Tải bản đầy đủ (.pdf) (250 trang)

Nghiên cứu đề xuất sử dụng bền vững một số loại hình sử dụng đất nông nghiệp phục vụ công tác quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp tại huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.53 MB, 250 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI




ĐÀO ĐỨC MẪN



NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT SỬ DỤNG BỀN VỮNG
MỘT SỐ LOẠI HÌNH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
PHỤC VỤ CÔNG TÁC QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
TẠI HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG




LUẬN ÁN TIẾN SĨ







HÀ NỘI, NĂM 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI




ĐÀO ĐỨC MẪN



NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT SỬ DỤNG BỀN VỮNG
MỘT SỐ LOẠI HÌNH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
PHỤC VỤ CÔNG TÁC QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
TẠI HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG


CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
MÃ SỐ : 62 85 01 03



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. NGUYỄN TẤT CẢNH
2. PGS. TS. HÀ THỊ THANH BÌNH



HÀ NỘI, NĂM 2014

ii
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên
cứu trong luận án này là trung thực, khách quan và chưa từng được tập thể, cá nhân
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ trong quá trình thực hiện luận án này
đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận án đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận án


Đào Đức Mẫn

iii

LỜI CẢM ƠN
Luận án này được thực hiện và hoàn thành tại Trường Đại học Nông nghiệp
Hà Nội.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án này, tôi xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS. Nguyễn Tất Cảnh và PGS. TS. Hà Thị Thanh Bình -
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội là những người hướng dẫn khoa học đã tận
tình giúp đỡ và định hướng giúp tôi trưởng thành trong công tác nghiên cứu và
hoàn thiện luận án.
Tôi xin ghi nhận và biết ơn sự giúp đỡ quý báu của tập thể các thầy, cô giáo
Bộ môn Quy hoạch đất đai - Khoa Quản lý đất đai, Bộ môn Canh tác học - Khoa
Nông học, Ban Quản lý Đào tạo, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tận tình
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án này.
Luận án này được thực hiện với sự hỗ trợ của Tập thể cán bộ Văn phòng Ủy
ban Nhân dân huyện Tứ kỳ, tỉnh Hải Dương; Phòng Tài nguyên và Môi trường,
Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương đã giúp
đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình thực hiện, nghiên cứu đề tài. Tôi xin trân
trọng cám ơn sự hỗ trợ quý báu đó.
Trong thời gian học tập và nghiên cứu, tôi cũng đã nhận được sự hỗ trợ và
giúp đỡ tận tình từ Lãnh đạo Tổng cục Quản lý đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi
trường và các đồng nghiệp nơi tôi đang công tác đã tạo điều kiện thuận lợi về thời

gian và động viên tinh thần giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận án. Tôi xin trân trọng cám ơn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới bạn bè và người thân đã luôn kịp thời
động viên, chia sẻ và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận án.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cám ơn sự giúp đỡ của các cá nhân và tập thể
đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận án này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận án

Đào Đức Mẫn

iv

MỤC
LỤC


Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục iv
Danh mục các chữ viết tắt vii
Danh mục các bảng viii
Danh mục các hình x
MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của đề tài 1
2 Mục tiêu nghiên cứu 2
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 3
5 Những đóng góp mới của luận án 3

Chương 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1 Cơ sở lý luận về sử dụng đất nông nghiệp bền vững 4
1.1.1 Đất và sử dụng đất nông nghiệp 4
1.1.2 Cơ sở khoa học của sử dụng đất bền vững 15
1.1.3 Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 22
1.2 Các nghiên cứu sử dụng đất nông nghiệp bền vững phục vụ quy hoạch
sử dụng đất nông nghiệp 29
1.2.1 Các nghiên cứu trên thế giới 29
1.2.2 Các nghiên cứu ở Việt Nam 31
1.3 Định hướng phát triển nông nghiệp bền vững 33
1.3.1 Xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới 33
1.3.2 Định hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam 35
1.4 Đánh giá đất đai phục vụ nông nghiệp bền vững 38
1.4.1 Đánh giá đất thích hợp theo FAO 38
1.4.2 Đánh giá đất đai ở Việt Nam 39

v
1.5 Ứng dụng toán tuyến tính đa mục tiêu trong công tác quy hoạch sử
dụng đất 42
1.5.1 Bản chất, đặc điểm của bài toán quy hoạch tuyến tính 42
1.5.2 Khả năng ứng dụng bài toán quy hoạch tuyến tính đa mục tiêu 45
1.5.3 Ứng dụng bài toán quy hoạch tuyến tính đa mục tiêu trong quy hoạch
sử dụng đất ở Việt Nam 46
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 49
2.1 Nội dung nghiên cứu 49
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội liên quan đến sử dụng đất 49
2.1.2 Đánh giá hiện trạng sử dụng đất và hiệu quả của các loại hình sử dụng
đất chủ yếu 49
2.1.3 Đánh giá hiện trạng môi trường đất của các loại hình sử dụng đất chủ yếu 49
2.1.4 Đánh giá thích hợp đất đai cho các loại sử dụng đất 49

2.1.5 Ứng dụng mô hình toán quy hoạch tuyến tính đa mục tiêu đề xuất sử
dụng bền vững một số loại hình sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu
phục vụ quy hoạch sử dụng đất 49
2.2 Phương pháp nghiên cứu 50
2.2.1 Phương pháp chọn điểm 50
2.2.2 Phương pháp điều tra thu thập thông tin 50
2.2.3 Phương pháp thống kê tổng hợp 51
2.2.4 Phương pháp đánh giá thích hợp theo FAO 51
2.2.5 Phương pháp tính hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội sử dụng đất 52
2.2.6 Phương pháp phân tích trong phòng thí nghiệm 53
2.2.7 Phương pháp chuyên gia 54
2.2.8 Phương pháp mô hình toán 54
2.2.9 Phương pháp minh họa bằng bản đồ, biểu đồ 55
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 57
3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội liên quan đến sử dụng đất 57
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 57
3.1.2 Điều kiện kinh tế, xã hội 63

vi

3.1.3 Thực trạng sản xuất nông nghiệp của huyện Tứ Kỳ 66
3.1.4 Định hướng phát triển của huyện Tứ Kỳ đến năm 2020 67
3.1.5 Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. 70
3.2 Hiện trạng sử dụng đất và hiệu quả của các loại hình sử dụng đất chủ yếu 72
3.2.1 Hiện trạng sử dụng đất và loại hình sử dụng đất chủ yếu 72
3.2.2 Hiệu quả của các loại hình sử dụng đất chủ yếu 79
3.3 Hiện trạng môi trường đất của các loại hình sử dụng đất chủ yếu 94
3.3.1 Loại hình chuyên lúa 94
3.3.2 Loại hình lúa - màu 99
3.3.3 Loại hình chuyên rau màu 105

