PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do lựa chọn đề tài
Ở bất kỳ lĩnh vực hay ngành nghề kinh doanh nào vốn luôn là một yếu tố vô cùng
quan trọng để thực hiện các hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là
hàng hóa đặc biệt tuân theo quy luật cung cầu. Do đó, doanh nghiệp (DN) cần phải xác
định lượng vốn cần thiết, lựa chọn phương án đầu tư có hiệu quả, lựa chọn hình thức thu
hút vốn tối ưu. Tuy nhiên, yếu tố vốn mới chỉ là bước khởi đầu, vấn đề quản lý và sử
dụng vốn sao cho có hiệu quả cũng không kém phần quan trọng, vấn đề cốt yếu của DN là
đồng vốn đó được sinh lời và tăng trưởng bao nhiêu. Do vậy, sử dụng hiệu quả vốn kinh
doanh, cụ thể là vốn cố định - là một vấn đề quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh
doanh. Để đạt được mục tiêu trên, việc tăng cường công tác phân tích tình hình sử dụng
vốn cố định trong các DN là rất cần thiết.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, nắm được các nội dung lí luận cơ bản
cùng với quá trình tìm hiểu thực tế hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty sửa chữa
phương tiện thủy và dịch vụ VINAWACO 3, em đã tập trung nghiên cứu đề tài: “Nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty sửa chữa phương tiện thủy và dịch vụ
VINAWACO 3”
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài
+ Về mặt lý luận: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về phân tích hiệu quả
sử dụng vốn cố định trong DN.
+Về mặt thực tế: Vận dụng hệ thống lý luận đã nêu nghiên cứu tình hình sử dụng
vốn cố định tại Công ty sửa chữa phương tiện thủy và dịch vụ VINAWACO 3.
+ Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của Công ty sửa
chữa phương tiện thủy và dịch vụ VINAWACO 3.
3.Phạm vi nghiên cứu
+Thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2013.
+Đơn vị:Công ty sửa chữa phương tiện thủy và dịch vụ VINAWACO 3.
1
4.Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp biện chứng duy vật: Tức là xem xét các sự vật, hiện tượng trong mối
liên hệ tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau trong sự vận động và phát triển không
ngừng.
Phương pháp cụ thể: Bao gồm các phương pháp phân tích tài chính, phân tích các
chỉ tiêu tài chính, phương pháp chi tiết, phương pháp so sánh, phương pháp liên hệ, các
phương pháp thống kê, các phương pháp toán (quy nạp, diễn dịch), phương pháp đồ thị,
…
5.Kết cấu của đề tài:
Ngoài các phần: Lời mở đầu; mục lục; danh mục các chữ viết tắt; danh mục bảng,
biểu, sơ đồ; kết luận; danh mục tài liệu tham khảo; nội dung chính của đồ án tốt nghiệp
gồm có ba phần :
Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả sử dụng vốn cố định trong DN.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty sửa chữa phương
tiện thủy và dịch vụ VINAWACO 3.
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty sửa
chữa phương tiện thủy và dịch vụ VINAWACO 3.
2
CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN CỐ ĐỊNH VÀ HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỐ ĐỊNH TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Một số vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn cố định
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vốn cố định
1.1.1.1. Khái niệm
Theo quy định hiện hành của Việt Nam thì "Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của
tài sản cố định, hay vốn cố định là toàn bộ giá trị bỏ ra để đầu tư vào tài sản nhằm phục
vụ hoạt động kinh doanh”.
Vốn cố định: Là lượng vốn đầu tư ứng trước để hình thành nên TSCĐ của doanh
nghiệp
Trong nền kinh tế hoàng hóa-tiền tệ để mua sắm, xây dựng tài sản cố định, một
trong những yếu tố của quá trình kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một số tiền
ứng trước. Vốn tiền tệ được ứng trước để mua sắm tài sản cố định hữu hình và tài sản cố
định vô hình được gọi là vốn cố định. Do vậy, đặc điểm vận động của tài sản cố định sẽ
quyết định sự vận động tuần hoàn của vốn cố định.
1.1.1.2. Đặc điểm vốn cố định
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu. Chúng tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp vào nhiều chu kì của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản cố
định không thay đổi hình thái vật chất ban đầu trong suốt thời gian sử dụng, cho đến lúc
hư hỏng hoàn toàn. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định hao mòn dần, phần giá trị hao
mòn sẽ chuyển dần vào giá trị mới tạo ra của sản phẩm và được bù đắp lại bằng tiền khi
sản phẩm được tiêu thụ. Tài sản cố định cũng là một loại hàng hoá có giá trị sử dụng và
giá trị. Nó là sản ph?ẩm của lao động và được mua bán, trao đổi trên thị trường sản xuất.
Giữa tài sản cố định và vốn cố định có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Tài sản cố định là hình thái biểu hiện vật chất của vốn cố định. Do vậy, vốn cố
định của Doanh nghiệp có đặc điểm tương tự như tài sản cố định. Như thế sau nhiều chu
3
kì sản xuất kinh doanh phần vốn cố định giảm dần và phần vốn đã luân chuyển tăng lên.
Kết thúc quá trình này, số tiền khấu hao đã thu hồi đủ để tái tạo một tài sản mới. Lúc này
tài sản cố định cũng hư hỏng hoàn toàn cùng với vốn cố định đã kết thúc một vòng tuần
hoàn luân chuyển. Do đó, có thể nói vốn cố định là biểu hiện số tiền ứng trước về những
tài sản cố định mà chúng có đặc điểm mất dần từng phần trong chu kì sản xuất và kết thúc
một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời hạn sử dụng.
Phân loại TSCĐ:
- Tài sản cố định hữu hình
Khái niệm: Tài sản cố định hữu hình là những tư liệu lao động chủ yếu có tính chất
vật chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận
từng tài sản liên kết với nhau để thể hiện một hay một số chức năng nhất định), có giá trị
lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kì kinh doanh nhưng vẫn giữ
nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị …
Là mọi tư liệu lao động, là từng tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ
thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay một
số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kì một bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống
không thể hoạt động được, nếu thoả mãn đồng thời cả hai tiêu chuẩn dưới đây thì được
coi là một tài sản cố định:
1- Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên.
2- Có giá trị từ 5.000.000 đồng trở lên.
Trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau,
trong đó mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ phận
nào đó mà cả hệ thống vẫn thực hiện chức năng hoạt động chính của nó mà do yêu cầu
quản lý, sử dụng tài sản cố định đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận tài sản thì mỗi bộ
phận tài sản đó được coi là một tài sản cố định hữu hình độc lập.
