Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Nghiên cứu thiết kế và chế tạo máy nghiền rơm trong dây chuyền sản xuất viên nhiên liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.39 MB, 65 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp
VIỆN NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ CHẾ TẠO MÁY NÔNG NGHIỆP




BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2010

ĐỀ TÀI:

“Nghiên cứu thiết kế và chế tạo máy nghiền rơm trong dây chuyền
sản xuất viên nhiên liệu”

Mã số: 196.10RD/HĐ-KHCN



Cơ quan chủ quản: BỘ CÔNG THƯƠNG
Cơ quan chủ trì: Viện NCTKCT máy nông nghiệp
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đặng Việt Hoà




8497


Hà Nội, 12/2010


BỘ CÔNG THƯƠNG
Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp
VIỆN NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ CHẾ TẠO MÁY NÔNG NGHIỆP




BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2010

ĐỀ TÀI:

“Nghiên cứu thiết kế và chế tạo máy nghiền rơm trong dây chuyền
sản xuất viên nhiên liệu”

Mã số: 196.10RD/HĐ-KHCN


ĐƠN VỊ CHỦ TRÌ CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
VIỆN NCTKCT MÁY NN



ThS. ĐẶNG VIỆT HOÀ




Hà Nội, 12/2010



DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN CHÍNH


STT Họ và tên
Học vị, học hàm
chuyên môn
Cơ quan
1 Đặng Việt Hoà Thạc sĩ Viện TK máy NN
2 Đỗ Văn Mạnh Kỹ sư Viện TK máy NN
3 Nguyễn Minh Tùng Kỹ sư Viện TK máy NN
4 Phạm Thị Dung Kỹ sư Viện TK máy NN





























MỤC LỤC

MỞ ĐẦU………………………………………………………………… 1
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ RƠM………………… 2
1.1. Vấn đề rơm ở ngoài nước……………………………………… 2
1.2. Vấn đề rơm ở trong nước…………………………………………. 3
1.3. Rơm sử dụng làm viên nhiên liệu…………………………………. 7

1.3.1.
Khái niệm…………………………………………………. 7

1.3.2.
Sử dụng rơm làm viên nhiên liệu ở trong nước……………… 8
CHƯƠNG II NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ CHẾ TẠO MÁY NGHIỀN
RƠM TRONG DÂY CHUYỀN SẢN XUẤT VIÊN NHIÊN LIỆ
U
11
3.1. Cơ lý tính của rơm…………………………………………………. 11
3.2. Cơ sở lựa chọn máy nghiền rơm thành dạng sợi cám………………. 12
3.3. Lựa chọn máy nghiền………………………………………………. 12


3.3.1.
Sơ lược về một số loại máy nghiền………………………… 12

3.3.2. Cơ sở lựa chọn nguyên lý kết cấu và thiết kế máy nghiền
rơm………………………
15

3.3.3.
Tính toán thiết kế máy nghiền rơm………………………… 19

3.3.4.
Qui trình công nghệ chế tạo máy nghiề
n rơm……………… 25

3.3.5.
Kết quả thử nghiệm máy nghiền rơm……………………… 27
CHƯƠNG III KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………… 30
3.1. Kết luận………………… ……………………………………… 30
3.2. Kiến nghị……………………………………………………………. 31

















MỞ ĐẦU

Việt Nam là nước Nông nghiệp với diện tích trồng lúa rất lớn. Sử dụng
rơm cho việc đun nấu hàng ngày đã trở thành phổ biến ở nông thôn xưa.
nhưng ngày nay kinh tế thị trường phát triển việc sử dụng Gas đã trở thành
phổ biến, nguồn rơm bị bỏ lại sau mỗi vụ mùa đã trở thành lãng phí. Sau vụ
gặt người dân đốt rơm tạo thành một bầu khói bao trùm khắp nơi, khói của
rơm rất độc vì các thành phần của nó. Theo các nhà y học, khói bụi khi đốt
rơm, rạ làm ô nhiễm không khí, gây tác hại lớn đối với sức khỏe con người.
Trẻ em, người già, và người có bệnh hô hấp, bệnh mạn tính dễ bị ảnh hưởng
nhất.
Theo thống kê ở Việt Nam cứ sản xuất khoảng hơn 30 triệu tấn lúa thì
có khoảng 3 triệu tấn rơm. Đã có nhiều cách giải quyết cho vấn đề rơm như:
cày vùi lấp dưới nước, trộn các chất dinh dưỡng, ủ và đóng bánh làm thức ăn
trâu bò, ép sấy làm các tấm ván xây dựng, xử lý bằng hoá chất để làm bìa cac-
tông, bao bì, ủ lên men, bổ sung các phân NPK làm chất cải tạo đất, trồ
ng
nấm còn đốt chỉ là giải pháp cuối cùng
Để tận dụng nguồn nguyên liệu này vào việc thay thế một số nguồn
năng lượng đang dần cạn kiệt là một việc làm cấp bách. Rơm sau khi thu gom
về sẽ được nghiền nhỏ ra và sử dụng vào mục đích làm nguồn năng lượng
sinh khối và nguồn năng lượng này được coi là nguồn năng lượng bền vững.
Trong tươ
ng lai nhu cầu cần sử dụng năng lượng sinh khối từ phụ phẩm nông

nghiệp ngày càng tăng thay thế dần nguyên liệu truyền thống như dầu mỏ khí
đốt ngày càng cạn kiệt do sự tăng dân số. Việc sử dụng hữu ích nguồn rơm rạ
sau khi thu hoạch lúa sẽ mở ra cơ hội cải thiện cuộc sống của người nông dân
trên một đất nước có 80% dân số bằ
ng nông nghiệp và rơm rạ cũng không còn
là gánh nặng đối với môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng.
Việc nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị phục vụ cho công nghệ ép viên
nhiên liệu từ rơm rạ là việc làm cần thiết với môi trường xã hội góp phần
nhằm nâng cao hiệu suất xử lý rơm thành nhiên liệu sạch đồng thời giả
i quyết
được tình trạng ô nhiễm môi trường do khói sau mỗi vụ thu hoạch và đem lại
lợi nhuận cho bà con nông dân sản xuất nông nghiệp.

