Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Nêu vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai cấp và tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.32 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN

BÀI TẬP LỚN
Đề tài : Nêu vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai cấp
và tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội?
Mã đề 50

Họ tên : Nguyễn Tuấn Hưng
Lớp: H.Triếết học Mác - Lế-nin_1.2(15FS).1_LT
Gi ng
ả Viến: T.S Đồồng Th ịTuyếồn

Năm Học 2021-2022


MỤC LỤC

I. Mở đầu...............................................................................................2
II. Nội dung.............................................................................................3
1. Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có
giai cấp..................................................................................................3
1.1.Giai cấp.........................................................................................3
1.2. Đấu tranh giai cấp......................................................................5
2. Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ
chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa xã hội............................................12
2.1. Thời kì q độ...........................................................................12
2.2. Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ
chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa xã hội..........................................13
3. Liên hệ.............................................................................................17


3.1. Liên hệ với thực tế ở Việt Nam hiện nay................................17
III. Kết luận...........................................................................................20


I.

Mở đầu

Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai
cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp, tầng
lớp bị trị khơng những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về
chính trị, xã hội và tinh thần. Khơng có sự bình đẳng giữa giai cấp thống trị và giai
cấp bị trị, chẳng hạn giữa giai cấp các nhà tư bản với giai cấp những công nhân
làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ
địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội cho phép họ được hưởng
những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Công cụ chủ yếu là quyền lực nhà nước. Lợi ích
cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơbản của giai cấp thống trị. Đây là đối
kháng về quyền lợi giữa những giai cấp áp bức bóc lột và những giai cấp, tầng lớp
bị áp bức, bị bóc lột. Đối kháng là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức
thì có đấu tranh chống áp bức. Vì vậy đấu tranh giai cấp khơng do một lý thuyết xã
hội nào tạo ra mà là hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp
bức giai cấp.Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự vận động
và phát triển của xã hội có sự phân chia giai cấp.
II.

Nội dung
1. Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai cấp.
1.1. Giai cấp

a) Định nghĩa về giai cấp

Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin định nghĩa : “ Người ta gọi giai cấp,
những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường
thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với
những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy
là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ
được hưởng. Giai cấp là những tập đồn người mà tập đồn này có thể chiếm đoạt
lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đồn đó có địa vị khác nhau trong một
chế độ kinh tế xã hội nhất định”.
Như vậy, sự ra đời, tồn tại của các giai cấp gắn với những hệ thống sản xuất
xã hội nhất định. Sự khác nhau về địa vị của giai cấp trong hệ thống sản xuất là
do:


Thứ nhất, khác nhau về quan hệ của họ đối với việc sở hữu những tư liệu
sản xuất của xã hội.
Thứ hai, khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức
quản lý lao động xã hội .
Thứ ba, khác nhau về phương thức sản xuất và quy mô thu nhập những sản
phẩm lao động của xã hội.
Trong những sự khác nhau trên đây, sự khác nhau của họ về sở hữu đối với
tư liệu sản xuất có ý nghĩa quan trọng quyết định nhất. Tập đoàn người nào nắm tư
liệu sản xuất sẽ trở thành giai cấp thống trị xã hội và tất yếu sẽ chiếm đoạt những
sản phẩm lao động của các tập đồn khác. Đó là bản chất của những xung đột giai
cấp trong các xã hội có giai cấp đối kháng.
Trong các xã hội có giai cấp, ngồi giai cấp thống trị và giai cấp bị trị cịn
có những tầng lớp và giai cấp trung gian khác. Bộ phận này khơng có vị trí cơ bản
trong phương thức sản xuất, nó thường xun bị phân hố. Nhân tố chi phối sự
phân hoá của các tầng lớp trung gian là lợi ích. Các giai cấp và tầng lớp trung gian
ngả về phía giai cấp thống trị hay bị trị là tuỳ thuộc vào vị trí lợi ích của họ.

Giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử. Nó ln ln vận
động biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử.
b) Nguồn gốc hình thành giai cấp
Trong xã hội có nhiều nhóm xã hội khác nhau. Sự khác nhau ấy được phân
biệt bởi những đặc trưng khác nhau như giới tính, nghề nghiệp, chủng tộc, dân
tộc... Những khác biệt ấy tự nó khơng tạo ra sự đối lập về mặt xã hội. Chỉ có những
giai cấp xuất phát từ sự khác biệt căn bản về lợi ích mới tạo ra những xung đột xã
hội mang tính chất đối kháng. Mác chỉ ra rằng: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn
liền với các giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”. Sự phân chia một
xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế.
Trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao
động rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thuỷ. Để tồn tại
họ phải sống nương tựa vào nhau theo bầy đàn, lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, giai
cấp chưa xuất hiện.
Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Công
cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá, năng suất lao động nhờ
đó tăng lên đáng kể phân cơng lao động nhờ đó từng bước được hình thành, của cải
dư thừa xuất hiện, những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm


đoạt của cải dư thừa làm của riêng; chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế
nảy sinh trong nội bộ cơng xã, đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.
Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị
giết như trước. Họ được sử dụng làm nơ lệ cho những người giàu và có địa vị trong
xã hội, chế độ có giai cấp hình thành kể từ đó. Như vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu
là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời giai cấp. Sự tồn tại các giai cấp đối
kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ
nghĩa. Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo tiền đề cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu,
cái cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự
phát triển xã hội. Đó là lơgic khách quan trong tiến trình phát triển của lịch sử.

c) Kết cấu xã hội - giai cấp.
Các xã hội có đối kháng giai cấp lần lượt thay thế lẫn nhau trong lịch sử. Mỗi
kiểu xã hội có kết cấu xã hội - giai cấp riêng của nó. Mỗi kết cấu xã hội - giai cấp
của một xã hội nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau. Đó là chủ nơ
và nơ lệ trong chế độ nơ lệ, địa chủ và nông nô trong chế độ phong kiến, tư sản và
vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp cơ bản của mỗi chế độ kinh tế xã hội là là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế - xã hội đó, đồng thời là giai cấp
quyết định sự tồn tại, sự phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Giai cấp
thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế - xã hội đang tồn tại.
Ngoài hai giai cấp cơ bản, mỗi kết cấu xã hội - giai cấp còn bao gồm một số tầng
lớp không cơ bản và tầng lớp trung gian. Trong những tập đồn xã hội này có tập
đồn là tàn dư của phương thức sản xuất cũ ( như nơ lệ trong buổi đầu của xã hội
phong kiến), có tập đoàn là mầm mống của phương thức sản xuất trong tương lai
(như giai cấp tư sản và giai cấp công nhân công trường thủ công trong giai đoạn
cuối của xã hội phong kiến). Ngoài ra bất cứ xã hội có giai cấp nào cũng có một số
tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là
kết quả của q trình phân hố xã hội khơng ngừng diễn ra trong xã hội. Đó là tầng
lớp bình dân trong xã hội nơ lệ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn
trong xã hội tư bản. Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai
trị quan trọng về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hố, đó là tầng lớp trí thức.
1.2. Đấu tranh giai cấp
a) Định nghĩa đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp là tất yếu, do sự đối lập về lợi ích căn bản khơng thể
điều hồ được giữa các giai cấp.


Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là quy luật tất yếu của xã hội. Tính tất
yếu của đấu tranh giai cấp xuất phát từ tính tất yếu kinh tế, nguyên nhân là do sự
đối kháng về lợi ích cơ bản giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị. Đấu tranh giai
cấp là một hiện tượng lịch sử khách quan, không phải do một lý thuyết xã hội nào
tạo ra, cũng không phải do ý muốn chủ quan của một lực lượng xã hội hay một cá