Các loại tài sản cố định hữu hình:
4
1, Nhà cửa, vật kiến trúc: tà tài sản cố định của Doanh nghiệp được hình thành sau
quá trình thi công xây dựng như trụ sở làm việc, nhà kho, hàng rào, tháp nước, sân bãi,
các công trình trang trí cho nhà cửa, đường xá, cầu cống, đường sắt, cầu tàu, cầu cảng
2, Máy móc, thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc, thiết bị dùng trong hoạt động
kinh doanh của Doanh nghiệp như máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây chuyền
công nghệ, những máy móc đơn lẻ.
3, Phương tiện vận tải, thiết bị truyền đơn: là các loại phương tiện vận tải gồm
phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường ống và các
phương tiện, thiết bị truyền đơn như hệ thống thông tin, hệ thống điện, đường ống nước,
băng tải
4, Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dựng trong công tác quản lý
hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp như máy vi tính phục vụ quản lý, thiết bị điện tử,
thiết bị dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút ẩm, hút bụi, chống mối mọt.
5, Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm: là các vườn cây lâu
năm như vườn cà phê, vườn chè, vườn cao su, vườn cây ăn quả, thảm cỏ, thảm cây xanh
súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm như đàn voi, dàn ngựa, trâu bò
6, Cỏc loại tài sản cố định khác: là toàn bộ các tài sản cố định khác chưa liệt kê vào
5 loại trên như tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật
Đánh giá tài sản cố định theo nguyên giá:
Là toàn bộ các chi phí thực tế đã chi ra để có tài sản cố định hữu hình cho tới khi
đưa tài sản cố định đi vào hoạt động bình thường như giá mua thực tế của tài sản cố định,
các chi phí vận chuyển bốc dỡ, chi phí lắp đặt, chạy thử, lãi tiền vay đầu tư cho tài sản cố
định khi chưa bàn giao và đưa tài sản cố định vào sử dụng, thuế và lệ phí trước bạ (nếu
có)
Đối với tài sản cố định loại đầu tư xây dựng thì nguyên giá là giá thực tế của công
trình xây dựng (cả tự làm và thuê ngoài) theo quy định tại điều lệ quản lý đầu tư và xây
5
dựng hiện hành, các chi phí khác có liên quan và lệ phí trước bạ (nếu có). Đối với tài sản
cố định là súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm, vườn cây lâu năm thì nguyên giá là toàn
bộ các chi phí thực tế, hợp lý, hợp lệ đã chi ra cho con súc vật, mảnh vườn cây từ lúc hình
thành cho tới khi đưa vào khai thác, sử dụng theo quy định tại điều lệ quản lý đầu tư và
xây dựng hiện hành, các chi phí khác có liên quan và lệ phí trước bạ (nếu có).
Đối với tài sản cố định loại được cấp, được điều chuyển đến thì nguyên giá tài sản
cố định loại được cấp, điều chuyển đến bao gồm: giá trị còn lại trên sổ kế toán của tài sản
cố định ở đơn vị cấp, đơn vị điều chuyển hoặc giá trị theo đánh giá thực tế của hội đồng
giao nhận, các chi phí tân trang; chi phí sửa chữa, chi phí vận chuyển bốc dỡ, lắp đặt,
chạy thử, lệ phí trước bạ (nếu có) mà bên nhận tài sản phải chi ra trước khi đưa tài sản
cố định vào sử dụng.
Riêng nguyên giá tài sản cố định điều chuyển giữa các đơn vị thành viên hạch toán
phị thuộc trong Doanh nghiệp là nguyên giá phản ánh ở đơn vị bị điều chuyển phù hợp
với bộ hồ sư của tài sản cố định đó. Đơn vị nhận tài sản cố định căn cứ vào nguyên giá, số
khấu hao luỹ kế, giá trị còn lại trên sổ kế toán và bộ hồ sơ của tài sản cố định đó để xác
định các chỉ tiêu nguyên giá, số khấu hao luỹ kế, giá trị còn lại trên sổ kế toán của tài sản
cố định và phản ánh vào sổ kế toán. Các chi phí có liên quan đến việc điều chuyển tài
khoản giữa các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc không hạch toán tăng nguyên giá
tài sản cố định mà hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
Đối với tài sản cố định loại được cho, được biếu, được tặng, nhận góp vốn liên
doanh, nhận lại vốn góp do phát hiện thừa thì nguyên giá bao gồm: giá trị theo đánh giá
thực tế của Hội đồng giao nhận; các chi phí tân trang, sửa chữa tài sản cố định; các chi phí
vận chuyển, bốc dỡ, lắp đăt, chạy thử, lệ phí trước bạ (nếu có) mà bên nhận phải chi ra
trước khi đưa tài sản cố định vào sử dụng.
- Tài sản cố định vô hình
Khái niệm: Tài sản cố định vô hình là những tài sản cố định không có hình thái vật
chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kì
6
kinh doanh của Doanh nghiệp như chi phí thành lập Doanh nghiệp, chi phí về đất sử
dụng, chi phí về bằng phát minh, sáng chế, bản quyền tác giả, mua bản quyền tác giả,
nhận chuyển giao công nghệ
Quy mô của vốn cố định sẽ quyết định đến lượng TSCĐ được hình thành và ngược lại,
đặc điểm hoạt động của TSCĐ sẽ chi phối đặc điểm luân chuyển của vốn cố định. Từ mối
liên hệ này, ta có thể khái quát những đặc thù của vốn cố định như sau:
+ Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh mà vẫn giữ nguyên
hình thái hiện vật. Có được đặc điểm này là do TSCĐ tham gia vào phát huy tác dụng
trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì vậy vốn cố định là hình thái biểu hiện bằng tiền của
TSCĐ và cũng tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng.
