Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Chính sách đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (774.33 KB, 88 trang )



TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI









KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
CHÍNH SÁCH ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH TẠI CÁC
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP













Sinh viên thực hiện : Lê Thị Hồng
Lớp : Anh 16
Khóa : 44D
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Lê Phương Lan





Hà Nội, 05/2009


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG HIỂU BIẾT CHUNG VỀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH
VÀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM 3
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH 3
1. Các khái niệm 3
1.1. Khái niệm đòn bẩy tài chính 3
1.2. Khái niệm độ bẩy tài chính 6
2. Vai trò của đòn bẩy tài chính đối với các doanh nghiệp 9
2.1. Đòn bẩy tài chính là một công cụ để tăng hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp 9
2.2. Đòn bẩy tài chính là một công cụ giúp các nhà quản lý đưa ra các
quyết định tài chính 9
3. Hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính trong doanh nghiệp 10
3.1. Quan điểm về hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính trong doanh
nghiệp 10
3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính trong

doanh nghiệp 11
3.3. Rủi ro tài chính do sử dụng đòn bẩy tài chính 15
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính của
doanh nghiệp 17
4.1. Các nhân tố chủ quan 17
4.2. Các nhân tố khách quan 18
II. TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT
NAM 19
1. Khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 19
1.1. Khái niệm 19


1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 22
2. Tầm quan trọng của đòn bẩy tài chính đối với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Việt Nam 26
2.1. Bổ sung nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 26
2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ 26
2.3. Nâng cao uy tín của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 27
2.4. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. 28
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH ĐÒN BẨY TÀI
CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM 29
2.1. Hiệu quả sử dụng chính sách đòn bẩy tài chính tại các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 29
2.1.1. Mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Việt Nam 29
2.1.2. Hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính đối với hoạt động của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 39

2.2. Những hạn chế trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 44
2.2.1. Hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính tại một số doanh
nghiệp và trong một số ngành chưa cao 44
2.2.2. Sử dụng chính sách đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp vừa
và nhỏ Việt Nam còn tiềm ẩn nhiều rủi ro 46
2.2.3. Khả năng tiếp cận các nguồn vốn của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ còn thấp 49
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế kể trên 51
2.3.1. Nguyên nhân chủ quan 52


2.3.2. Nguyên nhân khách quan 58
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
CHÍNH SÁCH ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM 62
3.1. Định hướng phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời
gian tới 62
3.1.1. Biến động của thị trường thế giới và thị trường trong nước
thời gian qua 62
3.1.2. Xu hướng phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian
tới 64
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài
chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 67
3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính
tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ 67
3.2.2. Giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn của doanh
nghiệp vừa và nhỏ 70
3.2.3. Giải pháp về nguồn nhân lực 74
3.3. Một số kiến nghị với các tổ chức cho vay và các cơ quan quản

lý Nhà nước 75
3.3.1. Kiến nghị với các ngân hàng thương mại và các tổ chức cho vay
75
3.3.2. Những kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước. 78
KẾT LUẬN 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 81


DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ

Bảng 1: Số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tại Việt Nam qua các
năm 29
Bảng 2: Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam theo lĩnh vực hoạt
động 31
Bảng 3: Mức độ hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính tại các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam. 32
Bảng 4: Tỷ trọng các nguồn tài trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ 33
Bảng 5: Tỷ lệ vốn vay đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp 36
Bảng 6: Thị phần của các công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam từ 2004-
2007 37
Bảng 7: Tổng hợp kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ qua
các năm 40
Bảng 8: Tổng hợp chỉ tiêu hoạt động của một số ngành trong năm 2007 42
Bảng 9: Tổng hợp các chỉ số nợ của doanh nghiệp vừa và nhỏ 43
Bảng 10: Tổng hợp chỉ số ROE của doanh nghiệp vừa và nhỏ 45
Bảng 11: Dư nợ cho vay theo ngành 46
Bảng 12: Tỷ lệ nợ xấu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ qua các năm 47
Bảng 13 : Lãi suất cho vay phổ biến của khối ngân hàng trong năm 2008 49
Bảng 14: Những khó khăn khi tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng 51


Biểu đồ 1: Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ qua các năm 30
Biểu đồ 2: Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2008 33
Biểu đồ 3: Dư nợ tín dụng ngân hàng từ năm 2005 - 2008 34
Biểu đồ 4: Biến động lãi suất trong năm 2008 48
Biểu đồ 5: Khả năng tiếp cận nguồn vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 50


1
LỜI NÓI ĐẦU

Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ là một tất yếu của
tất cả các nền kinh tế và loại hình kinh tế quy mô nhỏ này đang ngày càng thể
hiện vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Tại Việt Nam, với hơn 90% trong tổng số doanh nghiệp là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, loại hình doanh nghiệp này đã đóng góp rất nhiều cho sự
phát triển kinh tế khi thu hút khoảng 50% số lao động trong cả nước và đóng
góp từ 30 - 40% vào tổng sản phẩm quốc nội GDP của quốc gia 23.
Tuy nhiên, do đặc điểm là số vốn tự có thấp nên các doanh nghiệp này
đều phải huy động thêm các nguồn vốn từ bên ngoài để tài trợ cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình. Phần lớn các doanh nghiệp đã sử dụng
các nguồn vốn đó hiệu quả để mang lại thu nhập cao hơn cho các nhà đầu tư
hay các chủ sở hữu doanh nghiệp. Nhưng cũng có những doanh nghiệp đã sử
dụng không hiệu quả, gây ra sự lãng phí lớn cho các nguồn lực của xã hội và
dẫn đến tình trạng doanh nghiệp lâm vào khó khăn và bị phá sản.
Do vậy, việc nghiên cứu cách thức các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử
dụng các khoản nợ này hay nói cách khác là nghiên cứu chính sách đòn bẩy
tài chính tại các doanh nghiệp này đóng một vai trò quan trọng trong việc
giúp các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả hơn.
Xuất phát từ mục tiêu đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Chính sách đòn bẩy
tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam: thực trạng và giải

pháp” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Bằng cách vận dụng tổng
hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, suy luận logic, bài viết
của tôi sẽ đi vào phân tích thực trạng của việc sử dụng đòn bẩy tài chính tại
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, làm rõ một số chỉ tiêu từ đó tìm ra các mặt
được và chưa được của chính sách đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp vừa