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ RƠM

1.1.Vấn đề rơm ở ngoài nước
Mỗi năm trên toàn thế giới có khoảng 600 triệu tấn [3]
rơm rạ từ cây
lúa sản xuất ra. Nguồn nguyên liệu này được dùng vào nhiều mục đích khác
nhau như dùng để sản xuất điện ở một số nước châu Á. Ở Thái Lan, Indonesia
cũng như nhiều nước sản xuất gạo khác, rơm rạ là mặt hàng phế phẩm sau khi
thu hoạch giờ đây đã đem lại một số tiền nhất định cho nông dân. Rơm rạ đốt
lên sẽ sản sinh ra một lượng hơi nóng dùng để sản xuất điện. Tro rơm rạ sau
khi đốt cũng được bán cho các nhà máy xi măng, các nhà máy này dùng tro
để làm chất trộn lẫn với xi măng không gây hại cho môi trường (hay còn gọi
là sản phẩm thân thiện với môi trường) với giá rẻ hơn. Gọi là sản phẩm thân
thiện với môi trường vì việc sản xuất xi măng ngày nay đang góp 4% vào việc
gây ra hiệu ứng nhà kính nên việc s
ản xuất xi măng giảm đi là giảm được một

phần đáng kể của nguy cơ này. Nhà máy sản xuất điện năng từ rơm rạ ở Thái
Lan dự tính sẽ là tiết kiệm được 88.000 tấn than đá hay 59 triệu lít chất đốt là
dầu. Chủ thầu xây dựng Nhà máy sản xuất điện năng này - AT Biopower đã
xây dựng 4 nhà máy sản xuất điện từ rơ
m rạ trị giá 27 triệu đô-la ở miền
Trung Thái Lan. Nhà máy sản xuất điện đặt tại tỉnh Pichit sẽ tiêu thụ 150.000
tấn rơm rạ mỗi năm đưa lại nhiều việc làm cho người dân địa phương, từ công
việc thu mua rơm rạ, đóng thành kiện, chuyên chở về nhà máy và trực tiếp
tham gia sản xuất… Sản phẩm điện sẽ được bán cho công ty điện lự
c quốc gia
Indonesia, với doanh thu 9 triệu 300 ngàn đô-la mỗi năm, rơm rạ bán cho các
công ty xi măng với trị giá 500 nghìn đô-la mỗi năm. Trong khi đó nhà máy ở
Bali có công suất khoảng 22 megawat được vận hành vào cuối năm 2006 đã
cung cấp điện cho 60.000 hộ gia đình ở Bali [3]
.
Nhờ tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã biến đổi rơm rạ thành Ethanol:
Tổ chức năng lượng quốc tế (IEA) ước tính rằng nguồn năng lượng tái tạo

chiếm khoảng 13% trong tổng số nguồn năng lượng cơ bản toàn thế giới.
Khoảng 80% trong số này là dưới dạng sinh khối đốt cháy được - đa phần là
gỗ, than hầm, phụ phẩm trong trồng trọt: rơm rạ hoặc những chất thải khác
dùng để đốt cho nấu ăn, sưởi ấm và những hoạt động khác.
Một sản phẩm từ rơm mang lại hiệu quả kinh tế cao, được thị trường
thế giới ngày càng ưa chuộng đó là trồng nấm. Theo các nhà khoa học, nấm
rơm là thực phẩm nhiều dinh dưỡng mà không làm tăng lượng cholesterol
trong máu. Hàm lượng protein trong nấm lên tới 5%, đặc biệt có 8 loại axit
amin không thay thế trong số 19 axit amin có trong nấm. Nấm rơm có thành
phần chất xơ cao và lipit thấp, phòng trừ bệnh huyết áp, chống béo phì, xơ
cứng động mạch, chữa bệnh đường ruột…Thị trường tiêu thụ nấm rơm lớn
nhất là Mỹ, Nhật Bản, các nước châu Âu.

Theo nhà nghiên cứu vải sợi Yiqi Yang tại Đại học Lincoln, bang
Nebraska, Mỹ thì rơm và lông gà sẽ xuất hiện phổ biến trong các loại trang
phục của tương lai. Không phải kết thành bộ lông chim hay tấm vải gai, mà
lông gà và sợi rơm sẽ được dệt thành vải giống như len, vải lanh hay cotton.
Trong một quy trình xử lý đang được xem xét cấp bằng sáng chế, Yang và
cộng sự đã tách các sợi rơm bằng một hỗn hợp enzyme và alkaki. Các máy
dệt sau đó sẽ dệt sợi thành vải. Chi phí sản xuất khoảng 50 cent mỗi pound,
trong khi vải cotton hiện được bán với giá khoảng 60 cent một pound [3] .
1.2. Vấn đề rơm ở trong nước
Ở Việt Nam rơm là phụ phẩm của ngành trồng lúa, 20% rơm được làm
chất đốt cho các hộ gia đình, nhiều nơi dùng cách đốt trên đồng ruộng gây
mất an toàn giao thông và ô nhiễm môi trường.
Nông dân các tỉnh sau khi gặt xong lại thường đốt hết rơm rạ để lấy tro
làm phân, cách sử dụng rơm như vậy quá lãng phí. Sử dụng rơm về ép khô để
dành làm thức ăn cho bò quả là có lợi, làm tăng thu nhập cho cả người trồng
lúa và người nuôi bò. HTX Xuân Lộc - Quận 12 - TP Hồ Chí Minh đã hợp
đồng với chủ xe tải xuống tận các vùng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long chở

rơm, rơm khô quá cồng kềnh nên chở về không thể cung ứng đủ cho người
mua. Rơm không chỉ có các hộ nuôi bò mà còn mở rộng ra những bạn hàng
trái cây, gốm sứ có rơm để lót hàng, vận chuyển thật tiện dụng [3] .
Để sản xuất rơm thành khối hình vuông cho dễ chuyên chở, cất giữ
HTX Xuân Lộc đã liên kết với xí nghiệp Z751 để sản xuất ra máy ép rơm đặt
tại ruộng lúa vùng Đồng Tháp Mười để ép rơm tại chỗ. Rơm khô ép xong xếp
trong kho có thể giữ được 6 tháng nhưng gặp mùa mưa, cọng rơm nhiễm ẩm
vẫn dễ bị mốc, dễ bị phân hủy.
Hình 1: Sản phẩm rơm sau khi đã đóng kiện làm thức ăn cho bò

