!"#$%&'(
)'*+, - !*./"#$0(/('12
A.TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY
DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG SACH ,VỮNG MẠNH:
1.Xây dựng Đảng –Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch ,vững
mạnh chiếm một vị trí đặc biệt quan trọngtrong toàn bộ di sản của Nguời.Nguời liên
tục đề cập vấn đề xây dựng,chỉnh đốn Đảng và hình thành hệ thống các luận điểm
mang tính nhất quán.
Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng ,chỉnh đốn Đảng được Hồ Chí Minh
lý giải hết sức thuyết phục theo các căn cứ sau đây:
-Xây dựng,chỉnh đốn Đảng bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục của sự nghiệp
cách mạng do Đảng lãnh đạo giai cấp và nhân dân đánh đổ đế quốc,phong kiến,xây
dựng chế độ dân chủ mới,tạo điều kiện tiến dần lên chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng
dân tộc,giải phóng giai cấp,giải phóng con người.
-Đối với toàn Đảng,Hồ Chí minh cũng chỉ rõ: đảng sống trong xã hội,là một bộ phận
hợp thành cơ cấucủa xã hội, đảng viên đều chịu ảnh hưởng,tác động của môi trường
xã hội,các quan hệ xã hội,cả cái tốt và cái xấu,cái tích cực,tiến bộ và cái tiêu cực,lạc
hậu.Do đó mỗi cán bộ,đảng viên phải thương xuyên rèn luyện: Đảng phải thường
xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng.
-Xây dựng,chỉnh đốn Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện,giáo dục
và tu dưỡng tốt hơn,hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, đặc biệt
là giữ được phẩm chất cách mạng tiêu biểu.
-Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền viẹc xây dựng,chỉnh đốn
Đảnglại được Hồ Chí Minh coi là công việc càng phải tiến hành thường xuyên hơn
của Đảng.
2.Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
a.Xây dựng Đảng về tư tưởng,lý luận
Để đạt mục tiêu cách mạng,Hồ Chí Minh chỉ rõ:phải dựa vào lý luận cách mạng và
khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin.Khi huấn luyện cho cán bộ cách mạng năm 1925-
1927,Hồ Chí Minh đã khẳng định:” Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
cốt,trong đảng ai cũng phải hiểu,ai cung phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có
chủ nghĩa cung như người không có trí khôn,tàu không có bàn chỉ nam”;”chủ nghĩa”
ấy là chủ nghĩa Mác-Lênin
Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin,Hồ Chí Minh lưu ý những
điểm sau đây:
Một là,việc học tập,nghiên cứu,tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin phải luôn phù hợp
với từng đối tượng.
Hai là,việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin phải luôn phù hợp với từng hoàn cảnh.
Ba là,trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập kế thừa những kinh
nghiệm tốt của đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng kết kinh nghiệm của
mình để bổ sung chủ nghĩa Mác-Lênin.
Bốn là, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sang của chủ nghĩa
Mác-lênin.
b.Xây dựng Đảng về chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có vai trò định hương phát triển cho toàn xã
hội. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị của mình,chủ yếu bằng việc đề ra cương
lĩnh, đường lối chiến lược,phương hướng phát triển kinh tế-xã hộicũng như sách lược
và quy định những mục tiêu phát triển của xã hội theo hướng lâu dài cũng như của
từng giai đoạn.
Hồ Chí Minh lưu ý cần phải giáo dục đường lối,chính sách của đảng,thông tin thời
sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn kiên định lập trường,giữ vững bản lĩnh chính trị
trong mọi hoàn cảnh.
c.Xây dựng Đảng về tổ chức,bộ máy và công tác cán bộ
-Hệ thống tổ chức của Đảng: Hồ Chí Minh khẳng
định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức,một tổ chức tiên phong chiến đấu của
giai cấp công nhân.Hệ thống tổ chức của đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt
chẽ,có tính kỷ luật cao.Trong hệ thống tổ chức đang,Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò
của chi bộ.Bởi lẽ đối với bản thân Đảng,chi bộ là tổ chức hạt nhân,quyết định chất
lượng lãnh đạo của đảng:là môi trường tu dưỡng,rèn luyện và cũng là nơi giám sat
đảng viên. 3/(45(6(7(&%'
8
+Tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng.Giữa “tập trung”và” dân chủ “có
mối quan hệ khăng khít với nhau, đó là 2vế của một ngyên tắc.Hồ Chí Minh có viết về
mối quan hệ đó như sau:Tập trung trên nền tảng dân chủ;dân chủ dưới nền tảng tập
trung.