3.4 Đánh giá thích hợp đất đai cho các loại sử dụng đất 113
3.4.1 Xây dựng bản đồ đơn vị đất đai 113
3.4.2 Đánh giá thích hợp đất đai 120
3.5 Ứng dụng mô hình toán quy hoạch tuyến tính đa mục tiêu đề xuất sử
dụng bền vững một số loại hình sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu
phục vụ quy hoạch sử dụng đất 132
3.5.1 Xác định các mục tiêu và hạn chế trong bài toán tối ưu 132
3.5.2 Xác định các yếu tố đầu vào của bài toán 133
3.5.3 Kết quả chạy bài toán quy hoạch tuyến tính đa mục tiêu 134
3.5.4 Đề xuất loại hình sử dụng đất bền vững đến năm 2020 137
3.5.5 Giải pháp thực hiện các phương án đề xuất 145
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 149
1 Kết luận 149
2 Đề nghị 150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 159


vii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BVTV Bảo vệ thực vật
CAQ Cây ăn quả
CN Công nghiệp
CPTG Chi phí trung gian
ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
ĐVĐĐ Đơn vị đất đai

ĐVT Đơn vị tính
FAO Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hiệp Quốc
GIS Hệ thống thông tin địa lý
GTSX Giá trị sản xuất
GTGT Giá trị gia tăng
KHM Ký hiệu mẫu
KT-XH Kinh tế - xã hội
LĐ Lao động
LMU Đơn vị bản đồ đất đai
LUT Loại hình sử dụng đất
NXB Nhà xuất bản
Ph.C Phân chuồng
QHSDĐ Quy hoạch sử dụng đất
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TPCG Thành phần cơ giới
TSMT Tổng số muối tan
UBND Ủy ban nhân dân


viii

DANH MỤC CÁC BẢNG

STT Tên bảng Trang

1.1 Tiềm năng đất đai và diện tích đất canh tác trên thế giới 10
1.2 Tiềm năng đất nông nghiệp của một số nước ở Đông Nam Á 10
1.3 Biến động về dân số và diện tích đất canh tác trên thế giới (1960- 2050) 11
1.4 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp và đất canh tác ở Việt Nam 13
3.1 Tài nguyên đất huyện Tứ Kỳ 59

3.2 Hiện trạng sử dụng đất năm 2010 72
3.3 Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp năm 2010 74
3.4 Hiện trạng sử dụng đất theo đơn vị hành chính năm 2010 75
3.5 Hiện trạng các loại hình sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu năm 2010 78
3.6 Hiệu quả kinh tế các cây trồng chủ yếu năm 2008 80
3.7 Hiệu quả kinh tế của các loại hình sử dụng đất chủ yếu năm 2008 81
3.8 Hiệu quả kinh tế các cây trồng chủ yếu năm 2009 83
3.9 Hiệu quả kinh tế của các loại hình sử dụng đất chủ yếu năm 2009 84
3.10 Hiệu quả kinh tế các cây trồng chủ yếu năm 2010 85
3.11 Hiệu quả kinh tế của các loại hình sử dụng đất chủ yếu năm 2010 87
3.12 So sánh hiệu quả kinh tế các loại hình sử dụng đất chủ yếu từ năm
2008 đến 2010 89
3.13 Mức độ sử dụng phân bón cho đất chuyên lúa năm 2010 95
3.14 So sánh mức đầu tư phân bón với khuyến cáo 95
3.15 Mức độ sử dụng thuốc BVTV cho đất chuyên lúa năm 2010 95
3.16 Một số tính chất hóa học đất chuyên lúa 97
3.17 Hàm lượng một số kim loại nặng trong đất chuyên lúa 98
3.18 Mức độ sử dụng phân bón cho các cây trồng trên đất lúa - màu năm 2010 99
3.19 So sánh mức đầu tư phân bón của các cây trồng trên đất lúa - màu
với khuyến cáo 100

ix

3.20 Mức độ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cho các cây trồng trên đất lúa
– màu năm 2010 101
3.21 Một số tính chất hóa học đất lúa - màu 102
3.22 Hàm lượng một số kim loai nặng trong đất lúa-màu 104
3.23 Mức độ sử dụng phân bón cho các cây trồng trên đất chuyên rau màu
năm 2010 105
3.24 So sánh mức đầu tư phân bón của các cây trồng trên đất chuyên rau

màu với khuyến cáo 106
3.25 Mức độ sử dụng thuốc BVTV cho các loại cây trồng trên đất chuyên
rau màu năm 2010 107
3.26 Một số tính chất hóa học đất chuyên rau màu 109
3.27 Hàm lượng một số kim loai nặng trong đất chuyên rau màu 110
3.28 So sánh một số tính chất hóa học của các loại hình sử dụng đất chủ yếu 111
3.29 Chỉ tiêu và phân cấp các chỉ tiêu xây dựng bản đồ đơn vị đất đai
huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương 114
3.30 Phân bố đơn vị đất đai theo loại đất 115
3.31 Yêu cầu sử dụng đất và khả năng thích hợp đất đai của các loại hình
sử dụng chủ yếu 128
3.32 Mức độ thích hợp của các loại hình sử dụng đất chủ yếu trên các đơn
vị đất đai 129
3.33 Tổng hợp diện tích thích hợp đất đai hiện tại của các loại hình sử
dụng đất chủ yếu 130
3.34 Kịch bản sử dụng đất theo điều kiện tự nhiên, lao động và khả năng
đầu tư của huyện Tứ Kỳ 135
3.35 Đề xuất sử dụng đất tối ưu đến năm 2020 của huyện Tứ Kỳ 138
3.36 Diện tích các loại cây trồng theo các đề xuất sử dụng đất đến năm
2020 của huyện Tứ Kỳ 139
3.37 Bố trí kiểu sử dụng đất trên các loại hình sử dụng theo đề xuất 01 140
3.38 Bố trí kiểu sử dụng đất trên các loại hình sử dụng theo đề xuất 02 143

