Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.73 KB, 24 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc - Giá trị lý luận và thực tiễn

Học viên: Nguyễn Thành Hưng
Mã sinh viên:2155360019
Lớp: Chính Sách Cơng K41

HÀ NỘI- 2021


1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................................ 2
NỘI DUNG ..................................................................................................................................................... 5
1.Cơ sở lý luận “Tư Tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc ” ............................................................................... 5
2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc:..................................................................... 6
2.1 Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trong chủ nghĩa Mác-Lênin
.............................................................................................................................................................. 6
2.2 Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người vào điều kiện các nước thuộc địa. ..................................... 7
2.3 Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc:.................................................................................. 8
2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản ...... 10
2.5. Con đường giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng công sản lãnh đạo .................. 11
2.6. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm tồn dân tộc chính là đồn kết tồn dân


trên cơ sở liên minh cơng – nơng. ...................................................................................................... 13
2.7.Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc:................................................................................ 13
2.8. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực ........ 15
3.Giá trị lý luận và thực tiễn .................................................................................................................... 17
KẾT LUẬN .................................................................................................................................................... 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................................................. 23


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một dân tộc có truyền thống yêu nước, bất kể người con đất Việt
nào cũng đều có thể sẵn sàng hy sinh quên mình vì độc lập, tự do của quê hương.
Trong lịch sử, từ những ngày đầu các Vua Hùng có cơng lập nước cho đến hàng
nghìn năm sau nhân dân tận lực giữ nước, ông cha ta đã nhiều lần phải đối mặt với
giặc ngoại xâm mạnh hơn mình gấp nhiều lần, do đó, từ thực tiễn đấu tranh chống
giặc xâm lăng tổ tiên ta đã rút ra rất nhiều kinh nghiệm, bài học quý báu để bảo vệ
Tổ quốc. Chính vì vậy, trí tuệ đánh giặc, giữ nước đã được coi là một trong những
đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam. Vào những ngày tháng còn non trẻ với niểm tin mãnh
liệt là giành độc lập tự do cho q hương, Hồ Chí Minh đã mang trong mình hành
trang truyền thống là long dũng cảm, tinh thần kiên định và trí tuệ sáng suốt của dân
tộc để ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tìm
tịi, hiểu biết thêm tư tưởng của một số nhà yêu nước lỗi lạc khác trên thế giới, từ đó
nâng lên tầm cao mới của thời đại và lồng vào đó là tư tưởng giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người khẳng định: “Cái mà tôi cần nhất
trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.”Tư tưởng Hồ Chí
Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, định hướng con đường đúng đắn của cách mạng Việt
Nam, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử; thấm sâu vào trái tim, khối óc quần

chúng nhân dân; trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Đồng hành cùng dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh đang tiếp tục
soi đường cho Đảng, nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, vững bước hội nhập trong kỷ nguyên Cách mạng cơng nghiệp
4.0.
Vì vậy, em xem đây là một nội dung đáng để quan tâm, cần thiết làm và hiểu
rõ tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh


3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
-Mục đích : Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc . Đó là con đường cách mạng vô sản , đi từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân tiến lên cách mạng XHCN .
Phân tích làm rõ những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề này .
Tiểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc , giải phóng
giai cấp giải phóng con người . Đồng thời qua đó giúp sinh viên biết hệ thống lại
vấn đề một cách logic , thu nhặt , xử lý thông tin , vận dụng các kiến thức cơ bản
phục vụ việc tự học , tự làm việc của bản thân , giúp sinh viên trình bày tối cho các
môn học và định hướng việc sắp xếp làm đồ án tốt nghiệp của sinh viên , quan
trọng hơn là việc liên hệ được với thực tiễn của đất nước , của thời đại từ đó liên hệ
đến bản thân .
-Nhiệm vụ : Nêu rõ tiểu luận tiến hành để giải quyết tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc từ đó giải phóng giai cấp và giải phóng con người .
Luận điểm sáng tạo, là sự phát triển mà Hồ Chí Minh được minh chứng bằng cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam từ đó đóng góp them vào kho tàng lý
luận của Chủ nghĩa Mác Lênin
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

, tiến đến giải phóng giai cấp giải phóng con người hệ tư tưởng quan trọng , cơ bản
cũng là chủ đạo trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh ln quan tâm đến :độc lập dân
tộc , tự do và hạnh phúc cho nhân dân
Phạm vi nghiên cứu : Tiểu luận được nghiên cứu trong thời gian học mơn Tư
Tưởng Hồ Chí Minh tại trường Học Viện Báo Chí & Tuyên Truyền .