nhân nào nghĩ ra. Ở đâu và khi nào cịn áp bức, bóc lột, thì ở đó và khi đó cịn đấu
tranh giai cấp chống lại áp bức, bóc lột. Thực tiễn lịch sử của xã hội loài người đã
và đang chứng minh điều đó.
Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi
ích căn bản đối lập nhau trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định.
Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp chủ yếu và trước hết là cuộc đấu
tranh của hai giai cấp cơ bản đại diện cho phương thức sản xuất thông trị trong xã
hội (nô lệ và chủ nô; nông dân và địa chủ; vơ sản và tư sản). Đó là các giai cấp có
lợi ích căn bản đối lập nhau. Cuộc đấu tranh giữa hai giai cắp cơ bản trong một xã
hội là những cuộc đấu tranh giai cấp điển hình, đặc trưng cho chế độ xã hội đó. Về
cơ bản các giai cấp, tầng lớp xã hội cịn lại đều có lợi ích ít, nhiều gắn với việc
đánh đổ giai cấp thống trị bóc lột. Song do lợi ích giữa các tập đoàn là hết sức khác
nhau, nên thái độ của các giai cấp tham gia vào cuộc đầu tranh chung khơng giống
nhau. Chỉ có giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới và quần chúng cùng
khổ là lực lượng tham gia đơng đảo, tích cực nhất. Cuộc đầu tranh của các giai cắp
cơ bản là trục chính thu hút các giai cấp không cơ bản và các tầng lớp trung gian
trong xã hội tham gia.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đầu tranh của quân chúng lao
động bị áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thơng
trị của chúng.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, thực chất đầu tranh giai cấp là cuộc đầu tranh
của quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột do sự
đối lập về lợi ích khơng thể dung hồ trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định.
Các giai cấp bị trị, bị bóc lột khơng chỉ bị chiếm đoạt kết quả lao động mà cịn bị
áp bức về chính trị, xã hội và tỉnh thần. Giai cắp thống trị, bóc lột bao giờ cũng ra
sức bảo vệ địa vị giai cấp cùng với những đặc quyển, đặc lợi của mình bằng quyền
lực chính trị và bộ máy nhà nước. Đấu tranh giai cấp để giải quyết mâu thuẫn
khơng thể dung hồ giữa các giai cấp tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội nhằm lật
đổ ách thống trị của giai cấp áp bức, bóc lột. Đây là điểm khác nhau căn bản giữa



quan điểm của những người cách mạng với những người cơ hội chủ nghĩa. Cách
mạng xã hội là phương thức tất yếu để lật đổ ách thống trị của giai cấp thống trị
bóc lột, xố bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới và mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển. Mục đích cao nhất mà một cuộc cuộc đấu tranh
giai cấp cần đạt được không phải là đánh đổ một giai cấp cụ thể, mà là giải phóng
lực lượng sản xuất khỏi sự kìm hãm của những quan hệ sản xuất đã lỗi thời, tạo
điều kiện để đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất và phát triển xã hội.
Đấu tranh giai cấp không phải là hiện tượng vĩnh viễn trong lịch sử. Cuộc đấu
tranh giai cấp giữa các giai cấp trong lịch sử tất yếu phát triển đến cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp vô sản. Đây là cuộc đầu tranh giai cắp cuối cùng trong lịch sử.
Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản đứng lên giành chính quyền, thiết lập
nền chun chính của mình và thơng qua nền chun chính đó tiến hành cái tạo
triệt để xã hội cũ, tiến tới xoá bỏ mọi đối kháng giai cấp, xây đựng thành công xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong đấu tranh giai cấp, liên minh giai cấp là tất yếu. Liên minh giai cấp là
sự liên kết giữa những giai cấp này để chống lại những giai cắp khác.Liên minh
giai cấp là vấn để có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để tập hợp và phát triển lực lượng
trong các cuộc đấu tranh giai cấp. Cơ sở của liên minh giai cấp là sự thống nhất về
lợi ích cơ bản. Liên minh giai cấp có tính chiến lược lâu dài khi các giai cấp có lợi
ích căn bản thống nhất với nhau. Ngược lại, sẽ là sách lược tạm thời khi dựa trên
cơ sở sự thống nhất về những lợi ích trước mắt khơng cơ bản. Đầu tranh giai cắp
và liên minh giai cấp ln gắn bó hữu cơ với nhau. Đó là hai mặt của một quá trình
để tạo nên sức mạnh nhằm giành thắng lợi trong một cuộc đấu tranh giai cấp.
b) Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có
đối kháng giai cấp
Tùy theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh giai cấp
trong xã hội có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những
phạm vi và trình độ khác nhau như: đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh
chính trị,….Trong thực tế lịch sử, cuộc đấu tranh giai cấp có thể cịn mang những