+ Vốn cố định được luân chuyển giá trị dần dần, từng phần trong các chu kỳ sản xuất.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu
nhưng tính năng và công suất của nó bị giảm dần, tức là nó bị hao mòn và cùng với sự
giảm dần về giá trị sử dụng, thì giá trị của nó cũng bị giảm đi, theo đó vốn cố định được
tách thành hai bộ phận:Bộ phận thứ nhất tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ
được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu hao
và được tích luỹ lại thành quỹ khấu hao, sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, quỹ
khấu hao này sẽ được sử dụng để tái sản xuất TSCĐ nhằm duy trì năng lực sản xuất của
doanh nghiệp. Phần còn lại của vốn cố định vẫn được "cố định" trong đó, tức là giá trị
còn lại của tài sản cố định. Hình thái hiện vật của vốn cố định là tài sản cố định.Sau mỗi
chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm và được thu hồi dần dần
tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại dần dần giảm xuống. Kết thúc quá
trình vận động đó cũng là lúc TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển
dịch vào giá trị sản phẩm đã sản xuất và khi đó vốn cố định mới hoàn thành một vòng
luân chuyển.Vốn cố định thường có chu kỳ vận động dài, sau nhiều năm mới có thể thu
hồi đủ số vốn đầu tư đã ứng ra ban đầu. Trong thời gian dài như vậy, đồng vốn luôn bị đe
doạ bởi những rủi ro, những nguyên nhân chủ quan và khách quan làm thất thoát vốn như:
7
Do kinh doanh kém hiệu quả, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, do giá bán thấp
hơn giá thành nên thu nhập không đủ bù đắp mức độ hao mòn TSCĐ. Do sự phát triển
của tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho mức độ hao mòn vô hình của TSCĐ vượt qua mức
dự kiến về mặt hiện vật cũng như về mặt giá trị. Do yếu tố lạm phát trong nền kinh tế. Khi
lạm phát xảy ra, giá trị thực của đồng vốn bị thay đổi, do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải
đánh giá và điều chỉnh lại giá trị tài sản để tránh tình trạng mất vốn kinh doanh theo tốc
độ lạm phát trên thị trường.
+ Vốn cố định hoàn thành một vòng luân chuyển sau nhiều chu kỳ kinh doanh. Trong
các doanh nghiệp, vốn cố định là một bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng tương đối lớn
trong toàn bộ vốn đầu tư nói riêng, vốn sản xuất kinh doanh nói chung. Quy mô của vốn
cố định và trình độ quản lý sử dụng nó là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến trình độ trang
bị kỹ thuật của sản xuất kinh doanh. Do ở một vị trí then chốt và đặc điểm luân chuyển
của nó lại tuân theo tính quy luật riêng, nên việc quản lý vốn cố định có ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa vốn cố định đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Về mặt giá trị bằng tiền, vốn cố định phản ánh tiềm lực của Doanh nghiệp. Còn về
mặt hiện vật, vốn cố định thể hiện vai trò của mình qua tài sản cố định.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh của Doanh nghiệp. Nó gắn liền với Doanh nghiệp trong suốt quá trình tồn tại.
Doanh nghiệp có tài sản cố định có thể không lớn về mặt giá trị nhưng tầm quan trọng của
nó lại không nhỏ chút nào.
Thứ nhất, tài sản cố định phản ánh mặt bằng cơ sở hạ tầng của Doanh nghiệp, phản
ánh quy mô của Doanh nghiệp có tương xứng hay không với đặc điểm loại hình kinh
doanh mà nó tiến hành.
Thứ hai, tài sản cố định luôn mang tính quyết định đối với quá trình sản xuất hàng
hoá của Doanh nghiệp. Do đặc điểm luân chuyển của mình qua mỗi chu kì sản xuất, tài
8
sản cố định tồn tại trong một thời gian dài và nó tạo ra tính ổn định trong chu kì kinh
doanh của Doanh nghiệp cả về sản lượng và chất lượng.
Thứ ba, trong nền kinh tế thị trường, khi mà nhu cầu tiêu dùng được nâng cao thì
cũng tương ứng với tiến trình cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn. Điều này đòi hỏi
các Doanh nghiệp phải làm sao để tăng năng suất lao động, tạo ra được những sản phẩm
có chất lượng cao, giá thành hạ, nhằm chiếm lĩnh thị trường. Sự đầu tư không đúng mức
đối với tài sản cố định cũng như việc đánh giá thấp tầm quan trọng của tài sản cố định dễ
đem lại những khó khăn sau cho Doanh nghiệp:
Tài sản cố định có thể không đủ tối tân để cạnh tranh với các Doanh nghiệp khác cả
về chất lượng và giá thành sản phẩm. Điều này có thể dẫn các Doanh nghiệp đến bờ vực
phá sản nếu lượng vốn không đủ để cải tạo đổi mới tài sản. Sự thiếu hụt các khả năng sản
xuất sẽ giúp các đối thủ cạnh tranh giành mấtt một phần thị trường của Doanh nghiệp và
điều này buộc Doanh nghiệp khi muốn giành lại thị trường khách hàng đã mất phải tốn
kém nhiều về chi phí tiếp thị hay phải hạ giá thành sản phẩm hoặc cả hai biện pháp.
Thứ tư, tài sản cố định còn là một công cụ huy động vốn khá hữu hiệu:
Đối với vốn vay Ngân hàng thì tài sản cố định được coi là điều kiện khá quan trọng
bởi nó dóng vai trò là vật thế chấp cho món tiền vay. Trên cơ sở trị giá của tài sản thế
chấp Ngân hàng mới có quyết định cho vay hay không và cho vay với số lượng là bao
nhiêu.
Đối với Công ty cổ phần thì độ lớn của Công ty phụ thuộc vào giá tài sản cố định mà
Công ty nắm giữ. Do vậy trong quá trình huy động vốn cho Doanh nghiệp bằng cách phát
hành trái phiếu hay cổ phiếu, mức độ tin cậy của các nhà đầu tư chịu ảnh hưởng khá lớn
từ lượng tài sản mà Công ty hiện có và hàm lượng công nghệ có trong tài sản cố định của
Công ty.
9
1.1.3. Nguồn hình thành vốn cố định trong doanh nghiệp
- Nguồn vốn pháp định: gồm VCĐ do ngân sách cấp, do cấp trên cấp phát cho doanh
nghiệp (đối với các doanh nghiệp Nhà nước).
- Nguồn vốn tự bổ sung: được bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
theo quy định của cơ chế tài chính hoặc quyết định của chủ sở hữu vốn dùng để mua
sắm, đổi mới máy móc thiết bị.
- Nguồn vốn liên doanh: gồm các khoản do các đơn vị tham gia liên doanh góp vốn
bằng TSCĐ và góp bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành.
- Nguồn vốn vay: gồm các khoản vay Ngân hàng, vay các tổ chức kinh tế khác để
đầu tư vào TSCĐ, hoặc các khoản huy động được từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu
Thực tế trong điều kiện sản xuất chưa phát triển, hiệu quả kinh tế đạt được nhìn
chung còn thấp, trình độ quản lý còn non kém, quá trình sản xuất kinh doanh còn gặp
nhiều khó khăn thì việc bổ sung VCĐ bằng các quỹ của doanh nghiệp còn rất hạn chế.