Công ty TNHH Ý Việt đã giới thiệu quy trình chế biến rơm rạ thành
thức ăn gia súc, có thể bảo quản lâu. Đó là pha trộn rơm với mật rỉ mía và

men vi sinh cùng một lượng nhỏ phân urê. Tất cả được qua một máy quay sợi
PE để bọc lại, tạo thành môi trường yếm khí, giữ nguồn thực phẩm gia súc
này hằng năm mà không ng
ại bị hỏng. Men vi sinh tác động trên tế bào rơm
trong bọc yếm khí tạo thành nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng. Quan trọng nhất
là phải nhập khẩu được chiếc máy quấn rơm do nước Ý sản xuất. Giám đốc
Công ty TNHH Ý Việt đã nhận chuyển giao công nghệ cho HTX Xuân Lộc,
đầu xuân 2010, loại thức ăn chăn nuôi do HTX Xuân Lộc tung ra thị trường
được người nuôi bò trong thành phố ngợi khen. Qua kiểm tra của Trung tâm

Tiêu chuẩn – Đo lường – Chất lượng III, loại thức ăn này có lượng xơ 31,3 %,
hàm lượng đạm 5,2 %, chất béo đạt 1,6 %, đủ dinh dưỡng cho bò sữa.
Việc trồng nấm rơm đã phát triển ở 40 tỉnh thành, song sản lượng chưa
tương xứng với tiềm năng. Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều tiềm năng
phát triển nghề trồng nấm,
khu vực này có đủ các điều kiện như chênh lệch
nhiệt độ giữa tháng nóng
và tháng lạnh không đáng kể, có thể trồng nấm rơm
quanh năm. Trồng nấm rơm không đòi hỏi cao về kỹ thuật, nấm không chiếm
nhiều diện tích, chủ yếu tận dụng diện tích trống, chi phí thấp, giải quyết tốt
các nguồn thu nhập cho nông dân [3]
.
Ở một số nơi rơm được dùng để sản xuất phân hữu cơ vi sinh. Phương
pháp xử lý rơm, rạ thành phân bón hữu cơ như sau: Sau vụ gặt, thu gom rơm,
rạ vào một góc ruộng; hòa chế phẩm vi sinh cùng với nước và phân NPK, tưới
lên đống rơm, rạ. Sau che phủ bằng nilon, trát bùn kín. Sau 3 tuần rơm, rạ
mủn là loại phân bón rất tốt cho cây trồng. Dùng phân này bón lót, sẽ giảm tới
30% lượng phân hóa học, và tăng năng suất cây trồng lên đến 7%.Thay vì đổ
xuống ruộng đồng phân hóa học, khiến cấu tượng đất bị đổi thay, nhanh
chóng mất dần độ phì nhiêu, và gây ô nhiễm ngày một nặng nề thì nông dân

đã có phân từ rơm, rạ của mình làm cho đất đai thêm phì nhiêu và môi trường
an toàn, nâng cao giá trị kinh tế, xã hội.
Ngày nay với nhiều công nghệ mới có thể xem rơm như một nguồn tài
nguyên. Tại TP.HCM, Siêu thị công nghệ (Vinatech) cùng tập đoàn Taise và
Ohhara (Nhật Bản) ký kết hợp tác chuyển giao công nghệ sản xuất bột giấy
phi gỗ của Nhật Bản trị giá 50 tỷ đồng. Với công suất từ 15-30 tấn/ngày, dây
chuyền nói trên cho phép sản xuất bột giấy từ nguyên liệu phi gỗ như các
lo
ại nhánh keo lai hom, nhánh cây tràm, nhánh bạch đàn, rơm rạ hay bã mía.
Nếu đem so sánh với việc sản xuất bột giấy từ gỗ thì phương pháp phi gỗ
được đánh giá khá cao bởi nó cho phép tận dụng được thế mạnh nguyên liệu
sẵn có của Việt Nam. Nguyên liệu này một phần là do có sẵn, một phần có thể
nhờ trồng canh tác ngắn ngày. Do không phải phá rừng lấy nguyên liệu nên
công nghệ sản xuất bột giấy t
ừ nguyên liệu phi gỗ là giải pháp tận dụng

nguyên liệu, giúp hạn chế gây ô nhiễm môi trường. Bởi khi đốt sản phẩm từ
cây trồng, hoặc sản phẩm mọc lên từ việc hấp thụ khí cacbonnic và thải ra
oxi, chúng sẽ sinh ra một lượng carbonnic tương đương với khí hấp thụ, khiến
cho tổng lượng khí cacbonnic trong môi trường không thay đổi. Bên cạnh đó,
việc sử dụng dây chuyền sản xuất bột giấy cao cấp từ nguyên liệu phi gỗ ở

quy mô công suất nhỏ vẫn cho phép lắp đặt rải rác theo địa phương, tùy theo
các vùng nguyên liệu. Đầu ra sản phẩm là bột giấy chất lượng cao, cung cấp
cho thị trường trong nước và Nhật Bản.
Một dự án được ngân hàng thế giới (WB) hợp tác với công ty tài chính
quốc tế (IFC) và một số nhà tài trợ quốc tế khác tổ chức đã tài trợ
200.000USD vào tháng 9/2008 và là dự án đầu tiên của người Việt Nam nhận
được tài tr
ợ sau gần 10 năm ngân hàng thế giới tổ chức hoạt động thường niên

