VAI TRÒ CỦA LIÊN XÔ TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA
NHÂN DÂN VIỆT NAM
(1954-1975)
Môn học: Lịch sử Quan hệ Đối ngoại Việt Nam
Thực hiện: Nhóm 4-Quốc tế học.K53
1
MỤC LỤC
1. Mở đầu.
2. Vai trò của Liên Xô trong giai đoạn 1954-cuối năm 1960.
3. Vai trò của Liên Xô trong giai đoạn cuối năm 1960-1965.
4. Vai trò của Liên Xô trong giai đoạn từ 1965-1/1973.
5. Vai trò của Liên Xô trong giai đoạn từ tháng 1/1973-4/1975.
6. Kết luận.
* Tài liệu tham khảo
** Danh sách nhóm và đánh giá.
2
1. Mở đầu:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam đã kết thúc hơn 30
năm nhưng có rất nhiều vấn đề xung quanh giai đoạn lịch sử này mà ngày
nay chúng ta vẫn cần phải bàn bạc và thảo luận. Một trong các vấn đề ấy là
vai trò không thể phủ nhận của Liên Xô trong việc ủng hộ và giúp đỡ quân
dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước làm nên một kết
thúc vẻ vang cho toàn dân tộc, đưa nước Việt Nam độc lập hoàn toàn, Bắc
Nam xum họp một nhà. Theo đánh giá của một số học giả nước ngoài, nhìn
chung, sự giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam trong giai đoạn này thể
hiện trên một số khía cạnh chủ yếu sau đây. Thứ nhất, mặc dù giúp đỡ Việt
Nam, Liên Xô vẫn không muốn “hy sinh” chiến lược hoà dịu của họ trong
quan hệ với Hoa Kỳ. Thứ hai, Liên Xô sẵn sàng đáp ứng tất cả nhu cầu cần
thiết của Việt Nam nhằm chống lại sự tấn công ngày một mở rộng và ác liệt
của đế quốc Mỹ. Thứ ba, Liên Xô mong muốn thực hiện đàm phán để chấm
dứt cuộc chiến hơn là ngày một dấn sâu vào cuộc chiến tranh đó. Nói một
cách khác, với tư cách là thành trì của phe Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) và
một cực đối trọng với Mỹ, Liên Xô mong muốn thông qua cuộc chiến tranh
này thực hiện những mục đích đối ngoại có tính toàn cầu, chiến lược của
mình.
Để hiểu rõ hơn vai trò của Liên Xô trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
từ năm 1954 (sau khi Hiệp định Geneve được ký kết, Việt Nam tạm thời bị
chia cắt làm hai miền) cho đến khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng
năm 1975, vai trò ấy có thể được xem xét trong 4 giai đoạn chính: 1954-
cuối năm 1960; cuối năm 1960-1964; 1964-1/1973; 1/1973-4/1975.
2. Vai trò của Liên Xô trong giai đoạn 1954-cuối năm 1960:
2.1.Hoàn cảnh lịch sử:
Ngày 30/01/1950, chính phủ Liên Xô công nhận nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa. Từ đây, nhân dân Việt Nam nhận được sự giúp đỡ và ủng hộ
to lớn của chính phủ và nhân dân Liên Xô.
Trong giai đoạn 1954 từ khi hiệp định Geneve được ký kết, tình hình
thế giới, tình hình Việt Nam có rất nhiều thay đổi. Trên thế giới, chiến tranh
lạnh lan rộng và có chiều hướng căng thẳng trên toàn thế giới. Phong trào
giải phóng dân tộc lên cao mạnh mẽ ở khu vực Mỹ - La Tinh ( 1960 được
coi là “năm Châu Phi” khi có 17 quốc gia giành độc lập. Chủ nghĩa thực dân
bị lên án, suy yếu, tinh thần đó thúc đẩy các nước liên kết lại.Ở Liên Xô và
3
các nước Đông Âu, nền kinh tế đang được khôi phục. Các kế hoạch 5 năm
được hoàn thành với tinh thần cao. Liên Xô sản xuất thành công bom
nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền của Mỹ. Ảnh hưởng và uy tín của các nước
XHCN ngày càng lên cao.
Ở Đông Dương, uy thế của Mỹ lớn mạnh, Pháp tỏ ra yếu kém, mâu
thuẫn Mỹ-Pháp trở nên rõ rệt. Ở Việt Nam, sau hiệp đinh Geneve, Việt Nam
bị chia cắt thành 2 miền Nam–Bắc, gặp nhiều khó khăn và tổn thất sau khi
cuộc kháng chiến chống Pháp qua đi. Miền Bắc tuy được độc lập nhưng phải
khắc phục những hậu quả nặng nề của cuộc kháng chiến chống Pháp và phát
triển kinh tế làm hậu phương cho miền Nam. Miền Nam tiếp tục công cuộc
kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đặc
biệt trong giai đoạn này, các thế lực xâm lược đang lăm le vào xâm lược đất
nước. Ngay khi Pháp thất thế, Mỹ đã lên nắm chính quyền Sai Gòn, con bài
của Mỹ là Ngô Đình Diệm. Năm 1955 Diệm tuyên bố thành lập Việt Nam
cộng hòa, viện trợ tới 80% cho chính quyền Sài Gòn, phá vỡ hiệp định
Geneve và chính thức xâm lược Việt Nam.