Mặt khác, các doanh nghiệp làm ăn còn kém hiệu quả nên việc liên doanh liên kết và huy
động vốn liên doanh của các đơn vị khác sẽ rất khó khăn. Bởi vì khi đem đồng vốn đi góp
vốn liên doanh các nhà kinh tế phải phân tích hiệu quả kinh tế của đồng vốn đem đi góp,
phân tích tình hình sản xuất của doanh nghiệp định liên doanh làm ăn có hiệu quả hay
không? Chính vì vậy mà nguồn VCĐ huy động từ liên doanh hay các nguồn khai thác từ
bên ngoài cũng chỉ đạt được ở một mức độ nhất định. Vì vậy nguồn VCĐ của doanh
nghiệp chủ yếu là do nguồn vốn Ngân sách cấp. Theo quy định hiện hành thì doanh
nghiệp Nhà nước được cấp không VCĐ. VCĐ có vòng luân chuyển chậm (đối với máy
móc thiết bị trung bình từ 15 đến 20 năm) do đó làm cho doanh nghiệp không thấy căng
thẳng về tài chính dẫn đến tình trạng ít quan tâm đến việc tính toán hiệu quả đầu tư VCĐ
đưa đến tình trạng TSCĐ được trang bị một cách chắp vá, không đồng bộ theo một cơ
cấu bất hợp lý. Việc lắp đặt, sử dụng, bảo dưỡng và sửa chữa kém nên TSCĐ không phát
huy hết năng lực nên hiệu quả sử dụng TSCĐ thấp, làm thất thoát VCĐ.
1.2. Phân tích tình hình sử dụng vốn cố định trong doanh nghiệp.
10
1.2.1. Phương pháp phân tích.
- Phương pháp thu thập số liệu:
Bao gồm 2 dạng số liệu, thứ cấp và sơ cấp trong đề tài này.
+ Số liệu thứ cấp được thu thập từ các phòng ban để có được các báo cáo tài
chính của công ty, và tìm thêm thông tin trên Internet, báo chí…
+Số liệu sơ cấp: thu th ập được thông qua trao đổi trực tiếp với và quan
sát cách làm việc các nhân viên trong công ty.
- Phương pháp phân tích: dùng phương pháp so sánh liên hoàn, so sánh tương đối, so
sánh tuyệt đối, chênh lệch, phương pháp tỷ lệ, phương pháp cân đối……
1.2.2. Nội dung phân tích.
1.2.2.1. Cơ cấu vốn kinh doanh.
Vốn là yếu tố cơ bản và là tiền đề không thể thiếu của quá trình sản xuất, kinh
doanh. Muốn tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có
vốn kinh doanh. Vốn được dùng để mua sắm các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất
như: Sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Vốn kinh doanh thường xuyên
vận động và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong các khâu của hoạt động sản
xuất kinh doanh. Nó có thể là tiền, máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, bán
thành phẩm, thành phẩm… khi kết thúc một vòng luân chuyển thì vốn kinh doanh lại trở
về hình thái tiền tệ. Như vậy, với số vốn ban đầu, nó không chỉ được bảo tồn mà còn được
tăng lên do hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi.Như vậy có thể hiểu vốn kinh doanh của
doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản được huy động, sử dụng
vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Bảng 1.1 : Phân tích kết cấu vốn kinh doanh
Chỉ tiêu
Kỳ gốc Kỳ phân tích Chênh lệch
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng ± Tỷ lệ Tỷ trọng
Vốn cố định
11
Vốn lưu động
Tổng vốn kinh
doanh
Phân tích cơ cấu vốn kinh doanh cho ta thấy được số tiền vốn cố định, vốn lưu đông, tổng
vốn kinh doanh giữa các kỳ và tỷ trọng của chúng trong tổng vốn kinh doanh. Ngoài ra
còn cho ta biết chênh lệch tuyệt đối, tỷ lệ, tỷ trọng của các chỉ tiêu giữa kỳ phân tích và
kỳ gốc.
1.2.2.2. Phân tích kết cấu vốn cố định
Vốn cố định: Là lượng vốn đầu tư ứng trước để hình thành nên TSCĐ của doanh
nghiệp.
Bảng 1.2 : Phân tích kết cấu vốn cố định
Chỉ tiêu
Kỳ gốc Kỳ phân tích Chênh lệch
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng ± Tỷ lệ Tỷ trọng
Vốn đầu tư
MMTB
Vốn đầu tư
PTVT
Vốn đầu tư nhà
cửa, VKT
Vốn đầu tư
thiết bị quản lý
Vốn đầu tư
12
TSCĐ khác
Vốn đầu tư
TCDN
Tổng vốn cố
định
Phân tích cơ cấu vốn cố định cho ta thấy được số tiền Vốn đầu tư MMTB, Vốn đầu tư
PTVT, Vốn đầu tư nhà cửa, VKT , Vốn đầu tư thiết bị quản lý , Vốn đầu tư TSCĐ khác ,
Vốn đầu tư TCDN, tổng vốn cố định giữa các kỳ và tỷ trọng của chúng trong tổng vốn cố
định. Ngoài ra còn cho ta biết chênh lệch tuyệt đối, tỷ lệ, tỷ trọng của các chỉ tiêu giữa kỳ
phân tích và kỳ gốc.
1.2.2.3. Tình hình sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp.
Tài sản cố định hữu hình là những tư liệu lao động chủ yếu có tính chất vật chất
(từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận từng tài
sản liên kết với nhau để thể hiện một hay một số chức năng nhất định), có giá trị lớn và
thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kì kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên
hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị …
Tài sản cố định vô hình là những tài sản cố định không có hình thái vật chất, thể hiện
một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kì kinh doanh của
Doanh nghiệp như chi phí thành lập Doanh nghiệp, chi phí về đất sử dụng, chi phí về
bằng phát minh, sáng chế, bản quyền tác giả, mua bản quyền tác giả, nhận chuyển giao
công nghệ
Bảng 1.3 : Phân tích kết cấu tài sản cố định
Chỉ tiêu
Kỳ gốc Kỳ phân tích Chênh lệch
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng ± Tỷ lệ Tỷ trọng
TSCĐ hữu hình
TSCĐ vô hình
Tổng TSCĐ
13
Khấu hao là việc đánh giá, tính toán, phân bổ một cách có hệ thống giá trị của tài sản
do sự hao mòn tài sản sau một khoảng thời gian sử dụng. Khấu hao tài sản cố định được
tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong suốt thời gian sử dụng tài sản cố định. Khấu
hao tài sản cố định liên quan đến việc hao mòn tài sản, đó là sự giảm dần về giá trị và giá
trị sử dụng do tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, do hao mòn tự nhiên hoặc do
tiến bộ khoa học công nghệ.
Bảng 1.4 : Phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định
Chỉ tiêu
Kỳ gốc Kỳ phân tích Chênh lệch
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng ± Tỷ lệ Tỷ trọng
Nguyên giá
TSCĐ
Khấu hao
Giá trị còn lại
1.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định.