này đó là dự án “ Rơm rạ cho nhà ở” của anh Nguyễn Minh Quyền - phó giám
đốc công ty du lịch Bến Thành [3]. Triết lý của dự án khá đơn giản: thay vì
đốt ngoài đồng, nông dân chở rơm rạ đến bán cho nhà máy. Tại đây, chúng
được ép thành tấm lợp cách nhiệt và chịu nhiệt thích hợp với môi trường xây
dựng nhà tại đồng bằng sông Cửu Long. Các tiêu chuẩ
n an toàn liên quan như
khả năng chịu lực, chống cháy, xử lý nhiệt đều có chứng nhận của cơ quan
chức năng. Mẫu mã nhà cũng rất đa dạng, đẹp mắt, giá bán cụ thể tuỳ thuộc
vào diện tích, kiến trúc, trang trí nội thất mà người mua yêu cầu nhưng hứa
hẹn chỉ bằng 1/4 giá nhà xây bằng xi măng, giúp người nông dân có điều kiện
cải thiện nơi ở củ
a mình. Với những người không có tiền để mua nhà, công ty
sẽ có phương thức cho trả góp bằng rơm rạ. Họ sẽ ký hợp đồng cung cấp định
kỳ rơm đúng chất lượng, số lượng với công ty. Tiền bán rơm sẽ được trừ dần
vào tiền mua nhà, giá bán rơm sẽ theo giá thị trường, vật liệu xây dựng làm từ
rơm rạ trên thế giới đã có áp dụng và kết lu
ận sử dụng tốt. Tuy nhiên quá
trình sản xuất ra loại vật liệu này còn tuỳ thuộc rất lớn vào loại chất kết dính,
phương pháp sơ chế loại bỏ hoàn toàn chất xenlulô có trong rơm rạ. Ngoài ra
phải bảo đảm tiêu chuẩn chống thấm, các chỉ số về cường độ nén, cứng,
vững Sản xuất vật liệu bằng rơm rạ giúp tận dụng được nguồn phế
thải ở

nông thôn đồng thời bảo vệ môi trường, đây là một ứng dụng tốt cần được
nghiên cứu kỹ để triển khai. Tuy nhiên cũng phải nhấn mạnh đây không phải
là loại vật liệu siêu đẳng lần đầu tiên xuất hiện mà là loại vật liệu phù hợp với
điều kiện sản xuất của Việt Nam.
Một hướng nghiên cứu mới mà nguồn nguyên liệu chính là r
ơm rạ đang
được các nhà khoa học trong nước nghiên cứu và đưa vào ứng dụng thành

công đó là công nghệ xử lý rơm, rạ hoặc trấu thành Ethanol - nguồn nhiên liệu
thay thế xăng dầu đã được công bố tại TP.HCM [3]. Công nghệ này nằm
trong đề tài “Nghiên cứu công nghệ xử lý một số loại phụ phẩm nông nghiệp
bằng nước áp suất cao để thu dung dịch đường có khả năng lên men tạo thành
Ethanol” của TS. Nguy
ễn Hoàng Dũng (ĐHBK, TP.HCM). Để “biến” thành
Ethanol, rơm, rạ, trấu được xử lý bằng thiết bị phản ứng thủy nhiệt ở quy mô
phòng thí nghiệm. Sau đó được tiếp tục nghiên cứu ở quy mô pilot trên thiết
bị cấp hơi nước áp suất cao. Thiết bị thủy nhiệt này do Trường ĐH Tokyo
(Nhật Bản) cung cấp. Nghiên cứu sử dụng nguồn rơm, rạ, trấu tại ruộ
ng thí
nghiệm của Trường ĐHBK - TP.HCM (tại xã Thái Mỹ - Củ Chi). Cả 3 loại
phụ phẩm trên được xử lý hơi nước ở nhiều chế độ thí nghiệm khác nhau, sau
đó chúng được phân tích bằng acid để xác lập chế độ tối ưu cho quá trình xử
lý hơi nước. Trên cơ sở đó, nghiên cứu quá trình thủy phân Enzym và lên men
để chứng minh khả năng chuyển hóa rơm rạ, trấu là các nguồn phế phụ phẩ
m
nông nghiệp chủ yếu hiện nay thành cồn nhiên liệu. Trên cơ sở các thử
nghiệm, nhóm nghiên cứu đã thu được cồn nhiên liệu trên 90°C.
1.3. Rơm sử dụng làm viên nhiên liệu
1.3.1. Khái niệm
Nhiên liệu sinh khối là nguồn năng lượng cổ xưa nhất đã được con
người sử dụng ngay từ khi biết nấu chín thức ăn và sưởi ấm. Củi là nguồn
năng lượng chính cho tới đầ
u thế kỷ XX khi con người tìm ra nhiên liệu hoá
thạch: than đá, dầu mỏ… và sử dụng nó thay thế củi. Kể từ đó hầu như con

người lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn năng lượng này. Theo dự tính, dầu mỏ sẽ
cạn kiệt trong vòng 40 năm nữa, khi đó nguồn năng lượng nào sẽ thay thế nó
để tránh xảy ra cuộc khủng hoảng năng lượng. Điều đó đòi hỏi con người phải

tìm kiếm và phát triển các nguồn nhiên liệu thay thế nguồn nhiên liệu hoá
thạch đang ngày một cạn kiệt và có nguy cơ gây ô nhiễm khí quy
ển nghiêm
trọng.
Sinh khối là các hợp chất hữu cơ có nguồn gốc động vật hoặc thực vật
bao gồm: phụ phẩm của ngành nông nghiệp - sau thu hoạch ( rơm rạ, vỏ hạt,
thân cây…); phụ phẩm của ngành chế biến các sản phẩm nông nghiệp (vỏ
trấu, vỏ cà phê, bã mía, bã sắn…); phụ phẩm của ngành lâm nghiệp và chế
biến gỗ ( mùn cưa, phoi bào, gỗ chíp…).
Năng lượng sinh kh
ối là nguồn năng lượng được hình thành từ các loại
sinh khối và chúng có khả năng tái tạo vì thế có thể coi năng lượng sinh khối
là nguồn năng lượng bền vững. Trong tương lai, nhu cầu sử dụng năng lượng
sinh khối từ phụ phẩm nông nghiệp ngày càng tăng, thay thế dần dần nguồn
nguyên liệu hoá thạch truyền thống: than, dầu mỏ và khí đốt đang ngày càng
cạn kiện do dân số và nhu c
ầu sử dụng tăng.
1.3.2.Sử dụng rơm làm viên nhiên liệu ở trong nước
Việt Nam là một nước nông nghiệp với hai đồng bằng lớn là đồng bằng
sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, do đó Việt Nam có tiềm năng rất
lớn trong việc biến sinh khối - phụ phế phẩm nông nghiệp thành năng lượng
như rơm, vỏ cà phê, sơ dừa…. nhưng việc sử dụng tr
ực tiếp sinh khối - phụ
phế phẩm nông nghiệp như rơm còn rất hạn chế do nhiều nguyên nhân như
nhiệt trị thấp, tỷ trọng thấp, độ ẩm cao, vận chuyển khó khăn, chi phí vận
chuyển lớn, đặc biệt là ô nhiễm không khí khi đốt trực tiếp…
- Khi sử dụng viên được ép từ phụ phế liệu nông nghiệp có những ưu
điểm hơn hẳn so vớ
i việc đốt phụ phế liệu nông nghiệp vì:
- Thể tích giảm hơn 5 lần.