x
DANH MỤC CÁC HÌNH

STT Tên hình Trang

3.1 Cơ cấu dân số, ngành nghề năm 2010 63
3.2 Tốc độ phát triển và tỷ trọng các ngành kinh tế 66

3.3 Cơ cấu sử dụng đất năm 2010 73
3.4 Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp năm 2010 74
3.5 Cơ cấu các loại hình sử dụng đất chủ yếu 79
3.6 Hiệu quả kinh tế các loại hình sử dụng đất chủ yếu từ 2008 - 2010 90
3.7 Hiệu quả xã hội các loại hình sử dụng đất chủ yếu từ 2008 - 2010 93
3.8 Sơ đồ đơn vị đất đai huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương 119
3.9 Sơ đồ thích hợp đất đai huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương 131
3.10 Sơ đồ sử dụng đất theo đề xuất 1 đến năm 2020 huyện Tứ Kỳ, tỉnh
Hải Dương 141
3.11 Sơ đồ sử dụng đất theo đề xuất 2 đến năm 2020 huyện Tứ Kỳ, tỉnh
Hải Dương 144








1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã và đang tập trung
nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng đất, trong đó các đề tài đều hướng tới đánh
giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, đánh giá thực hiện quy hoạch sử dụng đất
nông nghiệp. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu phần lớn mới chỉ dừng ở mức vĩ
mô, những nghiên cứu chi tiết còn chưa được thực hiện nhiều.
Theo Nguyễn Văn Bộ và Đào Thế Anh (2010), Việt Nam có chỗ dựa vững
chắc là nông nghiệp để có thể vượt qua mọi cuộc khủng hoảng. Nếu kích thích cho

nông nghiệp phát triển sẽ không chỉ đảm bảo kinh tế phát triển mà còn ổn định an
ninh xã hội. Để đảm bảo phát triển bền vững phải tiến hành song song việc công
nghiệp hoá và đô thị hoá cả ở thành thị lẫn nông thôn, trong đó công nghiệp hoá
nông nghiệp và nông thôn phải thích hợp với điều kiện đất ít người đông.
Đồng bằng sông Hồng có diện tích tự nhiên 1.490,981 ngàn ha, chỉ chiếm
4,5% diện tích cả nước trong khi dân số bằng 22% cả nước. Bình quân đất nông
nghiệp/đầu người chỉ đạt 477 m
2
(tương đương 40,7% trung bình cả nước). Là vùng
kinh tế trọng điểm, tập trung nhiều các viện nghiên cứu, trường đại học, nông dân
có truyền thống canh tác lâu đời nhưng hiệu quả sử dụng đất canh tác chưa cao,
đồng thời lực lượng lao động dư thừa quá lớn. Mặc dù có sự chuyển dịch về thành
phố và khu công nghiệp nhưng tỷ lệ dân cư nông thôn vẫn chiếm 75,5% (năm 2004)
so với 84,2% (năm 1990), nếu không có hướng giải quyết sẽ gây ra hậu quả không
lường trước về kinh tế - xã hội. Do vậy, việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông
nghiệp theo hướng hiệu quả, khai thác lợi thế về thị trường, điều kiện tự nhiên và
lao động là yêu cầu cấp thiết (Nguyễn Văn Bộ và Nguyễn Trọng Khanh, 2010).
Tứ Kỳ là một huyện thuộc vùng đồng bằng sông Hồng cũng không nằm ngoài
quy luật đó. Là một trong 12 đơn vị hành chính của tỉnh Hải Dương, với tổng diện
tích đất tự nhiên là 17.019,01 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 11.212,06 ha
(đất trồng cây hàng năm 8.497,79 ha). Bình quân diện tích đất canh tác chỉ đạt 527,8
m
2
/đầu người, trong khi giá trị sản xuất ngành nông nghiệp vẫn chiếm 45% tổng giá

2
trị sản xuất toàn huyện (năm 2010). Tứ Kỳ có nhiều lợi thế cho sản xuất nông nghiệp,
nằm gần viện nghiên cứu cây lương thực thực phẩm, một trung tâm nghiên cứu cây
trồng đứng hàng đầu cả nước, có lợi thế trong việc tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật mới kết
hợp với lực lượng lao động nông nghiệp dồi dào có kinh nghiệm canh tác lâu đời, khí

hậu ôn hoà, địa hình khá đồng nhất, đất có độ phì khá là tiền đề để phát triển một nền
nông nghiệp hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều tiềm năng vẫn chưa được phát huy, khai thác
một cách đầy đủ, cơ cấu cây trồng mùa vụ chưa được xác định phù hợp với điều kiện
của huyện, các xã trên địa bàn huyện. Thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa phát triển,
nhất là xuất khẩu nông sản, việc quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp cho phù hợp với
tính chất đất đai và từng loại hình sử dụng đất chưa được quan tâm đúng mức. Các
nguồn lực chưa được khai thác, thể hiện như: đất sản xuất nông nghiệp của các hộ
dân còn manh mún, phân tán; chưa hình thành được các vùng sản xuất tập trung,
chuyên môn hóa nhằm đẩy mạnh sản xuất phát triển, việc tổ chức kinh doanh dịch vụ,
chế biến nông sản chưa gắn với việc sản xuất hàng hóa, chưa có chiến lược quy
hoạch dài hạn gắn quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch phát triển nông nghiệp, đặc
biệt đối với các loại cây trồng, loại hình sử dụng đất là thế mạnh của huyện
Để hướng tới sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả, an toàn, bền vững trên địa bàn
huyện cần có những nghiên cứu đánh giá toàn diện về tiềm năng lợi thế, đồng thời
xác định những điểm yếu đang hạn chế sự phát triển nông nghiệp làm cơ sở cho các
nhà quản lý, quy hoạch sử dụng đất theo hướng công nghiệp hoá nông nghiệp nông
thôn, phù hợp với chính sách pháp triển nông nghiệp của Đảng và điều kiện cụ thể
của huyện. Đề tài “Nghiên cứu đề xuất sử dụng bền vững một số loại hình sử
dụng đất nông nghiệp phục vụ công tác quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp tại
huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương” được thực hiện nhằm góp phần bổ sung cơ sở lý
luận và thực tiễn cho định hướng sử dụng đất hợp lý, bền vững ở huyện Tứ Kỳ.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá tiềm năng, hiệu quả của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp chủ
yếu từ đó đề xuất bố trí sử dụng bền vững phục vụ công tác quy hoạch sử dụng đất
trên địa bàn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.

