khóa luận tốt
nghiệp này.
Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến cô giáo
Nguyễn Lan Anh, đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để người viết có thể hoàn thành
khóa luận này. Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn công lao đào tạo của các
thầy cô giáo trường Đại học Ngoại Thương trong suốt thời gian qua.
Em xin chân thành cảm ơn!














4
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO DỊCH THƢƠNG MẠI
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

I. Khái niệm và những đặc trƣng cơ bản của giao dịch thƣơng mại của ngân
hàng thƣơng mại
1. Khái niệm giao dịch thương mại của các ngân hàng thương mại
1.1. Quan niệm về giao dịch thương mại
Theo quy định chung của Hiệp định GATS, không có một khái niệm riêng
cho dịch vụ ngân hàng mà trên thực tế, dịch vụ này (giống như dịch vụ về bảo hiểm
và chứng khoán) được coi như một loại hình dịch vụ tài chính. Cũng theo Hiệp định
này, dịch vụ tài chính là bất kì dịch vụ nào có tính chất tài chính, do một nhà cung
cấp dịch vụ tài chính của một thành viên thực hiện. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi
dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch
vụ tài chính khác.
Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (trừ bảo hiểm) được chia
thành các tiểu ngành dưới đây:
1) Nhận tiền gửi hoặc đặt cọc và các khoản tiền có thể thanh toán khác của công
chúng;
2) Cho vay dưới các hình thức, bao gồm tín dụng tiêu dùng, tín dụng thế chấp, bao
tiêu nợ và tài trợ các giao dịch thương mại;
3) Thuê mua tài chính;
4) Mọi dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, bao gồm thẻ tín dụng, thẻ thanh toán và

báo nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng;
5) Bảo lãnh cam kết;
6) Kinh doanh tài khoản của mình hoặc của khách hàng, dù tại sở giao dịch và trên
thị trường không chính thức hoặc các giao dịch khác về:
a. Công cụ thị trường tiền tệ (gồm séc, hoá đơn, chứng chỉ tiền gửi);
b. Ngoại hối;

5
c. Các sản phẩm tài chính phái sinh, bao gồm nhưng không hạn chế các hợp đồng kì
hạn hoặc hợp đồng quyền chọn;
d. Các sản phẩm dựa trên tỉ giá hối đoái và lãi suất, bao gồm các sản phẩm như
hoán vụ, hợp đồng tỉ giá kì hạn;
đ. Chứng khoán có thể chuyển nhượng;
e. Các công cụ có thể chuyển nhượng khác và các tài sản tài chính, kể cả kim khí
quý.
7) Tham gia vào việc phát hành mọi chứng khoán, kể cả bảo lãnh phát hành và chào
bán như đại lí (dù công khai hoặc theo thoả thuận riêng) và cung cấp dịch vụ liên
quan tới việc phát hành đó;
8) Môi giới tiền tệ;
9) Quản lí tài sản, như tiền mặt hoặc quản lí danh mục đầu tư, mọi hình thức quản lí
đầu tư tập thể, quản lí hưu trí, dịch vụ bảo quản, lưu giữ và tín thác;
10) Các dịch vụ thanh toán và quyết toán tài sản tài chính, bao gồm chứng khoán,
các sản phẩm tài chính phái sinh và các công cụ thanh toán khác;
11) Cung cấp và chuyển thông tin về tài chính, xử lí dữ liệu tài chính và phần mềm
liên quan của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác;
12) Các dịch vụ tư vấn, trung gian môi giới và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác
liên quan đến các hoạt động nêu trong điểm (1) đến (11), kể cả tham khảo và phân
tích tín dụng, nghiên cứu, tư vấn đầu tư và danh mục đầu tư, tư vấn mua sắm và về
cơ cấu lại chiến lược doanh nghiệp.
Như vậy, theo thông lệ quốc tế, dịch vụ ngân hàng là khái niệm rất rộng, bao

gồm tất cả các hoạt động ngân hàng của một tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng
trên thị trường vì mục tiêu lợi nhuận.
1

