Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

triết học nho giáo và ảnh hưởng của triết học nho giáo đến nền văn hóa truyền thống của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.33 KB, 25 trang )

TRIẾT HỌC NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC NHO GIÁO
ĐẾN NỀN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA VIỆT NAM
oOo
A. MỞ ĐẦU
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất
trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại
trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa
là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát
minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra
nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng
như toàn thế giới.
Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học
Nho giáo. Nho gia, Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “nhân”
(người), đứng cạnh chữ “nhu” (cần, chờ, đợi). Nho gia còn được gọi là nhà
nho, người đã đọc thấu sách thánh hiền được thiên hạ trọng dụng dạy bảo
cho mọi người sống hợp với luân thường đạo lý. Nho giáo xuất hiện rất sớm,
lúc đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc trí thức chuyên học văn chương và lục
nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng tử đã hệ thống hoá những tư tưởng
và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là nho học hay “Khổng học” - gắn
với tên người sáng lập ra nó.
Ngày nay, chúng ta thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia phong”
là những câu nói răn dạy để giáo dục con người Việt Nam sống có phép tắc,
khuôn mẫu đạo đức nhất định theo tinh thần “Nho giáo”, đồng thời còn là
biểu tưởng tự hào về truyền thống văn hoá dân tộc, là nguyên khí tinh thần
độc lập, từ cường của một dân tộc, là bản sắc riêng về truyền thống văn hoá.
1
Tìm hiểu về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đến truyền thống văn hóa
Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
B. NỘI DUNG
1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ - TRUNG ĐẠI


1.1 Đặc điểm chính trị, xã hội Trung Hoa cổ - trung đại :
a- Địa lý : Nước Trung Hoa chiếm một diện tích rất rộng lớn. Phía Đông giáp
bờ Thái Bình Dương, phía Tây giáp các vùng cao nguyên, núi non hiểm trở
như Himalaya, Tây Tạng, phía Bắc tiếp giáp vùng Xiberia quanh năm lạnh
giá, phía Nam giáp các quốc gia Nam Châu Á. Tổng diện tích nước Trung
Hoa chiếm gần 1/3 Châu Á. Thiên nhiên và điều kiện tự nhiên của nước
Trung Hoa thay đổi rất lớn ở những vùng khác nhau. Phía Bắc là những cao
nguyên, bình nguyên rộng lớn, khí hậu khắc nghiệt, phía Nam có núi sông
bao bọc hiểm trở, ở giữa là các đồng bằng rộng lớn của các con sông như
Hoàng Hà, Dương Tử… Chính nhờ sự phong phú của điều kiện thiên nhiên,
khí hậu mà có nhiều chủng tộc sinh sống trên đất nước Trung Hoa dẫn đến
nhiều nền văn minh, tư tưởng khác nhau.
b- Nhân chủng học : Dân cư của Trung Hoa cổ đại phân bố trên các khu vực
chính như sau :
- Phía Bắc : Các chủng tộc Hoa Bắc có cuộc sống chủ yếu là du mục, săn
bắn. Do đời sống du mục họ luôn cố gắng xâm chiếm, thôn tính các dân tộc
kém phát triển, đồng hoá hay du nhập các nền văn hoá khác nhau.
2
- Phía Nam : Các dân tộc Bách Việt có cuộc sống chủ yếu là nuôi trồng, săn
bắn, khai thác các sản vật thiên nhiên như đánh cá, săn bắt thú… Các dân tộc
này sống tương đối khép kín, yêu chuộng hoà bình, tự do.
- Miền đồng bằng sông Dương Tử, Hoàng Hà : các dân tộc Tam Miêu sống
chủ yếu bằng nghề nông nghiệp, có nền văn hoá phát triển, có kiến thức toán
học, khoa học tự nhiên.
c- Hoàn cảnh lịch sử phát sinh các học thuyết triết học :
Trung Hoa thời cổ có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III tr.CN kéo
dài tới tận cuối thế kỷ III tr.CN, với sự kiện Tần Thuỷ Hoàng thống nhất
Trung Hoa bằng uy quyền bạo lực mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến.
Trong khoảng 2000 năm đó, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm hai thời
kỳ lớn : 1. Thời kỳ từ thế kỷ IX tr.CN trở về trước; 2. Thời kỳ từ thế kỷ VIII