3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loại hình sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu, các kiểu sử dụng đất và các

điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội liên quan đến sử dụng đất và hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp trên địa bàn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được giới hạn nghiên cứu trong phạm vi đất trồng cây hàng năm với các
loại hình, các kiểu sử dụng đất chủ yếu, gồm các loại hình sử dụng đất chuyên lúa,
lúa - màu và chuyên rau màu trên địa bàn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4.1. Ý nghĩa khoa học
Trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ giữa các cây trồng, loại hình sử dụng đất
với chất lượng đất và làm rõ mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên, kinh tế- xã hội
đối với các cây trồng, loại hình sử dụng đất, từ đó làm cơ sở khoa học cho việc bố
trí hợp lý hệ thống sử dụng đất và các loại hình sử dụng đất khi xây dựng
phương án quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp cho địa bàn cấp huyện.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Cung cấp cơ sở dữ liệu cho công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông
nghiệp vừa đạt hiệu quả cao vừa đảm bảo sử dụng đất và phát triển nông nghiệp bền
vững trên địa bàn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương và mở ra các hướng nghiên cứu tiếp
theo cho các huyện khác trong tỉnh và những vùng có điều kiện tương tự.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án đã vận dụng thành công mô hình toán học GAMS, kết hợp với kết
quả đánh giá chất lượng đất, hiệu quả các loại hình sử dụng đất để giải bài toán quy
hoạch tuyến tính đa mục tiêu liên quan đến hiệu quả sử dụng đất để đề xuất hướng
sử dụng đất nông nghiệp bền vững cho một huyện điển hình của vùng đồng bằng
sông Hồng, đất chật người đông, làm cơ sở cho quá trình tái cơ cấu ngành nông
nghiệp theo hướng hiệu quả và bền vững.
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã chỉ ra lợi thế để phát triển sản xuất trồng trọt là
lực lượng lao động dồi dào và trở ngại trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội
trong sử dụng đất canh tác ở huyện Tứ Kỳ là thiếu vốn đầu tư cho sản xuất trồng trọt.

4

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở lý luận về sử dụng đất nông nghiệp bền vững
1.1.1. Đất và sử dụng đất nông nghiệp
1.1.1.1. Đất, vai trò và chức năng của đất
Tài nguyên đất được hình thành dưới tác động của các yếu tố tự nhiên và
hoạt động tích cực của con người, có ý nghĩa rất lớn và toàn diện trong cuộc sống
loài người cũng như phát triển xã hội.
Về mặt thuật ngữ, có rất nhiều “khái niệm hay quan điểm” về tài nguyên đất
và vai trò, ý nghĩa của nó đối với cuộc sống xã hội loài người. Nhìn từ góc độ thổ
nhưỡng học (Nguyễn Mười và cs., 2000) nguồn gốc ban đầu của đất (soil) là từ các
loại đá mẹ nằm trong thiên nhiên lâu đời bị phá hủy dần dần dưới tác động của các
yếu tố lý học, hóa học và sinh học. Theo Vi-li-am (dẫn theo Nguyễn Ngọc Bình,
2007) thì đất là một lớp vật thể tơi xốp trên bề mặt của hành tinh chúng ta, mà thực
vật có thể sinh trưởng được; đồng thời, các tác giả cũng đều cho rằng đất là một thể
tự nhiên, được hình thành lâu đời, do các kết quả tác động tổng hợp của 5 yếu tố: đá
mẹ, sinh vật, khí hậu, địa hình và thời gian (tuổi).
Về quan điểm sinh thái và môi trường (Lê Văn Khoa, 2000) đất là một vật
thể sống, một “vật mang” của các hệ sinh thái tồn tại trên trái đất, con người tác
động vào đất cũng chính là tác động vào các hệ sinh thái mà đất “mang” trên mình
nó. Cùng quan điểm, Vũ Thị Bình (2003), cho rằng đất là tài nguyên không tái tạo,
là vật mang của hệ sinh thái. Đất là thành phần của môi trường thiên nhiên, của sinh
quyển và có mối quan hệ mật thiết với các tài nguyên thiên nhiên khác (như nước,
thực vật, ) (Blume et al., 1998).
Theo Vũ Thị Bình (2003), đất đai là một vùng đất có ranh giới, có vị trí cụ
thể và có các thuộc tính tổng hợp của các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội như thổ
nhưỡng, khí hậu, địa hình, địa mạo, địa chất, thuỷ văn, thực vật, động vật và hoạt