- Thuận lợi cho việc bảo quản, vận chuyển và cơ giới hoá, tự động hoá
cho việc cấp nhiên liệu cho các lò đốt.
- Có thành phần giống như năng lượng truyền thống.
- Có nhiệt trị ép khá cao từ 3500 ÷ 4500 kcal/kg [3] .
- Giá thành chỉ bằng 50% so với than.
Phụ phế thải nông nghiệp gồm vỏ trấu, mùn cưa, vỏ lạc, vỏ hạt điều, bã
mía, rơm, gỗ vụn…,trong sả
n xuất nông nghiệp rơm là sản phẩm phụ có số
lượng lớn nhất, bằng 1,1 ÷ 1,2 lần tổng sản lượng lương thực đạt được.
Sử dụng viên rơm nhiên liệu phụ phế thải nông nghiệp là vấn đề mới, ở
đồng bằng sông Cửu Long đã xây dựng 05 nhà máy điện chạy bằng trấu công
suất 55 MW rải rác ở Tiền Giang, An Giang và Cần Thơ, 02 nhà máy đ
iện
được phép xây dựng với công suất 13 MW chạy bằng phụ phẩm nông nghiệp
là trấu. Vấn đề nghiên cứu viên nhiên liệu phụ phế phẩm nông nghiệp cũng
được đề cập đến trong công trình “Nghiên cứu sản xuất viên nhiên liệu từ
Biomass” của đại hội Đà Nẵng năm 2008 nhưng nghiên cứu chỉ dừng lại ở
dạng ép viên mùn cưa kiểu ép piston năng suất thấp, không ứng dụ
ng rộng rãi.
Về thiết bị có tập đoàn Minh Quang ở Yên Bái đã nhập 01 dây chuyền
thiết bị của Đức ép viên từ gỗ cành, gỗ ngọn, mùn cưa và một số đơn vị nhập
thiết bị lẻ nhưng chưa đưa vào hoạt động.
Về nghiên cứu, duy nhất có Viện nghiên cứu thiết kế chế tạo máy nông
nghiệp đã tiến hành nghiên cứu sâu về phụ phế
liệu nông nghiệp làm viên
nhiên liệu. Năm 2007 Viện đã phối hợp với công ty Seraphin xây dựng “ Mô
hình xử lý rác thải khó phân huỷ trong nhà máy xử lý rác tái chế thành nhiên
liệu rắn thay thế nhiên liệu hoá thạch”. Năm 2008 Viện đã thực hiện đề tài
cấp Bộ “ Nghiên cứu thiết kế chế tạo máy ép viên phụ phế liệu nông nghiệp

và rác thải làm phân bón” và đề tài cấp Nhà nước “ Nghiên cứu công nghệ,
thiết kế chế tạo dây chuy
ền thiết bị sản xuất viên nhiên liệu (Pellet) từ trấu”,
các đề tài đang tiến hành thử nghiệm, hoàn thiện và đưa vào sản xuất.
Về thiết bị ép viên nhiên liệu từ rơm - vẫn còn chưa có thiết bị công
nghệ phù hợp theo máy ép như máy nghiền vì đối với rơm có chứa hàm lượng

chất sơ cao (31÷ 45%) [7]
và khi được nghiền nhỏ đồng đều chi phí năng
lượng ép có thể giảm xuống đến 3 lần, các thiết bị nghiền rơm hiện nay vẫn
chủ yếu sử dụng máy nghiền búa dùng cho nguyên liệu dạng hạt khi đưa vào
nghiền rơm có hiệu suất nghiền thấp do rơm có tính xốp, nhẹ và có tính khác
với hạt nên để để ép viên rơm cần có máy nghiền rơm chuyên dụng phù hợp
với cơ
lý tính của rơm. Vì thế để tận dụng tốt nguồn nguyên liệu rơm dồi dào
trong nước làm giảm ô nhiễm môi trường và để hoàn thiện công nghệ thiết bị
sản xuất viên nhiên liệu từ rơm góp phần thay thế nguồn năng lượng thiên
nhiên hóa thạch đang ngày càng cạn kiệt và tạo ra công nghệ mới trong vấn
đề xử lý phụ phế liệu nông nghiệp việc nghiên cứu thiết kế chế
tạo máy
nghiền rơm dùng trong dây chuyền sản xuất viên nhiên liệu là vấn đề cấp
thiết.
Qua quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá tầm quan trọng và sự cần
thiết của thiết bị nghiền rơm nhóm đề tài đã lựa chọn đề tài: “ Nghiên cứu,
thiết kế và chế tạo máy nghiền rơm trong dây chuyền sản xuất viên nhiên
liệu” với mục tiêu:
+ Góp phần hoàn thiện qui trình công nghệ sản xuất viên nhiên liệ
u
thông qua sản phẩm rơm sau khi nghiền để tạo ra viên đạt chất lượng, chi phí
năng lượng ép viên thấp.

+ Nghiên cứu thiết kế chế tạo máy nghiền rơm phù hợp với dây chuyền
sản xuất viên nhiên liệu.
+ Nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tận dụng tối đa nguồn nguyên
liệu từ rơm để thay thế dần nhiên liệu than dầu đang ngày càng cạn kiệt.