+Tập thể lãnh đạo,cá nhân phụ trách
Hồ Chí Minh giải thích về tập thể lãnh đạo như sau:Vì sao cần phải có tập thể lãnh
đạo?Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy,dù nhiều kinh nghiệm đến đâu,cũng chỉ
trông thấy,chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề,không thể trông
thấyvà xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề.Vì vậy,cần phải có nhiều người.Nhiều
người thì nhiều kinh nghiệm,Người thì thấy rõ mặt này,người thì trông rõ mặt khác
của vấn đè đó.
Về cá nhân phụ trách ,Hồ Chí Minh cho rằng:Việc gì đã được đông người bàn bạc
kỹ lưỡng rồi,kế hoạch định rõ ràng rồi,thì cần phải giao cho một người hoặc một
nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành .Như thế mới có chuyên
trách,công việc mới chạy.
+Tự phê bình và phê bình
Mục đích của việc tự phê binh và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân,làm cho mỗi tổ chức tốt lên,phần xấu bị mất dần
đi,tức là nói đến sự vươn tới chân, thiện, mỹ.Thái độ ,phương pháp tự phê bình và phê
bình được Hồ Chí Minh nêu rõ những điểm như sau:phải tiến hành thương xuyên như
người ta rửa mặt hàng ngày;phải thẳng thắn, chân thành, trung thực ,không nể
nang,không giấu diếm và cũng không them bớt khuyết điểm;”phải có tình yêu thương
lẫn nhau”
+Kỷ luật nghiêm minh,tự giác.
Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức kỷ
luật nghiêm minh,tự giác.Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi tất cả mọi tổ
chức đảng,tất cả mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước điều lệ Đảng,trước pháp luật
của nhà nước,trước mọi quyết định của Đảng. Đồng thời , Đảng ta là một tổ chức gồm
những người tự nguyệnphấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho nên tự giác là
một yêu cầu bắt buộc đối với mỗi tổ chức đảng và đảng viên.
+Đoàn kết thông nhất trong Đảng
Sự đoàn kết thông nhất trong Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của Đảng là chủ
nghĩa Mác-Lenin;cương lĩnh điều lệ Đảng; đường lối,quan điểm của Đảng;nghị quyết
của tổ chức đảng các cấp
3/9:*(;/((/9:(<8
Hồ Chí Minh đề ra một hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác cán
bộ.Người nhận thức rất rõ về vai trò,vị trí của can bộ trong sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh cho rằng,công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng.Nội dung của nó bao
hàm các mắt khâu liên hoàn,có quan hệ chặt chẽ với nhau.
d.xây dưng Đảng về đao đức
Hồ Chí Minh khẳng định:Một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo đức. Đạo
đức tạo nên uy tín,sức mạnh của Đảng đủ tư cách lãnh đạo,hướng quần chúng nhân
dân.
Xét về thực chất , đạo đức của Đảng ta là đạo đức mới, đạo đức của cách mạng.
Đạo đức đó mang bản chất của giai cấp công nhân,cũng như là đạo đức Mác-Lênin,
đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu
Giáo dục đạo đức cách mạng là một nội dung quan trọng trong việc tu dưỡng,rèn
luyện của cán bộ , đảng viên.Nó gắn với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân dưới
mọi hình thức nhằm làm cho Đảng luôn luôn thật sự trong sạch.
Đặc biệt quan tâm tới vấn đề đạo đức ,gắn đạo đức với tư cách là một Đảng chân
chính cách mạng ,Hồ Chí Minh đã góp phần bổ sung,mở rộng,phát triển quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lenin về nội dung công tác xây dựng Đảng,phù hợp vơi truyền
thống văn hóa,lịch sử của các nước phương Đông trong đó có ViệtNam. B.VẬN
DỤNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐCSVN NGANG TẦM CÁCH MẠNG
MỚI
I.Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “Là đạo đức, là văn minh” trong giai đoạn hiện
nay.Tư tưởng xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa soi đường cho
Đảng ta xây dựng và trưởng thành. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần xây dựng Đảng
ta thực sự trong sạch, vững mạnh, qua đó làm tăng thêm niềm tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng, vào con đường phát triển của đất nước.