1.2. Khái niệm giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
a. Sự ra đời của ngân hàng


1
Tạp chí Luật học số 12/2007


6
Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho
những người chủ sở hữu nó, tránh gây mất mát. Đổi lại, người chủ sở hữu phải trả
cho người giữ một khoản tiền công. Khi công việc này mang lại nhiều lợi ích cho
những người gửi, các đồ vật cần gửi ngày càng đa dạng hơn, và đa đại diện cho các
vật có giá trị như vậy là tiền, dần dần, ngân hàng là nơi giữ tiền cho những người có
tiền. Khi xã hội phát triển, thương mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn, tức
là phát sinh nhu cầu vay tiền ngày càng lớn trong xã hội. Khi nắm trong tay một
lượng tiền, những người giữ tiền nảy ra một nhu cầu cho vay số tiền đó, vì lượng
tiền trong tay họ không phải bao giờ cũng bị đòi trong cùng một thời gian, tức là có
độ chênh lệch lượng tiền cần gửi và lượng tiền cần rút của người chủ sở hữu. Ngân
hàng là một định chế tài chính trung gian, sẽ huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội và
dùng chính tiền đó cho các cá nhân và tổ chức vay lại, và rất hiếm khi có tình trạng
cùng một lúc tất cả chủ tiền gửi đến đòi nợ ngân hàng, đó chính là nguyên tắc cơ
bản đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng. Từ đó phát sinh nghiệp vụ đầu tiên
nhưng cơ bản nhất của ngân hàng nói chung, đó là huy động vốn và cho vay vốn.
Căn cứ vào chức năng, ngân hàng được chia làm hai loại: ngân hàng thương mại và

ngân hàng Nhà nước.
2

b. Khái niệm ngân hàng thương mại
Theo định nghĩa của Luật ngân hàng Pháp ngày 13/6/1941 “Ngân hàng là
những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công
chúng dưới hình thức ký thác hay dưới hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho
chính họ, trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính” . Luật ngân hàng
Đài Loan quy định thuật ngữ “ngân hàng thương mại” trong luật này được hiểu là
một ngân hàng mà các chức năng chính là nhận tiền gửi tài khoản phát hành séc và
cấp tín dụng ngắn hạn”. Luật ngân hàng thương mại của cộng hoà nhân dân Trung
Hoa quy định: “các ngân hàng thương mại được nêu ra trong luật này là các bộ phận
hợp nhất được thành lập theo bộ luật này và Luật công ty của Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa, để nhận tiền gửi từ công chúng, cấp các khoản vay, cung cấp các dịch
vụ thanh toán và tiến hành các loại hình kinh doanh có liên quan khác”. Pháp lệnh


2
www.saga.vn

7
ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990 của Việt Nam định
nghĩa ngân hàng thương mại như sau: “ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh
tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Như vậy có thể thấy hầu hết pháp luật các nước đều lấy chức năng và nội
dung hoạt động ngân hàng làm cơ sở để định nghĩa về ngân hàng thương mại.
1.2.2. Khái niệm giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại
Chúng ta khó có thể tìm thấy một định nghĩa nào về giao dịch thương mại

của ngân hàng thương mại trong pháp luật nước ngoài cũng như trong hệ thống
pháp luật hiện hành của Việt Nam. Tuy nhiên trong các đạo luật về thương mại các
nước đã từng có nhiều điều khoản cụ thể ghi nhận hoạt động kinh doanh của ngân
hàng như là những hành vi thương mại (hay giao dịch thương mại) mang tính bản
chất. Điều 632 Bộ luật thương mại Pháp quy định các hoạt động ngân hàng và hối
đoái chính là những hành vi thương mại bản chất. Bộ luật thương mại Đức năm
1897 cũng quy định như vậy tại điểm 4 khoản 2 điều 1. Bộ luật thương mại Nhật
Bản quy định về các giao dịch thương mại trong đó có giao dịch thương mại tại
khoản 8 điều 502. Riêng đối với Bộ luật dân sự và thương mại tuy không có điều
khoản nào quy định rõ các hoạt động của ngân hàng là hành vi thương mại nhưng
trên thực tế bộ luật này đã thừa nhận những hoạt động giống như hoạt động của
ngân hàng bao gồm việc nhận ký gửi tiền và cho vay tiền là những giao dịch thuộc
phạm vi của Bộ luật dân sự và thương mại.
Ngoài việc khẳng định các hoạt động ngân hàng hay hoạt động kinh doanh
ngân hàng là giao dịch thương mại trong các bộ luật thương mại như một quy tắc
pháp lý chung, các đạo luật về ngân hàng một số nước còn quy định cụ thể mang
tính liệt kê các hành vi pháp lý được coi là hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại. Ví dụ như tại khoản 3 Luật ngân hàng thương mại của nước Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa có hiệu lực kể từ ngày 1/7/1995 quy định về các hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại; khoản 1 điều 11 Luật ngân hàng Ba Lan

