Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.99 KB, 18 trang )

ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son
đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng.Trong nhiều văn kiện
của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn được
khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Tại Đại hội IX của Đảng, khi
tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo chính trị đã chỉ
rõ bài học thứ nhất là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh”. Sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn chính
xác.
Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến
thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các
cuộc nổi dậy khắp mọi miền đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân
dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào
Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi
nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp
thẳng tay đàn áp và thất bại.
Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng
trở nên là yêu cầu cơ bản, cấp bách. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam
khi ấy ở trong “tình hình đen tối như không có đường ra”. Bằng con đường
nào và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ mệnh trọng đại đó?
1
Nhưng rồi chính lịch sử có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch
ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác
khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp
hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người. Và người đào
huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư


bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong
kiến và đã bành trướng ra khắp thế giới, chi phối mọi mặt đời sống xã hội loài
người. Chính vào thời điểm ấy Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra, mở đầu cho
một xu thế mới của lịch sử thế giới, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt
cuộc đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa
từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và
thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam – nơi mà chính “sự tàn bạo của chủ nghĩa
tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là
gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Nguyễn Ái Quốc là người gieo
hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến
với chủ nghĩa xã hội. Vời kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác –
Lênin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam
chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại: năm 1930, Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các
nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trong bản chất của Đảng.
Đảng tuyên bố: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản”. Một cách tự nhiên, ngay sau lời tuyên
bố ấy của Đảng, chủ nghĩa Xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực
sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt
Nam đã và đang đi, từ đó dọc theo thế kỷ XX, sang thế kỷ XXI, và tiếp tục đi
2
cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa Xã hội,
chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới
cứu nhân loại, đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn
gốc, có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm
no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hoà bình, hạnh phúc
của con người.

Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa
xã hội của Đảng và nhân dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về
lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu
thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện
cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng
của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất
quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam hôm nay và mai sau.
Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc
theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến
và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn
chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị của các chế độ ấy - những hình
thái kinh tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các
quan hệ đối kháng giai cấp.
Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn
đề độc lập theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn
liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc
theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là:
Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hoá, đối
ngoại; xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân
tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và
3
bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia – dân tộc nào phải do quốc gia – dân tộc
đó giải quyết, không có sự can thiệp từ bên ngoài.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội
xoá bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế
độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xoá bỏ cơ sở
kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về
tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới
đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm

cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có
cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong
phú. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và
tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng
phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa
con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc
khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm chỉ có thể được tìm thấy và giải
quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của
Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Nhận thức và
hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, Đảng đã lãnh đạo thành
công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng
chiến hoàn toàn không cân sức với “hai đế quốc to”, mở ra thời kỳ phi thực
dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế
giới. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đó là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, là
ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam. Đó là bài học được
Đại hội lần thứ IV của Đảng rút ra từ thực tiễn phong phú của cách mạng
nước ta, được các Đại hội lần thứ V, VI của Đảng tiếp tục khẳng định và đặc
4
biệt được Đại hội lần thứ VII của Đảng phát triển với nội dung mới qua tổng
kết kinh nghiệm 15 nǎm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi
cả nước. Bài học trên là sự phản ánh sinh động xu thế cách mạng của thời đại
cũng như của nước ta, không những chỉ ra nguồn gốc thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trước đây, mà còn chỉ ra những yếu tố bảo đảm tính đúng đắn của
đường lối và sự thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
I. NĂM VỮNG NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI TRONG THỜI KỲ CẢ NƯỚC TIẾN HÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC
DÂN CHỦ NHÂN DÂN (1930 - 1954)