2.2.Vai trò của Liên Xô:
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Liên Xô đã ủng
hộ chủ trương và đường lối khôi phục, xây dựng miền Bắc Việt Nam. Tuy
nhiên, quan hệ này lại không đậm đà bằng quan hệ với các nước khác.
Ví dụ: ngày 3/2/1950, Liên Xô mới đặt quan hệ ngoại giao với
Inđônêxia (sau Việt Nam 3 ngày), song tháng 1/1953 Liên Xô đã cử đại sứ
đi Giacacta, trong khi đó mãi đến gần 2 năm sau tức là ngày 4/11/1954, Liên
Xô mới cử Lavraschev-đại sứ đầu tiên của Liên Xô đến Hà Nội. Tổng bí thư
Khrushev và Boulganin đã đi thăm Ấn Độ, Miến Điện và Apganistan vào
tháng12/1955 và đã 2 lần đi thăm Trung Quốc (vào tháng 8/1958 và tháng
10/1959), song không hề đi thăm Việt Nam. Đoàn đại biểu Xô Viết tối cao
Liên Xô do chủ tịch Vôrôsilốp dẫn đầu đi thăm Inđônêxia trước rồi mới đến
Việt Nam (tháng 5/1957). Bộ trưởng quốc phòng Liên Xô cũng đã đi thăm
Ấn Độ và Miến Điện (2/1957), song vẫn không đi thăm Việt Nam. Hội hữu
nghị Việt Xô được thành lập từ tháng 3/1950, nhưng hội hữu nghị Xô Việt
mãi đến ngày 31/7/1958 mới được thành lập.
Về kinh tế, biểu hiện cụ thể là Liên Xô đã giúp Việt Nam thực hiện kế
hoạch 3 năm khôi phục kinh tế 1955-1957 và kế hoạch 3 năm phát triển kinh
tế và văn hoá 1958-1960. Theo Hiệp định ký ngày 18/7/1955, Liên Xô đã
viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 40 triệu rúp để xây dựng và khôi phục
146 xí nghiệp công trình công nghiệp và cơ quan thuộc các ngành cơ khí,
than, điện lực và công nghiệp nhẹ. Tháng 3/1959, Liên Xô cho Việt Nam
4
vay 100 triệu rúp để thực hiện kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế nói trên.
Ngoài ra, Liên Xô còn giúp Việt Nam xây dựng 21 đài khí tượng thuỷ văn,
156 trạm thuỷ văn các cấp, cho Việt Nam vay 350 triệu rúp để mua trang
thiết bị máy móc và xây dựng một số nông trường, trồng cây nhiệt đới theo
hiệp định 14/6/1960. Trong thời gian từ 1955-1960, Liên Xô đã cử 1547
chuyên gia các ngành sang công tác tại Việt Nam và nhận 420 thực tập sinh
và 1267 sinh viên Vịêt Nam sang học tập tại Liên Xô. Tuy nhiên, sự giúp đỡ
của Liên Xô cho Việt Nam so với các nước không phải XHCN ở châu Á là
khá khiêm tốn.
Tuy nhiên, trong thái độ của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống
Mỹ có một số biểu hiện sau đây:
Thứ nhất, Liên Xô chủ trương giữ nguyên trạng ở miền Nam và chủ
trương hoà bình để thi hành hiệp định Geneve. Liên Xô muốn Việt Nam
phấn đấu giành thắng lợi trong xây dựng miền Bắc để động viên và thúc đẩy
đấu tranh chính trị ở miền Nam, giải quyết vấn đề miền Nam bằng thương
lượng, bằng con đường hoà bình. Do vậy, Liên Xô ít đề cập đến đấu tranh vũ
trang và đấu tranh chính trị ở miền Nam. Các phương tiện thông tin đại
chúng của Liên Xô rất ít đưa tin về thắng lợi quân sự của nhân dân miền
Nam và cũng không lên án thẳng chính quyền Mỹ trong các hoạt động ở
miền Nam.