2
và nhỏ tại Việt Nam. Sau đó, tôi sẽ đưa ra một vài giải pháp với mong muốn
các doanh nghiệp này sẽ có thể ngày càng nâng cao hiệu quả của chính sách
đòn bẩy tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Bài viết của tôi gồm các phần chính sau:
Chương 1: Những hiểu biết chung về đòn bẩy tài chính và doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
Chương 2: Thực trạng sử dụng chính sách đòn bẩy tài chính tại các
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách đòn bẩy
tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
Trong quá trình thực hiện, tôi xin chân thành cảm ơn ThS. Lê Phương
Lan đã tận tình chỉ bảo và có những đóng góp, gợi ý rất quý báu để giúp tôi
hoàn thành bài viết này.
Tất nhiên, do hạn chế về tầm hiểu biết cũng như thời gian nghiên cứu,
và đây cũng là một đề tài khá mới nên chắc chắn bài viết của tôi còn nhiều sai
sót. Tôi mong nhận được sự đóng góp và gợi ý của tất cả mọi người, đặc biệt
là các thầy cô giáo để tôi có thể hoàn thiện bài viết của mình hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngƣời thực hiện








3
CHƢƠNG 1: NHỮNG HIỂU BIẾT CHUNG VỀ ĐÒN BẨY TÀI
CHÍNH VÀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH
1. Các khái niệm
1.1. Khái niệm đòn bẩy tài chính
Đòn bẩy tài chính và cấu trúc vốn của doanh nghiệp có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Do vậy, để hiểu được đòn bẩy tài chính là gì, trước hết
chúng ta sẽ đi nghiên cứu vấn đề cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Vậy cấu trúc
vốn là gì?
Cấu trúc vốn đề cập tới cách thức doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài
chính thông qua các phương án tài trợ kết hợp giữa bán cổ phần, quyền chọn
mua cổ phần, phát hành trái phiếu và đi vay. Hay nói cách khác, cấu trúc vốn
là việc lựa chọn giữa tài trợ bằng vốn vay nợ hay vốn chủ sở hữu (vốn cổ
phần). Cấu trúc vốn tối ưu là phương án theo đó doanh nghiệp có chi phí vốn
thấp nhất và có giá trị cổ phiếu cao nhất.
Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc vốn và tác động của nó tới
giá trị của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tôi chỉ xin đề cập đến lý thuyết nổi tiếng
nhất về cấu trúc vốn, đó là lý thuyết của Modilligani và Miller (còn gọi là mô
hình M-M). Luận điểm của Modilligani và Miller cho rằng việc sử dụng nợ
trong cấu trúc vốn sẽ làm tăng giá trị của doanh nghiệp.
Trong nghiên cứu đưa ra năm 1958, với các giả định: thị trường vốn
hoàn hảo, không có việc đánh thuế và nguy cơ được hoàn toàn tính toán bởi
biến đổi của các luồng tiền, Modilligani và Miller chỉ ra rằng việc sử dụng nợ
mang đến cho chủ sở hữu tỷ suất lợi tức cao hơn, nhưng lợi tức cao hơn này

chính là việc bù đắp cho việc rủi ro của chủ sở hữu tăng lên do tăng tỷ lệ vốn
vay/ tổng số vốn. Từ đó dẫn đến phương trình:


4
Vg = Vu: Tổng giá trị của doanh nghiệp sử dụng nợ bằng tổng giá trị
của doanh nghiệp không sử dụng nợ.
Tuy nhiên, năm 1963, Modilligani và Miller đưa ra một nghiên cứu
khác, trong đó đưa thêm giả thuyết về thuế thu nhập doanh nghiệp trong
nghiên cứu. Theo đó, việc sử dụng nợ sẽ làm tăng giá trị của doanh nghiệp.
Theo Modilligani và Miller, chi phí lãi vay là chi phí hợp lý được khấu trừ khi
tính thuế thu nhập doanh nghiệp, do đó một phần thu nhập của doanh nghiệp
có sử dụng nợ được chuyển cho các nhà đầu tư theo phương trình: Vg = Vu +
t*D, trong đó:
Vg: Giá trị của doanh nghiệp có sử dụng nợ trong cấu trúc vốn
Vu: Giá trị của doanh nghiệp không sử dụng nợ trong cấu trúc vốn
D: Tổng số nợ doanh nghiệp sử dụng
t: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
t*D: Khoản lợi từ việc sử dụng nợ.
Như vậy, theo mô hình M-M có tính đến thuế thu nhập doanh nghiệp
(năm 1963), cấu trúc vốn có liên quan đến giá trị của doanh nghiệp. Theo đó,
sử dụng nợ càng cao thì giá trị của doanh nghiệp càng tăng và giá trị đó gia
tăng tối đa khi nguồn vốn của doanh nghiệp được tài trợ 100% nợ bằng các
khoản nợ.
Với cách hiểu như trên, đòn bẩy tài chính được hiểu như là việc sử
dụng các khoản nợ trong cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm hy vọng
gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu hoặc gia tăng thu nhập trên một
cổ phần thường đối với công ty cổ phần.
Chúng ta cần phân biệt giữa đòn bẩy tài chính và đòn bẩy hoạt động
(đòn bẩy kinh doanh). Khi nói đến đòn bẩy hoạt động nghĩa là chúng ta nói

đến việc sử dụng các tài sản có chi phí cố định của doanh nghiệp trong hoạt
động sản xuất kinh doanh với hi vọng gia tăng lợi nhuận trước lãi vay và thuế
(EBIT). Còn đòn bẩy tài chính là việc sử dụng chi phí tài chính cố định để