5

động sản xuất của con người. Nguyễn Đức Minh (1994), cho biết đất đai là một
diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu thành của môi trường
sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó bao gồm khí hậu bề mặt, thổ nhưỡng, dạng
địa hình, mặt nước (sông, hồ, đầm, lầy ), các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với
nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, quần thể thực vật và động vật, trạng thái
định cư của con người, những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại
(san nền, hồ chứa hay đường xá, nhà cửa ).
Từ những nhận định nêu trên có thể khẳng định: Đất đai là tài nguyên không
tái tạo, là một trong những yếu tố cấu thành của hệ sinh thái trái đất, là “vật mang”
của nhiều hệ sinh thái khác - “ngôi nhà chung” của mọi sinh vật sinh sống và có
mối quan hệ mật thiết với các tài nguyên thiên nhiên khác, không chỉ là tư liệu sản
xuất nông lâm nghiệp chủ yếu mà còn là địa bàn lãnh thổ để phân bố các ngành
kinh tế quốc dân, nơi cư trú, sinh hoạt của con người, góp phần duy trì và làm cho
sự sống của con người thêm thịnh vượng.
Giá trị của tài nguyên thiên nhiên, trong đó có đất, được khẳng định trong
toàn bộ quá trình phát triển lực lượng sản xuất và sản xuất của cải vật chất. Theo
Các Mác: Công nhân không thể tạo ra được cái gì khi thiếu thiên nhiên, thiếu thế
giới cảm nhận bên ngoài. Đây chỉ là phương tiện mà công nhân thực hiện lao động
của mình, triển khai hoạt động, nhờ đó lao động sẽ sản xuất ra sản phẩm (Kinh tế
học chính trị Mác-Lênin, 2001). Trong các nghiên cứu của Võ Tử Can (2004), Đoàn
Công Quỳ (2006) và một số người khác, các tác giả đều có đồng quan điểm với
nghiên cứu đúc kết “Lao động chỉ là cha, còn đất là mẹ sinh sản ra mọi của cải vật
chất” hay theo Phan Huy Chú “Của báu của một nước không có gì bằng đất đai.
Nhân dân và của cải đều do đấy mà ra” (dẫn theo Nguyễn Dũng Tiến, 2009).
Vai trò của đất được thể hiện thông qua các chức năng: là môi trường để các
loại cây trồng sinh trưởng và phát triển, địa bàn cho các quá trình biến đổi và phân
hủy các phế thải hữu cơ và khoáng, nơi cư trú cho các động vật, thực vật, vi sinh
vật, nấm…, địa bàn cho các công trình xây dựng, địa bàn để lọc nước và cung cấp
nước (Lê Văn Khoa, 1993). Với đất đai, vai trò được nhìn nhận là môi trường sống,


6
cơ sở của quá trình sản xuất, hình thành cân bằng sinh thái, kho tàng lưu trữ và cung
cấp nguồn nước, không gian của sự sống, trung gian để bảo tồn, bảo tàng lịch sử và
là vật mang sự sống (Đoàn Công Quỳ, 2006).
Theo Nguyễn Mười và cs. (2000), đối với các công trình xây dựng, đất chỉ là
nguyên liệu chịu lực, còn trong sản xuất nông nghiệp đất là cơ sở sinh sống và phát
triển cây trồng. Trong các điều kiện vật chất cần thiết, nhiều tác giả đều cho rằng
đất đai là điều kiện đầu tiên, là cơ sở thiên nhiên của mọi quá trình sản xuất, nơi tìm
được công cụ, nguyên liệu lao động, khoảng không gian lãnh thổ cần thiết đối với
mọi ngành kinh tế và là nơi sinh tồn, hoạt động của con người (Nguyễn Đức Minh,
1994; Đoàn Công Quỳ, 2006).
Đất có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ đối với sản xuất nông lâm
nghiệp mà còn với nhiều ngành khác như xây dựng, giao thông, ngư nghiệp, diêm
nghiệp Do tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế quốc dân, đất là tài sản bất
khả xâm phạm của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, vai trò và ý nghĩa (chưa đề cập đến giá trị kinh tế) của đất đai đối
với từng ngành rất khác nhau. Đối với các ngành phi nông nghiệp, đất đai giữ vai
trò thụ động với chức năng là cơ sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao
động, là kho tàng dự trữ trong lòng đất (khoáng sản). Quá trình sản xuất và sản
phẩm tạo ra không phụ thuộc vào đặc điểm và các tính chất của đất. Trong khi đối
với các ngành nông - lâm nghiệp, đất đai là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất, là
điều kiện vật chất - cơ sở không gian, đồng thời là đối tượng lao động (luôn chịu tác
động trong quá trình sản xuất như cày, bừa, xới xáo ) và công cụ hay phương tiện
lao động (sử dụng để trồng trọt, chăn nuôi ). Quá trình sản xuất nông - lâm nghiệp
luôn liên quan chặt chẽ với độ phì nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên của đất
(Nguyễn Đức Minh, 1994; Võ Tử Can, 1998).
Với vai trò quan trọng như vậy, nhưng đất lại rất có hạn. Toàn lục địa diện
tích đóng băng vĩnh cửu (1.360 triệu ha), chỉ có 13.340 triệu ha, trong đó đất có khả
năng canh tác là 3.030 triệu ha (hiện có 1.475 triệu ha), 3.200 triệu ha đất đồng cỏ


7
chăn thả, 4.050 triệu ha đất rừng, các loại đất khác có 4.615 triệu ha. Mặt khác, diện
tích đất tự nhiên và đất canh tác trên đầu người càng giảm do áp lực dân số, sự phát
triển đô thị, công nghiệp và cơ sở hạ tầng. Bình quân đất canh tác trên đầu người
của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam hiện chỉ còn dưới 0,15 ha (Lê Thái Bạt và
Luyện Hữu Cử, 2012).
Chức năng của đất là môi trường giữ năng lượng ánh sáng mặt trời, giữ nước
mưa, cung cấp và dự trữ chất dinh dưỡng, nước cho cây, cung cấp cho cây khả năng
bám giữ và hút chất dinh dưỡng, cung cấp không gian cho cây tạo ra diện tích lá,
đồng hoá CO
2
, nước, đạm khí trời và các chất dinh dưỡng khoáng (N, P và 18
nguyên tố khác) cùng với phân bón (N, P, K) cộng với phân gia súc và lá rụng… bổ
sung vào đất, các vật chất sống có entropi thấp, các sản phẩm quang hơp có entropi
thấp có thể được thu hoạch và nếu qua bảo quản chế biến có thể trở thành thức ăn
cho người, gia súc hoặc nguyên liệu thô cho công nghiệp.
Mặc dù có nhiều loại đất khác nhau nhưng đất nhiệt đới có đặc điểm chung,
nhất là vùng ẩm, nhiều loại đất có độ phì tự nhiên thấp. Sự rửa trôi khoáng chất tạo
nên tầng đế cày vững chắc ngăn cản việc tiêu nước và sự sinh trưởng của rễ. Hàm
lượng hữu cơ trong đất thấp do chất hữu cơ bị phân giải nhanh vào đầu mùa mưa,
cấu trúc của đất kém, đất không được phục hồi dưới điều kiện thâm canh, làm tăng
rủi ro xói mòn do gió và do nước, đặc biệt khi không còn thảm thực vật che phủ
(Nguyễn Tất Cảnh và cs., 2008).
Những điều trên cho thấy tài nguyên đất là một bộ phận quan trọng của tiềm
năng sản xuất, là sức sản xuất thiên nhiên của xã hội. Chính vì vậy, việc sử dụng đất
phải được dựa trên những cơ sở khoa học, hợp lý và mang lại hiệu quả.
1.1.1.2. Vấn đề sử dụng đất
Từ đầu thế kỷ 20, đến giữa thế kỷ 21, việc phát triển công nghiệp và khoa
học kỹ thuật đã đem lại những thành tựu vượt bậc làm thay đổi hẳn bộ mặt trái đất
và cuộc sống của loài người. Dưới tác động của con người nhiều vùng đất đã thay