Việc học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong
sạch, vững mạnh “là đạo đức, là văn minh” theo chủ đề năm 2010 là dịp để các tổ
chức Đảng, đoàn thể và mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên ôn lại và nâng cao nhận
thức lý luận về xây dựng Đảng, nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, ý thức tự
giác, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, góp phần tích cực vào thành công của Đại
hội Đảng các cấp và Đại hội lần thứ XI của Đảng.
Với nhận thức chung đó, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong công tác xây dựng Đảng hiện nay cần tập trung vào những nội dung, công việc
chính sau đây.
=2$(%.>(?@(<8* !*%@ABC61*
(/((<D*8./..EF.(%%'./1
Đảng ta là Đảng cầm quyền. Năng lực cầm quyền của Đảng là sự tổng hoà trình độ,
khả năng, bản lĩnh chính trị để giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ do tình hình đất nước
và thế giới đặt ra, nhằm lãnh đạo toàn dân thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng dân chủ, văn minh”.
Muốn đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách phù hợp, Đảng phải nâng cao tầm trí
tuệ, nắm chắc yêu cầu thực tiễn, tình hình trong nước và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện
đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong hoạch định đường lối phải tránh bảo thủ, trì trệ, đồng thời phải tránh hấp
tấp, vội vàng, làm tốt công tác dự báo, chú ý đến những vấn đề mới nảy sinh để kịp
thời nghiên cứu, tổng kết, bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối, chủ trương của
Đảng.
Việc xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh
“Đảng… phải có chủ nghĩa làm cốt”. Đảng phải kiên định nền tảng tư tưởng là chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho hành động, cơ
sở quy tụ, xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân
tộc.
G2HI(;/( !8*!(&!(%!8B8@-
J(C?(8(/((?.*(/(
– Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự suy yếu thoái hóa, biến chất của tổ chức
Đảng, làm cho vai trò cầm quyền của Đảng bị suy giảm, dẫn đến mất ổn định chính trị
– xã hội là một nguy cơ lớn. Chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là điều
kiện tối cần thiết và là điều kiện tiên quyết để giữ vững ổn định chính trị – xã hội, phát
triển kinh tế, văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Toàn Đảng phải quán triệt đầy đủ quan điểm xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
K(?J(C(<@- !8@%(/(&
Một là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn,
thu hút và phát huy tiềm năng trí tuệ của toàn dân tộc.
Trong thực hiện nhiệm vụ này, cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng xã hội
mới là công việc “rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một
cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt
tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên
toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” .
Hai là, cần đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện
cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên có đủ đức và tài, đầy tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân tộc, năng động,
dám nghĩ dám làm,… không chỉ là sự quan tâm, phát huy nhân tố con người trong
Đảng, mà còn để phát huy sức mạnh của toàn dán tộc, vấn đề có ý nghĩa quyết định
đến thành bại của cả sự nghiệp cách mạng.
Ba là, kiên quyết đấu tranh, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực khác ở trong Đảng và
ngoài xã hội. Những tiêu cực trong xã hội đã xâm nhập vào cơ thể Đảng, vào bộ máy
Nhà nước, thách thức nghiêm trọng uy tín của Đảng, Nhà nước trong nhân dân, ảnh
hưởng đến việc cầm quyền của Đảng, sự tồn vong của chế độ và con đường phát triển
của đất nước. Do vậy, toàn Đảng và mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần có
nhận thức đúng đắn tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về nhiệm vụ xây dựng Đảng,
để tham gia đấu tranh khắc phục tình trạng trên, xây dựng Đảng ta thực sự “là đạo
đức, là văn minh”.
2KI.-(61.D7(BL'%(<8
– Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng để đưa đường lối, chủ trương
của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Đó cũng chính là yêu cầu mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đề ra trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc.
– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết và
đặt trọng tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đường lối
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xác định Hiến pháp và
pháp luật là quyền lực tối thượng, điều chỉnh mọi quan hệ xã hội. Trong điều kiện đó,
việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có vai trò rất quan
trọng, thể hiện năng lực cầm quyền của Đảng.
– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay phải tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội. Ngày
nay, vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội ngày càng mở rộng. Đảng tiếp thu
những ý kiến của các tổ chức đoàn thể để bổ sung, phát triển, điều chỉnh đường lối,
chủ trương; để đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và toàn xã
hội.
Cần quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt
trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành
nhất, hoạt động nhất và trung thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày,
khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của
Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”
M2N8ICC@1
– Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ trương tập hợp tất thảy những người yêu nước vào sự
nghiệp cách mạng, xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân có ý nghĩa lớn
về lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng, cần được quán triệt và tổ chức
thực hiện tốt ở tất cả các cấp, các ngành.
– Giải quyết mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân hiện nay đang trở thành
vấn đề cấp thiết, là bài học lớn rút ra từ hơn 20 năm đổi mới. Sự phản ứng, đôi khi gay
gắt của nhân dân ở một số nơi đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, chính quyền các cấp,
rõ nhất là cấp cơ sở; các “điểm nóng” liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề
nhà, đất, quyền dân chủ, dân sinh,… liên tiếp xuất hiện ở nhiều địa phương đã phản
ánh sự không bình thường trong mối quan hệ máu thịt này.
– Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định,
quy chế,… để giải quyết mối quan hệ này, nhưng nói chung hiệu quả vẫn còn rất thấp.
Điều đó phản ánh sự cố gắng, quyết tâm chính trị nhưng vấn đề cơ bản hiện nay là tổ
chức thực hiện tích cực, kiên quyết, đồng bộ, có hiệu quả ở các cấp, các ngành. Đây là
trách nhiệm của toàn Đảng, của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên của. Đảng,
trước hết là các cấp ủy đảng.
– Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với dân, ở tất cả các cấp, các ngành phải
quán triệt các chỉ dẫn của Bác: Các quyết định, chủ trương được thông qua phải lấy
lợi ích của đa số nhân dân làm mục đích; các chính sách được ban hành phải theo mục
tiêu vì dân; cán bộ, đảng viên, công chức phải là công bộc của dân, “vì nhân dân phục
vụ”; các biện pháp thực hiện phải dựa vào sức dân và mang lợi ích cho dân… Điều
quan trọng là mọi hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể phải thực sự lấy
dân làm gốc.
O2K6(7(C':89:(/((?.J%P(<B@8
Ngày 4-8-2009, Bộ Chính trị khóa X đã ban hành Chỉ thị về đại hội đảng bộ các
cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (Chỉ thị số 37-CT/TW).
Theo Chỉ thị, Trung ương Đảng đã quyết định tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI vào nửa đầu tháng 1-2011. Chỉ thị đã xác định các yêu cầu và nội dung tiến
hành đại hội Đảng các cấp. Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” phải
trực tiếp phục vụ cho việc tổ chức tốt đại hội các cấp theo quy định của Điều lệ Đảng.
– Trong Báo cáo chính trị trình đại hội các cấp phải gắn kiểm điểm việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị với kiểm điểm việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, qua đó để phát huy vai trò và gắn trực tiếp Cuộc
vận động với nội dung tiến hành Đại hội.
– Trong việc chuẩn bị và tiến hành Đại hội phải phát huy dân chủ, tăng cường đoàn
kết, giữ vững kỷ cương, coi trọng chất lượng. Phát huy cao nhất trí tuệ, trách nhiệm
của các cấp ủy, tổ chức đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng
Đảng. Tổ chức thật tốt việc thảo luận những quan điểm, chủ trương, định hướng lớn
nêu trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI và các văn kiện đại hội đảng bộ. Báo
cáo của mỗi cấp bộ đảng trước đại hội cần tập trung vào những vấn đề quan trọng, cấp
bách trước mắt và có ý nghĩa lâu dài của địa phương, đơn vị. Tổ chức lấy ý kiến góp ý
của các tầng lớp nhân dân về các văn kiện dự thảo.
– Nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình, đánh giá đúng mức ưu điểm, khuyết
điểm, kết quả lãnh đạo của cấp ủy và đảng bộ trong thực hiện nhiệm vụ chính trị; chỉ
rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, của những yếu kém, khuyết điểm và
đề ra những biện pháp khắc phục.
