Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

em hãy làm rõ độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng hồ chí minh. nêu ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.54 KB, 13 trang )

MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI :
Em hãy làm rõ độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nêu ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận điểm

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị
đặc sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ
Chí Minh. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con
đường cách mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu
bức xúc của dân tộc và khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc
lập, tự do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ
dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay
sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự do, nước nhà Bắc –
Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây
dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị
đặc sắc của Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, Người đã vượt qua giới hạn của những
nhà yêu nước đương thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước.
Chúng ta tự hào với lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền
bỉ để giữ vững độc lập dân tộc của dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn xâm
lược giầy xéo thì dân tộc không có khát vọng nào cao hơn là giành độc
lập dân tộc. Nhưng chúng ta vẫn biết là không phải bất cứ lúc nào những
người con yêu nước của dân tộc cũng tìm thấy cho mình con đường cứu
dân, cứu nước đúng đắn. Thực tiễn khi thực dân Pháp xâm lược nước ta
cho đến những năm đầu của thế kỷ XX cho thấy, nhân dân ta, các thế hệ
1
nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại non
sông đất nước. Song do chưa có đường lối đúng đắn như con đường “Tây
du” và “Đông du” của các cụ Phan khởi xướng, do ngọn cờ tư tưởng
phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc khởi nghĩa yêu nước


lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong biển máu. Sự thể
đau lòng đến nỗi nhà yêu nước Phan Bội Châu buông lời: “Trăm lần thất
bại chưa có một lần thành công”. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan,
người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn trở đã ra đi tìm đường
cứu nước vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn, qua nhiều nước để tìm
tòi và thử nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với tư
tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Người cho rằng phải học tập
cách mạng Nga, khi được tiếp xúc: “Bản luận cương về vấn đề dân tộc
và thuộc địa” của Lênin, Người đã sung sướng nói to lên: “Hởi đồng bào
bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta!”. Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân thúc giục
Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với Cách mạng tháng
Mười và chủ nghĩa Lê-nin, Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước,
cứu dân và giải phóng lao động và quả quyết: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị
đặc sắc của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của
Người đối với Chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, logic phát triển của
cách mạng vô sản ở Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là
sự thống nhất giữa điều kiện khách quan với nhận thức và hoạt động chủ
quan của Hồ Chí Minh. Đó là sự gặp gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh,
đồng thời cũng là đóng góp to lớn nhất của Người với thời đại, đặc biệt là
đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đi theo con đường cách mạng
2
vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa
thực dân, giải phóng quần chúng lao động khỏi áp bức bóc lột và đi đến
mục tiêu cao cả của chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người. Thực
hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân Việt Nam.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt
quá trình cách mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục
tiêu trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải
qua một ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm
năm dưới gót sắt của chủ nghĩa thực dân thì khát vọng cao nhất và trực
tiếp nhất là giành độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc. Nhưng để có độc
lập thực sự cho dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, độc lập dân
tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên
quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập dân tộc. Hồ Chủ Tịch
đã từng nói : “Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Và “Dân chỉ biết rõ
giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Như thế
nghĩa là cách mạng Việt Nam phải hướng tới mục tiêu giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc
lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong đó sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Chính vì
vậy, trong “Chính cương vắn tắt”, Người chủ trương tiến hành tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng hay là cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và ngay trong cách mạng ấy, Người cũng
xác định cần phải giải quyết hai nội dung cơ bản đó là : độc lập dân tộc
3
và dân chủ nhân dân. Trong đó độc lập dân tộc là nhu cầu bức thiết cần
phải tập trung sức lực giải quyết. Bởi mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược
với nhân dân ta mà đông đảo là công nhân và nông dân là mâu thuẫn bao
trùm lên tất cả, còn phong kiến chỉ là tay sai và chịu sự chi phối của thực
dân đế quốc. Mâu thuẫn này nổi lên sâu sắc, gay gắt, đòi hỏi phải giải
quyết. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhiệm vụ giải phóng

dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai đã là sự nghiệp nổi lên hàng đầu
của nhân dân Việt Nam, cách mạng Việt Nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm
vụ giải phóng dân tộc không có nghĩa là coi nhẹ vấn đề giai cấp, coi nhẹ
chủ nghĩa xã hội. Trái lại, Người luôn quan niệm độc lập dân tộc là mục
tiêu trước tiên phải giành được để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhất là ở giai đoạn đấu tranh giành
chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là mục tiêu, nhưng nó chỉ rõ
phương hướng đi lên của cách mạng Việt Nam – một cuộc cách mạng do
giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong của nó là Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách mạng
giải phóng dân tộc, Người luôn quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, xây dựng lực lượng cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền cách
mạng. Đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to
lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó là cơ sở cho tiến hành
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, cách mạng giải phóng dân
tộc ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn
1954-1975, cũng như thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước hiện nay.
Tư tưởng của Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không chỉ
là khẩu hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất tổ
quốc. Độc lập bao giờ cũng gắn liền với tự do dân chủ và ấm no hạnh
4
phúc của nhân dân, nhất là đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến có
trên 90% là nông dân. Dân chủ trước hết lúc này là phải giành lại ruộng
đất cho dân cày và xác định quyền làm chủ của nông dân trên đồng ruộng
của họ. Độc lập dân tộc và dân chủ là hai mục tiêu cơ bản, hai nội dung
lớn mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải thực hiện. Hai nội dung
đó quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy nhau, song trước hết cần tập trung vào
độc lập dân tộc vì nó giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thể nhân