5
nhằm nỗ lực gia tăng lợi nhuận cho cổ đông (EPS) hay nói cách khác là lợi
nhuận sau thuế. Trong thực tế, doanh nghiệp thường sử dụng cả hai đòn bẩy
trên để gia tăng tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu hoặc thu nhập cho cổ đông
thường. Sự kết hợp như vậy sẽ tạo ra đòn bẩy tổng hợp trong doanh nghiệp;
tuy nhiên trong giới hạn của bài viết này, tôi chỉ xin đi sâu vào nghiên cứu và
phân tích đòn bẩy tài chính.
Qua định nghĩa về đòn bẩy tài chính, ta thấy có hai hình thức để sử dụng
đòn bẩy tài chính: đó là thông qua vay nợ và phát hành cổ phiếu ưu đãi. Hai
hình thức này có các đặc điểm khác nhau, thể hiện bản chất của mỗi hình thức:
+ Tài trợ bằng vay nợ: Khi doanh nghiệp sử dụng nợ thì doanh nghiệp
luôn luôn phải trả lãi vay, và khoản chi trả lãi vay này lại được tính vào chi
phí hợp lý trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Do đó nó tạo nên một
khoản tiết kiệm nhờ thuế, nên chi phí lãi vay sau thuế chỉ còn là I(1 - t), trong
đó I là lãi vay, t là thuế suất. Nếu thu nhập trước thuế và lãi vay (EBIT) tăng
lên thì rõ ràng là chi phí lãi vay không thay đổi do đó mà phần lợi nhuận trên
vốn cổ phần thường sẽ tăng lên (vì số lượng cổ phiếu không đổi trong khi lợi
nhuận sau thuế lại tăng). Nhưng nếu thu nhập trước thuế và lãi vay giảm thì
tác động của đòn bẩy tài chính lại ngược lại. Lúc đó chi phí lãi vay không
giảm trong khi thu nhập trước thuế và lãi vay lại bị suy giảm, do đó thu nhập
trên cổ phần thường cũng sẽ giảm đi.
+ Tài trợ thông qua phát hành cổ phiếu ưu đãi: Do đặc điểm của cổ
phần ưu đãi là luôn nhận một lượng cổ tức nhất định và biết trước nên rất
thuận lợi trong việc lập kế hoạch tài chính. Chính vì cổ tức ưu đãi là cố định
nên khi thu nhập sau thuế mà tăng lên thì thu nhập trên vốn cổ phần thường

tăng lên. Trong trường hợp thu nhập sau thuế bị giảm thì lại làm cho thu nhập
trên vốn cổ phần thường bị giảm do cổ tức ưu đãi được chi trả trước cổ tức cổ
phiếu thường và nó lại cố định, dẫn đến hậu quả là thu nhập trên vốn cổ phần
thường bị giảm sút.


6
Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng việc sử dụng cổ phiếu ưu đãi sẽ
không tạo ra một khoản tiết kiệm nhờ thuế (còn gọi là “lá chắn” thuế) giống
như sử dụng nợ. Nguyên nhân là do cổ tức ưu đãi không được coi là một
khoản chi phí hợp lý nên sẽ không được trừ đi khi tính toán lợi nhuận sau
thuế. Tuy nhiên, khi thu nhập sau thuế của doanh nghiệp quá thấp, doanh
nghiệp có thể quyết định không trả cổ tức cho những người nắm giữ cổ phiếu
ưu đãi mà không làm gia tăng thêm nợ cho doanh nghiệp (điều này có thể do
đại hội đồng cổ đông quyết định hoặc được quy định trong điều lệ của công
ty), nhưng đối với các khoản nợ vay, doanh nghiệp vẫn phải trả. Thậm chí,
khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, những khoản vay nợ có thể khiến
cho doanh nghiệp đi đến tình trạng phá sản. Một điểm khác biệt nữa là việc sử
dụng cổ phần ưu đãi có thể gây ra tình trạng phân chia quyền lực trong doanh
nghiệp do những cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi là chủ sở hữu doanh nghiệp
chứ không chỉ là chủ nợ đơn thuần, trong khi việc sử dụng hình thức vay nợ
hoàn toàn không dẫn đến tình trạng pha loãng quyền kiểm soát của các chủ sở
hữu doanh nghiệp. Đây cũng là một vấn đề quan trọng mà các nhà quản trị tài
chính cần quan tâm khi đưa ra các quyết định tài chính.
1.2. Khái niệm độ bẩy tài chính
Khi doanh nghiệp sử dụng nợ vay hay nói cách khác là doanh nghiệp
sử dụng đòn bẩy tài chính thì lãi vay là một khoản chi phí tài chính cố định;
do đó, một sự thay đổi nhỏ của lợi nhuận trước thuế và lãi vay cũng có thể
dẫn đến một thay đổi trong tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sỡ hữu (ROE) hoặc thu
nhập trên một cổ phần đối với các công ty cổ phần (EPS).

Để đánh giá ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính đến tỷ suất lợi nhuận/vốn
chủ sở hữu hoặc thu nhập trên một cổ phần, người ta sử dụng một thước đo
gọi là mức độ tác động của đòn bẩy tài chính hay độ bẩy tài chính (Degree of
Financial Leverage - DFL).