– Việc lựa chọn, giới thiệu nhân sự bầu vào cấp ủy các cấp căn cứ vào tiêu chuẩn
chung quy định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán
bộ. Trong điều kiện hiện nay, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu đối với cán
bộ lãnh đạo, cần đặc biệt nhấn mạnh tiêu chuẩn về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức, năng lực, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ được giao; uy tín trong Đảng và trong xã
hội; có tư duy đổi mới, khả năng tiếp cận, nắm bắt, xử lý các vấn đề mới và vấn đề
phức tạp mới nảy sinh; khả năng đoàn kết, quy tụ; phong cách làm việc khoa học, dân
chủ, sâu sát, nói đi đôi với làm; dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Vận dụng tốt tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” trong tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới
Đại hội XI có ý nghĩa rất thiết thực trong công tác xây dựng Đảng, trong thực hiện
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” hiện nay; đáp
ứng được yêu cầu thang của công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; sự mong đợi của đông đảo cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.
II. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN, đảm bảo sự tôn trọng
quyền làm chủ của nhân dân.
1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
- Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ
chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
- Cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Xây dựng bộ
máy nhà nước tinh gọn; nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng
viên trong các cơ quan nhà nước.
2. Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước
- Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc
hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập
pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành và hướng dẫn thi
hành luật. Quốc hội làm tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước,
quyết định và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyết giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của Nhà nước, trước mắt tập trung vào những vấn đề bức xúc như
sử dụng vốn và tài sản nhà nước, chống tham nhũng, quan liêu.
- Khẩn trương nghiên cứu, đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến
pháp năm 1992 phù hợp với tình hình mới.
- Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước
hiện đại hoá. Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ
theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong cả nước bằng hệ thống pháp
luật, chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ. Định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
các bộ theo hướng bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, cung cấp
dịch vụ công.
- Phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp
chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ; tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân; kiện toàn các cơ quan chuyên môn của Uỷ
ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp xã, phường, thị trấn.
- Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng
cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt,
giam giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan, sai.
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp.
- Sắp xếp lại hệ thống toà án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của toà án các
cấp. Tăng cường đội ngũ thẩm phán và hội thẩm nhân dân cả về số lượng và chất
lượng. Tổ chức lại cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án theo nguyên tắc gọn đầu
mối. Thành lập cảnh sát tư pháp.
- Thực hiện tinh giản biên chế trong các cơ quan nhà nước.
3. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế
- Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, hoàn thiện
những quy định về bầu cử, ửng cử, về tiêu chuẩn và cơ cấu các đại biểu Quốc hội và
Hội đồng nhân dân trên cơ sở thật sự phát huy dân chủ. Tăng thêm tỷ lệ đại biểu Quốc
hội chuyên trách. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở,
tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn
đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Xây dựng Luật trưng cầu
ý dân.
- Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng
và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc
tham gia.
- Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công chức
trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân.
- Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản
lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật.
III. NHỮNG BÀI HỌC MÀ ĐẢNG TA CẦN RÚT RA ĐƯỢC QUA CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, công cuộc đổi
mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đến nay, mặc dù còn không ít khó khăn, hạn chế, đất nước ta đã có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng và có sự tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định.
Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không
ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra
thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo;
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng
tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ
bản.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao,
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp; có nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới.
Những bài học lớn mà đảng ta rút ra trong công cuộc đổi mới đất nước là:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không
phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận
thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn để đi tới thắng lợi. Đổi mới
không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim
chỉ nam cho hành động cách mạng.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù
hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị,
đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị.
Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng không làm đồng loạt, dàn đều, mà
phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt
chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ : phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng
là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng
và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi
mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn phong phú của nhân dân,
thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật các
mặt của cuộc sống để đi lên - đó là chìa khoá của thành công.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là
nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn
ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài
để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước
nhanh và bền vững. Hội nhập và hợp tác quốc tế phải dựa trên các nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hoá dân tộc.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới
hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu
then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu
cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả
quyền công dân, quyền con người. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Xác lập những mối quan hệ hợp lý giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc cùng
các đoàn thể nhân dân thông qua hệ thống cơ chế thích hợp, làm cho tất cả các bộ
phận cấu thành hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, quyền làm chủ của nhân dân
được thực hiện ngày một tốt hơn, từ đó tạo ra động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi
mới.