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sớm nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vấn đề
dân tộc bao giờ cũng mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp đều có quan điểm riêng
về vấn đề dân tộc. Vào những thế kỷ XVI, XVII, XVIII, dân tộc gắn với giai
cấp tư sản. Lúc đó, giai cấp tư sản giương cao ngọn cờ dân tộc chống chế độ
phong kiến lỗi thời. Thắng lợi của phong trào dân tộc lúc đó là thắng lợi của
chủ nghĩa dân tộc tư sản, thắng lợi của chủ nghĩa tư bản. Khi chủ nghĩa tư bản
chuyển sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản chẳng những là kẻ bóc
lột nhân dân trong nước, mà còn là kẻ thống trị, áp bức, bóc lột lớn nhất đối
với nhiều dân tộc trên thế giới. Sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng
Mười, giai cấp công nhân, đại biểu cho phương thức sản xuất mới, phương
thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, là giai cấp duy nhất có khả nǎng giải quyết
vấn đề dân tộc, kết hợp đúng đắn lợi ích giai cấp với lợi ích chân chính của
dân tộc. Ngày nay, dân tộc gắn liền với giai cấp công nhân, với sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nước ta cũng chịu sự tác động của xu thế chung đó.
Xác định đúng địa vị lịch sử của giai cấp công nhân là điều kiện cốt yếu để
kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sớm điều đó. Trong bài báo
5
Cuộc kháng Pháp, Người viết: Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải
phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới". Vào những nǎm 20 của thế kỷ
này, ở Việt Nam đã có cuộc đấu tranh giữa tổ chức tiền thân của Đảng với
phong trào yêu nước mang tư tưởng quốc gia về đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc. Nhận rõ nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước
chống Pháp dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu và các lãnh tụ nông dân, biết
những hạn chế của những cuộc cách mạng dân chủ tư sản, hơn nữa với sức
mạnh thuyết phục của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối cách mạng kiểu
mới, qua cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa quốc gia, phần
lớn hội viên, đảng viên của Tâm Tâm Xã, Tân Việt đã hǎng hái tiếp thu tư

tưởng cứu nước của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Vì vậy, phong trào công nhân
nhanh chóng trở thành phong trào chính trị độc lập và phong trào yêu nước
với nội dung mới đã phát triển mạnh mẽ vào nǎm 1929 dẫn đến sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2 nǎm 1930. Đảng của giai cấp công nhân
Việt Nam ra đời là biểu hiện đầy đủ về sự thống nhất giữa xu hướng phát triển
chung của thời đại và của riêng nước ta; đáp ứng đúng đòi hỏi của tư tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau, đồng thời là lực lượng
duy nhất có khả nǎng lãnh đạo thực hiện thắng lợi tư tưởng đó. Ngay sau khi
ra đời, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, tiếp đó là Luận cương
chính trị , Đảng đã xác định đường lối cách mạng Việt Nam là phải trải qua
hai giai đoạn: trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa,
mục đích cuối cùng của Đảng là thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở nước ta.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì vậy đã giải quyết đúng đắn hàng loạt
vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam và đã giành được những thắng lợi vĩ đại.
Với đường lối chiến lược đó, Đảng đã nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác -
6
Lênin về tính liên tục và tính giai đoạn của cách mạng, khéo giải quyết mối
quan hệ giữa hai giai đoạn cách mạng. Ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân
chủ, trong khi tập trung sức người, sức của để hoàn thành nhiệm vụ chống đế
quốc, chống phong kiến, Đảng vẫn không quên tuyên truyền phương hướng
tiến lên chủ nghĩa xã hội và khi có điều kiện (lúc có vùng giải phóng ổn định),
Đảng bắt tay ngay xây dựng một số cơ sở kinh tế, vừa phục vụ giai đoạn
trước, vừa gây mầm mống thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa thuộc giai
đoạn cách mạng sau. Phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội tuy là việc làm
trong tương lai, nhưng tuyên truyền và quán triệt tư tưởng đó lại có tác dụng
làm tǎng thêm sức mạnh cho hiện tại vì nó đáp ứng từng bước yêu cầu của
quần chúng đông đảo là kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp,
mà trước hết là công nhân và nông dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công