4

4. Cơ sở lý luân và phương pháp nghiên cứu
-Cơ sở lý luân : Bảo đảm sự thống nhất , nguyên tắc tính đảng và tính khoa học
,Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn ,Quan điểm lịch
sử cụ thể ,Quan điểm toàn diện và hệ thống ,Quan điểm kế thừa và phát triển ,Kết
hợp nghiên cứu tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí Mnh
-Phương pháp nghiên cứu :Phương pháp nghiên cứu tài liệu ,Phương pháp thu thập
và xử lý thơng tin,Phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
-Ý nghĩa lý luận : tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một
vũ khí tư tưởng mới của phong trào yêu nước Việt Nam, làm cho phong trào yêu
nước chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản và cũng trở thành một trong
những điều kiện dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
-Ý nghĩa thực tiễn : Đây là quan điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp cách mạng
giải phóng dân tộc ở Việt Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự giúp đỡ từ bên ngồi
mà ln phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Nhờ đó mà cách mạng Việt
Nam giành được thắng lợi vĩ đại. Đồng thời nó cũng góp phần định hướng cho
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khác trên thế giới trong thời kì bấy giờ.
Thực tiễn cách mạng ở một số nước thuộc địa và cách mạng Việt Nam đã chứng
minh rằng đây là một tư tưởng hoàn toàn đúng đắn
Kết cấu của tiểu luận
Mục lục , mở đầu , nội dung , kết luận , tài liệu tham khảo



5

NỘI DUNG
1.Cơ sở lý luận “Tư Tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc ”
*Quan điểm của Mác-Ăngghen-Lênin về vấn đề dân tộc
Khái niệm: Dân tộc là một vấn đề rộng lớn bao gồm những quan hệ về chính trị,
kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc
và bộ tộc.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác : Dân tộc là sản phẩm của lịch sử . MácĂngghen
đã đặt nền tảng lý luận cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học.
Lênin đã phát triển quan điểm về vấn đề dân tộc thành hệ thống lý luận toàn diện
và sâu sắc. Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh – là vấn đề dân tộc thuộc địa
“Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các dân tộc
thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xố bỏ
áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân
tộc độc lập”.
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc | nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của
các dân tộc thuộc địa. Độc lập hoàn toàn và thật sự trên tất cả các mặt kinh tế, chính
trị, quân sự, ngoại giao. Trong nền độc lập, mọi người đều được ấm no, tự do, hạnh
phúc. Độc lập thật sự phải gắn với hồ bình thật sự. “Nhân dân chúng tơi thành thật
mong muốn hồ bình, kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng
liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Độc lập dân tộc
phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc lập



6

Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc là một động lực to lớn của đất nước.Chủ
nghĩa dân tộc là chủ nghĩa yêu nước và sự thức tỉnh ý thức dân tộc. “Phát động chủ
nghĩa dân tộc bản xứ nhận danh Quốc tế cộng sản...”, đó là chủ nghĩa dân tộc chân
chính.
Kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và | CNXH, chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Hồ Chí Minh xác định con đường cách mạng
Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Do đó, “giành được độc lập rồi phải tiến lên
CNXH...”. “yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội”. Độc
lập cho dân tộc mình và cho tất cả dân tộc khác . “Phải tự đấu tranh cho tự do , độc
lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy ”
2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc:
2.1 Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trong
chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Leenin có sứ mệnh lịch sử và vạch rõ con đường và phương pháp
đấu tranh để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Những
vấn đề trên đây đã được các nàh kinh điển của giai cấp vô sản chỉ ra từ rất sớm. |
Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm 1848, Mác, Ăngghen không chỉ luận
giải vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc mà vấn đề giải phóng con người
cũng được đề cập sâu sắc: “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người”.Tuy nhiên do cả hai ông đều sống ở Tây Âu
nơi mà chủ nghĩa tư bản phát triển tới trình độ cao nên trước hết các ơng nhấn mạnh
vấn đề giải phóng giai cấp, Mác và Ăngghen đã viết: “hãy xóa bỏ tình trạng người
bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ bị xóa bỏ”.Mác và