dân ta với đế quốc xâm lược. Giải quyết mâu thuẫn này cũng là thực hiện
được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Và như
thế, rõ ràng, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là
tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là con đường phát
triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản
lãnh đạo, sau khi đã căn bản thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, của
nhân dân Việt Nam và của chính lịch sử cách mạng Việt Nam những năm
đầu thế kỷ XX. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật
phát triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển của xã hội Việt
Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử, của thời đại ngày nay.
Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn xã hội Việt Nam, một nước
nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên trong quan niệm về chủ nghĩa xã
hội của Người không phải là đưa ra những ý tưởng cao xa, mà là đề cập
đến những lợi ích rất cụ thể thiết thực, gần gũi với những nhu cầu đời
thường của nhân dân lao động. Những quan niệm về chủ nghĩa xã hội
được diễn đạt rất dễ hiểu, dễ đi vào lòng người và cổ vũ họ đấu tranh
giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân và hướng tới chủ nghĩa xã
hội. Để quần chúng dễ hiểu về chủ nghĩa xã hội, Người giải thích rõ :
5
“Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng
sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động
được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa
bỏ.Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày
càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của
Người thể hiện đậm nét sự công bằng xã hội. Nó không chỉ phản ánh mục
tiêu, lý tưởng, bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam

mà còn thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, đó là một chủ nghĩa xã
hội tất cả vì con người và do con người. Trung thành với con đường đã
chọn, suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải
phóng con người, vì một xã hội xã hội chủ nghĩa hiện thực trên đất nước
Việt Nam.
Mặc dù hiện nay chủ nghĩa xã hội thế giới sau những biến động
khủng hỏang, sụp đổ đã có những dấu hiệu phát triển tích cực, nhiều nước
khu vực Mỹ- latin tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI, sự
nghiệp đổi mới chủ nghĩa xã hội ở nước ta đạt thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử … Song các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm
mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo lọan lật đổ, sử dụng các chiêu bài
“dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng làm thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta. Hơn nữa, ngay một bộ phận nhân dân ta, trong đó có
cả những cán bộ, đảng viên đã một thời không tiếc máu xương cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng đứng trước những khó khăn trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường kết hợp với sự chống phá quyết liệt của kẻ thù, đã mất phương
hướng chính trị, dao động về lập trường tư tưởng. Thậm chí có người phủ
nhận những thành quả cách mạng mà nhân dân ta giành được, cho rằng
6
chúng ta tiến hành kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là sai lầm, gây
nên sự mất mát hy sinh không cần thiết… Trong điều kiện nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần và cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, một
số người còn cho rằng đã là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì
phải tự do hóa, chế độ một đảng lãnh đạo là không tương dung với kinh
tế nhiều thành phần, hoặc đã chấp nhận kinh tế thị trường thì đừng nói
đến định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, họ khuyên chúng ta không nên
tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa mà nên đi theo chủ nghĩa xã hội dân
chủ hay dừng lại ở chế độ dân chủ nhân dân, củng cố chế độ dân chủ

nhân dân đến khi nào chuẩn bị đầy đủ các yếu tố hãy đi lên chủ nghĩa xã
hội cũng chưa muộn, v.v…
Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
đã nêu rõ : "Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó
là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng của nước ta. Độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là
cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc". Và tại Đại hội IX của
Đảng lần này, khi tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới,
Báo cáo Chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: "Trong quá trình đổi mới
phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Nhìn ra bên ngoài và
nhìn lại lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX vừa qua, chúng ta càng thấy
rằng sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toànchínhxác.
Như chúng ta đã biết, dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng
bất khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ
khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết
sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy trên khắp mọi miền đất
7
nước thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một
bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên
Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng
chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và
thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng, vẫn là nhân dân giàu lòng yêu nước, có
truyền thống chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng ủng hộ và tham gia các
phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ phu, các nhà lãnh đạo các phong trào
chống thực dân Pháp đều có thừa trí dũng, không thiếu quyết tâm nhưng
họ, cả giai cấp phong kiến và đại diện cho chế độ phong kiến, cả giai cấp
tư sản và đại diện cho thế lực tư sản khi đó đều không giải quyết được