đổi khác xưa, đồng thời cũng là nguyên nhân gây nên những hậu quả nghiêm trọng
về nhiều mặt, mà trước hết là ô nhiễm môi trường với khối lượng chất thải khổng lồ

8
của các khu, cụm công nghiệp và khu tập trung dân cư. Theo thống kê, hàng năm có
khoảng gần 12,0 triệu ha rừng nhiệt đới bị tàn phá, nhiều nhất là ở châu Mỹ La Tinh
và châu Á (Braxin hàng năm bị mất 1,7 triệu ha, Ấn Độ 1,5 triệu ha, Inđônêxia
900.000 ha và Thái Lan gần 400.000 ha). Ngoài ra, việc tàn phá rừng đã kéo theo sự
huỷ diệt của nhiều loài động vật, thực vật và làm mất dần tính đa dạng sinh học của
tự nhiên. Thế cân bằng sinh thái bị phá vỡ, hàng triệu ha đất canh tác bị mất khả
năng canh tác. Thành phần khí quyển thay đổi làm thay đổi cân bằng nhiệt lượng,
khí CO
2
đã gây ra những trận mưa a xít ở nhiều nơi, chất chlorofluoro cacbon
(CFC) tăng lên đã gây hiệu ứng nhà kính làm thủng tầng ôzôn có khả năng cản trở
các tia tử ngoại và bảo vệ sự sống trên trái đất (Ferrero and Nigrelli, 1998; Phạm
Đình Phê và Cao Thị Lan, 2001; Nguyễn Đình Bộ, 2010).
Người ta ước tính có đến 15% tổng diện tích đất trên trái đất bị thoái hoá do
những hành động của con người gây ra. Ít nhất tới nay đã có khoảng 66 triệu ha đất
được tưới tiêu đã bị nhiễm mặn thứ cấp, hàng năm có từ 6-7 triệu ha đất nông nghiệp
không sản xuất được do bị xói mòn (tỷ lệ này lớn hơn 2 lần so với 3 thế kỷ trước).
Ngoài ra mỗi năm còn thêm gần 2 triệu ha đất ngập úng, chua, mặn làm giảm sức sản
xuất. Thoái hoá đất đang ngày càng trầm trọng và lan rộng trên toàn thế giới (Trần
Thị Áng, 1995; Trần Kông Tấu, 2002; Phan Thị Trúc Giang, 2008).
Báo cáo nghiên cứu về tài nguyên đất cũng đã đánh giá việc áp dụng các biện
pháp thâm canh như: sử dụng phân bón, quản lý, bảo vệ không hợp lý sẽ là nguyên
nhân dẫn đến suy giảm môi trường đất cũng như chất lượng môi trường tại khu vực
sản xuất (Lê Thạc Cán, 1994; Nguyễn Đình Bộ, 2010).
Theo kết quả nghiên cứu của FAO (1990, 1995), dự trữ đất canh tác ở các
nước đang phát triển còn khá lớn, song phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở châu

Phi và các nước Mỹ La tinh, còn diện tích đất canh tác ở các nước châu Á gần như đã
được khai thác hết.
Vì vậy, trước áp lực tăng dân số, trong khi diện tích đất đai có hạn, nhất là đất
nông nghiệp tăng chậm, thì nhu cầu đáp ứng về lương thực, thực phẩm sẽ trở nên cấp
thiết trong thế kỷ 21.

9
1.1.1.3. Loại hình sử dụng đất
Trong đánh giá đất, FAO đã đưa ra khái niệm về loại hình sử dụng đất, đưa
việc xác định loại hình sử dụng đất vào nội dung các bước đánh giá đất và coi loại
hình sử dụng đất là một đối tượng của quá trình đánh giá đất.
Loại hình sử dụng đất (Land Use Type - LUT) là một cây trồng, một tổ
hợp cây trồng hoặc một phương thức canh tác trên một vạt đất với những
phương thức quản lý trong điều kiện kinh tế - xã hội và kỹ thuật được xác định
(FAO, 1976, 1985).
Yêu cầu của các LUT là những đòi hỏi về đặc điểm và tính chất đất đai để
bảo vệ mỗi LUT phát triển bền vững. Đó là yêu cầu sinh trưởng, quản lý, chăm sóc,
các yêu cầu bảo vệ đất và môi trường (FAO, 1988).
Có thể liệt kê một số LUT phổ biến trong nông nghiệp hiện nay như:
- Chuyên trồng lúa: có thể canh tác nhờ nước mưa hay có tưới chủ động,
trồng 1 vụ, 2 vụ hay 3 vụ trong năm;
- Chuyên trồng màu: thường áp dụng cho các vùng đất cao thiếu nước tưới,
đất có thành phần cơ giới nhẹ;
- Kết hợp trồng lúa với cây trồng cạn, thực hiện những công thức luân canh
nhiều vụ trong năm nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu cuộc
sống con người, đồng thời còn có tác dụng cải tạo độ phì của đất. Cũng có thể nhằm
khắc phục những hạn chế về điều kiện tưới không chủ động một số tháng trong
năm, nhất là vào mùa khô.
- Trồng cỏ chăn nuôi;
- Nuôi trồng thủy sản;

- Trồng rừng (FAO, 1988).
1.1.1.4. Sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới và ở Việt Nam
a) Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
Trên thế giới, diện tích đất có khả năng canh tác khoảng 3.190 triệu ha, tập
trung nhiều ở Châu Phi 734 triệu ha, Nam Mỹ 681 triệu ha, Châu Á 627 triệu ha
(Nguyễn Quang Học, 2000; Nguyễn Đình Bộ, 2010).