CHƯƠNG II
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ CHẾ TẠO MÁY NGHIỀN RƠM
TRONG DÂY CHUYỀN SẢN XUẤT VIÊN NHIÊN LIỆU

3.1.Cơ lý tính của rơm
a/ Thành phần hóa học của rơm
- Các thành phần chính của rơm rạ là những Hydratcacbon gồm:
Licnoxenlulozo: 37,4%; Hemixenlulozo: 44,9%; Linin: 4,9% và hàm lượng
tro (oxit silic) cao từ 9 ÷ 14% đó là điều gây cản trở việc sử dụng rơm rạ một
cách kinh tế, thành phần Licnoxenlulozo trong rơm rạ khó phân hủy sinh học
[3]
.
- Về cơ học rơm có khối lượng riêng thấp, từ 0,09 ÷ 0,11tấn/m
3
với độ
ẩm 10 ÷ 15%, rơm khô dai và xốp nhẹ [6]
.
b/Qui trình sản xuất viên nhiên liệu từ rơm:
Việt Nam là một nước nông nghiệp với gần 80% dân số sống bằng

nghề nông, với số lượng rơm hàng năm khoảng 30 triệu tấn [2] thì việc sử
dụng rơm vào làm viên nhiên liệu là vấn đề cấp bách và cần thiết cho việc tận
dụng nguồn năng lượng dồi dào đang bị lãng phí từ lâu.
Qui trình để ra sản phẩm viên nhiên liệu g
ồm:
+ Nguồn vào:
- Thu mua rơm trên cánh đồng
- Rơm được phơi khô
+ Tiến hành sản xuất:
- Băm rơm thành đoạn từ 4 ÷ 6cm
- Nghiền nhỏ rơm thành dạng cám sợi ≤ 1,8mm
- Phối trộn, ép rơm đã nghiền thành dạng viên.
+ Sử dụng:
- Tiêu thụ sản phẩm.

3.2.Cơ sở lựa chọn máy nghiền rơm thành dạng sợi cám
- Công nghệ ép viên nhiên liệu từ rơm đòi hỏi đảm bảo về công nghệ
rơm phải có kích thước 1,2 ÷ 1,8 mm, dạng sợi nhỏ.
- Đảm bảo yêu cầu về bụi và vệ sinh môi trường.
- Tính khả thi về kỹ thuật với các điều kiện tự nhiên tại nơi triển khai
công nghệ, phù hợp với các
điều kiện về cơ sở hạ tầng trong quá trình thi
công và vận hành, thuận lợi trong việc cung cấp thiết bị và bảo dưỡng, sửa
chữa, mở rộng và cải tiến công nghệ. Thuận lợi trong quản lý vận hành, duy
trì hoạt động ổn định, có các giải pháp phòng ngừa, khắc phục sự cố khi cần
thiết.
- Tính khả thi về kinh tế: Chi phí đầu tư, vận hành hợp lý cũng nh
ư
hiệu suất nghiền cao để có được lợi ích kinh tế thu được từ sản phẩm.
3.3.Lựa chọn máy nghiền

3.3.1. Sơ lược về một số loại máy nghiền
- Nguyên lý chà xát (hình 2) [8]
Cấu tạo điển hình gồm 2 đĩa, vật
liệu đem nghiền đi qua khe giữa 2 đĩa
(có khía rãnh) và được làm nhỏ.
Hình2: Máy nghiền kiểu chà xát
Máy nghiền loại này đượ
c nghiền nhiều loại hạt nhưng làm nóng bột,
tạo nhiều bụi, kích thước hạt sản phẩm không đều, chi phí năng lượng riêng
lớn.
- Nguyên lý cắt nghiến (hình 3) [8]
Cấu tạo điển hình thường gồm 2 trục có
khía rãnh quay ngược chiều nhau ( kẹp hạt,
nghiền vỡ, cũng có ít nhiều tác động chà sát).

Hình 3: Máy nghi

n ki

u c

t nghi
ế
n


Nguyên lý này thường tạo ra các sản phẩm thô, khó nghiền, các hạt có
độ ẩm cao hoặc nhiều dầu (do bị dính vào trục). Tuy nhiên loại này ít tốn
năng lượng, ít sinh bụi.
- Nguyên lý ép dập (hình 4) [8]

Cấu tạo điển hình thường gồm 2 trục cuốn
(lô) nhẵn, quay ngược chiều nhau cuốn liệu vào (do
ma sát giữa nguyên liệu và lô) và ép dập vỡ hạt.
Nguyên tắc này nghiền không nhỏ, chỉ làm
vỡ hạt thành tấm, m
ảnh. Hình 4. Máy nghiền kiểu ép dập
- Nguyên lý va đập (hình 5) [8]
Cấu tạo điển hình: Các loại nghiền búa dạng
thanh hoặc răng. Dùng động năng của búa (hoặc
răng) đập vỡ nguyên liệu là chủ yếu, rất hợp với các
lực ma sát (giữa vật liệu và sàng, vật liệu với vật
liệu).
Hình5. Máy nghiền kiểu búa.
Ưu điểm rõ nét nhất của nguyên lý này là:
- Hiệu suất làm nhỏ cao do sử dụng 2 pha làm nhỏ đồng thời: va đập và
chà sát.
- Kết cấu đơn giản, các bộ phận chi tiết mau mòn (búa, sàng) dễ thay
thế, ít tốn kém.






- Một số dạng máy nghiền búa kiểu va đập của Đức






3.3.2. Cơ sở lựa chọn nguyên lý kết cấu và thiết kế máy nghiền rơm
3.3.2.1.Cơ sở lựa chọn nguyên lý kết cấu của máy nghiền rơm.
Về nguyên lý để đảm bảo vấn đề về năng suất nhóm đề tài lựa chọn
nguyên lý máy nghiền búa theo nguyên lý va đập và dựa vào các kết quả thực
nghiệm khi đưa rơm qua máy nghiền hạt ngũ cốc ta thu được sản phẩm
đạt
yêu cầu để ép viên nhiên liệu đó là l = 1 ÷ 1,8mm, độ đồng đều đạt yêu cầu
theo cảm quan.
3.3.2.2.Vấn đề cần giải quyết khi thiết kế máy nghiền rơm
Trên cơ sở so sánh với máy nghiền hạt ngũ cốc, dựa vào đặc tính của
rơm và qua kết quả thực nghiệm để nghiên cứu thiết kế:
+ Yêu cầu nguyên liệu rơm sau nghiền để ép viên nhiên liệu là:
Độ ẩ
m W = 10 ÷ 11%
Kích thước: l = 1,2 ÷ 1,8mm
Nguyên liệu phải đồng đều để đạt được chất lượng cao cho viên giảm
chi phí năng lượng khi ép.
+ Rơm thu hoạch về sau khi phơi khô do thành phần của rơm nhiều
xenlulozo nên dai, nhẹ và độ ẩm thường thấp từ W = 7 ÷ 15% nên lựa chọn độ
ẩm thích hợp cho nguyên liệu rơm để đạt hiệu suất nghiền cao là vấn đề cần
thiết. Trên cơ s
ở đặc tính của rơm và dựa vào cơ sở thực nghiệm để lựa chọn
độ ẩm cho nguyên liệu là rơm đầu vào của máy nghiền.
Đặc tính của rơm có khối lượng riêng thấp 0,09 ÷ 0,11 tấn/m
3
so với
hạt ngũ cốc như ngô có khối lượng riêng 0,75 ÷ 0,78 tấn/m
3
nên rơm bông và
xốp nhẹ hơn hạt ngô nhiều [6]