nhân. Sức mạnh của cách mạng dân tộc dân chủ bắt nguồn từ những nhân tố
đó và chính những nhân tố đó giữ vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng.
Đường lối nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng
đã khắc phục những hạn chế của nhiều nhà yêu nước trước đây là chưa thấy
rõ con đường tiến lên của dân tộc. Chính hạn chế đó là một trong những
nguyên nhân dẫn đến thất bại của phong trào giải phóng dân tộc kiểu cũ ở
nước ta. Nhiệm vụ dân tộc dân chủ được giải quyết càng triệt để thì những
điều kiện để đi lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Bởi vì, như
Lênin nói, "không thể có một chủ nghĩa xã hội thắng lợi mà lại không thực
hiện dân chủ hoàn toàn, giai cấp vô sản cũng không thể nào chuẩn bị để chiến
thắng giai cấp tư sản được nếu nó không tiến hành một cuộc đấu tranh toàn
diện, triệt để và cách mạng để giành dân chủ". Giải quyết mối quan hệ giữa
hai giai đoạn cách mạng là một vấn đề quan trọng nhưng chưa phải là vấn đề
khó nhất. Việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm
vụ chống phong kiến để có thể phát huy cao độ yếu tố dân tộc mới là vấn đề
phức tạp. Đảng phải mất một thời gian tương đối dài mới đạt được sự nhất trí
7
cao. Về mặt chiến lược, nhiều vǎn kiện của Đảng viết: Dưới thời Pháp thuộc,
xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa dân tộc ta với chủ
nghĩa đế quốc và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân, với giai
cấp địa chủ phong kiến. Cụ thể hơn, Đảng nhận định nước ta là nước nông
nghiệp, nông dân chiếm hơn 90% số dân, chủ nghĩa đế quốc dựa vào chế độ
phong kiến để bóc lột nhân dân, chủ yếu là bóc lột nông dân. Nguyện vọng
tha thiết và trực tiếp của nông dân là dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Từ
sự phân tích trên, Đảng vạch rõ cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến
lược: đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược và thống trị, giành độc lập dân tộc, xoá
bỏ chế độ phong kiến giành ruộng đất cho nông dân. Hai nhiệm vụ đó phải
được tiến hành khǎng khít với nhau, không được tách rời. Đó là tư tưởng
đúng đắn. Về chỉ đạo chiến lược, Đảng phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết" để phát huy cao độ sức mạnh

dân tộc nhưng không coi nhẹ những nhiệm vụ dân chủ. Trong các vǎn kiện có
tính chất cương lĩnh, chỉ có Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Chủ
tịch Hồ Chí Minh soạn thảo là đáp ứng được điều đó. Trong khi không xa rời
mục tiêu chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tập trung lực lượng
toàn dân chống đế quốc và đại địa chủ, còn đối với "trung tiểu địa chủ thì
phải lợi dụng, chí ít làm cho họ trung lập". Về sau, Đảng còn thu hẹp hơn diện
đấu tranh để thực hiện sách lược thêm bạn, bớt thù. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã phản ánh đúng mâu thuẫn chủ yếu nhất của xã hội Việt Nam là
mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân ta với chủ nghĩa đế quốc và tay sai. Tư
tưởng đó đã đáp ứng yêu cầu nắm vững ngọn cờ dân tộc để tập hợp lực lượng
đánh mạnh vào âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc, sử dụng chủ nghĩa
quốc gia chia rẽ dân tộc, chống lại đường lối đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Tư tưởng đúng đắn và sáng tạo nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh
bắt nguồn từ việc khéo kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp để xem xét
vấn đề xã hội. Sự ra đời một tư duy mới thường gặp trắc trở. Trong mấy nǎm
8
đầu của lịch sử Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không được nhiều
đồng chí ở trong cũng như ở ngoài nước chấp nhận và bị thay thế bằng một
đường lối "cứng rắn" dựa trên cơ sở đơn thuần vận dụng hay quá nhấn mạnh
lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp. Thực tiễn ngày càng chỉ rõ quan điểm
"cứng rắn" đó không phù hợp với lý luận và thực tiễn của cách mạng nước ta.
Vừa mới ra đời, Đảng đã có thành tích lớn là phát động được cao trào cách
mạng của công - nông trong cả nước kéo dài hơn một nǎm, nhưng cao trào đó
cũng bộc lộ tính hẹp hòi, "tả" khuynh trong công tác vận động cách mạng. Từ
nǎm 1939 trở đi, tư tưởng chiến lược cách mạng trên đây của Chủ tịch Hồ Chí
Minh được toàn Đảng chấp nhận và phát triển thêm. Hội nghị Trung ương
tháng 5-1941, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đưa ra một luận
điểm mới: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ

phận, giai cấp đến vạn nǎm cũng không đòi lại được". Từ đây, Mặt trận Việt
Minh được thành lập, Mặt trận có lực lượng lớn và ảnh hưởng mạnh, đã góp
phần quan trọng vào việc phát động cuộc Tổng khởi nghĩa mang tính toàn dân
dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, tiếp đến Mặt trận Liên Việt,
một trong những lực lượng bảo vệ thắng lợi chính quyền non trẻ và là cơ sở
của cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn chống thực dân Pháp xâm lược. Để
phản ánh đúng tư tưởng chiến lược về tính không tách rời của hai nhiệm vụ
chống đế quốc và phong kiến, phản ánh nhận thức của Đảng muốn giữ quyền
lãnh đạo dân tộc phải thực hiện những yêu cầu dân chủ đối với nông dân, Đại
hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) đã định rõ "nhiệm vụ giải phóng
dân tộc bao gồm nhiệm vụ phản phong kiến", và thay khái niệm "cách mạng
tư sản dân quyền" bằng khái niệm "cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân".
Nhận thức của Đảng đã rõ ràng. Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện,
Đảng đã phạm sai lầm hữu khuynh, có lúc quá chú trọng tranh thủ tầng lớp
9
trên, coi nhẹ phát triển lực lượng công nhân, và sai lầm tả khuynh trong cải
cách ruộng đất. Từ những thành công cũng như sai lầm nghiêm trọng dù là
tạm thời, Đảng đã rút ra bài học quan trọng về mối quan hệ giữa chiến lược và
sự chỉ đạo chiến lược. Đó là: "nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc và
dân chủ với hai khẩu hiệu chiến lược "dân tộc độc lập" và "người cày có
ruộng", Đảng ta đã lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo giai cấp công
nhân, động viên được các tầng lớp nhân dân khác cùng với công, nông bước
lên trận tuyến cách mạng chống đế quốc và phong kiến. Trong quá trình cách
mạng, những nhiệm vụ chiến lược đó đã được cụ thể hoá bằng những mục
tiêu thích hợp với từng thời kỳ, dựa trên sự phân tích những mối quan hệ giai
cấp cụ thể và khả nǎng phân hoá hàng ngũ kẻ thù đế quốc và phong kiến,
nhằm tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hại nhất trong từng lúc
một. Song, dù ở bất cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ
thể do Đảng đề ra, về cơ bản đều bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ,
về cơ bản đều gắn liền hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến".

Như vậy về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng đã nhận thức
đầy đủ hơn, diễn đạt rõ ràng hơn, có tính lý luận sâu sắc và bảo đảm cho
Đảng tránh mắc sai lầm tả hữu khuynh trong việc lãnh đạo hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ.
II. NẮM VỮNG NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ CẢ NƯỚC TIẾN HÀNH ĐỒNG
THỜI HAI CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG (1954-1975)
Từ nǎm 1954, hoà bình được lập lại, đặc điểm lớn nhất của nước ta là
tạm thời bị chia cắt làm hai miền, với hai chế độ chính trị đối lập. Đảng ta
nhận định rằng nếu trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, việc
kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến
có tác dụng góp phần quyết định thắng lợi, thì trong thời kỳ mới, việc kết hợp
đúng đắn giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và nhiệm vụ
10
chống Mỹ, cứu nước cũng có tác dụng quyết định đến thắng lợi của cách
mạng miền Nam. Đảng ta phải giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ
cách mạng ở hai miền trong lúc trên thế giới chưa có tiền lệ giải quyết thành
công vấn đề này. Đó cũng là vấn đề quan hệ giữa hoà bình và cách mạng nổi
lên thành vấn đề lý luận và thực tiễn nóng hổi, trong lúc chủ nghĩa cơ hội,
chủ nghĩa dân tộc đang làm cho tình hình thêm phức tạp. Bên cạnh những
khó khǎn, cách mạng Việt Nam cũng có nhiều thuận lợi cơ bản: cách mạng
nước ta đang ở thế thắng, phong trào giải phóng dân tộc đã đánh đổ từng
mảng lớn hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc; lúc đó hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa đang là lực lượng hùng mạnh. Trung thành với những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, với lợi ích dân tộc và nghĩa vụ
quốc tế, Đảng ta đã từng bước giải quyết mối quan hệ giữa cách mạng hai
miền. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã quyết định
đường lối cách mạng chung của cả nước: - "Một là, tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc. - Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị
của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành

độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ
mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau". Về vị trí chiến lược
cách mạng của từng miền, Đảng ta xác định miền Bắc xã hội chủ nghĩa giữ
vai trò quyết định nhất của sự nghiệp cách mạng cả nước và sự nghiệp đấu
tranh thống nhất nước nhà, còn cách mạng miền Nam giữ vai trò quyết định
trực tiếp đánh đổ đế quốc Mỹ và tay sai. Thông qua thực hiện nhiệm vụ cách
mạng ở mỗi miền mà góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của cả nước là
hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước. Bởi vậy, Đảng ta coi quan điểm chờ
miền Nam hoàn toàn giải phóng, rồi cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội là
không đúng. Đường lối trên biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của
Đảng ta. Lý luận cũng như thực tiễn chứng minh đường lối tiến hành đồng
thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền là đúng đắn. Hai chiến
11
lược đó chẳng những không mâu thuẫn mà còn hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng
phát triển. Quá trình chỉ đạo cách mạng ở hai miền cũng là quá trình Đảng ta
cụ thể hoá thêm tư tưởng chiến lược của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ III. Trong khi đề ra nhiệm vụ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, Đảng không chỉ cǎn cứ vào tình hình miền Bắc, mà còn cǎn cứ cả
vào tình hình miền Nam. Đảng đề ra những chủ trương chẳng những đáp ứng
nguyện vọng của nhân dân miền Bắc, nhân dân miền Nam, mà còn tranh thủ
được sự đồng tình ủng hộ của tầng lớp trên ở miền Nam có tinh thần dân tộc,
mở rộng mặt trận dân tộc giải phóng. Bằng công cuộc xây dựng kinh tế - xã
hội ở miền Bắc, vừa bảo đảm đời sống cho nhân dân miền Bắc, vừa tǎng
cường lực lượng làm hậu thuẫn và chi viện cho cách mạng miền Nam. Đảng
lãnh đạo nhân dân miền Bắc phối hợp với nhân dân miền Nam đấu tranh
chống những thủ đoạn xâm lược, chiến tranh chống phá của đế quốc Mỹ ở
miền Nam và cả ở miền Bắc. Đảng giáo dục nhân dân miền Nam nhận rõ vị
trí quan trọng của cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam là: trực tiếp làm
thất bại mọi chính sách xâm lược và nô dịch của đế quốc Mỹ và góp phần
tích cực bảo vệ miền Bắc, bảo vệ cǎn cứ địa cách mạng của cả nước, tạo điều

kiện cho miền Bắc giữ được hoà bình để tiến hành thắng lợi sự nghiệp cải tạo
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đề ra nhiệm vụ, phương pháp cách
mạng ở miền Nam cũng như khi quyết định mở những trận quyết chiến chiến
lược, Đảng phải cǎn cứ vào tình hình miền Nam và cả tình hình miền Bắc,
xem xét tác động của những thắng lợi sẽ giành được có ảnh hưởng đối với
miền Nam và cả đối với miền Bắc. Tiến lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng mọi
mặt của miền Bắc sẽ được tǎng cường nhanh chóng. Đảng có thể lãnh đạo
nền kinh tế theo hướng giải quyết khéo mâu thuẫn giữa sức người, sức của có
hạn với yêu cầu ngày càng lớn của sự nghiệp cách mạng của hai miền. Miền
Bắc xã hội chủ nghĩa có lực lượng vững mạnh mới đủ sức làm tròn nhiệm vụ
cǎn cứ địa của cả nước, đủ sức tự bảo vệ, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá
12
hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, có đủ điều kiện chi viện cho cách mạng miền
Nam, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với hai nước Lào và
Campuchia anh em. Sự gắn bó chặt chẽ giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam làm cho thế và lực
của cách mạng cả nước cũng như của miền Nam không ngừng tǎng lên. Nhờ
vậy, cách mạng miền Nam đã sử dụng được sức mạnh tổng hợp của cả nước
để tiến công địch, đánh bại mọi chiến lược, chiến thuật của đế quốc Mỹ và
tay sai. Kẻ địch cũng thấy được mối quan hệ giữa cách mạng hai miền.
Chúng đánh phá miền Bắc, đặc biệt là đánh vào các đường giao thông, các cơ
sở kinh tế; xuyên tạc và lu loa rằng miền Bắc "xâm lược miền Nam", v.v.
chính là vì chúng nhận rõ vai trò của miền Bắc xã hội chủ nghĩa và chúng
phải đối phó trong thế thua ở miền Nam. Đảng nhận định rằng, âm mưu và
hành động phá hoại miền Bắc của địch chỉ có thể chấm dứt chừng nào miền
Nam được hoàn toàn giải phóng. Nhờ nhận định đúng đắn đó, Đảng ta luôn
luôn sáng suốt, chủ động trong mọi tình huống. Trong quá trình chỉ đạo cách
mạng, Đảng đưa ra nhiều nhận định, trong đó có hai nhận định thể hiện sâu
sắc nhất việc Đảng nắm vững mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Một là,
tháng 3-1964, trong Hội nghị chính trị đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu

gọi: "Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam
ruột thịt". Hai là, cuối nǎm 1965, khi quân viễn chinh Mỹ ồ ạt vào miền Nam,
Nghị quyết lần thứ 12 của Trung ương Đảng nêu cao quyết tâm giữ vững
chiến lược tiến công, giữ thế chủ động trên chiến trường và nhất là kiềm chế
và thắng địch ở miền Nam. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước cho phép Đảng ta rút ra những kết luận quan trọng: - "Thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của cả hai chiến lược cách
mạng được tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ với nhau". - Cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát
triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất
13
nước nhà. Đảng khẳng định: "Không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa,
suốt mười sáu nǎm qua, luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến
lược". Dù có những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình chỉ đạo thực hiện do
hạn chế lịch sử, chúng ta vẫn thấy kết luận trên của Đảng là thoả đáng. Đảng
cũng kết luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có tác dụng
quyết định trực tiếp đối với việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay
sai. Đi đôi với việc coi trọng củng cố và bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc,
nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh, Đảng hết sức coi
trọng việc xây dựng và phát triển thực lực cách mạng ở miền Nam. Nhờ
đường lối cứu nước đúng đắn, tinh thần hy sinh anh dũng của đông đảo cán
bộ, đảng viên và nhân dân, Đảng ta đã phát huy cao độ nghị lực chiến đấu phi
thường và sức sáng tạo vô tận của nhân dân ta, khai thác những tinh hoa
trong truyền thống bốn nghìn nǎm của dân tộc. Từ việc giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng, Đảng ta đã giải quyết sáng tạo
một loạt vấn đề lớn như đẩy mạnh cách mạng và bảo vệ hoà bình thế giới, ở
khu vực và hoà bình tương đối ở ngay miền Bắc; giữa tiến công và bảo vệ ;
bác bỏ những quan điểm hữu khuynh và phiêu lưu. Đảng ta có khả nǎng và
có điều kiện giải quyết vấn đề trên do đã từng hoạt động trong những hoàn

cảnh đặc biệt. "Một Đảng thống nhất lãnh đạo một nước tạm thời bị chia cắt
làm đôi, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau, đó là đặc
điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7 nǎm
1954 đến tháng 5 nǎm 1975". Cách mạng Việt Nam đã chứng minh một tư
tưởng lớn của thời đại ngày nay là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn
liền với nhau và bằng kinh nghiệm của mình, cách mạng nước ta đã góp phần
làm giàu thêm nội dung kết luận trên. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội là bài học quan trọng của Đảng. Đảng tiếp tục quán triệt bài
học đó trong giai đoạn lịch sử mới.
14
III-NẮM VỮNG NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng đã xác định
cả nước chuyển sang giai đoạn mới. Việc chuyển giai đoạn cách mạng có tầm
quan trọng đặc biệt. Nhưng việc làm đó không đơn giản. Mỗi nước có cách
giải quyết riêngcó một khuôn mẫu định trước. Tất cả tuỳ thuộc vào tương
quan lực lượng giữa cách mạng và các thế lực cản trở. Lênin nói: Sau khi
hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ, chúng ta sẽ chiếu đúng theo lực lượng
của chúng ta, theo lực lượng của giai cấp vô sản giác ngộ và có tổ chức mà
tiến ngay lên con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa". Người lại nói: Chúng
ta chỉ có thể nói và chỉ nói một điểm là: chúng ta sẽ dốc toàn lực lượng ra
giúp đỡ nông dân thực hiện cách mạng dân chủ để cho chúng ta, chính đảng
của giai cấp vô sản chúng ta ngày càng được dễ dàng hơn trong việc chuyển
hết sức nhanh sang một nhiệm vụ mới và cao hơn là: cách mạng xã hội chủ
nghĩa". Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin, dựa vào thực tiễn cách
mạng nước ta, Đảng nhận định: "Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau, và ở nước ta, khi giai cấp công
nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu

của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản ". Tất nhiên, việc chuyển cách
mạng sang giai đoạn mới và việc xây dựng chủ nghĩa xã hội với quy mô lớn
không đồng nghĩa với nhau. Những nǎm gần đây, tình hình quốc tế chuyển
biến rất phức tạp. Trước sau như một, Đảng ta và nhân dân ta kiên trì con
đường xã hội chủ nghĩa và nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự
nghiệp đổi mới. Đại hội lần thứ VII của Đảng nêu quyết tâm: "Toàn Đảng,
toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Bởi
15
vì: "Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc". Để thực
hiện quyết tâm đó, việc làm đầu tiên của Đảng là đánh giá một cách khách
quan những thuận lợi và khó khǎn của tình hình đất nước và tình hình thế
giới. Đảng phải mất một thời gian mới đi đến những nhận định tương đối đầy
đủ. Sức mạnh của thời đại trong giai đoạn hiện nay là sức mạnh của quy luật
tiến hoá lịch sử; là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại; là xu thế
quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới; là các lực lượng đấu tranh cho hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, v.v Loài người cuối cùng nhất
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, dù lịch sử thế giới đang trải qua những bước
quanh co. Sức mạnh của dân tộc là: chính quyền thuộc về nhân dân; nước nhà
đi vào giai đoạn hoà bình xây dựng; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý
chí vươn lên mãnh liệt, nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, cần cù lao
động và sáng tạo; chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật chất ban đầu;
tài nguyên thiên nhiên nước ta tương đối phong phú, đa dạng; nước ta ở vào
khu vực phát triển kinh tế nǎng động, lại nằm trên các tuyến giao thông quốc
tế quan trọng. Đại hội lần thứ VII của Đảng đã xác định mục tiêu và giải pháp
chiến lược, những điều kiện tiên quyết để biến tiềm nǎng thành hiện thực,
trong đó có nhiều điểm đổi mới phải quán triệt. Phát triển một nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế quốc
doanh giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở

rộng. Xoá bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính
sách và các công cụ khác. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh,
quốc phòng - an ninh với kinh tế trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta
luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chính quyền và các thành quả cách mạng. Xây
16
dựng một nền vǎn hoá mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú,
đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ. Phát huy nhân tố con người
trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, kết hợp
tốt giữa các lợi ích: cá nhân, tập thể và xã hội. Hình thành một cộng đồng xã
hội Việt Nam, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ,
quyền lợi chính đáng. Không ngừng củng cố, tǎng cường đoàn kết: đoàn kết
toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Xây dựng
và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân. Thực hiện chính sách đối ngoại nhằm tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã
hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và giải quyết nhiều vấn đề khác
có lợi ích toàn cầu. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện quan trọng
nhất của việc kết hợp, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Những tư tưởng chiến lược nói
trên của Đảng là đúng đắn. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cụ thể
hoá và hoàn chỉnh những tư tưởng đó nhằm khai thác đầy đủ nhất sức mạnh
của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đường lối kết hợp giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một bài học lớn của Đảng ta. Với
đường lối đó, Đảng ta góp phần bảo vệ tính trong sáng của chủ nghĩa Mác -

Lênin, chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc sôvanh. Nhờ lực lượng
hùng hậu do đường lối này đưa lại, quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
giành được thắng lợi trọn vẹn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Ngày nay, tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với
nội dung mới, Đảng sẽ tiếp tục tạo ra lực lượng lớn mạnh bảo đảm cho Đảng
17
làm tròn nhiệm vụ lịch sử trong giai đoạn cách mạng hiện nay là xây dựng
thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ Quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng
sản Việt Nam xứng đáng tiêu biểu bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tín độc lập tự chủ trong mọi đường lối,
chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn,
đưa đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong khu vực và trên thế giới.Độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu,
là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm
tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội
là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của
cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến
động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của
cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với
xu thế toàn cầu hoá, thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý
thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù hợp với
xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn
hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh
vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
18

×