1.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Trong các doanh nghiệp, VCĐ là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư nói riêng và
của vốn sản xuất nói chung. Quy mô của VCĐ và trình độ quản lý, sử dụng nó là nhân tố
ảnh hưởng quyết định đến tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Do
ở một vị trí then chốt và đặc điểm vận động của nó lại tuân theo tính quy luật riêng nên
việc quản lý VCĐ được coi là một trọng điểm của công tác tài chính doanh nghiệp.
Như đã trình bày ở trên, phải trải qua một thời gian dài VCĐ mới hoàn thành được
một vòng luân chuyển. Vấn đề đặt ra thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý doanh
nghiệp ở đây là làm thế nào để VCĐ trong suốt thời gian dài tham gia vào quá trình sản
xuất tạo ra được nhiều sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hay nói
cách khác là làm thế nào để sử dụng VCĐ một cách có hiệu quả nhằm thực hiện được
14
mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy hiệu quả sử dụng VCĐ là gì ? Trong các
doanh nghiệp nó được đánh giá thông qua các chỉ tiêu nào ?
Trước hết nói về hiệu quả sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế của sản
xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng VCĐ nói riêng được biểu thị qua mối
quan hệ giữa kết quả đạt được trong quá trình sản xuất với chi phí về lao động sống và lao
động vật hoá bỏ ra để đạt được kết quả trên.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phải bao gồm cả hai mặt: Hiệu quả kinh tế và hiệu quả
xã hội. Hai mặt này liên quan chặt chẽ với nhau và thể hiện nội dung cơ bản của hiệu quả
sản xuất. Trong đó hiệu quả kinh tế là cơ sở vật chất của hiệu quả xã hội, hiệu quả xã hội
tạo điều kiện tốt hơn để thu được hiệu quả kinh tế cao hơn.
Như vậy, ta có thể thấy rằng: Hiệu quả sử dụng VCĐ là mối quan hệ giữa kết quả đạt
được trong quá trình khai thác sử dụng VCĐ vào sản xuất với số VCĐ đã sử dụng để đạt
được kết quả đó.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào khi sử dụng vốn
vào sản xuất nói chung và VCĐ nói riêng đều phải quan tâm đến hiệu quả nó mang lại.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ trong các doanh nghiệp, người ta thường dùng một hệ
thống các chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu phân tích.
Các chỉ tiêu tổng hợp nhằm phản ánh về mặt chất của việc sử dụng VCĐ doanh
nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu này, người quản lý có thể so sánh kết quả quản lý giữa kỳ
này với kỳ trước, giữa doanh nghiệp mình với các doanh nghiệp khác có quy mô tương tự
để rút ra những trọng điểm cần quản lý. Thuộc loại này bao gồm các chỉ tiêu sau:
1.3.1.1. Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Thường được dùng để so sánh giữa kì này với kì trước, giữa doanh nghiệp này với
doanh nghiệp khác có cùng điều kiện để từ đó đánh giá, phân tích trình độ sử dụng toàn
bộ Tài sản cố định của doanh nghiệp.
Hvcd = Doanh thu sản phẩm, hàng hóa tiêu thụ trong kì / VCĐ sử dụng bình quân
trong kì.
Tính giá cố định: so sánh giữa các thời kì, giá hàng hóa trong 1 thờii kì
VCĐ bình quân sử dụng=(VCĐ đầu kì + VCĐ cuối kì) / 2
15
Ý nghĩa: 1 đồng vốn cố định làm ra bao nhiêu đồng doanh thu
- VCĐ là giá trị còn lại của Tài sản cố định. Để đánh giá tốt hơn việc quản lý, sử
dụng VCĐ, chỉ tiêu trên cũng được kết hợp với chỉ tiêu Hiệu suất sử dụng TSCĐ.
1.3.1.2. Hàm lượng Vốn cố định (Hhl)
Chỉ tiêu này là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Nó
phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần cần bao nhiều đồng vốn cố
định.
Hhl= VCĐ bình quân trong kì / doanh thu sp, hàng hóa tiêu thụ trong kì.
Hhl càng nhỏ càng tốt.
1.3.1.3. Hệ số hiệu quả sử dụng vốn cố định (Hhq)
Hiệu quả sử dụng vốn cố định (tỷ suất lợi nhuận vốn cố định): Chỉ tiêu này phản ánh
một đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiều đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc
sau thuế). Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu quả đầu tư cũng
như chất lượng sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
Hhq = Lãi ròng trong kì (P) / VCĐ bình quân trong kì.
Hhq càng lớn càng tốt.
- Lãi ròng là lợi nhuận sau khi trừ thuế lợi tức, lưu ý tỉ số (P) ta phải loại bỏ những
phần lợi nhuận không có sự tham gia của VCĐ.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản cố định.
1.3.2.1. Hệ số hiệu suất sử dụng tài sản cố định (TSCĐ)
Htscd = Doanh thu sản phẩm, hàng hóa tiêu thụ trong kì / NG bình quân TSCĐ trong
kì
NG bq TSCĐ trong kì = (Ng bq đầu kì + NG bq cuối kì) / 2
1.3.2.2. Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp
16
Chỉ tiêu này phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa giá trị từng nhóm, loại TSCĐ trong tổng số
giá trị TSCĐ của doanh nghiệp ở thời điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp cho doanh nghiệp
đánh giá mức độ hợp lý trong cơ cấu TSCĐ được trang bị ở doanh nghiệp, từ đó có biện
pháp đầu tư, điều chỉnh lại cơ cấu TSCĐ nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng vốn của doanh
nghiệp.
1.3.2.2. Hệ số hao mòn TSCĐ
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp so với thời
điểm đầu tư ban đầu.
Hệ số hao mòn TSCĐ = Số tiền khấu hao kuỹ kế / Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm
đánh giá
Trên đây là những chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu phân tích chủ yếu nhằm phục vụ cho
việc kiểm tra tài chính đối voíư việc sử dụng VCĐ của mỗi doanh nghiệp. Khi đánh giá
hiệu quả sử dụng VCĐ cần phải kết hợp các hai loại chỉ tiêu trên để rút ra được những kết
luận đúng đắn. Ngoài ra, vì TSCĐ gồm nhiều loại nên phải kết hợp xem xét các chỉ tiêu
kinh tế kỹ thuật của từng loại cụ thể về mặt hiện vật để đánh giá được toàn diện và chính
xác hiệu quả sử dụng VCĐ.