.
Khi nhóm đề tài tiến hành thực nghiệm trên máy nghiền búa cho thức
ăn chăn nuôi:
Máy nghiền có công suất động cơ: 30kw
Năng suất máy nghiền ngô: 2tấn/h (với ngô có độ ẩm W = 13%)
Dòng điện định mức I
đm
= 55A
Thiết bị đo độ ẩm XA45 của Đức theo nguyên lý sấy hồng ngoại

Tiến hành nghiền mỗi lần 30 kg rơm ở các độ ẩm khác nhau sau khi
rơm đã được phơi ta được kết quả như sau:
Bảng 1: Xác định độ ẩm của rơm
Khối lượng
rơm (kg)
Độ ẩm (%) Thời gian (s)
Dòng nghiền
I(A)
Năng suất
trung bình
(kg/h)
30 8 300 25 360
30 10 270 25 400
30 11 255 26 424
30 12 270 26 390

Nhận xét thấy: Do thành phần của rơm có nhiều chất xơ nên khi rơm
càng khô càng dai và khi nghiền bột càng mịn, nhẹ nên bụi nhiều, năng suất
thấp. Nếu rơm ướt, độ ẩm cao, khả năng bết dính sàng nghiền nhiều khó thoát
liệu, năng suất cũng giảm nên nhóm đề tài chọn độ ẩm phù hợp với máy

nghiền của rơm nguyên liệu đầu vào là W = 10 ÷ 11%.
Trong quá trình thí nghiệm với
động cơ nghiền P = 30kw, I
đm
= 55A thì
dòng nghiền không tăng khi ta tăng lượng rơm đưa vào máy nghiền do rơm
nhẹ, xốp chiếm thể tích lớn trong buồng nghiền so với ngô mà năng lượng
cho quá trình nghiền không tăng (I không tăng). Khi tăng nguyên liệu đầu vào
nếu tăng quá máy nghiền sẽ bị bết kín và tắc kẹt trong buồng nghiền. Qua thí
nghiệm nhận thấy chi phí năng lượng cho nghiền rơm thấp hơn so với nghiền
ngũ cốc nên k
ết cấu buồng nghiền rơm sẽ phải rộng hơn và thoáng để đảm
bảo tăng khả năng nghiền cho rơm so với máy nghiền khi nghiền ngô trên
cùng một công suất máy.
Chi phí năng lượng trong quá trình nghiền rơm: Ngoài chi phí năng
lượng để đập còn phải chi phí năng lượng cho cắt, xé rơm để tăng thêm khả
năng cắt thái khi nghiền rơm nhóm đề tài đã tiến hành thí nghiệm đưa thêm
má nghiề
n phụ (hình 6) có biên dạng như tấm kê đặt dọc theo phương quay
của búa nghiền và nhận thấy năng suất của máy tăng lên từ 5 ÷ 7% so với

máy nghiền không lắp má nghiền phụ thông thường vuông góc với phương
quay của búa.
Kích thước lỗ sàng: do yêu cầu sản phẩm rơm sau nghiền phải có độ
đồng đều cao thì chi phí năng lượng cho quá trình ép viên giảm và kích thước
rơm theo yêu cầu sau nghiền 1,4 ÷ 1,8 mm nếu dùng lỗ sàng tròn thì sản phẩm
rơm sau khi nghiền là bột nhiều lẫn với sợi, độ đồng đều không cao nên nhóm
đề tài đã tiến hành đưa lỗ sàng dài kích thước 2 x 10mm (hình 7), kế
t quả thu
được như bảng 2:

A A
A
A


Hình 6: Má nghiền phụ

a.Mặt sàng nghiền ngũ cốc b.Mặt sàng nghiền rơm

Bảng 2: Lựa chọn má nghiền và lỗ sàng
Máy nghiền Số lượng
rơm (kg)
Độ ẩm
(%)
Thời gian
nghiền (s)
Dòng
nghiền (A)
NS đạt yêu
cầu CLg
(kg/h)
Má nghiền
phụ ngang
30 10 270 25 400
Má nghiền
phụ dọc
30 10 255 25 425
Lỗ sàng tròn
φ2,5
30 10 270 25

400
lẫn nhiều bột
Lỗ sàng dài
2 x 10
30 10 240 25
450
ít bột
Lỗ sàng dài
2,5 x 10
30 10 240 25
450
rất ít bột

Nhận xét khi nghiền rơm ở lỗ sàng tròn: lượng rơm dạng bột thoát qua
lỗ sàng nghiền nhiều và lượng rơm sản phẩm có kích thước sợi ≤ 1,8mm dễ bị
vướng bám vào lỗ sàng gây bịt kín lỗ dẫn đến khó thoát, bí sàng, sản phẩm
không đều, năng suất thấp. Nếu sử dụng lỗ sàng dài thì sản phẩm khi đập và
cắt chỉ cần ở dạng sợi ≤ 1,8mm đ
ã thoát qua sàng nên không phải đập thành
bột do đó không bám vào mặt sàng, sàng thoáng năng suất cao hơn, bột ít, độ
đồng đều của sản phẩm rơm dạng sợi ≤ 1,8mm nhiều hơn.
Kết luận qua thí nghiệm: Để sử dụng máy nghiền búa nghiền rơm có
hiệu suất cao thì:
- Độ ẩm thích hợp để nghiền rơm W = 10 ÷ 11%.
- Buồng nghiền rơm rộng và thoáng hơn so với buồng của máy nghiề
n
ngũ cốc có cùng công suất.
- Má nghiền phụ kết cấu dọc theo phương quay của búa tạo cho búa và
má nghiền phụ có thể cắt xé rơm tốt hơn.
- Để đạt năng suất và độ đồng đều sản phẩm sau khi nghiền cao góp

phần giảm năng lượng ép viên sử dụng lỗ sàng dài theo kích thước 2 x 10mm.
- Do yêu cầu độ mịn của sản phẩm rơm ≤ 1,8mm và quá trình nghiền
còn phải chi phí nă
ng lượng cho cắt, xé nên vận tốc đầu búa của nghiền rơm
có thể giảm xuống để tăng độ ổn định cho máy.