8
(ban hành ngày 31/11/1989) quy định về các hoạt động ngân hàng của ngân hàng
thương mại trên lãnh thổ Ba Lan …
Ở Việt Nam pháp luật thương mại hiện hàng chưa có quy định nào trực tiếp
khẳng đinh hoạt động ngân hàng là một loại hành vi thương mại (giao dịch thương
mại). Tuy nhiên một cách gián tiếp các nhà làm luật Việt Nam đã thừa nhận hoạt
động kinh doanh ngân hàng như là một loại hình kinh doanh đặc thù, chịu sự điều
chỉnh của pháp luật dân sự, thương mại nói chung và pháp luật ngân hàng nói riêng
bằng cách đưa ra khái niệm hoạt động ngân hàng tại khoản 7 điều 20 cuả Luật các

tổ chức tín dụng “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cung
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.2.3. Quan niệm về giao dịch thương mại chủ yếu của ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại (NHTM) ngày nay có số lượng các nghiệp vụ
kinh doanh nói chung và giao dịch thương mại nói riêng của ngân hàng thương mại
có xu hướng ngày càng đa dạng và phức tạp. Để phân loại các giao dịch thương mại
của ngân hàng thương mại có thể dựa vào một số tiêu chí cơ bản sau đây:
Nếu dựa vào cấu trúc chủ thể tham gia giao dịch và cách thức thể hiện ý chí
giữa các chủ thể đó thì có thể phân loại thành giao dịch thương mại đa phương (ví
dụ: giao dịch cho vay hợp vốn, giao dịch đồng bảo lãnh…); giao dịch thương mại
song phương (ví dụ: giao dịch nhận tiền gửi, giao dịch chiết khấu chứng từ có
giá…) và giao dịch thương mại đơn phương (ví dụ hành vi phát hành séc của ngân
hàng thương mại cho người thụ hưởng séc…).
Nếu dựa vào hệ quả pháp lý của giao dịch có thể phân loại thành giao dịch
cam kết (ví dụ, việc ký kết hợp đồng tín dụng…) và giao dịch định đoạt (ví dụ, việc
giải ngân của ngân hàng cho khách hàng vay vốn). Giao dịch cam kết chỉ có hệ quả
làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ pháp lý cho các bên tham gia giao dịch, còn giao
dịch định đoạt lại có hệ quả pháp lý là làm chuyển dịch quyền sở hữu một tài sản từ
chủ thể này sang chủ thể khác để nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ
giao dịch cam kết. Hai loại giao dịch này có thể xem là những hành vi pháp lý độc
lập nhưng chúng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, chi phối lẫn nhau trong

9
đó giao dịch cam kết là tiền đề để xác lập giao dịch định đoạt và ngược lại, giao
dịch định đoạt là công cụ, phương tiện để thực hiện giao dịch cam kết.
Nếu dựa vào tính chất nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng thương mại, có
thể phân loại thành các nhóm như giao dịch trong lĩnh vực huy động vốn; giao dịch
trong lĩnh vực cấp tín dụng; giao dịch dịch vụ ngân hàng; giao dịch ngoại hối; giao
dịch đầu tư tài chính ra bên ngoài; giao dịch chứng khoán; giao dịch mua bán nợ;

giao dịch bảo hiểm Trong số các loại hình giao dịch này, có những giao dịch được
mọi ngân hàng thương mại thực hiện như một nghề nghiệp chính mang tính chức
năng nên có thể gọi là giao dịch thương mại chủ yếu, ví dụ như giao dịch trong lĩnh
vực huy động vốn, giao dịch trong lĩnh vực cấp tín dụng và giao dịch dịch vụ ngân
hàng. Có những giao dịch không được mọi ngân hàng thực hiện như một nghề
nghiệp chính mang tính chức năng của nó nên có thể gọi là giao dịch thương mại
không chủ yếu của ngân hàng thương mại, ví dụ như giao dịch đầu tư tài chính ra
bên ngoài, giao dịch mua bán nợ, giao dịch chứng khoán, giao dịch bảo hiểm…
3

Do tính đa dạng, phức tạp của các loại hình giao dịch thương mại của ngân
hàng thương mại nên khái niệm giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại có
nội hàm rất rộng. Vì thế, trong khuôn khổ của bài khóa luận này, em chỉ tập trung
nghiên cứu những giao dịch thương mại chủ yếu do ngân hàng thương mại xác lập
và thực hiện đối với khách hàng của họ.
2. Những đặc trưng cơ bản của giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại
Có thể nhận thấy các đặc trưng cở bản của giao dịch thương mại của ngân
hàng thương mại như sau:
Đặc trưng thứ nhất: chủ thể xác lập và thực hiện giao dịch thương mại trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng chủ yếu là các ngân hàng thương mại. Theo điều
14 Luật các tổ chức tín dụng quy định về quyền hoạt động ngân hàng: “Mọi tổ chức
có đủ điều kiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật
được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động thì được thực hiện một phần
hoặc toàn bộ hoạt động ngân hàng tại Việt Nam”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các