Qua phương pháp xác định hiệu quả sử dụng VCĐ trên đây chúng ta thấy rằng: Nâng
cao hiệu quả sử dụng VCĐ có nghĩa là khai thác một cách triệt để khả năng hiện có của
doanh nghiệp, phát huy hết công suất thiết kế của máy móc, thiết bị, tận dụng một cách
tối đa giờ máy để từ đó tạo ra nhiều sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp làm cho
kết quả thu được trên một đồng chi phí về TSCĐ (VCĐ) ngày một tăng. Điều đó có nghĩa
là khi hiệu quả sử dụng VCĐ được nâng lên thì với một đồng vốn bỏ ra sẽ cho kết quả
nhiều hơn, tốt hơn cho doanh nghiệp.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn cố định
1.4.1. Nhân tố chủ quan
Đây là nhân tố chủ yếu quyết định đến hiệu quả sử dụng TSCĐ và qua đó ảnh hưởng
đến hiệu suất sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Nhân tố này gốm nhiều yếu tố tác
động trực tiếp đến kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh cả về trước mắt cũng như
lâu dài. Thông thường trên góc độ tổng quát người ta thường xem xét những yếu tố sau:
17
- Ngành nghề kinh doanh: Nhân tố này tạo ra điểm xuất phát cho doanh nghiệp cũng
như định hướng cho nó trong suốt quá trình tồn tại. Với một ngành nghề kinh doanh đã
trước lựa chọn chủ doanh nghiệp buộc phải giải quyết những vấn đề đầu tiên về mặt tài
chính gồm có:
+ Cơ cấu vốn của công tý thế nào là hợp lý, khả năng tài chính của công ty ra sao.
+ Cơ cấu tài sản được đầu tư như thế nào, mức độ hiện đại hóa nói chung so với
những doanh nghiệp cùng loại hình đến đâu.
+ Nguồn tài trợ cho những tài sản đó được huy động từ đâu, có đảm bảo lâu dài cho
sự an toàn của công ty hay không.
Ngoài ra qua ngành nghề kinh doanh, doanh nghiệp còn có thể tự xác định được mức
độ lợi nhuận đạt được, khả năng chiếm lĩnh và phát triển thị trường trong tương lai Để
có kế hoạch bố trí nguồn lực một cách phù hợp.
- Mối quan hệ của doanh nghiệp: Mối quan hệ này được đặt ra trên 2 phương diện là
quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng và mối quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà
cung cấp. Điều này rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng tới nhịp độ sản xuất, uy tín của công
ty qua các công trình đã hoàn thành Là những vấn đề trực tiếp tác động đến lợi nhuận
của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có mối quan hệ tốt với khách hàng và với nhà cung
cấp thì nó sẽ đảm bảo tương lai lâu dài cho doanh nghiệp. Để được như vậy doanh nghiệp
phải có kế hoạch cụ thể để vừa duy trì những bạn hàng lâu năm lại vừa tăng cường thêm
những bạn hàng mới.
- Trình độ của cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp: Yếu tố này được xem xét trên 2
khía cạnh là trình độ tay nghề của công nhân trực tiếp sản xuất và trình độ lãnh đạo quản
lý của các cấp. Nó được thể hiện qua khả năng phát triển theo chiều sâu của doanh
nghiệp.
18
+ Đối với công nhân trực tiếp sản xuất phải có tay nghề cao, có khả năng tiếp thu
công nghệ mới, tự chủ công việc, phát huy về tính sáng tạo, có ý thức giữ gìn và bảo quản
TSCĐ trong quá trình vận hành.
+ Đối với cán bộ quản lý có thể xem xét trên các góc độ sau:
Quản lý về nhân sự: Quá trình tuyển chọn công nhân ra sao, đã hợp lý chưa, sự sắp
xếp phân công lao động đã đúng người đúng việc hay chưa, có bị lãng phí lao động hay
không và qua đó năng suất lao động được nâng lên như thế nào?
Quản lý về tài chính: Quy trình hạch toán của doanh nghiệp có đúng theo quy định
hay không? Các số liệu kế toán có chính xác đảm bảo, đủ độ tin cậy để ra quyết định hay
không? Trong quá trình hoạt động việc thu chi phải rõ ràng, đúng việc, đúng thời điểm thì
mới có thể nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Quản lý các dự án: Là công việ rất quan trọng đối với doanh nghiệp xây dựng, vì nó
ảnh hưởng rất lớn tới các dòng thu nhập nà doanh nghiệp nhận được sau này. Công tác
quản lý dự án bao gồm cả việc khảo sát lập dự án và thẩm định dự án, đặc biệt là việc
thẩm định dự án. Đó là việc phân tích, đánh giá và xác định mức độ khả thi của dự án.
Khi thẩm định dự án phải xem xét trên cả ba mặt là kỹ thuật và công nghệ, xây dựng và
môi trường, kinh tế tài chính. Việc thẩm định dự án có ý nghĩa quan trọng vì nó cho phép
xác định tính hiệu quả, sự tồn tại, khả năng sinh lời, khả năng hoàn vốn và nguồn huy
động để xây dựng dự án.
- Công tác đầu tư, mua sắm máy móc thiết bị của doanh nghiệp. Nếu việc đầu tư
mua sắm máy móc thiết bị được tổ chức tốt trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng nhu cầu của
thị trường về khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng tận dụng thời gian làm việc và công
suất của TSCĐ từ đó lựa chọn, mua sắm những máy móc thiết bị phù hợp với yêu cầu về
quy mô và chất lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp. Sản phẩm có chất lượng cao
với số lượng hợp lý để đáp ứng nhu cầu thị trường sẽ làm tăng doanh thu tiêu thụ sản
phẩm. Đồng thời doanh nghiệp có khả năng để tận dụng thời gian và công suất máy móc
thiết bị. Như vậy hiệu quả sử dụng VCĐ sẽ được nâng cao.
19
Công tác đầu tư, mua sắm TSCĐ được tổ chức tốt, còn được thể hiện ở việc nghiên
cứu, lựa chọn người bán, phương thức thanh toán và nguồn vốn đầu tư phù hợp để mua
sắm những TSCĐ hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp với chi phí đầu tư
hợp lý.
Ngược lại, nếu việc đầu tư, mua sắm TSCĐ không tốt các máy móc thiết bị, dây
chuyền công nghệ mua về không phù hợp với đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp, không
sử dụng hoặc sử dụng không đủ đáp ứng yêu cầu về số lượng sản phẩm sẽ làm giảm
doanh thu tiêu thụ. Hoặc việc mua thêm những máy móc mới có giá trị lớn nhưng doanh
nghiệp lại không tận dụng hết thời gian làm việc và công suất của máy sẽ gây lãng phí
hoặc làm tăng chi phí sử dụng TSCĐ. Như vậy, hiệu quả sử dụng VCĐ sẽ thấp.