hình thức đấu tranh dân tộc, tơn giáo, văn hóa và có thể có nhiều hình thức đa dạng
khác.
Để khống chế và đàn áp những cuộc đấu tranh giai cấp của những người lao
động làm th, những người nơ lệ, nhằm duy trì và thực hiện được sự bóc lột của
nó, các giai cấp thống trị trong lịch sử tất yếu phải sử dụng đến sức mạnh bạo lực


có tổ chức – đó là nhà nước với những đội vũ trang đặc biệt và hệ thống pháp luật
nhằm duy trì trật tự của sự thống trị giai cấp. vì vậy, vấn đề chính quyền nhà nước,
quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm và cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp
trong xã hội. Bất cứ cuộc đấu trang giai cấp nào nếu chưa giải quyết được vấn đề
chiếm giữ quyền lực nhà nước thì chưa thể giải quyết được những vấn đề căn bản
nhất của cuộc đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên khong phải mọi cuộc đấu tranh giai
cấp đều xác định vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung
tâm của nó mà chỉ có sự phát triển của đấu tranh giai cấp đạt tới trình độ đấu tranh
chính trị thì vấn đề đó mới trở thành vấn đề trung tâm và cơ bản của nó – đó cũng
là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội với tư cách là đỉnh cao của sự
phát triển đấu tranh giai cấp.
Như vậy, sự ra đời và tồn tại của nhà nước là kết quả của cuộc đấu tranh giai
cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp. Khi mà các mâu thuẫn xã hội đã bị đẩy đến
chỗ khơng thể giải quyết được thì tất yếu giai cấp thống trị cần đến sức mạnh bạo
lực đặc biệt để duy trì xã hội trong vịng một “trật tự” theo ý chí của nó, thực hiện
lợi ích của nó. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước không phải để giải quyết mâu
thuẫn mà là để duy trì trật tự xã hội trong điều kiện mâu thuẫn không thể giải quyết
được. Trong lịch sử hơn 2000 năm qua đã từng tồn tại các kiểu nhà nước: nhà nước
chủ nô, nhà nước phong kiến, và nhà nước tư bản. đây là những kiểu nhà nước
đúng với nghĩa đen của nó, tức cơng cụ bạo lực có tổ chức nhằm khống chế cuộc
đấu tranh giai cấp của giai cấp những người lao động. Cho dù các hình thức của
mỗi kiểu nhà nước đó có khác nhau, tên gọi khác nhau nhưng bản chất giai cấp của
chúng chỉ là một – đó là cơng cụ chun chính của các giai cấp bóc lột trong lịch

sử đối với nô lệ hay lao động làm thuê. Khác với các kiểu nhà nước nói trên, nhà
nước chun chính vơ sản là kiểu nhà nước mới, là “nửa nhà nước”, “nhà nước
khơng cịn ngun nghĩa đen của nó”, tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội; là cơng cụ bạo lực có tổ chức và công cụ quản lý kinh tế-xã hội của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.
Đấu tranh giai cấp giữ vai trò là phương thức, động lực cơ bản của sự tiến
bộ, phát triển xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân hóa thành đối kháng giai
cấp. Lịch sử nhân loại từ khi có sự phân hóa giai cấp đến nay, về thực chất của
những cuộc đấu tranh giai cấp được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng với
những mức độ khác nhau và mang sắc thái khác nhau. Đó là cuộc đấu tranh của
những người nô lệ chống lại ách áp bức của giai cấp chủ nô; cuộc đấu tranh của
những người nông nô, những người nông dân làm thuê chống lại sự áp bức, bóc lột