tr.CN đến cuối thế kỷ III tr.CN.
Trong thời kỳ thứ nhất : những tư tưởng triết học ít nhiều đã xuất hiện,
nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống.
Thời kỳ thứ hai : còn gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc là giai đoạn
chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ (với các sứ quan cát cứ khắp nơi)
sang giai đoạn hình thành quốc gia phong kiến tập quyền. Nhà Chu bị phân
rã làm 7 quốc gia khác nhau : Tần, Sở, Tề, Ngụy, Hàn, Triệu, Yên. Tần Thuỷ
Hoàng - vua nước Tần đã tiêu diệt 6 nước thống nhất giang sơn hình thành
nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên. Dưới thời thịnh vượng của nhà
Chu, đất đai thuộc về nhà Vua thì nay quyền sở hữu tối cao về đất đai ấy bị
một tầng lớp mới, tầng lớp địa chủ chiếm làm tư hữu. Một sự phân hoá sang
hèn dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức
đảo lộn. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội
Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Trong tình
hình đó, một loạt học thuyết chính trị - xã hội và triết học đã xuất hiện và hầu
3
hết đều có xu hướng giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức
của xã hội. Điều đó trở thành nét đặc trưng chủ yếu của triết học Trung Hoa
cổ đại. Chính trong thời kỳ loạn lạc này đã xuất hiện những nhà tư tưởng vĩ
đại, hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh, được tồn tại và
phát triển theo suốt bề dầy lịch sử phát triển của đất nước Trung Hoa.
Tuy nhiên, nền triết học Trung Hoa không chỉ quan tâm giải quyết những
vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức mà nó còn đặt ra và giải quyết những vấn
đề của triết học như vấn đề bản nguyên thế giới, vấn đề cơ bản của triết học,
vấn đề con người; đặc biệt là vấn đề tính người, vấn đề sự biến dịch của vạn
vật và một số vần đề thuộc lý luận nhận thức.
1.2 Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Hoa cổ - trung đại :
a- Triết học tập trung chủ yếu vào xã hội và con người, coi trọng hành vi cá
nhân, hướng tới sự thống nhất, hài hòa giữa con người và xã hội.
b- Coi con người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu : hướng vào nội tâm -

luôn cố gắng tìm tòi về bản thân con người và mối quan hệ giữa con người
và xã hội xung quanh và ít quan tâm đến khoa học tự nhiên. Đây chính là
nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận, là nguyên nhân
sâu xa của sự kém phát triển kinh tế, khoa học so với văn minh Phương Tây
(hướng ngoại).
c- Đa dạng, phong phú : luôn chú ý các mặt đối lập, thống nhất của vấn đề,
coi trọng sự hài hòa trong xã hội.
d- Phương pháp tư duy : nhận thức trực quan được coi trọng, “Tâm” là gốc rễ
của nhận thức. Tư tưởng triết học không được diễn đạt khúc chiết mà rời rạc
thông qua các châm ngôn, ẩn dụ, ngụ ngôn…
e- Các yếu tố duy vật, duy tâm, biện chứng, siêu hình, vô thần, hữu thần đan
xen lẫn nhau.
4
1.3 Các học thuyết có ảnh hưởng đến sự hình thành Nho giáo :
Ở Trung Quốc, những quan niệm triết lý về “Âm - Dương”, “Ngũ hành” đã
được lưu truyền từ trước thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Tới thời Xuân Thu
- Chiến Quốc, những tư tưởng về Âm Dương - Ngũ hành đó đã đạt tới mức
là một hệ thống các quan niệm về bản nguyên và tính biến dịch của thế giới.
a- Thuyết Âm - Dương :
Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian
cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng
như trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu
thuẫn thống nhất, trong Âm có Dương và trong Dương có Âm.
Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận xét thấy sự
biến hoá không ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng nghi, lương nghi sinh
tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái
âm, thái dương, thiếu âm và thiếu dương. Bát quái là càn, khảm, cấn, chấn,
tốn, ly, khôn và đoài).
Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng đó là
ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc

đẩy lẫn nhau.
Để biểu thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó, người
xưa đặt ra "thuyết âm dương".
Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thể nào mà thuộc tính mâu thuẫn
nằm trong tất cả mọi sự vật, nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi
sự biến hoá và phát triển của sự vật.
Nói chung, cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, hướng
lên, vô hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương.
Tất cả những cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại,
hữu hình, lạnh lẽo, đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm.
Từ cái lớn như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, đến cái nhỏ như con sâu, con bọ,
5
cây cỏ, đều được qui vào âm dương.
Ví dụ về thiên nhiên thuộc dương ta có thể kể: Mặt trời, ban ngày, mùa xuân,
hè, đông, nam, phía trên, phía ngoài, nóng, lửa, sáng. Thuộc âm ta có: Mặt
trăng, ban đêm, thu, đông, tây, bắc, phía dưới, phía trong, lạnh nước, tối.
Trong con người, dương là mé ngoài, sau lưng, phần trên, lục phủ, khí, vệ;
Âm là mé trong, trước ngực và bụng, phần dưới ngũ tạng, huyết, vinh.
Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hàm cả ý
nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại. Trong âm có
mầm mống của dương, trong dương lại có mầm mống của âm.
Tư tưởng triết học về Âm - Dương :
Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên
và phổ biến của vạn vật, đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau : Âm
và Dương.
+ Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi như nguyên lý
của sự thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói
lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó
bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả

năng biến đổi Âm - Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý :
Dương tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại, đồng thời “Dương cực
thì Âm sinh”, “Âm thịnh thì Dương khỏi”.
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong
phú của vạn vật, phái Âm - Dương đã đưa ra cái lôgíc tất định : Thái cực sinh
Lưỡng nghi (Âm - Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương - Thiếu
6
Âm - Thiếu Dương – Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái (Càn - Khảm -
Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô
tận).
Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh
trong tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là một
động thái, một thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội như : Kiền, Khôn, Bí,
Thái, Truân, Ký tế, Vị tế… Sự chú giải Kinh Dịch không phải của một tác
giả mà là của nhiều bậc trí thức ở nhiều thời đại với những xu hướng khác
nhau. Điều đó tạo ra một “tập đại thành” của sự chú giải, bao hàm những tư
tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc.
b- Thuyết Ngũ hành :
Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn đã giới
thiệu trong thuyết âm dương, nhưng bổ xung và làm cho thuyết âm dương
hoàn bị hơn.
Ngũ hành là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.
Người xưa cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ cho 5 chất phối hợp nhau
mà tạo nên.
Theo tính chất thì thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống. Hoả là lửa
thì bùng cháy, bốc lên.
Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng.
Kim là kim loại, thuận chiều hay đổi thay.
Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được.

Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ
nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh
và khắc lại thêm hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ. Tương sinh,
tương khắc, chế hoá, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá phức tạp
7
của sự vật.
Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng. Đem
ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau,
nương tựa lẫn nhau. Theo luật tương sinh thì thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả,
hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ lại sinh mộc và cứ như vậy
tiếp diễn mãi. Thúc đẩy sự phát triển không bao giờ ngừng. Trong luật tương
sinh của ngũ hành còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng có quan hệ vệ hai
phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử. Ví dụ
kim sinh thuỷ thì kim là mẹ của thuỷ, thuỷ lại sinh ra mộc vậy mộc là con
của Thuỷ. Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện
cái ý thăng bằng, giữ gìn lẫn nhau.Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là
ức chế và thắng nhau. Trong qui luật tương khắc thì mộc khắc thổ, thổ lại
khắc thuỷ, thuỷ lại khắc hoả, hoả lại khắc kim, kim khắc mộc, và mộc khắc
thổ và cứ như vậu lại tiếp diễn mái. Trong tình trạng bình thường, sự tưong
khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì
làm cho sự biến hoá trở lại khác thường.
Trong tương khắc, môĩ hành cũng lại có hai quan hệ:Giữa cái thắng nó và cái
nó thắng. Ví dụ mộc thì nó khắc thổ, nhưng lại bị kim khắc nó.
Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn độc; trong tương khắc đã có ngụ ý
tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát triển.
Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong chế
hoá bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này
gắn liền với nhau.
Lẽ tạo hoá không thể không có sinh mà cũng không thể không có khắc.
Không có sinh thì không có đâu mà nảy nở; không có khắc thì phát triển quá

độ sẽ có hại. Cần phải có sinh trong khắc, có khắc trong sinh mới vận hành
liên tục, tương phản, tương thành với nhau.
Quy luật chế hoá ngũ hành là:
8
Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
Hoả khắc kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả.
Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộckhắc thổ.
Kim khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim.
Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc thuỷ.
Luật chế hoá là một khâu trọng yếu trong thuyết ngũ hành. Nó biểu thị sự
cân bằng tất nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng sinh khắc thái
quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Coi bảng dưới đây
chúng ta thấy mỗi hành đều có mối liên hệ bốn mặt. Cái sinh ra nó, cái nó
sinh ra, cái khắc nó và cái bị nó khắc.
Ví dụ: Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim, kim lại khắc mộc. Vậy như nếu
mộc khắc thổ một cách quá đáng, thì con của thổ là km tất nhiên nổi dậy
khắc mộc kiểu như con báo thù cho mẹ. Nghĩa là bản thân cái bị có đầy đủ
nhân tố chống lại cái khắc nó.Cho nên, mộc khắc thổ là để tạo nên tác dụng
chế ức, mà duy trì sự cân bằng. Khắc và sinh đều cần thiết cho sự giữ gìn thế
cân bằng trongthiên nhiên.
Cũng trong bảng quan hệ chế hoá, chúng ta thấy mộc sinh hoả; nếu chỉ nhìn
hành mộc không thôi, thì như mộc gánh trọng trách gây dựng cho con là hoả,
nhưng nhờ có hoả mạnh, hạn chế bớt được sức của kim là một hành khắc
mộc. Như vậy mộc sinh con là hoả, nhưng nhờ có con là hoả mạnh mà hạn
chế bớt kim làm hại mộc do đó mộc giữ vững cương vị.
c- Thuyết Bát quái : Là lý thuyết triết học giải thích thế giới được tạo thành
bởi 8 nhóm sự vật, hiện tượng khác nhau.
Tiên thiên Bát quái là 8 quẻ thuộc về Trời, chỉ về Thiên Lý hay Lẽ Trời. Vì
lúc đó chưa có chữ viết, vua Phục Hi sử dụng các vạch để diễn tả.
Sử dụng vạch liền, vạch liên tục, tức vạch Lẽ, gọi là Cơ để tượng trưng cho