- Công tác tổ chức sản xuất cũng là nhân tố ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng
VCĐ của doanh nghiệp.
Nếu công tác tổ chức sản xuất hợp lý, máy móc thiết bị được huy động vào sản xuất
cao, đẩy vòng luân chuyển của VCĐ tăng nhanh, giảm ứ đọng về vốn sẽ tạo điều kiện rút
ngắn thời gian hao mòn vô hình và hữu hình.
Ngược lại, tổ chức sản xuất không hợp lý, máy móc thiết bị huy động vào sản xuất
thấp, máy móc thiết bị chưa cần dùng hoặc không cần dùng nhiều sẽ gây ứ đọng về vốn,
đồng thời hao mòn vô hình và hữu hình tăng (do nhiều nguyên nhân khác nhau) trong khi
không có doanh thu tiêu thụ những sản phẩm do những TSCĐ này tạo ra. Vì vậy, hiệu
quả sử dụng VCĐ của doanh nghiệp sẽ thấp.
- Việc tổ chức lao động một cách khoa học, bố trí sắp xếp công nhân có trình độ và
tay nghề phù hợp với máy móc thiết bị sẽ phát huy được công suất của máy, tiết kiệm
được chi phí, đồng thời năng suất lao động cũng tăng nhanh, số lượng sản phẩm làm ra
đạt yêu cầu chất lượng sẽ nhiều hơn, tức là kết quả thu được từ việc sử dụng VCĐ sẽ cao
hơn.
20
Và ngược lại nếu tổ chức lao động không hợp lý, sắp xếp công nhân có trình độ và
tay nghề không phù hợp với máy móc thiết bị sẽ gây lãng phí do không tận dụng được
khả năng của máy, sản lượng sản phẩm làm ra bị hạn chế dẫn đến kết quả thấp.
- Trách nhiệm và ý thức của người lao động cũng là một nhân tố ảnh hưởng không
nhỏ tới hiệu quả sử dụng VCĐ. Nếu người lao động có ý thức tự giác, có trách nhiệm cao
đối với công việc và TSCĐ mà mình sử dụng cũng như những tài sản của doanh nghiệp
mình, chú ý bảo quản TSCĐ sẽ hạn chế được hư hỏng, mất mát TSCĐ, nâng cao hiệu quả
sử dụng TSCĐ.
- Việc trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả
sử dụng VCĐ. Nếu trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao hợp lý, theo đúng chế độ và
phù hợp với đặc điểm riêng của từng TSCĐ hoặc từng nhóm TSCĐ sẽ đảm bảo thu hồi đủ
vốn để tái sản xuất giản đơn TSCĐ. Bên cạnh đó, nếu quỹ khấu hao được sử dụng linh
hoạt sẽ có khả năng tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Doanh nghiệp có thể dùng quỹ khấu hao
để đầu tư vào các hoạt động kinh doanh khác mà được xác định là có hiệu quả sẽ làm tăng
thêm thu nhập cho doanh nghiệp. Tất nhiên là việc sử dụng quỹ khấu hao đó phải hợp lý
và phải đảm bảo hoàn nhập quỹ để tái sản xuất TSCĐ khi đến thời hạn sử dụng quỹ khấu
hao.
1.4.2. Nhân tố khách quan
Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước: Trên cơ sở pháp luật kinh tế và các biện
pháp kinh tế, Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh và hướng các hoạt động đó theo kế hoạch kinh tế vĩ mô. Với bất cứ một sự thay đổi
nhỏ nào trong chế độ chính sách hiện hành đều cho phối đến các hoạt động của doanh
nghiệp. Đối với hiệu quả sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp thì các văn bản pháp luật về tài
chính, kế toán thống kê, về quy chế đầu tư Đều gây ảnh hưởng lớn trong suốt quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp nhất là các quy định về trích khấu hao, tỷ lệ trích lập các
quỹ, các văn bản thuế
21
Thị trường và cạnh tranh: Vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp là phải có kế hoạch cải
tạo, đầu tư mới TSCĐ trước mắt cũng như lâu dài. Nhờ đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến
quy trình công nghệ thì những sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra mới có năng suất
cao, chất lượng đảm bảo, giá thành hạ và do đó mới có đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Ngoài ra việc đổi mới máy móc thiết bị đảm bảo an toàn cho người lao động, nhất là
ngành xây dựng phải chịu không nhỏ của thiên nhiên.
Bên cạnh đó lãi suất tiền vay cũng là một nhân tố ảnh hưởng quan trọng. Lãi suất
tiền vay ảnh hưởng tới chi phi đầu tư của doanh nghiệp. Sự thay đổi của lãi suất sẽ kéo
theo những biến động cơ bản của dự án đầu tư, đặc biệt là hiệu quả về mặt tài chính.
Các nhân tố khác: Các nhân tố này được coi là nhân tố bất khả kháng như thiên tai,
địch họa, có tác động trực tiếp lên hiệu quả TSCĐ của doanh nghiệp. Mức độ tổn hại về
lâu dài hay tức thời hoàn toàn không thể biết trước, chỉ có thể dự phòng trước nhằm giảm
nhẹ hậu quả thiên tai mà thôi.
22
CHƯƠNG 2 : PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỐ ĐỊNH
TẠI CÔNG TY VINAWACO 3 GIAI ĐOẠN 2011-2013.
2.1. Khái quát về công ty sửa chữa phương tiện thủy và dich vụ VINAWACO
3
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Tên gọi: Công ty sửa chữa phương tiện thủy và dịch vụ VINAWACO 3 trực thuộc
Tổng công ty xây dưng đường thủy, tên giao dịch quốc tế là VIETNAM WATERWAY
CONSTRUCTION CORPORATION, tên viết tắt là VINAWACO
Địa chỉ: Số 4/215 Lê Lai - Quận Ngô Quyền - TP.Hải Phòng
Năm 1982, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải đã ký quyết định số 2011/TCCB ngày
9 tháng 12 năm 1982 thành lập “ Liên hiệp các xí nghiệp nạo vét sông, biển”- tiền thân
của Tổng Công ty Xây dựng đường thủy hiện nay. Lực lượng chính của Liên hiệp là 3
đơn vị nạo vét thuộc Cục đường sông và Tổng cục đường biển.