10

Bảng 1.1. Tiềm năng đất đai và diện tích đất canh tác trên thế giới
ĐVT: triệu ha
Lục địa Tổng diện tích
Diện tích có khả
năng canh tác
Diện tích đất
canh tác
1. Châu Phi
2. Châu Á
3. Châu Đại Dương

4. Châu Âu
5. Bắc Mỹ
6. Nam Mỹ
7. Liên xô (cũ)
2.964
2.679
843
473
2.138
1.753

2.227
734
627
153
174
465
681
356
185
451
49
140
274
142
233
Tổng cộng

13.077 3.190 1.474
Nguồn: FAOSTAT (2004).
Ở khu vực Đông Nam Á: Dân số ngày một tăng, năm 1995 là 413 triệu
người, đến năm 2010 là 530 triệu người. Với tổng diện tích tự nhiên là 347 triệu ha,
đến năm 1997 diện tích đất trồng trọt được là 133 triệu ha, đã sử dụng vào trồng trọt
66 triệu ha, còn có khả năng trồng trọt 67 triệu ha chiếm 50,3%.
Bảng 1.2. Tiềm năng đất nông nghiệp của một số nước ở Đông Nam Á


Các nước
Dân số
(triệu người)
Tổng

diện
tích
Khả năng
trồng trọt
được
Hiện
đang
trồng
Còn lại
Diện
tích
Tỷ lệ
(%)
Năm
1995
Năm
2010
(Triệu ha)
1. Việt Nam
2. Inđônêxia
3.Thái Lan
4. Philippin
5. Lào
6. Campuchia
Tổng

74
195
60
70

5
9
413
87
247
72
92
7
15
530
33
191
51
30
24
18
347
14
58
27
17
7
10
133
8
23
19
12
1
3

66
6
35
8
5
6
7
67
42,8
60,3
29,6
29,4
85,7
70,0
50,3
Nguồn: FAO (2004).

11

Trước đây, khi dân số còn ít thì việc khai thác đất đai để đáp ứng nhu cầu của
con người còn dễ dàng, chưa có những ảnh hưởng lớn đến tài nguyên đất đai. Trong
vài thập kỷ gần đây, dân số không ngừng tăng nhanh qua các năm, đặc biệt là ở các
nước đang phát triển, thì vấn đề đảm bảo an ninh lương thực đã trở thành sức ép rất
lớn đối với đất đai. Quỹ đất nông nghiệp ngày càng cạn kiệt do đó để đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng, con người phải tiếp tục khai phá các vùng đất không thích hợp
cho sản xuất. Nạn phá rừng đã gây ra các quá trình thoái hoá, rửa trôi và phá hoại đất
một cách nghiêm trọng (Lê Văn Khoa và cs., 2000; Nguyễn Đình Bộ, 2010).
Bảng 1.3. Biến động về dân số và diện tích đất canh tác
trên thế giới (1960- 2050)
Năm

Trên phạm vi thế giới Diện tích đất canh
tác/người (ha/người)
Số dân (tr. người) Đất canh tác (tr.ha)
1960
1970
1980
1990
1995
2000
2010
2020*
2025*
2030*
2040*
2050*
3.022
3.696
4.440
5.266
5.666
6.055
6.795
7.502
8.300
8112
8.577
8.909
1.380
1.425
1.500

1.510
1.513
1.540
1.570
1.602
1.650
1.695
1.730
1.755
0,46
0,38
0,34
0,29
0,27
0,25
0,23
0,21
0,20
0,21
0,20
0,20
Nguồn: FAO (2004, 2005). *: Số liệu dự kiến

Kết quả điều tra 2005 của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP)
và Trung tâm Thông tin tài nguyên đất Quốc tế (ISRIC) đã chỉ ra rằng: tổng diện
tích đất đai của thế giới là 13,4 tỉ ha, thì có khoảng 2 tỉ ha đã bị thoái hoá ở các mức

12

độ khác nhau. Trong đó diện tích đất thoái hoá ở châu Á và châu Phi là 1,24 tỉ ha

(chiếm khoảng 62,0% tổng diện tích đất thoái hoá của thế giới). Vấn đề này đã khiến
cho sức sản xuất và bảo vệ môi trường ở 2 châu lục trên trở thành cấp bách và nan giải
(Lal and Kimble, 1998; Nguyễn Đình Bộ, 2010).
Theo tổ chức nông lương thế giới, năm 1960 diện tích đất canh tác trên toàn
thế giới là 1.380 triệu ha, chiếm 10% tổng diện tích tự nhiên, đến năm 2010 có
1.570 triệu ha (tăng 190 triệu ha), đến năm 2050 là 1.755 triệu ha (tăng 185 triệu ha
so với năm 2010). Trong khi dân số thế giới tăng 68% (từ 3.022 triệu người, năm
1960 lên 6.795 triệu người, năm 2010) và 8.909 triệu người vào năm 2050. Từ đó
dẫn đến bình quân diện tích đất canh tác từ 4.600 m
2
/người năm 1960 giảm xuống
còn xấp xỉ 2000 m
2
/người năm 2050 (Nguyễn Thanh Trà, 1995; Aran, 1998; Trần
Mạnh Trường, 2004; Nguyễn Đình Bộ, 2010).
Đất được hình thành, tiến hoá và luôn thay đổi theo điều kiện thời tiết, khí
hậu và hoạt động của con người. Do nắng, mưa, lũ lụt…, đặc biệt dưới tác động của
con người, nhiều miền, nhiều vùng đất đã thay đổi khác so với trước đây. Vì vậy
việc sử dụng đất là hệ thống các biện pháp điều hoà mối quan hệ giữa người và đất
trong tổ hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác với môi trường. Căn cứ vào nhu
cầu thị trường sẽ phát hiện, quyết định phương hướng chung và mục tiêu sử dụng
hợp lý tài nguyên đất đai, phát huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt tới hiệu quả
sinh thái- kinh tế và xã hội cao nhất. Vì vậy, sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt động
kinh tế của nhân loại. Trong mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định, việc sử
dụng đất theo yêu cầu của sản xuất và đời sống cần căn cứ vào các thuộc tính tự
nhiên của đất đai (Trần Kông Tấu, 2002).
b) Tình hình sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam
Ở Việt Nam chính sách ruộng đất luôn gắn với từng giai đoạn lịch sử nhất
định. Thời kỳ phong kiến, thuộc địa ruộng đất tập trung chủ yếu vào tay địa chủ,
thực dân còn nông dân chỉ được sở hữu một phần, vào những năm 1930, ở vùng