vấn đề độc lập dân tộc ở nước ta.
Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc
càng trở nên là yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - xã hội
thuộc địa, nửa phong kiến. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi
ấy ở trong "tình hình đen tối như không có đường ra". Bằng con đường
nào và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ mệnh trọng đại đó ?
Nhưng rồi chính lịch sử lại có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã
vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ
nghĩa Mác khẳng định : chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một
chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột
người và người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công
nhân - sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một
tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến
thắng các chế độ chuyên chế phong kiến, và đã bành trướng ra khắp thế
giới. Các nước tư bản phát triển khi ấy đang trở thành "trung tâm vũ trụ",
chi phối và làm mưa làm gió mọi mặt đời sống xã hội loài người.
Nhưng chính thời điểm mà chủ nghĩa tư bản tưởng như đang cực
thịnh ấy, thì Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra. Sự đột phá Tháng Mười
mở đầu cho một xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Nếu trước
8
Cách mạng Tháng Mười, chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển đến mức
người ta rêu rao như một "định mệnh", như một "trật tự vĩnh hằng", thì
sau Tháng Mười - 1917, không ai không thấy, cái "then" hãm thế giới ấy
đã bị bẻ gẫy, điều định mệnh ấy thành ảo tưởng, cái trật tự ấy bị lật nhào,
tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng có
quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử nhân
loại.
Rõ ràng, tới những năm 20 của thế kỷ XX với những biến động to lớn
và sâu sắc, đặc biệt với Cách mạng Tháng Mười Nga "rung chuyển thế
giới", đã làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của thời

đại thay đổi, vai trò lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi; vì vậy con đường
để giải quyết mâu thuẫn của xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp
cách mạng cũng thay đổi.
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và
thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam - nơi mà chính "sự tàn bạo của chủ
nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái
việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi". Hơn ai hết, chính
Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam.
Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Ở Người,
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, bản lĩnh và tố chất đặc biệt Việt Nam đã
"bắt gặp" chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nói như Cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng - một cuộc gặp gỡ đẹp như cùng hẹn trước - đã chung đúc nên tư
tưởng Hồ Chí Minh. Với kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác -
Lê-nin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt
Nam chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại : năm
1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu
sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Vừa ra đời, Đảng
tuyên bố : "Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
9
để đi tới xã hội cộng sản". Lời tuyên bố ấy cũng đồng nghĩa với lời bác
bỏ thẳng thừng chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa; và nhìn
rộng hơn, cũng bác bỏ bất cứ một thứ chủ nghĩa nào khác, bất cứ một con
đường nào khác. Một cách tự nhiên là, ngay sau lời tuyên bố ấy của
Đảng, chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự
thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc
Việt Nam đã và đang đi từ đó dọc thế kỷ XX, và tiếp tục đi cho tới đích
cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản

mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái,
đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hòa
bình, hạnh phúc của con người. Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập
dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, xét về
lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với
sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại;
xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước
thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt
Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự
phát triển của đất nước Việt Nam ta hôm nay và mai sau.
Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân
tộc theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ
phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu
thuẫn và những hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị các chế
độ ấy - những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư
liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng giai cấp.
Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết
vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là
10
con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết
độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã
hội khoa học. Đó là : Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị,
kinh tế, văn hóa, đối ngoại. Độc lập dân tộc thực sự đòi hỏi phải xóa bỏ
tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác
về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và
bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc phải do quốc gia - dân tộc
đó giải quyết không có sự can thiệp từ bên ngoài.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ

nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc
lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ
đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và
sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng.
Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc
tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú đa dạng về
văn hóa, tinh thần, sự thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Chỉ
với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới chân giá trị của nó ở chỗ
nó hướng tới phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm
cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có
cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng
phong phú. Chính điều đó làm cho nền tảng của sự độc lập tự chủ càng
thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền độc lập dân tộc càng đầy đủ và
mạnh mẽ.
Sự phát triển thực chất và bền vững của độc lập dân tộc được đo
bằng những khả năng và điều kiện bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi tình
cảnh nô lệ, phụ thuộc, bị áp bức bóc lột và nô dịch. Nó cũng bảo đảm cho
dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương
quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ
11
hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ
khả năng và điều kiện bảo đảm đó chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết
bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.Độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của
Đảng, trong thời đại ngày nay. Đó cũng chính là cái lôgíc phát triển lịch
sử của dân tộc Việt Nam, 71 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, làm
nên cốt cách Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam và vị thế Việt Nam trước thế
giới. Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, Đảng
ta đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, một điển

hình trong các dân tộc thuộc địa, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến
hoàn toàn không cân sức với "hai đế quốc to", mở ra thời kỳ phi thực dân
sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế
giới.
Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xứng đáng tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong
việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tính độc lập tự chủ
trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân
dân lên ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong
khu vực và thế giới.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu,
là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là
động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Như thế, đối với Việt Nam ta, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã
hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng
lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến
động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt
12
của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải
đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, với tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất
trắc; dù cho ai đó bị lóa mắt bởi những bộ áo cánh sặc sỡ của chủ nghĩa
tư bản thì hệ giá trị ấy - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức
và trong hành động vẫn là mục tiêu, lư tưởng, là quốc bảo phù hợp xu thế
thời đại. Mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, bước vào thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp
tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong
khu vực và trên thế giới.
13

×