của bọn chúa đất, địa chủ; cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê
chống lại ách áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản. Kết quả cuối cùng của những
cuộc đấu tranh đó dẫn tới sự ra đời của một phương thức sản xuất mới thông qua
đỉnh cao của nó là những cuộc cách mạng xã hội.
Như vậy, trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp thì sự phát triển của xã
hội chỉ có thể thực hiện được thông qua những cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải
quyết những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế và chính trị - xã hội.
Trong trường hợp này, đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực cơ bản của sự phát
triển lịch sử mà còn là phương thức cơ bản của sự tiến bộ và phát triển xã hội trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, phương thức và động lực cơ bản nhất
của sự tiến bộ, phát triển xã hội là sự vận động của mâu thuẫn trong phương thức
sản xuất, trong bản thân nền sản xuất vật chất của xã hội, nhưng trong điều kiện xã
hội có sự phân hóa giai cấp thì mâu thuẫn đó lại được bộc lộ và biến thành mâu
thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong đời sống chính trị - xã hội. Trong trường
hợp này, mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế chỉ có thể giải quyết được

thông qua việc giải quyết mâu thuẫn đối kháng giai cấp trên lĩnh vực chính trị xã
hội. Như vậy, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp đã trở thành cơ chế chính trị
xã hội để giải quyết mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, thực hiện nhu cầu
khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của xã
hội.
c) Vai trò của đấu tranh giai cấp: Một trong những động lực phát triển của xã
hội có giai cấp
– Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội để thay thế
phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương
thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội.
Đến lượt mình, sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ
đời sống xã hội.
Như C. Mác và Ph, Ăng-ghen đã khẳng định: Đỉnh cao của cuộc đấu tranh
giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình
thái kinh tế – xã hội, vì vậy, “đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử
các xã hội có giai cấp”.
– Đấu tranh giai cấp góp phần xóa bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải
tạo cả bản thân giai cấp cách mạng.


Ví dụ như giai cấp tư sản trong thời kỳ cuối của chế độ phong kiến, thời kỳ
đầu của chế độ tư bản là giai cấp cách mạng. Giai cấp vô sản khi vừa ra đời,
giương cao ngọn cờ chống áp bức, bóc lột là giai cấp cách mạng.
Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo
cách mạng. Thành tựu mà lồi người đạt được trong tiến trình phát triển của lực
lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ
xã hội… không tách rời cuộc đấu tranh của các giai cấp tiến bộ chống lại các thế
lực thù địch, phản động.
– Đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng
trong lịch sử xã hội có giai cấp.

Đó là cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong
lịch sử. Bởi vì mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu
xã hội.
+ Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp
vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính
trị.
+ Sau khi giành được chính quyền (ví dụ như tại Nga sau cách mạng tháng Mười,
tại Việt Nam sau cách mạng tháng Tám), thiết lập nền chun chính của giai cấp vơ
sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi.
Mục tiêu của cuộc đấu tranh sau khi giành chính quyền là giữ vững thành
quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản lý
sản xuất, quản lý xã hội,, bảo đảm tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn,
trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, cơng
bằng, dân chủ và văn minh.
Đó vừa là mục tiêu, đồng thời vừa là nhân tố bảo đảm thắng lợi cho cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản.
Đấu tranh giai cấp góp phần xố bỏ các thế lực phản động, lạc hậu đồng thời
cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản
xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà lồi người dạt được
trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công
nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp
giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.
Đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng
trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với so với các


cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì, mục tiêu của nó là thay đổi về căn
bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.
Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh

chính trị. Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vơ
sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V.I.Lênin viết “Trong
điều kiện chun chính vơ sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô
sản không thể giống như trước được”.
Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng mọi nguồn
lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là
giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ
chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất lao động xã
hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã
hội mới, công bằng, dân chủ, văn minh. Đó vừa là mục tiêu, đồng thời vừa là nhân
tố bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư
bản.
Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một
tất yếu. Do bối cảnh lịch sử của quá trình hình thành giai cấp và điều kiện mới của
xu hướng quốc tế hoá, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có những đặc điểm riêng. Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định rằng, hiện nay và cả
trong thời kỳ quá độ của cả nước ta còn tồn tại một cách khách quan các giai cấp
và đấu tranh giai cấp. Nhưng đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay phải nhận thức
cho đúng, nó diễn ra trong điều kiện mới với những nội dung mới và hình thức
mới. Bởi vì cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế xã hội, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và sự quản lý của Nhà nước, cơ cấu giai cấp, nội dung, tính chất, vị trí của
các giai cấp trong xã hội ta cũng đã thay đổi nhiều, khác với thời kỳ cách mạng dân
tộc dân chủ trong những năm đầu chúng ta mới giành được chính quyền. Mối quan
hệ giữa các giai cấp, sự phát triển của các giai cấp trong sự nghiệp xây dựng đất
nước, bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước
khơng cịn như trước đây. Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp
chủ yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân nhằm tăng
cường đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Lợi ích giai cấp cơng nhân thống nhất với lợi ích tồn dân tộc trong mục tiêu
chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dân, giàu nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con


đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc
lập dân tộc, chống áp bức bất cơng, chống bóc lột chống nghèo nàn lạc hậu đấu
tranh chống tình trạng đói nghèo, kém phát triển. Vì vậy, nội dung chủ yếu của đấu
tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình
trạng nước nghèo kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất
công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai
trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực
thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Đồng thời Đảng ta cũng khẳng định: Động
lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đồn kết tồn dân trên cơ sở liên minh
giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hồ các lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội.
2. Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ chủ nghĩa tư
bản đến chủ nghĩa xã hội
2.1. Thời kì quá độ
Đầu tiên chúng ta sẽ tìm hiểu khái niệm thời kì quá độ. Thời kì quá độ là
thời kì cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa,
bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng
xong các cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng kinh tế của thời kì quá độ lên
CNXH là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong
thời kì quá độ, một mặt là phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân lao động,
chuyên chính với mọi hoạt động chống chủ nghĩa xã hội, mặt khác từng bước cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
2.2. Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ chủ nghĩa tư
bản đến chủ nghĩa xã hội

Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn
cứ sau đây:
Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều
nhất định phải trải qua một hời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỹ cịn có sự
đan xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể
nói đây là thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nói
chung theo tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái


lạc hậu. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn
nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về
chất so với các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong
lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài. Nhất là
đối với những nước cịn ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội thì “những cơn đau đẻ” này cịn có thể rất dài với nhiều bước quanh
co.
Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định
từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa
đối với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ
thuật đã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất đại
cơng nghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ không
phải là nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có thời kỳ
quá độ của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Đối với những nước chưa từng trải qua q trình cơng nghiệp hóa tiến lên chủ
nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành cơng
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vơ cùng to lớn và đầy khó khăn,
khơng thể “đốt cháy giai đoạn” được.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng

chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo
ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ
nghĩa, đo vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển
những quan hệ đó.
Bốn là, cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn
và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động khơng thể ngay lập tức có thể đảm đương được cơng việc ấy, nó cần
phải có thời gian nhất định.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế
- xã hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với
những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai
đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước cịn


ở trình độ phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường
kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp.
- Những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ
nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
+ Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành
phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung
gian tất yếu trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, khơng thể dùng ý chí để
xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước
cịn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ

nghĩa.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác
lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất
với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó
là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao
động tất yếu ngày càng giữ vai trị là hình thức phân phối chủ đạo.
+ Trên lĩnh vực chính trị:
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức
tạp, nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói
chung, thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp cơng nhân, nơng dân, tầng lớp trí
thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ
theo từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác,
vừa đấu tranh với nhau.
+ Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng
và văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư
sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông, V.V.. Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là
“kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách
mạng cơng khai”. Trên lĩnh vực văn hố cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới,
chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.


Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời
kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại khơng cịn là
giai cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công
nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều
kiện mới là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả
các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình
thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên
truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.