đồng bằng sông Hồng có 6,5 triệu dân ở nông thôn, đất công chiếm 230.000 ha, tức
1/5 diện tích đất nông nghiệp. Thời kỳ cải cách ruộng đất và tập thể hoá, giai đoạn

13

1953 đến năm 1958, ở miền Bắc, ruộng đất của các tầng lớp “bóc lột” (địa chủ, phú
nông, thực dân Pháp, nhà thờ Cơ đốc) và đất công được chia cho các tầng lớp nông dân
lao động (trung nông, bần nông, cố nông), diện tích 810.000 ha chia cho hơn 2 triệu gia
đình. Sau năm 1958, Nhà nước Việt Nam phát động phong trào tập thể hoá nền kinh tế
nông thôn qua các hợp tác xã Nông nghiệp, có 85,8% các hộ nông dân được tập hợp
trong các hợp tác xã. Từ đó, đất đai là tài sản của tập thể, nông dân trở thành những
người làm công ăn lương của các hợp tác xã. Tuy nhiên, vẫn còn một tỷ lệ trung bình
5% đất canh tác (gọi là đất 5%) dùng để chia cho các hộ nông dân sử dụng để canh tác
riêng, (Vũ Thị Bình và cs., 2005; Nguyễn Đình Bộ, 2010).
Đây là thời kỳ sản xuất nông nghiệp theo cơ chế bao cấp, hiệu quả kém, thiếu
đói lương thực trầm trọng… Để khắc phục tình trạng đó Nhà nước đã có Chỉ thị 100
(năm 1981) và Chỉ thị khoán 10 (1988) giao quyền tự chủ về đất đai cho các hộ nông
dân trực tiếp quản lý, sử dụng. Đồng thời ban hành Luật Đất đai năm 1993 quy định
mức độ tối đa về thời gian giao đất đối với đất trồng cây hàng năm là 20 năm, đối với
cây lâu năm là 50 năm. Quyền sử dụng đất giao cho nông dân, Nhà nước vẫn giữ
quyền sở hữu đất đai về mặt luật pháp (Vũ Thị Bình và Quyền Đình Hà, 2003).
Bảng 1.4. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp và đất canh tác ở Việt Nam
Chỉ tiêu ĐVT
Năm
1994 2000 2010
1. Đất nông nghiệp
- Đất canh tác
- Đất lúa
1000 ha
1000 ha

1000 ha

7.367,20
5.463,80
4.230,10
8.072,60
5.630,00
4.230,00
8.821,50
5.876,40
<4.351,00
2. Diện tích gieo trồng
- Hệ số sử dụng ruộng
đất lần/năm
1000 ha
lần
8.970,80
1,64
>11.000
1,95
>13.500
2,3
3. Diện tích/khẩu
- Đất nông nghiệp
- Đất canh tác

m
2
m
2



1.014,00
752,00

984,50
686,50

882,20
587,60
Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2000.

14

Việt Nam là quốc gia có truyền thống trồng lúa nước trong khu vực và trên
thế giới. Đất trồng lúa của nước ta được hình thành trải qua hàng nghìn năm với
công sức của bao thế hệ người dân Việt Nam. Hầu hết đất trồng lúa của nước ta là
đất phù sa thuộc 2 vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long, là loại
đất tốt của thế giới. Hiện nay diện tích đất trồng lúa cả nước có khoảng 4,1 triệu ha,
ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của 70% dân số cả nước. Thực tế trong 10 năm
qua, đã có gần 350 nghìn ha đất lúa (đất lúa nước khoảng 270 nghìn ha) được
chuyển cho các mục đích khác, trong đó nhiều diện tích đất lúa thuộc khu vực
đồng bằng là dạng “bờ xôi ruộng mật” đã chuyển sang để phát triển đô thị, khu
công nghiệp và các cơ sở sản xuất phi nông nghiệp khác. Khi diện tích đất lúa đã
chuyển sang đất phi nông nghiệp thì khả năng sử dụng trở lại trồng lúa là rất khó,
trong khi đó khả năng khai hoang, mở rộng diện tích đất trồng lúa để bù đắp vào
diện tích đất lúa mất đi là rất hạn chế và tốn kém (Chính phủ, 2011).
Để đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa
và hiện đại hóa, thì việc chuyển đất trồng lúa cho các mục đích phi nông nghiệp sẽ
không tránh khỏi. Theo tính toán đến năm 2020 sẽ có khoảng 300 nghìn ha đất

trồng lúa sẽ chuyển sang các mục đích khác, sau năm 2020 và xa hơn, đất lúa sẽ
tiếp tục bị giảm trước áp lực gia tăng dân số, phát triển kinh tế - xã hội, tác động
của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và nhiều nguyên nhân khác.
Dự báo đến năm 2030 dân số nước ta khoảng 110 - 115 triệu người và sẽ
dần đi vào ổn định khoảng 120 triệu người. Theo dự tính của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia (bao gồm ăn, dự trữ,
chăn nuôi, giống, chế biến, hao hụt,…) trước mắt cũng như lâu dài, nước ta cần
phải duy trì ổn định quỹ đất trồng lúa khoảng 3,8 triệu ha, diện tích gieo trồng cần
tối thiểu khoảng 7,3 triệu ha, với hệ số sử dụng đất 1,9 - 2 lần, năng suất lúa bình
quân đạt 64 tạ/ha, tổng lương thực cho các nhu cầu cần khoảng 47 triệu tấn, đủ
lương thực cho 120 triệu dân với mức bình quân trên 350 kg/người/năm (Chính
phủ, 2011).

×