7
Độ bẩy tài chính thể hiện khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay thay đổi
1% thì tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (hoặc thu nhập trên cổ phần thường)
sẽ thay đổi bao nhiêu %. Từ đó, ta có thể đưa ra công thức xác định độ bẩy tài
chính như sau:
Một số ký hiệu:
I là chi phí lãi vay
EPS (Earning per share) là thu nhập trên mỗi cổ phần thường
EBIT là thu nhập trước thuế và lãi vay
PD là cổ tức ưu đãi
NS là số lượng cổ phần thường

EBIT cña æi thay tr¨m PhÇn
EPS cña æi thay tr¨m PhÇn
chÝnh(DFL) tµi bÈy é§
đ
đ

(1.1)

EBIT%
EPS%
DFL




(1.2)
Như chúng ta biết:
NS
PD-t)-(1*I)-(EBIT
EPS 
(1.3)

NS
PD-t)-(1*I)-EBIT(
EPS


(1.4)

NS
t)-(1*EBIT



(1.5)
Vì I và PD là hằng số nên ∆I và ∆PD bằng 0, nên ta có:

NS
PD-t)-(1*I)-(EBIT
NS
t)-(1* EBIT

EPS

EPS



(1.6)

PD-t)-(1*I)-(EBIT
t)-(1*EBIT



(1.7)




8
Nên công thức tính độ bẩy tài chính được tính như sau:

EBIT
PDtIEBIT
tEBIT
EBIT
DFL




)1)((
)1(*

(1.8)

PD-t)-(1*I)-(EBIT
)1(* tEBIT 

(2.1)
Chia cả tử và mẫu cho (1 - t) ta được:

t-1
PD
-I-EBIT
EBIT
DFL
(2.2)
Đây là trường hợp trong cơ cấu vốn có cả vốn cổ phần ưu đãi, nhưng
nếu trong trường hợp không có vốn cổ phần ưu đãi trong cơ cấu vốn thì công
thức tính độ bẩy tài chính đơn giản hơn nhiều và độ bẩy tài chính được tính
theo công thức sau:

I-EBIT
EBIT
DFL 
(2.3)
Từ công thức 2.2 và công thức 2.3 ta có thể thấy độ bẩy của đòn bẩy
tài chính trong hai trường hợp có dùng vốn cổ phần ưu đãi và không dùng vốn
cổ phần ưu đãi trong cơ cấu nguồn vốn là khác nhau.
+ Nếu chi phí trả cổ tức ưu đãi (PD) lớn hơn phần tiết kiệm nhờ thuế do
sử dụng nợ (1 - t)*I thì độ bẩy của đòn bẩy tài chính khi sử dụng cả nợ và cổ
phần ưu đãi trong cơ cấu vốn sẽ lớn hơn trong trường hợp chỉ sử dụng nợ.
+ Nếu chi phí trả cổ tức cổ phần ưu đãi (PD) nhỏ hơn phần tiết kiệm nhờ

thuế do sử dụng nợ (1 - t)*I thì độ bẩy tài chính trong trường hợp chỉ dùng nợ
trong cơ cấu nguồn vốn lại lớn hơn trường hợp dùng cả vốn cổ phần ưu đãi.





9
2. Vai trò của đòn bẩy tài chính đối với các doanh nghiệp
2.1. Đòn bẩy tài chính là một công cụ để tăng hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp
Sử dụng đòn bẩy tài chính nghĩa cũng đồng nghĩa với việc sử dụng các
chi phí tài chính cố định. Hay nói cách khác doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy
tài chính với hi vọng đạt được lợi nhuận cao hơn chi phí cố định của nợ và cổ
phần ưu đãi, từ đó gia tăng lợi nhuận cho cổ đông thường.
Như đã phân tích ở trên, khi sử dụng đòn bẩy tài chính, doanh nghiệp
đã cố định được chi phí tài chính trong kỳ sản xuất kinh doanh bằng các
khoản lãi vay và cổ tức ưu đãi. Như vậy, sự biến động trong thu nhập trước
thuế và lãi vay hoàn toàn không ảnh hưởng tới các chi phí tài chính mà doanh
nghiệp phải trả trong kỳ. Nếu thu nhập trước thuế và lãi vay tăng lên thì thu
nhập sau thuế của doanh nghiệp cũng tăng lên, do chi phí tài chính đã cố định.
Do đó, thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE) hay thu nhập của cổ đông thường
(EPS) đối với doanh nghiệp cổ phần sẽ tăng lên.
Dựa trên nguyên tắc này, khi sử dụng đòn bẩy tài chính, doanh nghiệp
sẽ tìm cách để gia tăng lợi nhuận trước thuế và lãi vay, để từ đó gia tăng tỷ
suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu hoặc thu nhập của cổ đông thường. Điểm quan
trọng ở đây là doanh nghiệp không cần phải tăng nguồn vốn chủ sở hữu mà có
thể tận dụng nguồn vốn từ bên ngoài để gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Điều đó cũng đồng nghĩa với việc quyền của các cổ đông thường hay chủ sở
hữu của doanh nghiệp sẽ không bị pha loãng. Hay nói cách khác, bằng cách

sử dụng đòn bẩy tài chính, doanh nghiệp đã làm tăng lợi nhuận cho những
người nắm giữ công ty bằng nguồn vốn không phải của họ.
2.2. Đòn bẩy tài chính là một công cụ giúp các nhà quản lý đưa ra các
quyết định tài chính
Việc nghiên cứu đòn bẩy tài chính giúp cho doanh nghiệp có thêm công
cụ và thông tin để đưa ra các quyết định tài chính. Trên thực tế, đòn bẩy tài


10
chính được các doanh nghiệp sử dụng với hi vọng làm tăng lợi nhuận trên vốn
chủ sở hữu. Tuy nhiên, đòn bẩy tài chính cũng là con dao hai lưỡi vì nó làm
tăng tính khả biến hay rủi ro trong lợi nhuận của cổ đông thường. Chẳng hạn,
khi thu nhập trước thuế và lãi vay của doanh nghiệp ít hơn chi phí tài chính cố
định của nợ và cổ tức ưu đãi thì việc sử dụng đòn bẩy tài chính có thể làm
giảm lợi nhuận của các cổ đông thường. Hay nói cách khác, đòn bẩy tài chính
đã phóng đại lỗ tiềm năng của các cổ đông thường. Đối với những người ra
quyết định tài chính thì việc nghiên cứu đòn bẩy tài chính làm sáng tỏ nguyên
tắc đánh đổi lợi nhuận và rủi ro trong các quyết định tài chính.
Đòn bẩy tài chính cũng giúp cho doanh nghiệp có thêm một công cụ để
tính toán thu nhập dự kiến trên cổ phần thường (EPS) có thể đạt được trong
kỳ ứng với kết cấu nguồn vốn hiện tại của doanh nghiệp. Điều này rất quan
trọng đối với các doanh nghiệp trong việc lựa chọn các quyết định tài chính
sao cho hiệu quả nhất.
3. Hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính trong doanh nghiệp
3.1. Quan điểm về hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính trong doanh nghiệp
Có rất nhiều quan điểm về hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính trong
doanh nghiệp tùy thuộc người xem xét đó là ai. Tuy nhiên, trong phạm vi
quản lý doanh nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến các hiệu quả kinh tế.
Do vậy, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất về hiệu quả sử dụng đòn
bẩy tài chính theo quan điểm sau: Hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính phản

ánh trình độ, năng lực của doanh nghiệp trong việc sử dụng nợ và cổ phần ưu
đãi để đảm bảo cho tỷ suất lợi nhuận /vốn chủ sở hữu hoặc thu nhập trên vốn
cổ phần thường là lớn nhất trong mọi trường hợp.