- Nội dung kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
+ Trong lĩnh vực kinh tế:
Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là thực hiện việc sáp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội;
cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự
phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân
dân lao động.
Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất định khơng thể
theo ý muốn nóng vội chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các
quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Đối với những nước chưa trải qua q trình cơng nghiệp hóa tư bản chủ
nghĩa, tất yếu phải tiến hành cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được
cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước này, nhiệm vụ
trọng tâm của thời kỳ quá độ phải là tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nền
kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước
khác nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được tiến hành với những
nội dung cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Đó cũng là quán triệt quan điểm
lịch sử - cụ thể trong việc xác định những nội dung, hình thức và bước đi trong tiến
trình cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Trong lĩnh vực chính trị:
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong


hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động: xây dựng các

tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao
động; xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với
các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
+ Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là: thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa học và
cách mạng của giai cấp cơng nhân trong tồn xã hội; khắc phục những tư tưởng và
tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây
dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn
hóa trên thế giới.
+ Trong lĩnh vực xã hội:
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từng
bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư
trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt
đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện,
tiền đề cho sự tự do của người khác.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỹ lịch sử tất yếu
trên con đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là
thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và
xã hội đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở hồn
thành các nội dung đó.
3. Liên hệ
3.1. Liên hệ với thực tế ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, đấu tranh trong giai đoạn quá độ là tất yếu. Bởi lẽ, ở nước ta
hiện nay cịn có những lực lượng đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân,
của cách mạng, của Đảng. Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trong đó có cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái cách mạng, tiến bộ và cái
bảo thủ, trì trệ, v.v. nên đấu tranh giai cấp là tất yếu.

Đại hội IX của Đảng đã xác định rõ thực chất “mối quan hệ giữa các giai
cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân,
đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự


lãnh đạo của Đảng”; Nội dung chủ yếu cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện
nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã
hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và
hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá các thế lực thù địch; bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành
một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Những nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trên đây là rất lớn lao và phức
tạp. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, chúng ta phải sử dụng nhiều hình thức đấu
tranh khác nhau, vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết, bao gồm cả đấu tranh trực diện
bằng bạo lực, trấn áp đối với thế lực thù địch trong nước và trên thế giới ln tìm
cách ngăn cản, phá hoại cuộc cách mạng của nhân dân ta, đấu tranh bằng giáo dục,
tuyên truyền, vận động, cả hành chính và đấu tranh chống khuynh hướng bảo thủ,
tiêu cực của tầng lớp tư sản nói riêng.
Đấu tranh ở đây khơng có nghĩa là phá hoại sự ổn định xã hội mà chính là
thơng qua đấu tranh để ngăn chặn, loại trừ những phần tử bảo thủ, thối hóa, biến
chất và chống đối nhằm củng cố, tăng cường và phát huy vai trị của sự đồn kết
thống nhất trong Đảng và trong nhân dân.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta vẫn đang tiếp tục diễn ra một
cách khá gay gắt và phức tạp. Sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc đang
đứng trước nhiều thách thức, khó khăn mới. Các thế lực thù địch chưa từ bỏ ý đồ
phá hoại, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng đang ra sức đẩy mạnh
chiến lược “diễn biến hoà bình”, kết hợp gây bạo loạn lật đổ, với những âm mưu,
thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng đang ra sức lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và những yếu kém, sự suy thoái, biến chất

của một bộ phận cán bộ, đảng viên để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; xuyên
tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; chia rẽ các tầng lớp nhân dân
nhằm tạo ra mâu thuẫn, xung đột trong xã hội để làm suy yếu và lật đổ chế độ ta.
Vì vậy, hơn bao giờ hết, chúng ta cần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc đồng
thời tiếp tục nghiên cứu để thấy rõ đặc điểm, nội dung, hình thức của cuộc đấu
tranh giai cấp ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực trong điều kiện mới.
Điều kiện mới của đấu tranh giai cấp hiện nay đó là lợi ích cơ bản, lâu dài
của các giai cấp trong cộng đồng Việt Nam thống nhất với lợi ích dân tộc; cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường vẫn còn nhưng gắn liền với sự nghiệp
bảo vệ độc lập dân tộc, chống nghèo nàn lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo,