3




10
giao dịch thương mại quan trọng và chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng
đều do các ngân hàng thương mại thực hiện. Ví dụ như giao dịch về huy động vốn,
giao dịch về cấp tín dụng hay giao dịch dịch vụ ngân hàng.
Đặc trưng thứ hai: đối tượng giao dịch trong giao dịch thương mại tương đối
đặc biệt, đó là tiền, các chứng từ có giá, ngoại hối hay các công việc chuyên môn có
sử dụng kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng. Tính đặc biệt của những đối tượng này thể
hiện ở chỗ, chúng không phải là những hàng hóa thông thường được sản xuất, chế
tạo và đem bán tự do trên thị trường, cũng không phải là những công việc thông
thường mà ai cũng làm được.
Đặc trưng thứ ba: giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại là loại
hình chịu sự kiểm soát chặt chẽ từ phía Nhà nước, trong đó các biện pháp kiểm soát
đặc thù được áp dụng như là những công việc chủ yếu nhằm đảm bảo lợi ích chung
cũng như lợi ích riêng của các bên tham gia vào giao dịch.
Đặc trưng thứ tư: giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại là loại
hình giao dịch có tính coi trọng hình thức, thể hiện ở hai phương diện. Hầu hết các
giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại phải được xác lập bằng văn bản
nhằm tạo ra chứng cứ cần thiết cho việc thực hiện giao dịch cũng như giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ giao dịch. Việc xác lập và thực hiện các giao dịch thương
mại của ngân hàng thương mại phải tuân theo những trình tự, thể thức hết sức chặt
chẽ nhằm đảm bảo sự an toàn pháp lý cho các bên tham gia vào giao dịch.
4

3. Sự tác động của hội nhập kinh tế thế giới đối với giao dịch thương mại của
ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay
Hội nhập kinh tế thế giới là xu thế tất yếu khách quan do quá trình toàn cầu
hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và tác động đến mọi quốc gia trên
thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường ngắn nhất giúp các quốc gia đang
phát triển đẩy nhanh tốc độ phát triển, thu hẹp khoảng cách với các quốc gia phát
triển. Lĩnh vực ngân hàng cũng không nằm ngoài xu hướng đó.



4
Nguyễn Văn Tuyến, “Giao dịch thương mại của các ngân hàng thương mại trong điều kiện kinh tế thị
trường”, NXB Tư Pháp

11
Xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay đang là một trong số các nhân
tố ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh
ngân hàng nói riêng ở nước ta. Sự tác động khách quan của yếu tố này có tác dụng
định hướng cho việc điều chỉnh của Nhà nước đối với các giao dịch thương mại
ngân hàng trong giai đoạn hiện nay bằng công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và hệ
thống luật pháp.
3.1. Cơ hội đối với ngành ngân hàng khi hội nhập kinh tế thế giới
Hội nhập quốc tế sẽ làm tăng uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt
Nam, nhất là trên thị trường tài chính khu vực.
Hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội cho NHNN nâng cao năng lực và hiệu quả
điều hành và thực thi chính sách tiền tệ, đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỉ
giá theo nguyên tắc thị trường. Hội nhập cũng là cơ hội để NHNN tăng cường phối
hợp với các NHTW và các tổ chức tài chính quốc tế về chính sách tiền tệ, trao đổi
thông tin và ngăn ngừa rủi ro, qua đó hạn chế biến động của thị trường tài chính
quốc tế và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hệ thống NHTM và
thị trường tiền tệ hoạt động an toàn và hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho việc nâng cao
hiệu lực và hiệu quả của chính sách tiền tệ. Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách
thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực hoạt động của các cơ
quan quản lý tài chính, loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với
các NHTM trong nước, hạn chế tình trạng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của NHNN
và Chính phủ.
Hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy cải cách, buộc các ngân hàng trong
nước phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn

tồn tại, đồng thời phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao trình độ
quản trị điều hành và phát triển dịch vụ ngân hàng. Trong quá trình hội nhập và mở
cửa thị trường tài chính trong nước, khuôn khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp
dần với thông lệ quốc tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng
và từng bước phân chia lại thị phần giữa các nhóm ngân hàng theo hướng cân bằng
hơn, thị phần của NHTMNN có thể giảm và nhường chỗ cho các nhóm ngân hàng

12
khác, nhất là tại các thành phố và khu đô thị lớn. Tuỳ theo thế mạnh của mỗi ngân
hàng, sẽ xuất hiện những ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên môn hóa như
ngân hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư, đồng thời hình thành một
số ngân hàng qui mô lớn, có tiềm lực tài chính và kinh doanh hiệu quả. Kinh doanh
theo nguyên tắc thị trường cũng buộc các tổ chức tài chính phải có cơ chế quản lý
và sử dụng lao động thích hợp, đặc biệt là chính sách đãi ngộ và đào tạo nguồn nhân
lực nhằm thu hút lao động có trình độ, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động và sức
cạnh tranh trên thị trường tài chính.
Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và nới lỏng hạn chế đối với các tổ chức
tài chính nước ngoài là điều kiện để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính –
ngân hàng, các NHTM trong nước có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư
vấn, đào tạo thông qua các hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng và tổ
chức tài chính quốc tế. Vì thế, các ngân hàng cần tăng cường hợp tác để chuyển
giao công nghệ, phát triển sản phẩm và dịch vụ ngân hàng tiên tiến, khai thác thị
trường. Trong quá trình hội nhập, việc mở rộng quan hệ đại lý quốc tế của các ngân
hàng trong nước sẽ tạo điều kiện phát triển các hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ
thương mại, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác đầu tư và chuyển giao công nghệ.
Việc gia nhập WTO tạo cơ hội tốt cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính
tín dụng trong nước tiếp cận với thị trường tài chính quốc tế, nâng cao trình độ quản
lý ngân hàng, cung cấp dịch vụ cũng như mở rộng các loại hình dịch vụ đáp ứng tốt
nhu cầu thị trường.
Các ngân hàng trong nước có cơ hội tăng vốn phục vụ cho các hoạt động