11
Hiệu quả sử dụng đòn bẩy phản ánh mối quan hệ giữa kết quả
1
thu
được và chi phí
2
phải bỏ ra khi sử dụng đòn bẩy tài chính. Kết quả thu được
càng cao so với chi phí tài chính bỏ ra thì hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính
càng cao. Điều này được thể hiện thông qua hệ thống các chỉ tiêu về mức sinh
lời trên vốn chủ sở hữu, trên vốn cổ phần thường và một số chỉ tiêu có liên
quan khác. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính là mục tiêu
quan trọng để doanh nghiệp có thể cải thiện chất lượng quản lý tài chính. Bên
cạnh đó, doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử
dụng đòn bẩy tài chính để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt
hạn chế và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quá trình sử dụng
đòn bẩy tài chính.
Có hai phương pháp để phân tích hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính
của doanh nghiệp, đó là phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ số.
3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính trong doanh
nghiệp
Để phục vụ cho việc phân tích hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính của
doanh nghiệp, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau đây.
- Chỉ tiêu thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE: Return On Equity)


VCSH
TNST
ROE 

Trong đó: - ROE: Thu nhập trên vốn chủ sở hữu
- TNST: Thu nhập sau thuế
- VCSH: Vốn chủ sở hữu
Đây là chỉ tiêu mà các nhà đầu tư rất quan tâm vì nó cho thấy khả năng
sinh lợi của một đồng vốn họ bỏ ra để đầu tư vào doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu


1
Kết quả của việc sử dụng đòn bẩy tài chính là việc thu nhập trên cổ phần thường hay thu nhập trên vốn chủ
sở hữu tăng lên.
2
Chi phí của việc sử dụng đòn bẩy tài chính là chi phí tài chính cố định phải chi ra cho việc sử dụng nợ và
rủi ro doanh nghiệp phải gánh chịu thêm khi gia tăng sử dụng nợ. Tuy nhiên, để đơn giản, trong bài viết này
chúng ta chỉ tính đến chi phí trả lãi vay.


12
tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu càng cao thì chứng tỏ doanh nghiệp sử
dụng ngày càng hiệu quả hơn những khoản vốn vay nên đã khuyếch đại được
tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu. Tăng mức doanh lợi trên vốn chủ sở hữu
là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh
nghiệp. Để đánh giá chỉ tiêu này chúng ta có thể so sánh chỉ tiêu này với số
liệu của năm trước hoặc với mức trung bình của ngành. Nếu một doanh
nghiệp mà sử dụng hiệu quả đòn bẩy tài chính thì chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên
vốn chủ sở hữu sẽ cao và tăng nhanh qua các năm. Ngược lại nếu sử dụng đòn
bẩy tài chính không hiệu quả thì chỉ tiêu này sẽ không cao hay không tăng

hoặc thậm chí là giảm so với năm trước đó. Chính vì thế mà chỉ tiêu này được
dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính.
- Chỉ tiêu thu nhập trên cổ phần thường (EPS: Earning per share)

NS
PDTNST
EPS



Trong đó: - EPS: Thu nhập trên mỗi cổ phần thường
- TNST: Thu nhập sau thuế
- PD: Cổ tức ưu đãi
- NS: Số cổ phần thường
Chỉ tiêu thu nhập trên mỗi cổ phần thường thể hiện thu nhập mà nhà
đầu tư có được khi nắm giữ một cổ phần của công ty. Chỉ tiêu này càng cao
thì chứng tỏ doanh nghiệp này sử dụng đòn bẩy tài chính càng hiệu quả. Để
thấy được việc sử dụng đòn bẩy tài chính có hiệu quả hay không, ta lấy chỉ
tiêu này so với cũng con số của năm trước đó. Nếu lớn hơn chứng tỏ doanh
nghiệp đã tiến bộ trong quản lý tài chính mà cụ thể là nâng cao được hiệu quả
sử dụng đòn bẩy tài chính. Thu nhập trên vốn cổ phần thường là mục tiêu của
việc sử dụng đòn bẩy tài chính nên việc dùng chỉ tiêu này để đánh giá hiệu
quả sử dùng đòn bẩy tài chính là tất yếu.


13
Hai chỉ tiêu trên là hai chỉ tiêu đánh giá kết quả trực tiếp của đòn bẩy
tài chính có được sử dụng một cách hiệu quả hay không. Nếu nó được sử
dụng một cách hiệu quả thì hai chỉ tiêu này phải đạt giá trị lớn nhất có thể.
Mặc dù cùng được dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính

nhưng hai chỉ tiêu này có một chút khác biệt. Với chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên
vốn chủ sở hữu nó phản ánh mức sinh lợi trên vốn cổ phần thường và vốn cổ
phần ưu đãi, còn với chỉ tiêu thu nhập trên vốn cổ phần thường thì lại chỉ xét
khả năng sinh lợi trên vốn cổ phần thường. Trong khi sử dụng vốn cổ phần ưu
đãi cũng tạo nên độ bẩy cho thu nhập trên vốn cổ phần thường. Chính vì sự
khác biệt này nên khi đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính thì chỉ tiêu
thu nhập trên vốn cổ phần thường là chỉ tiêu quan trọng hơn. Bên cạnh đó thì
còn một vài chỉ tiêu liên quan khác để đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài
chính một cách không trực tiếp.
- Chỉ tiêu doanh lợi trên tổng tài sản (ROA: Return On Asset)