phần Dương.
9
Sử dụng vạch đứt đoạn, tức vạch Chẳn, gọi là Ngẫu để tượng trưng cho phân
Âm.
Lưỡng Nghi (Âm Dương) được tượng trưng bằng 2 vạch Dương và Âm gọi
là Dương Nghi và Âm Nghi.
Tứ Tượng : Đặt một vạch Dương lên trên Dương Nghi thì thành Toàn Dương
nên gọi là Thái Dương (Thái có nghĩa là đã lớn). Đặt một vạch Âm lên trên
Dương Nghi thì ta có một Dương làm chủ ở dưới, nên gọi là Thiếu Dương
(Thiếu có nghĩa là còn nhỏ). Đặt một vạch Âm lên trên Âm Nghi thì thành
Toàn Âm gọi là Thái Âm. Đặt một vạch Dương lên trên Âm Nghi thì ta có
một Âm làm chủ ở bên dưới gọi là Thiếu Âm.
Tứ Tượng theo đúng thứ tự là Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái
Âm. Thiếu Dương đi trước Thái Âm và Thiếu Âm đi trước Thái Dương thể
hiện Âm trung hữu Dương căn, Dương trung hữu Âm căn, nghĩa là trong Âm
có mầm Dương. Dương sinh ở dưới thành ra Thiếu Dương có một vạch
Dương mới sinh ở dưới làm chủ. Dương trưởng ở trên thành ra Thái Dương
với hai gạch Dương là Dương đã toàn thịnh. Âm sinh ở trên cho nên Thiếu
Âm có một Âm mới sinh ở dưới làm chủ. Âm trưởng ở dưới cho nên Thái
Âm với hai gạch Âm là Âm đã toàn thịnh.
Bát Quái là 8 Quẻ mỗi Quẻ gồm có 3 vạch (mỗi vạch còn gọi là Hào), còn
được gọi là Quẻ Đơn hay Đơn Quái, dùng để diễn tả 8 hiện tượng chính của
hoạt động Âm Dương trong Vũ Trụ. Việc xếp đặt các vạch để tạo thành Bát
Quái được thực hiện theo thứ tự hoàn toàn theo tự nhiên : Dương trước, Âm
sau, tay mặt trước, tay trái sau. Thứ tự và tên gọi của Bát Quái như sau : Càn,
Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.
Càn : Trời, Thiên. Càn vi Thiên. Dương đã thinh và Âm đã hủy.
Đoài : Đầm, ao. Đoài vi Trạch. Dương đã lớn và Âm sắp tàn.
Li : Lửa, hơi nóng. Li vi Hỏa. Dương đã lớn và Âm sắp tàn.
Chấn : Sấm, sét. Chấn vi Lôi. Dương mới sinh và Âm bắt đầu suy.

10
Tốn : Gió. Tốn vi Phong. Âm mới sinh và Dương bắt đầu suy.
Khảm : Nước, chất lỏng. Khảm vi Thuỷ. Âm đã lớn và Dương sắp tàn.
Cấn : Núi non. Cấn vi Sơn. Âm đã lớn và Dương sắp tàn.
Khôn : Đất, Địa. Khôn vi Địa. Âm đã thịnh và Dương đã hủy.
2. NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO :
2.1 Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo :
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo nguyên
thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ : Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh điển đó
hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự
nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về
đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
a- Tư Thư : là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được Chu
Hy thời nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và Khổng
giáo. Chúng bao gồm : Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.
C Đại học : Sách Đại học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi
bước vào bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác
việc nước.
Theo các Nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời nói
của Khổng Tử.
Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải sửa
cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chổ chí
thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều) : cánh vật, trí
tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của đạo
quân tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ dĩ
chí ư thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến
thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”).
C Trung Dung : Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của
11
Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.

Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về đạo
“trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức
trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong
Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với
sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
C Luận Ngữ : là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và
những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên
đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách
này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất
là về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo
đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi
người. Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách.
Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của
Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.
C Mạnh Tử : Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ
của ông như : Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại
những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các
học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác
như : học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia
làm 2 phần : Tâm học và Chính trị học.
B. - Tâm học : Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho.
Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau
dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời
ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học
là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân
12
và nghĩa vốn có sẳn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng
vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề

cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất
với Trời.
- Chính trị học : Mạnh Tử chủ trương : Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạotrong thời quân chủ chuyên
chế đang thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không
có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy,
phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài
pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm
cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật
pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương về
chính trị của Mạnh Tử vô cùng mới mẽ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho
những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể
đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
b- Ngũ Kinh :
C Kinh Thi : sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về
tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi
người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong
sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả
lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra
sao" (sách Luận Ngữ).
C Kinh Thư : ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước
Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương
các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
C Kinh Lễ : ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong
dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không
học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
13
C Kinh Dịch : nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa
trên các khái niệm âm dương, bát quái, Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên
và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích

chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu
gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho dễ
hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
C Kinh Xuân Thu : ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử.
Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị
nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời
thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh
Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh
Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói
những sự việc xảy ra.)
C Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại
một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh
chỉ còn lại ngũ kinh.
2.2- Nội dung cơ bản của Nho giáo :
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức
xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo
cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử. Để trở
thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân".
Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo".
a- Tu thân Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng,
Tứ Đức để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng
và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người
trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã
14
hội được an bình. C Tam Cương: Tam là ba; Cương là giềng mối; Tam
Cương là ba mối quan hệ: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê
(chồng vợ).
- Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung
thành một dạ.

- Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng
phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng.
- Phu thê: Trong quan hệ chống vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ, vợ
vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng.
C Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải
hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
- Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
- Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
- Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
- Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
- Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
C Tam Tòng: Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải
theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
- Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.
- Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
- Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con"
C Tứ Đức: Tứ là bốn; Đức là tính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ
phải có, là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh.
- Công: khéo léo trong việc làm.
- Dung: hòa nhã trong sắc diện.
- Ngôn: mềm mại trong lời nói.
- Hạnh: nhu mì trong tính nết.
15
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân :
· Đạt Đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người
quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều:
đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung
Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó
chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung
dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối

quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.
· Đạt Đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói:
"Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn,
người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau,
Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân,
nghĩa, lễ, trí". Hán Nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là ngũ thường.
· Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân
tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một
vốn văn hóa toàn diện.
b- Hành đạo:
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính
trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị
quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ
nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương
châm:
C Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người
và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng
16
Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm
cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý,
đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không
có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
C Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi
người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không
thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với
vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra
tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo,

chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và
đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ,
nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà
không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo
đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).
2.3- Các giai đoạn phát triển của Nho giáo Trung Hoa, các học giả tiêu biểu :
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp
của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử (sinh năm 551 tr.CN) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa
và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là
người sáng lập ra Nho giáo.
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni,
Giê-xu, người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách
trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò
của ông để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần, hai
trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời đã làm cho việc tìm hiểu tư tưởng Khổng
17
Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng tìm hiểu
và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông.
a- Nho giáo nguyên thủy : Thời Xuân Thu , Khổng Tử đã san định, hiệu đính và
giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh
Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh
thường được gọi là Ngũ Kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp
các lời dạy để soạn ra cuốn Luận Ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là
Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại Học. Sau
đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung
Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò
của ông chép thành sách Mạnh Tử . Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên
Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng

giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho
giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là
Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành
thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà
các nhà Nho cần phải thực hành.
b- Hán Nho : Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán
Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất
nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ
chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này
được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho
đề cao quyền lực của giai cấp thống trị. Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để
che đậy "pháp trị".
c- Tống Nho : Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và
cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ
18
Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là
Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo,
Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên
được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo".
Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố
"tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ
cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
3. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRUNG HOA ĐẾN NỀN VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG CỦA VIỆT NAM :
3.1- Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam :
Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm nhưng nó có vị trí chi
phối cao nhất là từ thế kỷ 15 về sau. Trước đó, vào thời Trần, ảnh hưởng của
Nho giáo chưa sâu đậm. Có thể có một bộ phận quan chức cao cấp còn áp dụng
ít nhiều lễ giáo, còn trong dân gian và kể cả quan chức cấp thấp thì ảnh hưởng
của Nho giáo chưa đáng kể.