Từ đó rút ra cơ sở để thiết kế máy nghiền rơm trên nguyên tắc máy
nghiền búa sử dụng trong thức ăn chăn nuôi sao cho phù hợp với nghiền rơm
để làm nguyên liệu ép viên nhiên liệu.
3.3.3. Tính toán thiết kế máy nghiền rơm
3.3.3.1/ Tham số ban đầu.
- Nghiền được nguyên liệu rơm có độ ẩm đầu vào là 10 ÷ 11%.
- Kích thước nguyên liệu rơm trước khi nghiền là l = 50 ÷ 60mm
- Độ đồng đều sả
n phẩm nghiền là sợi rơm ≤ 1,8mm
- Hiệu suất nghiền cao.
- Dễ sử dụng, hoạt động ổn định.
Trong qui trình công nghệ ép viên nhiên liệu:
Rơm Phơi khô Băm, cắt Nghiền
Phối trộn Ép viên Sản phẩm viên nhiên liệu.
Máy nghiền rơm là thiết bị trong dây chuyền cung cấp nguyên liệu ép
viên nhiên liệu năng suất 1T/h nên việc tính toán thiết kế máy nghiền rơm
năng suất 1T/h phải phù h
ợp đồng bộ với năng suất dây chuyền 1 tấn viên/h.
3.3.3.2.Vận tốc đầu búa
Thực tế rơm nhẹ và xốp có độ ẩm đầu vào nghiền 10 ÷ 11%, có độ nhỏ
không cao sợi rơm ≤ 1,8mm năng lượng chi phí nghiền ngoài đập còn cắt nên
vận tốc đầu búa máy nghiền cần tính cho nguyên liệu có mức độ nghiền dai
hơn sử dụng công thức của Rakhmatulin theo ứng suất bền
động giới hạn:

V
pv
> V

>
ζ
δ
x
y
ln K
pvd
[8]
Trong đó:
K
d
– Hệ số động học.
ζ - Mật độ, (kg/m
3
).
V

– Vận tốc va đập.
y và x là độ dài hạt nguyên và phần còn lại (không biến dạng) sau va đập.

Do rơm khô nhiều xenlulozo trong thành phần vừa bị cắt xé nên ứng
suất phá vỡ rất yếu vì vậy ta chọn δ
pv
= 35.10
4
N/m


⇒÷= 0,26,1
x
y
chọn ln1,6 = 0,47
33
/10.12,0 mkg
g
==
γ
ζ

()
smV
pv
/3,40
10.12,0
47,0.10.35.5,1
3
4
≈>

Chọn V
pv
= 45,3 (m/s)
Trong máy nghiền búa, lớp rơm và bột rơm trong buồng nghiền chuyển
động với vận tốc:
V
1
= β.V

b
[7]
Trong đó:
β = 0,4 ÷ 0,5
V
b
– Vận tốc đầu búa.
V
b
= V
pv
+ V
1

Do nghiền rơm vừa đập và cắt xé nên hiệu suất nghiền cao hơn nên để
tính toán thiết kế chọn β = 0,4. Khi đó:

V
b
= V
pv
+ 0,4.V
b

V
pv
= 0,6.V
b

Thay giá trị

V
pv
= 46 m/s ta có V
b
= 76,6m/s
Chọn V
b
= 76 m/s
3.3.3.3.Thiết kế thông số hình học của búa, đường kính đĩa treo và
chiều rộng rô to nghiền.
Các yếu tố ảnh hưởng của búa nghiền đến hiệu suất nghiền là:
- Cách treo búa.
- Khoảng cách từ đầu búa đến sàng.
- Hình dáng của búa.

Tham khảo các mẫu máy nghiền của nước ngoài và một số đề tài
nghiên cứu trước của Viện nghiên cứu thiết kế chế tạo máy nông nghiệp. Với
kích thước của rơm ≤ 1,8mm năng lượng vừa va đập vừa cắt xé, tỉ khối của
rơm thấp cần buồng nghiền rộng nhóm đề tài chọn rô to là n
b
= 1460v/ph để
nâng cao độ ổn định của máy.
Với kích thước đầu búa đã tính ở trên, các thông số kích thước của rô to
nghiền được xác định như sau:
a, Đường kính đầu búa.
Theo công thức

m/s76
60
Π.n

.D
30
Π.n
.RV
b
b
b
bb
===
[7]
Đường kính đầu búa
m994,0
1460.14,3
60.76
1460.14,3
60.V
D
b
b
===

Chọn D
b
= 1000 mm
b, Chiều rộng rô to nghiền.

Theo công thức thực nghiệm về mối liên hệ giữa đường kính đầu búa
và chiều rộng rô to (L
b
) [6]


42
L
D
b
b
÷=

Do nghiền rơm xốp, năng lượng nghiền thấp cần buồng nghiền rộng
cấp liệu vào nên chọn:

mm7,285
5,3
1000
L5,3
L
D
b
b
b
==⇒=

Chọn L
b
= 290mm
c, Các thông số hình học của búa
Do sự va đập của búa vào vật liệu, lực tác dụng lên búa gây phản lực
lên chốt treo búa. Nếu lắp chốt búa có vị trí thích hợp thì phản lực tác dụng
lên chốt treo búa có giá trị nhỏ, tránh được hư hại, gây vỡ. Trên cơ sở khảo sát

×