TTS
TNST
ROA

Trong đó: - ROA: Doanh lợi trên tổng tài sản
- TNST: Thu nhập sau thuế
- TTS: Tổng tài sản
Chỉ tiêu này dùng kết hợp với chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở
hữu để thấy được hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp.
Chẳng hạn như năm 2007 doanh nghiệp có chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên vốn
chủ sở hữu và tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản đạt lần lượt là 12%, 10%, đến
năm 2008 thì các chỉ tiêu này lần lượt là 14%, 10%. Ta có thể thấy sự chênh
lệch của chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu so với chỉ tiêu tỷ suất
sinh lời trên tổng tài sản của năm 2007 là 2% nhưng đến năm 2008 thì nó lại
là 4%. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng ngày càng có hiệu quả
những khoản nợ, từ đó mà làm cho tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu tăng


14

nhanh hơn tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản. Lúc này ta có thể kết luận là doanh
nghiệp đã sử dụng đòn bẩy tài chính có hiệu quả, hay đòn bẩy tài chính trong
doanh nghiệp đã phát huy tác dụng ngày càng tốt hơn.
- Chỉ tiêu độ bẩy tài chính (DFL: Degree of Financial Leverage)

EBIT%
EPS%
DFL




Trong đó: - DFL: Độ bẩy tài chính
- %EPS: % thay đổi của thu nhập trên cổ phần thường
- %EBIT: % thay đổi của thu nhập trước thuế và lãi vay
Chỉ tiêu độ bẩy tài chính thể hiện khả năng khuyếch đại của đòn bẩy tài
chính. Chỉ tiêu này càng lớn thì thể hiện sức mạnh của đòn bẩy càng lớn, chỉ
cần thu nhập trước thuế và lãi vay thay đổi một lượng nhỏ thì cũng tạo nên
một sự thay đổi lớn hơn nhiều trong thu nhập trên vốn cổ phần thường. Người
ta đánh giá chỉ tiêu này bằng cách so sánh với các năm trước đó. Tuy nhiên
khi chỉ tiêu này càng cao thì kéo theo sự gia tăng của rủi ro tài chính, nên cần
đánh giá chỉ tiêu này một cách linh động, không quá máy móc về độ lớn. Khi
thu nhập trước thuế và lãi vay đủ lớn để trang trải những khoản lãi vay và dư
ra một lượng thì khi đó độ bẩy càng cao sẽ càng tốt. Đây chỉ là chỉ tiêu mang
tính phụ trợ cho việc đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính và thường
được sử dụng khi xem xét tác động của đòn bẩy tài chính trong một doanh
nghiệp cụ thể.
- Chỉ tiêu hệ số nợ

ns¶ tµi Tæng

nî Tæng
nî sè HÖ 

Hệ số nợ càng lớn làm cho độ bẩy tài chính và rủi ro tài chính đều tăng
lên. Hệ số nợ này kết hợp với hai chỉ tiêu chính ở trên để đánh giá hiệu quả sử
dụng đòn bẩy tài chính. Nếu hệ số nợ tăng nhanh mà tỷ suất sinh lời trên vốn


15
chủ sở hữu, thu nhập trên vốn cổ phần thường tăng chậm so với các năm
trước chứng tỏ hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính không tốt.
Trong chỉ tiêu hệ số nợ, người ta phân thành nợ ngắn hạn và nợ dài hạn
trên tổng tài sản để thấy được cơ cấu nợ của doanh nghiệp.
- Chỉ tiêu khả năng thanh toán:

h¹n ng¾n Nî
déng l-u ns¶ Tµi
nkho¶ thanh sè ChØ 

Chỉ số thanh khoản thể hiện khả năng chi trả các khoản nợ hay tốc độ
chuyển tài sản thành tiền mặt của doanh nghiệp. Theo nguyên tắc, chỉ số này
càng cao càng tốt. Tuy nhiên, nếu chỉ số này quá cao nghĩa là doanh nghiệp
đang để lãng phí các nguồn vốn trong doanh nghiệp vì có quá nhiều tiền mặt
và các khoản tương đương tiền trong công ty. Đó là điều không tốt đối với
một doanh nghiệp.
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể sử dụng một số chỉ số khác như khả
năng thanh toán lãi vay để thấy được đòn bẩy tài chính đang phát huy hiệu
quả tích cực hay tiêu cực tại các doanh nghiệp.
3.3. Rủi ro tài chính do sử dụng đòn bẩy tài chính
Khi sử dụng các chỉ tiêu trên để đánh giá hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài

chính thì chỉ mới xét tới các tác động trực tiếp của đòn bẩy tài chính lên thu
nhập trên vốn cổ phần thường hay tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu. Tuy
nhiên, cần phải chú ý rằng: gia tăng mức độ đòn bẩy tài chính đồng nghĩa với
việc gia tăng nợ của doanh nghiệp và kéo theo đó là rủi ro đối với doanh
nghiệp cũng tăng lên. Trong phần bài viết của mình, tôi xin đề cập tới hai loại
rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải khi sử dụng đòn bẩy tài chính
- Rủi ro thanh toán: Khi sử dụng đòn bẩy tài chính nghĩa là doanh
nghiệp đang tận dụng những nguồn vốn có chi phí cố định từ bên ngoài để tài
trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều đó thực sự mang lại cho doanh
nghiệp rất nhiều lợi ích như tăng lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, không phải