nghiệp vụ do ngân hàng nước ngoài được phép đầu tư mua cổ phần của các ngân
hàng thương mại Việt Nam.
Các ngân hàng trong nước có một lợi thế, đó là sự am hiểu về văn hoá và
truyền thống của người Việt Nam, sự đồng cảm về văn hoá kinh doanh - điều mà
các ngân hàng nước ngoài khó có thể nắm bắt một cách sâu sắc.
5



5
Sổ tay Việt Nam hội nhập WTO – NXB Hà Nội

13
3.2. Thách thức
Thị trường ngân hàng của Việt Nam tuy đã phát triển và đang đứng trước
một cơ hội phát triển mới nhưng ngành mới chỉ thực sự phát triển trong vài năm
gần đây, lúc này họ phải đối mặt với một áp lực cạnh tranh gay gắt.
Vốn của toàn bộ hệ thống ngân hàng trong nước là rất nhỏ so với các ngân
hàng nước ngoài, đây là một thách thức lớn về cạnh tranh khi thị trường tài chính
ngân hàng được mở cửa.
Các ngân hàng trong nước cũng không chú trọng đến việc đa dạng hoá dịch
vụ của mình, thậm chí nguyên nhân không phải từ lượng vốn hạn chế. Các ngân
hàng thương mại trong nước vẫn chỉ tập trung vào các dịch vụ huy động vốn và cho
vay truyền thống. Ngoài ra, các ngân hàng trong nước cũng chưa đảm bảo được
chất lượng dịch vụ tốt cho khách hàng, thủ tục đôi khi còn rườm rà gây khó khăn
cho khách hàng.
a. Những thách thức từ môi trường kinh tế
Bất cứ một doanh nghiệp nào hoạt động cũng chịu tác động của các yếu tố
thuộc về môi trường kinh tế vĩ mô như chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng
thời kì, môi trường pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp Trong điều kiện hội

nhập, môi trường kinh tế vĩ mô ở đây không còn bó hẹp trong môi trường kinh tế của
một nước, một quốc gia riêng rẽ nữa mà trong nhiều trường hợp, nó bao hàm cả môi
trường kinh tế quốc tế, là sự tăng trưởng hay suy thoái kinh tế chung của cả thế giới.
Chính vì thế, trong điều kiện hội nhập, các NHTM VN trước hết phải đương đầu với
những thách thức do môi trường kinh tế trong nước và quốc tế gây ra.
- Nền kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm thấp và cơ cấu kinh tế không hợp lý:
Chúng ta không thể phủ nhận được rằng nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế,
tuy được đánh giá là đang phát triển, nhưng chúng ta có xuất phát điểm thấp và có
cấu kinh tế không hợp lý, không hiệu quả. Chính vì thế mà trong bảng xếp hạng
cạnh tranh của một số nền kinh tế do Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic
Forum) tiến hành, vị trí cạnh tranh của Việt Nam đứng ở tốp cuối, và đáng buồn
hơn nữa là những năm sau lại thấp hơn năm trước. Điều đó cho thấy chúng ta cần

14
phải cố gắng nỗ lực hết sức mình để cải thiện vị trí cạnh tranh của nền kinh tế nói
chung và của từng doanh nghiệp nói riêng.
Hệ thống NHTM VN cũng không nằm ngoài bối cảnh này. Không thể có một
NHTM khoẻ mạnh trong một nền kinh tế còn nhiều vấn đề. Hiệu quả của hoạt động
ngân hàng phản ánh hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, của nền kinh tế.
Chính vì vậy mà thách thức lớn của nền kinh tế Việt Nam trong hội nhập kinh tế
quốc tế, trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư cũng chính là những thách
thức của ngành ngân hàng, của hệ thống NHTM - "kênh truyền dẫn vốn quan trọng
trong nền kinh tế".
- Môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động ngân
hàng nói riêng của Việt Nam chưa hoàn thiện
Trong xu thế hội nhập kinh tế, vấn đề môi trường pháp lý cho các hoạt động
kinh tế có vai trò quan trọng, tác động mạnh mẽ tới sự phát triển và sự tự chủ kinh
tế của đất nước. Để giảm thiểu những bất lợi cũng như tận dụng thời cơ của quá
trình hội nhập vào phát triển kinh tế đất nước, có nhiều vấn đề được đặt ra, trong đó
việc hoàn thiện môi trường pháp lý được coi là yếu tố quan trọng không thể trì