Lý do Liên Xô có thái độ trên đây theo Đảng Lao động Việt Nam là
sau khi Stalin mất, Khrushev lên thay đã đi vào con đường xét lại. Năm
1956, tại Đại hội lần thứ XX, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đưa ra đường lối
“cùng tồn tại hoà bình”, “quá độ hoà bình”, “thi đua hoà bình” và chương
trình đầy tham vọng “đuổi kịp và vượt Mỹ” về sản xuất sản phẩm tính theo
đầu người trong thời gian ngắn nhất”. Vì mục tiêu và lợi ích của mình, Liên
Xô chủ trương hoà hoãn với chủ nghĩa đế quốc nhất là đế quốc Mỹ, coi đó là
nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của Mỹ và
Tây phương và giữ nguyên trạng của châu Âu để tạo ra những điều kiện
quốc tế thuận lợi cho xây dựng CNXH ở Liên Xô. Liên Xô e ngại phong trào
giải phóng dân tộc sẽ như “đốm lửa cháy rừng”, cản trở hoà hoãn, ảnh
hưởng đến mục tiêu chiến lược của Liên Xô.
Thứ hai, do trọng tâm chiến lược mới của Liên Xô là nhằm củng cố
khối XHCN ở Đông Âu, mà biểu hiện rõ nhất là việc thành lập khối SEV
năm 1949 và tổ chức Hiệp ước Varsava 1955, đòi các nước đế quốc giữ
nguyên trạng châu Âu, thực hiện hoà hoãn Đông-Tây, đẩy lùi chiến tranh
lạnh, nên Liên Xô tránh những đối đầu căng thẳng với Mỹ và các nước
phương Tây.
Có thể nói trong giai đoạn này Liên Xô có vai trò hết sức quan trọng
trong việc giúp Miền Bắc phục hồi kinh tế. Những sự viện trợ của Liên Xô
5
trong giai đoạn này là hết sức cần thiết và kịp thời cho Miền Bắc khi Miền
Bắc vừa bị tổn thất nặng nề trong kháng chiến chống Mỹ.
Nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô mà Miền Bắc đã đạt được một số thành
tựu sau:
Trong 3 năm khôi phục nền kinh tế, nền kinh tế của Miền Bắc được
phục hồi, phát triển với sự hiện diện của nhiều thành phần kinh tế. Trên 10
vạn người thất nghiệp đã có việc làm, đời sống nhân dân được ổn định.
Tuy nhiên, sự giúp đỡ của Liên Xô chủ yếu về mặt kinh tế và chủ yếu
hỗ trợ Miền Bắc. Còn đối với Miền Nam, giai đoạn này chưa thể hiện rõ lắm
vai trò của Liên Xô do Liên Xô chưa có những hành động cụ thể đối với
Miền Nam do còn e ngại tình hình thế giới và ảnh hưởng của Liên Xô.
Có thể nói vai trò của Liên Xô trong giai đoạn này như vị cứu tinh cho
Miền Bắc khi Miền Bắc phải đối mặt với những khó khăn nặng nề.
3.V ai trò của Liên Xô trong giai đoạn cuối năm 1960-1965 :
3.1.Hoàn cảnh lịch sử:
Trong giai đoạn tiếp theo này tình hình thế giới, Liên Xô và Việt Nam
có nhiều bước thay đổi.
Trên thế giới, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ngày càng lên
cao ở Châu Phi, Châu Á và Mỹ - La tinh. Tình hình chủ nghĩa thúc dân thì
ngày càng lâm vào khó khăn và sụp đổ ở nhiều nơi. Hệ thống chủ nghĩa thực
dân đang bị phá vỡ.
Tại Liên Xô và Đông Âu, hình thức kinh tế tập trung và kế hoạch hóa
đang phát huy các mặt tích cực của nó. Liên Xô tập trung mọi nguồn lực, bất
chấp hậu quả sau này, cố đạt cho bằng được những chỉ tiêu kinh tế, chính trị
được cho là ưu thế của hệ thống xã hội chủ nghĩa để tranh đua với Hoa Kỳ
vai trò lãnh đạo thế giới. Việc phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên
của loài người (Sputnik 1) và đưa người đầu tiên vào vũ trụ (Yuri Gagarin)
là biểu tượng của một siêu cường đang thắng thế. Liên Xô và Hoa Kỳ - hai
kẻ thù tư tưởng-sẵn sàng đối chọi nhau ở mọi vấn đề quốc tế.
Thập niên 1960 cũng là thời kỳ nở rộ của khối XHCN và đã xuất hiện
mầm mống chia rẽ giữa hai cường quốc hàng đầu trong khối là Liên Xô và
Trung Quốc về các vấn đề tư tưởng, đường lối cách mạng. Nhất là từ khi
Liên Xô rút hết các cố vấn khỏi Trung Quốc sau năm 1960.
Trong giai đoạn 1960–1964 là giai đoạn miền Bắc công khai hậu
thuẫn Cộng sản miền Nam và bắt đầu đem quân thâm nhập miền Nam. Các
lực lượng Cộng sản miền Nam thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền
6