Cùng với sự phát triển về mọi mặt, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước
nhằm tăng cường công tác quản lý đường thủy, ngoài chức năng nạo vét đảm bảo giao
thông đường thủy, các năm sau Liên hiệp được giao trực tiếp quản lý và xây dựng trên 40
cảng sông và hơn 3.500 km đường thủy nội địa. Vì lý do đó, ngày 9/12/1984 Bộ trưởng
Bộ giao thông vận tải đã ký quyết định số 2856/QĐ-TCCB đổi tên Liên hiệp các xí
nghiệp nạo vét sông, biển thành “Liên hiệp các xí nghiệp giao thông đường thủy”
Đến năm 1988, thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc đổi
mới, thay đổi cơ chế quản lý kinh tế theo hình thức kế hoạch hóa, bao cấp toàn bộ sang
giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp Nhà nước, ngày 02/8/1988, Bộ trưởng Bộ Giao
thông vận tải đã ký quyết định số 1843/QĐ-TCCB-LĐ đổi tên thành “Liên hiệp các xí
nghiệp quản lý giao thông đường thủy”.
Tuy nhiên vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước, do tình hình kinh tế xã hội gặp
nhiều khó khăn, việc hoạt động của các doanh nghiệp theo hình thức kết hợp giữa nhiệm
vụ quản lý với kinh doanh đem lại hiệu quả kinh tế không cao nên Đảng và Nhà nước đã
có chỉ đạo yêu cầu tách công tác quản lý Nhà nước trong các doanh nghiệp ra khỏi hoạt
23
động sản xuất kinh doanh và cho phép thành lập các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế
thị trường có sự điều hành định hướng của Nhà nước.Vì vậy, ngày 21/12/1991 Bộ trưởng
Bộ Giao thông vận tải đã ký quyết định số 2726/QĐ-TCCB-LĐ về việc thành lập “Tổng
Công ty Xây dựng đường thủy”. Tổng Công ty là doanh nghiệp Nhà nước, là tổ chức kinh
doanh hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân đầy đủ. Chức năng và nhiệm vụ
kinh doanh chính là xây dựng công trình giao thông đường thủy trong phạm vi cả nước.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ về việc chuyển đổi công ty Nhà
nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu,
ngày 30/6/2011 Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải đã ký quyết định số 1845/QĐ-BGTVT
thành lập Công ty Mẹ - Tổng Công ty Xây dựng đường thủy. Công ty Mẹ - Tổng Công ty
Xây dựng đường thủy là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu
100% vốn điều lệ, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, con dấu,
biểu tượng.
Thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động liên danh, liên kết với
các nhà thầu trong và ngoài nước, trong thời gian qua, Tổng Công ty Xây dựng đường
thuỷ đã đạt được những thành tích đáng kể. Từ một đơn vị chuyên ngành nạo vét sông,
biển, đến nay Tổng Công ty Xây dựng đường thủy đã có các đơn vị xây lắp đủ các loại
hình công trình: Công trình thủy công, giao thông đường bộ, công trình dân dụng, công
nghiệp, công trình thủy lợi Năng lực thi công của Tổng Công ty cũng ngày được nâng
cao, đủ mạnh để thực hiện ở việc thi công các dự án có qui mô lớn, kỹ thuật phức tạp như
Cảng Hòn Chông (Kiên Giang), cảng Cát Lái, cảng Container Tân Thuận (TP. Hồ Chí
Minh), dự án Nâng cấp Cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), dự án Nâng cấp Cảng Hải Phòng, dự án
Mở rộng cảng Cái Lân (Quảng Ninh), dự án xây dựng Đường cao tốc Láng - Hoà Lạc (Hà
nội), dự án Đường Hồ Chí Minh, dự án đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh - Trung Lương,
dự án Nạo vét luồng ngoài cảng Cái Lân (Quảng Ninh) - đoạn từ Cửa Lục đến Hòn Một,
dự án Xây dựng luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu (Trà Vinh), dự án Xây
dựng Thuỷ điện Đồng Nai 4, đáp ứng yêu cầu về chất lượng dưới sự giám sát của các
công ty Tư vấn nước ngoài và được Chủ đầu tư hài lòng.
24
Năm 1982, Tổng Công ty Xây dựng đường thủy mới có 5 đơn vị, đến nay (năm
2011) Tổng công ty đã có 30 đơn vị thành viên, bao gồm 4 Chi nhánh, 01 Văn phòng đại
diện tại TP. Hồ Chí Minh, 11 công ty con, 13 công ty liên kết và nhiều Ban điều hành dự
án trực thuộc công ty mẹ, hoạt động tại khắp mọi miền của đất nước. Trong số đó có:
♦ 12 đơn vị có chức năng thi công nạo vét sông biển, san lấp tôn tạo mặt bằng.
♦ 16 đơn vị có chức năng xây dựng các công trình cảng, kè, triền đà, ụ tầu, chỉnh
trị đường thủy, trục vớt, phá đá ngầm, xây dựng cầu đường bộ, thanh thải
chướng ngại vật trên các tuyến đường thủy.
♦ 1 Công ty tư vấn đầu tư và xây dựng đường thuỷ
♦ 1 Công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực Đầu tư và Dịch vụ nhân lực.
2.1.2. Đặc điểm tính chất sản xuất kinh doanh.
Chức năng và nhiệm vụ kinh doanh chính là xây dựng công trình giao thông đường thủy
trong phạm vi cả nước.
Thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động liên danh, liên kết với các nhà
thầu trong và ngoài nước, trong thời gian qua, Tổng Công ty Xây dựng đường thuỷ đã đạt
được những thành tích đáng kể. Từ một đơn vị chuyên ngành nạo vét sông, biển, đến nay
Tổng Công ty Xây dựng đường thủy đã có các đơn vị xây lắp đủ các loại hình công trình:
Công trình thủy công, giao thông đường bộ, công trình dân dụng, công nghiệp, công trình
thủy lợi Năng lực thi công của Tổng Công ty cũng ngày được nâng cao, đủ mạnh để thực
hiện ở việc thi công các dự án có qui mô lớn, kỹ thuật phức tạp như Cảng Hòn Chông
(Kiên Giang), cảng Cát Lái, cảng Container Tân Thuận (TP. Hồ Chí Minh), dự án Nâng
cấp Cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), dự án Nâng cấp Cảng Hải Phòng…
2.1.3. Cơ cấu tổ chức
2.1.3.1. Trình độ cán bộ, công nhân viên
Tổng số cán bộ, công nhân viên trong toàn Tổng Công ty Xây dựng đường thủy
hơn 5.000 người, bao gồm các tiến sĩ, thạc sĩ kỹ thuật, kỹ sư xây dựng, cơ khí, cử nhân tài
chính, kinh tế và các ngành khác; Các công nhân lành nghề về mộc, nề, bê tông, kích kéo,
thợ máy, thuyền trưởng, máy trưởng, thuỷ thủ các tầu công trình.
Các kỹ sư, đốc công và công nhân đa số được đào tạo chính qui tại các trường Đại
học, trung học, trường đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề, hơn nữa lại được trưởng
25