hoãn.
Đối với hoạt động ngân hàng, vấn đề này càng trở nên cấp bách. Trong khi
đó môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng của chúng ta còn chưa hoàn thiện,
còn nhiều vấn đề phải chỉnh sửa, bổ sung, mà việc này lại liên quan đến nhiều cấp,
nhiều ngành, vào sự thay đổi nhận thức pháp luật và ý thức pháp luật của người dân,
do vậy việc thực hiện không phải dễ dàng. Nó đòi hỏi phải có thời gian và phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như cơ sở hạ tầng kinh tế, trình độ của người làm luật
Đây thực sự là một thách thức lớn đối với ngành ngân hàng nói chung và hệ
thống NHTM VN nói riêng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Biến động của môi trường kinh tế thế giới
Như đã nói ở trên, hội nhập là một xu thế tất yếu của mọi quốc gia. Vì vậy,
cách tốt nhất để hạn chế những bất lợi của hội nhập cũng như tận dụng được cơ hội
do hội nhập đem lại là chủ động đón nhận và có những đối sách hợp lý trong hội
nhập, nâng cao tính tự chủ cũng như thế mạnh của kinh tế đất nước. Tuy nhiên,

15
trong điều kiện toàn cầu hoá, rủi ro của một doanh nghiệp, một ngành hay một quốc
gia không còn là vấn đề đơn thuần của doanh nghiệp đó, ngành đó hay quốc gia đó
nữa mà nó có tính lan truyền rất lớn. Đây chính là mặt trái của hội nhập. Sự phụ
thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nước khiến cho sự biến động kinh tế của một
quốc gia, một khu vực sẽ nhanh chóng lan ra toàn cầu. Sự phát triển của công nghệ
thông tin, của Internet, một mặt trợ giúp đắc lực cho sự phát triển kinh tế và thương
mại, mặt khác lại đẩy nhanh sự lan truyền của rủi ro kinh tế. Chính vì thế mà trong
điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, các nền kinh tế đều phải chấp nhận rủi ro và sẵn
sàng đối mặt với rủi ro.
Nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, lại mới đi
vào kinh tế thị trường được gần 15 năm, có thứ hạng cạnh tranh rất thấp. Trong nền
kinh tế đó, ngân hàng và doanh nghiệp lại có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau,
đúng như nhiều NHTM VN đã nói: Sự thành đạt của khách hàng là sự thành đạt của
ngân hàng. Điều này cũng đồng nghĩa với rủi ro của khách hàng cũng là rủi ro của

ngân hàng. Chính vì vậy mà trong điều kiện hội nhập, rủi ro của NHTM tăng lên
gấp bội do tính bất ổn định, khó dự đoán của thị trường thế giới và tính lây lan rủi
ro của thời đại công nghệ thông tin.
b. Những thách thức do nguyên nhân từ nội tại hệ thống NHTM VN
- Tổ chức bộ máy còn nhiều bất cập
Hầu hết các NHTM VN hiện nay có mô hình tổ chức theo kiểu truyền thống.
Tiêu thức phân định các phòng, ban của hầu hết các NHTM hiện nay là theo loại
hình nghiệp vụ (trong khi ở các ngân hàng tiên tiến, các hoạt động hướng tới khách
hàng của họ lại được phân theo tiêu thức đối tượng khách hàng - sản phẩm nhằm
đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng và nâng cao chất lượng phục vụ khách
hàng). Trong điều kiện các NHTM hoạt động với quy mô nhỏ, tính chất đơn giản thì
mô hình trên tỏ ra phù hợp với mức độ tập trung quyền lực cao. Song khi ngân hàng
phát triển với quy mô ngày càng lớn, với số lượng chi nhánh ngày càng mở rộng,
khối lượng và tính chất công việc ngày càng nhiều và phức tạp thì mô hình trên dần
dần sẽ bộc lộ những điểm bất hợp lý.