16
chia sẻ quyền kiểm soát công ty. Tuy nhiên, việc sử dụng nợ quá nhiều có thể
dẫn đến rủi ro thanh toán, nghĩa là doanh nghiệp không có khả năng thanh
toán các khoản nợ khi đến hạn. Trong điều kiện kinh tế thuận lợi và tăng
trưởng, có thể các doanh nghiệp sẽ không phải đối mặt với loại rủi ro này bởi
lúc đó thu nhập trước thuế và lãi vay lớn hơn chi phí tài chính cố định của vốn
vay và cổ phần ưu đãi nên doanh nghiệp vẫn có đủ khả năng để thanh toán
các khoản nợ khi đến hạn. Hơn thế nữa, trong nền kinh tế vẫn có nhiều nguồn
vốn và rất nhiều nhà đầu tư, tổ chức sẵn sàng cho vay nên doanh nghiệp có
thể dễ dàng tìm được nguồn tài trợ cho các dự án sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế gặp khó khăn hoặc lâm vào khủng hoảng, lợi
nhuận của các doanh nghiệp sẽ bị giảm xuống, thậm chí là âm nên doanh
nghiệp không còn đủ khả năng để chi trả cả lãi và nợ gốc của các khoản vay.
Trên thị trường lúc này, cung về cho vay cũng giảm nên doanh nghiệp sẽ gặp
phải khó khăn trong việc huy động các nguồn vốn khác để thực hiện các
nghĩa vụ với các khoản phải trả. Và như đã phân tích ở trên, gánh nặng của
các khoản vay lúc này có thể khiến cho doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán và lâm vào tình trạng phá sản.

- Rủi ro lãi suất: Khi doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính, doanh
nghiệp phải trả lãi cho các khoản vay. Thông thường đối với các khoản vay từ
ngân hàng hoặc từ các tổ chức tài chính - tín dụng khác, lãi suất sẽ được quyết
định trước khi doanh nghiệp nhận được khoản vay và thường thì tỷ lệ lãi suất sẽ
được cố định trong suốt thời gian vay. Như vậy, doanh nghiệp có thể dễ dàng
hoạch toán các chi phí tài chính cho các chu kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo.
Tuy nhiên, khi lãi suất trên thị trường cho vay biến động, nó sẽ ảnh
hưởng tới doanh nghiệp. Ví dụ như trong trường hợp, lãi suất cho vay giảm
xuống, rõ ràng, tại thời điểm đó doanh nghiệp có thể vay nợ với chi phí thấp
hơn, nhưng hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp đã được ký
trước đó nên doanh nghiệp vẫn phải trả một số tiền lãi cao hơn cho cùng một


17
khoản vay. Rủi ro lãi suất xuất hiện nhiều trong thời kỳ kinh tế suy thoái, có
nhiều biến động hoặc chính sách tài chính - tiền tệ của nhà nước không ổn định.
Đó là hai rủi ro mà doanh nghiệp rất hay gặp phải khi sử dụng đòn bẩy
tài chính. Ngoài ra còn có rất nhiều rủi ro khác. Do vậy, các nhà ra quyết định
tài chính phải nghiên cứu thật kỹ trước khi đưa ra những quyết định nhằm
giúp doanh nghiệp hạn chế các rủi ro khi sử dụng đòn bẩy tài chính.
4. Các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính của
doanh nghiệp
4.1. Các nhân tố chủ quan
- Uy tín của doanh nghiệp: Khi doanh nghiệp muốn sử dụng đòn bẩy
tài chính thì trước tiên doanh nghiệp phải tìm thấy được nguồn vốn để vay nợ
hoặc phải đủ điều kiện để phát hành chứng khoán (trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu
đãi). Điều này đối với một số doanh nghiệp thì rất đơn giản, trong khi đối với
một số doanh nghiệp khác thì lại rất khó khăn. Nguyên nhân là do uy tín của
doanh nghiệp đó trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có uy tín tốt, việc vay nợ
và huy động vốn cổ phần ưu đãi thường không khó và ít tốn kém. Nhưng

ngược lại, uy tín của doanh nghiệp không đủ lớn để tạo niềm tin cho chủ nợ
và cổ đông thì việc huy động các nguồn vốn sẽ gặp nhiều khó khăn và tốn
kém hơn. Việc huy động vốn có ảnh hưởng đến việc sử dụng đòn bẩy tài
chính nên nó tác động đến hiệu quả của đòn bẩy tài chính trong các doanh
nghiệp. Mặt khác, nếu doanh nghiệp có uy tín tốt thì trong quá trình sử dụng
đòn bẩy tài chính sẽ có rất nhiều thuận lợi. Chẳng hạn, khi doanh nghiệp thực
sự gặp khó khăn về tài chính, họ có thể được hoãn trả nợ, thậm chí huy động
thêm được các nguồn tài trợ khác để khắc phục những khó khăn đó. Điều này
không những hạn chế được mặt tiêu cực của đòn bẩy tài chính mà còn giúp
cho doanh nghiệp tránh được những kịch bản xấu hơn như bị thâu tóm hoặc bị
phá sản.


18
- Trình độ của các nhà quản trị doanh nghiệp: Vấn đề trình độ của
các nhà lãnh đạo luôn là một vấn đề quan trọng đối với tất cả doanh nghiệp.
Nếu như các nhà quản trị doanh nghiệp không hiểu thấu đáo về đòn bẩy tài
chính thì việc sử dụng nó quả thực là một thách thức đối với doanh nghiệp và
hiệu quả của đòn bẩy tài chính đối với doanh nghiệp là một bài toán khó.
Chẳng hạn, khi đòn bẩy tài chính đang phát huy tác dụng hay thể hiện mặt trái
của nó, nếu nhà quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là những người đưa ra các
quyết định tài chính không nắm rõ sẽ không biết cách để làm tăng thu nhập trên
cổ phần thường hoặc hạn chế những hậu quả do đòn bẩy tài chính mang lại.
- Chiến lược phát triển của doanh nghiệp: Hiệu quả của việc sử dụng
đòn bẩy tài chính còn phụ thuộc vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp đang có chiến lược mở rộng quy mô, lĩnh vực hoạt động
thì sẽ rất cần vốn. Điều đó tất yếu dẫn đến việc vay nợ hay sử dụng vốn cổ
phần thường, cổ phần ưu đãi. Nếu doanh nghiệp đang có ý định chuyển lĩnh
vực kinh doanh từ chổ ít rủi ro sang chổ có nhiều rủi ro thì rất có thể doanh
nghiệp sẽ sử dụng ít nợ đi để nhằm không làm tăng hơn nữa rủi ro cho doanh