chậm phát triển. Đấu tranh trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần, mở
cửa, hội nhập kinh tế thế giới, trong cơ cấu giai cấp - xã hội của nước ta hiện nay,
ngồi giai cấp cơng nhân, nơng dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân lao
động khác, cịn có tầng lớp tư sản. Với kết cấu giai cấp đó, tất yếu nảy sinh mâu
thuẫn giữa lợi ích của những người lao động làm thuê với tầng lớp tư sản và mâu
thuẫn giữa sự phát triển tự giác theo con đường xã hội chủ nghĩa với khuynh
hướng tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản. Đây là mặt mâu thuẫn trong quan hệ giữa
giai cấp công nhân và nhân dân lao động với tầng lớp tư sản. Mâu thuẫn đó biểu
hiện rất rõ trong các doanh nghiệp tư bản, nhất là các doanh nghiệp có 100% vốn
đầu tư nước ngồi. Tuy nhiên, chúng ta có Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong điều kiện như vậy, mâu thuẫn giữa công nhân và
tầng lớp tư sản là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Ở nước ta, tầng lớp tư sản
khơng có cơng cụ để thực hiện sự thống trị về chính trị và kinh tế của nó. Giai cấp
cơng nhân, dù làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân, vẫn được Nhà nước ta bảo
vệ quyền lợi. Mặt khác, kinh tế tư bản tư nhân là bộ phận không thể thiếu trong
nền kinh tế nhiều thành phần. Tầng lớp tư sản có vai trị nhất định trong sự nghiệp
phát triển kinh tế, có khả năng tham gia tích cực vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Lợi ích hợp pháp của các nhà tư sản thống nhất với lợi ích

chung của cả cộng đồng dân tộc. Đây là mặt thống nhất giữa giai cấp công nhân và
tầng lớp tư sản. Như vậy, quan hệ giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với
tầng lớp tư sản là quan hệ vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Hợp tác cùng xây dựng đất
nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đấu tranh chống khuynh
hướng bảo thủ, tiêu cực của tầng lớp tư sản.
Những sự phân tích trên đây cho thấy, ở nước ta hiện nay và trong suốt thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại của các giai cấp và đấu tranh giai cấp vẫn
là một tất yếu. Cuộc đấu tranh đó có lúc, có mặt cịn gay go, quyết liệt hơn so với
những thời kỳ trước đây.
Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nhận thức rõ tính chất gay
go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp. Chúng ta cần nghiên cứu thấu đáo, cẩn
thận, nghiêm túc những tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và quan điểm
của Đảng ta, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn một cách cụ thể, tránh rơi vào hai
thái cực sai lầm: hoặc là quá cường điệu đấu tranh giai cấp, dẫn đến mất phương
hướng trong huy động nguồn lực phát triển đất nước; hoặc là xem thường, xóa
nhịa đấu tranh giai cấp đi đến mơ hồ, mất cảnh giác, mắc vào âm mưu diễn biến


hịa bình của các lực lượng phản động trên thế giới đang ln tìm cách lật đổ chế
độ xã hội chủ nghĩa hiện nay.
III. Kết luận
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, đấu tranh giai cấp
khơng những khơng mất đi mà cịn diễn ra rất phức tạp, đòi hỏi mỗi chúng ta cần
nhận thức sâu sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng tư duy lí luận tốt,
có khả năng phân tích, đánh giá tình hình nắm bắt quy luật vận động, củng cố lập
trường giai cấp công nhân, có niềm tin khoa học, kiên quyết và sáng suốt đấu tranh
chống lại các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch như Đảng ta đã khẳng
định: Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những
bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ

nghĩa xã hội. Đấu tranh giai cấp là quy luật chung thúc đẩy sự vận động và phát
triển của xã hội có giai cấp. Việc hiểu và vận dụng đúng quy luật trong công cuộc
đổi mới và xây dựng đất nước sẽ là điều kiện để đảm bảo sự thành công của chúng
ta trên con đường xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh
phúc.



×