16
- Năng lực quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của NHTM
hiện đại
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng trong việc đổi mới nhưng các công cụ và
cách thức quản lý điều hành của NHTM VN còn chưa theo kịp với yêu cầu của
NHTM hiện đại. Kế hoạch hoạt động kinh doanh hiện tập trung vào tăng trưởng về
số lượng chứ không phải chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế.
Hệ thống thông tin, theo dõi nợ, quản lý rủi ro không kịp thời chính xác, đặc
biệt sẽ dẫn tới sự thiếu minh bạch trong hoạt động tài chính ngân hàng. Nếu tính
những khoản nợ khoanh và nợ khó đòi thì thực tế hoạt động của nhiều NHTM VN
đang ở trong tình trạng thua lỗ (lợi nhuận kinh tế âm). Các NHTM VN chủ yếu vẫn
coi tài sản thế chấp là cơ sở đảm bảo tiền cho vay, kể cả đối với tín dụng ngắn hạn.
Các ngân hàng còn xem nhẹ bảo đảm theo dự án, trong khi việc xử lý tài sản thế
chấp để thu hồi nợ là vấn đề khó khăn do vướng mắc về mặt pháp lý, vì vậy khó thu

hồi được vốn vay. Khả năng chi trả của các NHTM VN rất thấp (tỷ lệ giữa tài sản
Có có thể thanh toán và tài sản Nợ phải thanh toán ngay của nhiều NHTM VN
thường nhỏ hơn 1, thấp xa so với tỷ lệ này ở các nước trong khu vực và thế giới).
Vấn đề quản trị chiến lược của các NHTM VN cũng còn rất hạn chế. Thực tế
cho thấy một chiến lược quản lý kinh doanh tiền tệ của các NHTM Việt Nam
thường không vượt ra ngoài phạm vi quốc gia. Nợ quá hạn của các NHTM vẫn ở
mức cao.
- Vốn điều lệ và vốn tự có thấp
Vốn điều lệ và vốn tự có có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp nói chung và đặc biệt đối với NHTM - loại hình doanh
nghiệp kinh doanh tiền tệ, thu hút vốn đầu tư của các doanh nghiệp khác và dân cư.
Vốn điều lệ là tiềm lực tài chính, là điều kiện đảm bảo an toàn trong hoạt
động tài chính của NHTM, là uy tín của NHTM để tạo lòng tin với công chúng. Vậy
mà hiện nay vốn điều lệ của NHTM VN còn nhỏ bé, kể cả các NHTM Quốc doanh,
khoảng từ 2.000 - 3.000 tỷ đồng, tương đương với khoảng 130 - 150 triệu USD.
Một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức an toàn của ngân hàng là tỷ trọng
vốn tự có so với tổng tài sản có rủi ro. Điều 81 - Luật các tổ chức tín dụng 12/1997

17
đã quy định tổ chức tín dụng phải duy trì tỷ lệ đảm bảo an toàn này. Theo thông lệ
quốc tế, tỷ trọng này tối thiểu là 8%. Vậy mà các NHTM VN mới chỉ đạt mức cao
nhất là gần 5%.
Mức vốn tự có nhỏ bé còn làm hạn chế khả năng mở rộng cho vay bảo lãnh
do quy định của Điều 79 Luật các tổ chức tín dụng: “Tổng dư nợ cho vay đối với
một khách hàng không được quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng”. Điều này
hạn chế NHTM cho vay bảo lãnh các dự án lớn.
- Trình độ cán bộ nhân viên ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ
chế thị trường:
Phù hợp với tình hình thực tế hiện nay khi yêu cầu về chất lượng và trình đổ
cán bộ là một yếu tố quan trọng của việc nâng cao năng lực cạnh tranh, các NHTM,

đặc biệt là các NHTM cổ phần, Ngân hàng Ngoại thương đã tổ chức thi tuyển cán
bộ, nhân viên mới theo tiêu chuẩn, trình độ được đưa ra về chuyên môn, tin học và
ngoại ngữ.
Do đó, chúng ta phải thừa nhận rằng trình độ cán bộ làm việc trong các
NHTM đang ngày một nâng cao. Tuy nhiên một số NHTM khác vẫn còn tồn tại
việc tăng thêm đội ngũ cán bộ, nhân viên mới theo truyền thống kiểu cũ, trình độ
hạn chế về mọi mặt, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ thống NHTM VN.
Như thế, đội ngũ cán bộ còn nhiều vấn đề cần được khắc phục kịp thời. Đây là một
trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành ngân hàng để có thể đứng vững trên
con đường hội nhập.
- Máy móc, công nghệ ngân hàng còn nghèo nàn, lạc hậu
Mặc dù trong thời gian qua, các ngân hàng đã đẩy mạnh tin học hoá vào hệ
thống ngân hàng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Công nghệ đầu tư không đồng
bộ mà đơn lẻ, manh múm nên hiệu quả sử dụng không được cao, do đó không có
khả năng cung cấp thông tin kịp thời và chính xác để phục vụ công tác quản lý điều
hành. Tính không ổn định của công nghệ đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát
triển cuả hệ thống ngân hàng, ngoài ra còn làm cho rủi ro công nghệ rất cao.
Các NHTM đã tập trung nhập khẩu trang thiết bị máy móc. Song ở nhiều
NHTM, máy móc trang bị vẫn còn lạc hậu so với mặt bằng chung của thế giới.