Sự hình thành và phát triển Nho giáo ở Trung Quốc gắn liền với sự hưng thịnh
của các triều đại, là hệ tư tưởng gắn liên với giai cấp thống trị, nhưng xét về
khía cạnh văn hóa, Nho giáo góp phần làm phong phú nền văn hóa Trung Hoa.
Do vậy, sự phát triển và mở rộng của Nho giáo cũng tuân thủ những quy luật
của sự mở rộng và phát triển của văn hóa. Sự du nhập Nho giáo vào xã hội Việt
Nam gắn liền với sự xâm lược của các thế lực phong kiến phương Bắc. Quá
trình đó diễn ra nhanh hơn, đồng bộ hơn việc thiết lập bộ máy cai trị trên toàn
lãnh thổ Việt Nam thời bấy giờ. Nếu không có sự xâm lược của các thế lực
phong kiến đối với Việt Nam thì Nho giáo vẫn du nhập vào xã hội Việt Nam,
nhưng quá trình đó sẽ diễn ra chậm hơn và không đồng bộ. Sự du nhập Nho
19
giáo Việt Nam cùng với sự xâm lược của các thế lực phương Bắc được thực
hiện bởi các quan đô hộ, bởi chính sách đồng hóa, được chính quyền đô hộ nâng
đỡ, cho nên Nho giáo không được thiện cảm và bắt rễ chậm chạp hơn so với
Phật giáo. Cho nên, trãi qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc Nho giáo vẫn chưa
xác lập được vị trí độc tôn trong đời sống. Trong suốt hơn một ngàn năm đó
nhiều cuộc khởi nghĩa đấu tranh giành độc lập dân tộc đã nỗ ra, nhưng hầu như
không có sự tham gia của các nhà nho.
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã chấm dứt hơn một ngàn năm
Bắc thuộc, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của Việt Nam. Vào thời điểm
này, Phật giáo có vị trí đặc biệt quan trọng. Các triều đại đầu tiên của nền độc
lập như Ngô, Đinh, Lê không theo đạo Nho mà theo đạo Phật. Các nhà sư có vai
trò to lớn và quyết định trong việc gây dựng triều Lý – nhà nước quân chủ tập
quyền đầu tiên ở nước ta và cũng từ khi nhà Lý ra đời, do nhu cầu quản lý nhà
nước mà nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến Nho giáo. Vào thời điểm này sự đóng
góp của các nhà sư vào sự ổn định đất nước là chủ yếu, nhưng xu hướng Nho
giáo dần dần thay thế Phật giáo càng thấy rõ. Việc Lý Thánh Tông vào năm
1070 cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử như là mốc ghi nhận sự tiếp
nhận chính thức Nho giáo trên bình diện cả nước.
Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho giáo được phát triển và cũng từ đó

về sau, Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên nhiều
lĩnh vực tư tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ thống giáo dục, pháp
luật, chính quyền. Cho đến đầu thế kỷ 20 này, năm 1919 khoa cử Nho học bị bãi
bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài đến đầu
thập kỷ 40. Như vậy, trong thời Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho học - Nho
giáo không thể không thắm vào các tầng lớp xã hội. Nó được thường xuyên tái
lập và trở thành một trong những yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam khá sâu
đậm.
3.2 Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền văn hóa truyền thống của Việt
20
Nam :
Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, suốt
hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo
Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà
có những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho
giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức
sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ
nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa
Việt Nam.
a- Ảnh hưởng của Nho giáo đến sự phát triển của xã hội cổ đại Việt Nam :
a1- Tích cực :
- Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các
nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một
hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh
tế quốc gia.
- Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học
nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam
đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật
và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài
vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi

trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn
hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Với phương châm “học nhi
ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội
của bản thân là động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu học là đặc điểm của
Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đông trong đó có Việt
Nam.
21
- Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng
đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày
càng phát triển văn minh hơn.
- Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn,
có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thôn, ấp hướng tới
tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền
chặt hơn, có tôn ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ,
anh-em, bạn-bè”.
- Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa
người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây
dựng tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn
đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ
quốc và trung hậu với nhân dân.
- Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề
tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với
Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải
đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm
tiêu diệt những quân tàn bạo.
a2- Tiêu cực :
- Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng
cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài
xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi
mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả

kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo
sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất
nước không thể phát triển.
- Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái
mới ưu việt hơn tiêu diệt.
22
- Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà
không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm
được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn
minh, khoa học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so
với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện sau.
b-Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam :
Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo đã có những đóng góp đáng kể
vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành
những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tạo nên một sức
mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ vững độc lập và chiến thắng mọi kẻ xâm
lược.
Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước phương Đông phải đối đầu với
sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỷ thuật, tiềm năng kinh tế, tổ
chức quân đội và chất lượng vũ khí. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư
tưởng và hành động. Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã sáng suốt không thể không gạt đi cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và
giữ gìn, phát huy những nhân tố hợp lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp
cách mạng.
- Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí
Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận
lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình.
Chữ Trung ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong
kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách mạng của
nhân dân, lên án chế độ phong kiến và lật đổ nhà vua.

- Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn
dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của dân”,
phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã xây
23
dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để
giành độc lập và xây dựng tổ quốc.
- Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ
chổ khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia đình.
Cách mạng Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho phụ nữ
cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý
đất đai.
- Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít tuổi
không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt niền tin
vào thanh niên và tiền đồ dân tộc.
- Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục tiêu
của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho giáo mà
giữ lại những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành những công cụ
chống lại chế độ cũ và xây dựng chế độ mới. Với tinh thần nói trên mà trong
quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu
chữ của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều
biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Nho giáo để cổ vũ nhân dân đứng lên
chiến đấu giành lại độc lập tự do với một khí phách kiên cường, tinh thần mưu
trí và sáng tạo.
C. KẾT LUẬN
Nho giáo từ khi ra đời đến nay đã trên 2500 năm và đã từng ảnh hưởng toàn
diện và sâu sắc đến xã hội Việt Nam đã góp phần xây dựng một xã hội thịnh
vượng, ổn định, có trật tự, có pháp luật, một quốc gia thống nhất.
Ngày nay cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, trên con đường tiến tới : dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta lại thường xuyên đụng đến những vấn

đề Nho giáo. Nho giáo tuy không còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống như trước
nhưng nó vẫn còn hiện diện bám sát chúng ta và tiếp tục đem lại cho chúng ta
24
nhiều bài học cả chính diện và phản diện. Chúng ta cần phải biết chắc lọc, tiếp
thu và phát triển những tư tưởng của Nho giáo để giải quyết những vấn đề về
gia đình, về mối quan hệ cá nhân và xã hội, về quản lý đất nước, về phát triển
kinh tế, giáo dục… trong thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại cương triết học Việt Nam - PGS.TS Nguyễn Hùng Hậu - Nhà xuất bản
Thuận Hóa
2. Nho giáo Trung Quốc - Nguyễn Tôn Nhan - Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
3. Giáo trình
4. Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại - Trần Đình Hượu - Nhà xuất
bản giáo dục.
4. Tạp chí Văn hoá - Nghệ thuật, Hà Nội, số tháng 2/2003, bài “Nho giáo trong
tương lai văn hoá Việt Nam”
5. Tạp chí Triết học, số 8, tháng 11-2001 bài “Chúng ta kế thừa tư tưởng gì ở
Nho giáo” - Minh Anh.
6. Tạp chí Triết học, số 8, tháng 11-2001 bài “Nhân, nhân nghĩa, nhân chính
trong “Luận Ngữ” và “Mạnh Tử”” - Hoàng Thị Bình
25

×