nghiệp. Khi đó, đòn bẩy tài chính sẽ ít được sử dụng và hiệu quả của nó trong
doanh nghiệp cũng sẽ giảm đi.
4.2. Các nhân tố khách quan
- Thị trường tài chính: Nếu doanh nghiệp đang ở trong một thị trường
tài chính tương đối phát triển thì việc huy động vốn sẽ có rất nhiều thuận lợi.
Điều này tạo điều kiện tốt cho doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính, từ đó
nó có tác động tốt tới hiệu quả của chính sách đòn bẩy tài chính trong doanh
nghiệp. Giả sử, doanh nghiệp đang ở trong một thị trường tài chính chưa phát
triển thì sẽ khó khăn trong việc huy động nợ hay cổ phần ưu đãi, điều đó sẽ
gây tâm lý lo lắng cho các nhà quản trị tài chính trong việc sử dụng đòn bẩy
tài chính.
- Chi phí lãi vay: Đây là một nhân tố rất quan trọng, ảnh hưởng đến số
lượng nợ được sử dụng trong các doanh nghiêp. Khi chi phí nợ thấp thì doanh


19
nghiệp sẽ dùng nhiều nợ hơn để tài trợ cho các hoạt động của mình, khi đó
mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp sẽ cao lên. Ngược lại, khi
chi phí nợ mà cao thì doanh nghiệp phải giảm việc sử dụng nợ, từ đó mà làm
cho mức độ bẩy của đòn bẩy tài chính giảm đi. Nếu với cùng một lượng nợ
như nhau nhưng chi phí nợ giảm đi thì hiển nhiên thu nhập trước thuế sẽ tăng
lên làm cho thu nhập trên cổ phần thường được khuyếch đại lớn hơn.
- Chính sách, luật pháp Nhà nước: Doanh nghiệp luôn bị chi phối bởi
các chính sách vĩ mô của Nhà nước. Ví dụ như, chính sách thuế thu nhập
doanh nghiệp, nếu thuế thu nhập doanh nghiệp càng cao thì càng khuyến
khích doanh nghiệp dùng nhiều nợ, khi ấy doanh nghiệp sẽ có phần tiết kiệm
được nhờ thuế là lớn. Khi nó khuyến khích doanh nghiệp dùng nhiều nợ thì
cũng đồng nghĩa với việc khuyến khích doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài
chính nhiều hơn. Tuy nhiên, việc thuế thu nhập doanh nghiệp quá cao cũng
khiến cho nhiều doanh nghiệp không có động cơ sản xuất hiệu quả hoặc phát

sinh tâm lý muốn tránh thuế, lậu thuế.
Ngoài các yếu tố trên, còn có rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến hiệu
quả sử dụng đòn bẩy tài chính trong các doanh nghiệp như: lĩnh vực hoạt
động của doanh nghiệp, thực trạng nền kinh tế
II. TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM
1. Khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
1.1. Khái niệm
- Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các quốc gia trên thế giới
Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tiếng Anh là Small and medium
enterprises và được viết tắt là SMEs dùng để chỉ những doanh nghiệp có số
lao động hay doanh số dưới một giới hạn nào đó.
Từ viết tắt SMEs được dùng phổ biến ở cộng đồng các nước châu Âu
và các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Liên hợp quốc, tổ chức
Thương mại thế giới và phổ biến nhất là tại Mỹ.


20
Các nước thuộc Cộng đồng châu Âu có cách định nghĩa về doanh
nghiệp vừa và nhỏ của riêng họ. Ví dụ như ở Đức, doanh nghiệp vừa và nhỏ
được định nghĩa là những doanh nghiệp có số lao động dưới 500 người, trong
khi đó ở Bỉ là dưới 100 người. Tuy nhiên, hiện nay Liên minh châu Âu EU đã
bắt đầu có khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ chuẩn hóa hơn. Đó là
những doanh nghiệp có dưới 50 lao động thì được gọi là doanh nghiệp nhỏ và
những doanh nghiệp có dưới 250 lao động thì gọi là doanh nghiệp vừa. Trong
khi đó, theo định nghĩa của Mỹ thì những doanh nghiệp có dưới 100 lao động
là những doanh nghiệp nhỏ, còn những doanh nghiệp có số lao động dưới 500
được coi là những doanh nghiệp vừa 7. Ở các quốc gia châu Phi, họ cũng có
những cách định nghĩa riêng về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì sự khác
nhau về định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các quốc gia mà cách hiểu
cũng khác nhau, khiến cho việc nghiên cứu về doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp

rất nhiều khó khăn.
Trong hầu hết các nền kinh tế, doanh nghiệp nhỏ chiếm đại đa số. Ở
Liên minh châu Âu, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 99% tổng số
doanh nghiệp và có số lao động lên đến 65 triệu người. Trong một số ngành
kinh tế, doanh nghiệp vừa và nhỏ giữ vai trò chỉ đạo trong công cuộc cải tạo
và là động lực phát triển của nền kinh tế. Trên toàn thế giới, doanh nghiệp vừa
và nhỏ chiếm khoảng 99% số doanh nghiệp và từ 40% đến 50% trong tổng
thu nhập quốc nội GDP 9.
Trong khi đó, tại New Zealand, doanh nghiệp vừa và nhỏ có một sự
đóng góp đáng kể cho nền kinh tế cả về số lượng các doanh nghiệp và tỷ lệ %
lực lượng lao động. Tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với
New Zealand ngày càng gia tăng khi cơ hội toàn cầu hóa và sự phát triển khoa
học kỹ thuật ngày càng tăng lên. Theo số liệu thống kê năm 2006, hầu hết các
doanh nghiệp ở New Zealand là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, số lượng doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 96% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế,

×