18
Nhiều máy móc được trang bị từ các năm trước đây cũng đã trở nên lạc hậu, trong
khi đó các ngân hàng nước ngoài đang trang bị những hệ thống hiện đại nhất. Loại
máy ATM cho phép nhận cả tiền mặt tự động, giao dịch như một chi nhánh không
người đã được áp dụng từ lâu ở các nước trên thế giới thì gần đây mới có mặt ở một
số ngân hàng ở Việt Nam, mà hầu hết là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đặt tại
Việt Nam.
Công nghệ và máy móc trang bị của các NHTM trong nước đã, đang và sẽ
ngày càng lạc hậu so với các nước trên thế giới. Điều này gây ra một thách thức vô
cùng lớn buộc các NHTM VN phải dũng cảm học hỏi, đầu tư để theo kịp các ngân

hàng khác trong khu vực và trên thế giới.
- Tính liên kết, hợp tác giữa các ngân hàng trong nước để tạo nên sức mạnh
cạnh tranh còn nhiều bất cập
Việc liên kết, hợp tác sẽ cho phép phát huy được hiệu quả của hệ thống máy
móc thiết bị, nâng cao sức cạnh tranh, tiết kiệm chi phí Tuy nhiên, hợp tác của các
NHTM trong nước mới chỉ dừng lại ở phạm vi cho vay hợp đồng tài trợ mà chưa
đẩy mạnh sang các phạm vi khác. Như thế sẽ làm giảm thế mạnh của hệ thống ngân
hàng trong nước, giảm sức cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.
- Nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh
Trong quá trình hội nhập, chúng ta không tránh khỏi việc bắt gặp những đối
thủ cạnh tranh mạnh trên thị trường. Họ là các ngân hàng nước ngoài hơn hẳn chúng
ta về vốn, công nghệ, năng lực tổ chức quản lý cũng như kinh nghiệm…
Điều này buộc NHTM VN phải đối mặt và đề ra các biện pháp chính sách
hợp lý nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Như vậy khó khăn đối với NHTM VN trong quá trình hội nhập là rất nhiều
buộc các ngân hàng của chúng ta phải có những biện pháp, chính sách hợp lý để
khắc phục và đưa NHTM VN phát triển hơn nữa trong tương lai, bắt kịp với các
NHTM trong khu vực và trên thế giới.
6

II. Một số vấn đề pháp lý cơ bản của giao dịch thƣơng mại của ngân hàng
thƣơng mại


6


19
1. Tư cách chủ thể của ngân hàng thương mại trong giao dịch thương mại
1.1. Năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại

1.1.1. Quan niệm về năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại và các yếu tố
ảnh hưởng đến năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại
Năng lực pháp luật của một chủ thể được hiểu là khả năng hành động trong
đời sống pháp luật. Khả năng này của chủ thể pháp luật bao gồm: năng lực hưởng
quyền và năng lực thực hiện các quyền đó (năng lực hành vi). Đối với các chủ thể
tự nhiên của pháp luật như thể nhân thì trong pháp luật dân sự có sự phân biệt giữa
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của thể nhân. Khái niệm
“năng lực pháp luật của pháp nhân” để chỉ khả năng hưởng quyền của pháp nhân
cũng như khả năng thực hiện các quyền đó thông qua người đại diện hợp pháp của
pháp nhân.
Năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng của các yếu tố
cơ bản sau:
Một là, năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại luôn phụ thuộc vào
mục đích và phạm vi chức năng hoạt động của ngân hàng thương mại. Bởi vì năng
lực pháp luật của pháp nhân ngân hàng thương mại là khả năng chủ thể này có các
quyền và nghĩa vụ pháp lý phù hợp với mục đích và phạm vi hoạt động của mình.
Thật vậy, ngân hàng thương mại hoạt động với mục đích đa dạng và phạm vi chức
năng hoạt động rộng lớn thì ngân hàng thương mại phải có nhiều quyền năng hơn
(phạm vi năng lực pháp luật rộng hơn) để đủ sức thực hiện các mục đích và chức
năng đó của mình. Ngược lại, nếu một ngân hàng thương mại có mục đích và phạm
vi hoạt động nhỏ hẹp thì phạm vi các quyền năng pháp lý mà nó được hưởng cũng
bị hạn chế tương ứng.
Hai là, năng lực pháp luật của ngân hàng thương mại phụ thuộc vào ý chí
của Nhà nước. Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền thừa nhận và đảm bảo thực
hiện bằng công cụ pháp luật hoặc không thừa nhận năng lực pháp luật của một chủ
thể pháp luật. Đồng thời, Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền mở rộng hoặc thu
hẹp nội dung năng lực pháp luật của chủ thể pháp luật trong những hoàn cảnh lịch
sử cụ thể nhất định vì lợi ích chung và trật tự công cộng.

×