7


Ăngghen cho rằng giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trọng tâm, là điều kiện để giải
phóng dân tộc. Sau Mác và Ăngghen, Lênin đã trực tiếp giải quyết vấn đề giải phóng
dân tộc. Trong thời kì chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn tột cùng của nó là chủ
nghĩa đế quốc. Một trong những đặc điểm cơ bản là xâm chiếm thuộc địa, một số
nước đế quốc biến 70% dân số thế giới thành thuộc địa, Lênin đã kế tục và phát triển
sự nghiệp của Mác, Ăngghen khi thành lập Quốc tế I và Quốc tế II đại diện cho giai
cấp cơng nhân, cho phù hợp với tình hình mới, Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản do
Lênin sáng lập đại diện cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Tuy nhiên,
trong công cuộc giải phóng Lênin vẫn cho rằng trước hết phải giải phóng giai cấp
cơng nhân.
2.2 Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người vào điều kiện
các nước thuộc địa.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Mác đã xây dựng học thuyết
của mình trên cơ sở châu Âu mà châu Âu thì chưa phải là tồn nhân loại. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: “Dù sao thì cũng khơng thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ
nghĩa Mác, bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình khơng
thể có được”, cần: “Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó
bằng dân tộc học phương Đơng, trong đó có Việt Nam, suốt hơn 50 năm đầu thế kỷ
XX là vấn đề dân tộc, thuộc địa. Do đó, nếu ở phương Tây, các nhà kinh điển mạcoxit
cho rằng sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
tuy có liên quan mật thiết với nhau nhưng ưu tiên giải phóng giai cấp cơng nhân thì
Hồ Chí Minh đối với phương Đơng, trong đó có Việt Nam giải phóng dân tộc là
nhiệm vụ trên hết, trước hết. Hồ Chí Minh cho rằng trong điều kiện các nước thuộc
địa thì giải phóng dân tộc là cơ sở để giải phóng giai cấp, gải phóng con người. Trong
quan hệ dân tộc và giai cấp thì địi hỏi phải giải quyết thỏa đáng giữa lợi ích dân tộc


8


và lợi ích giai cấp, thì trước hết là lợi ích giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề lướn
về lý luận và thực tiễn trước kia, hiện nay và cả tương lai. Suốt cuộc đời mình Hồ
Chí Minh đã giải quyết thành công vấn đề dân tộc và giai cấp nói chung, giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp nói riêng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn
đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua. Con người và cuộc đấu
tranh nhằm giải phóng con người giữ vai trị quan trọng trong tư duy lý luận và hoạt
động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Báo Le Paria (Người cùng khổ) ngày 1-4-1922 Hồ
Chí Minh viết: “Le Paria đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của báo
chắc chắn sẽ đạt được: đó là giải phóng lồi người”. Trước khi đi gặp cụ Mác, cụ
Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, Hồ Chí Minh vẫn nghĩ đến con người và
sự nghiệp giải phóng con người. Thật sâu sắc và cảm động khi thấy những điều Hồ
Chí Minh căn dặn chúng ta trong Di chúc: “Đầu tiên là công việc đối với con người”.
Như vậy đối với Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người thì giải phóng dân tộc ln được đặt lên hàng đầu. Đó là
sự trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với
phương Đơng nói chung, Việt Nam nói riêng.
2.3 Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc:
2.3.1 Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa
Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp thuộc địa khác với các nước phương
Tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều chung một số
phận mất nước nên có chung số phận là người nô lệ mất nước. Mâu thuẫn cơ bản ở
các nước phương Tây là giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, mâu thuẫn chủ yếu ở xã
hội thuộc địa phương Đông là dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân. Do vậy
“cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như các nước phương Tây.
Đối tượng cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản xứ, càng không
phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản


9


động.Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế độ xã hội
mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế
quốc”, chứ chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu, sự bóc lột nói chung.Hồ
Chí Minh ln phân biệt rõ thực dân xâm lược với nhân dân các nước tư bản chủ
nghĩa. Người kêu gọi nhân dân các nước đế quốc phản đối chiến tranh xâm lược,
ủng hộ nhân dân các nước thuộc địa đấu tranh giành độc lập.Yêu cầu bức thiết của
nhân dân thuộc địa là độc lập dân tộc.Ở các nước thuộc địa, nơng dân là nạn nhân
chính bị bóc lột bởi chủ nghĩa đế quốc. Nơng dân có hại yêu cầu: độc lập dân tộc và
ruộng đất, nhưng luôn đặt yêu cầu độc lập dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng
đất.Hay nói cách khác nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng thuộc địa là: “Đấu tranh
chống lại thực dân xâm lược, giành lại độc lập dân tộc”.
- Nhiệm vụ của cuộc cách mạng thuộc địa
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc và người thực hiện nhiệm
vụ cách mạng đó chính là nơng dân.
Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo xác
định nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ
chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Trong đó bao hàm cả giải phóng giai cấp và
giải phóng con người.
Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (5/1941) do Hồ Chí Minh
chủ trì kiên quyết giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, nhấn mạnh đó là “nhiệm vụ
bức thiết nhất”, chủ trương tạm gác khẩu hiện “cách mạng ruộng đất”, và chỉ tiến
hành nhiệm vụ đó ở một mức độ thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng
dân tộc.
Trong những bài nói, bài viết thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Hồ
Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc


10


2.3.2 Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.
- Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực
dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân.
- Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành lại quyền
lợi riêng biệt của mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc.
- Tháng 5 - 1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám
chủ trương: “thay đổi chiến lược” từ nhấn mạnh giai cấp sang nhấn mạnh cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Vì vậy, cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện
nay là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng.
- Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng như những thắng lợi
trong 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1954 trước hết là thắng lợi
của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập, tự do của
Hồ Chí Minh.
2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản
2.4.1.Rút bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước đó
- Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã
sử dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng
những thứ vũ khí tư tưởng khác nhau song đều thất bại.
- Đất nước lâm vào “... tình hình đen tối tưởng như khơng lối ra”. Đó là tình
trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam thế kỷ XX.
- Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, nhân dân phải chịu cảnh lầm than Hồ
Chí Minh chứng kiến các phong trào u nước của ơng cha. Chính vì thế, mặc dù rất
khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh khơng tán thành
con đường của họ mà quyết tâm ra đi tìm một con đường mới. Đoạn tuyệt với sự


11


phát triển theo con đường của chủ nghĩa phong kiến, Hồ Chí Minh đến nhiều quốc
gia và châu lục trên thế giới.
2.4.2.Cách mạng tư sản là không triệt để
- Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dương đến với nhân loại cần lao đang
tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp tìm
hiểu lý luận với thực tiến nhất là ở ba nước tư bản phát triển: Anh, Pháp, Mỹ.
- Người nhận thấy: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách
mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong
thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa”. Bởi lẽ đó, Người khơng
đi theo con đường cách mạng tư sản.
2.4.3.Con đường giải phóng dân tộc
- Hồ Chí Minh thấy được cách mạng Tháng Mười Nga khơng chỉ là một cuộc
cách mạng vơ sản mà nó cịn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm
gương sáng về sự giải phóng các dân tộc thuộc địa và “... mở ra trước mắt họ thời
đại cách mạng chống đế quốc và cách mạng giải phóng dân tộc.”
- Người hồn tồn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba vì “... đã bênh vực cho các
dân tộc bị áp bức”. Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới để
giải phóng dân tộc: Con đường cách mạng vô sản.
- Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu yêu nước và các nhà cách
mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết của chủ
nghĩa Mác-lênin và lựa chọn xu hướng chính trị vơ sản. Người khẳng định: “Muốn
cứu nước giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng
vơ sản.”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nơ lệ.”
2.5. Con đường giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng công sản
lãnh đạo


12


2.5.1.Cách mạng trước hết phải có Đảng lãnh đạo
- Nguyễn Ái Quốc phân tích: “Phàm làm việc gì cũng vậy, bất kỳ lớn bé, bất
kỳ khó dễ, nếu khơng ra sức chắc khơng thành cơng...”, “Việc giải phóng gơng cùm
nơ lệ cho đồng bào, cho nhân loại “là việc to tát” nên phải gắng sức” .“Muốn làm
cách mạng thì phải bền gan, đồng chí, đồng lịng và biết quyết tâm”, “...lại phải biết
cách làm thì mới chóng.”
- Nhưng muốn làm cách mệnh, “... trước phải làm cho dân giác ngộ… phải
giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”. “Cách mạng phải hiểu phong triều thế
giới, phải bày sách lược cho dân… Vậy nên sức cách mạng phải tập trung, muốn tập
trung phải có đảng cách mệnh.”
- Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người khẳng định: “Trước hết phải có
đảng cách mệnh để trong thì vận động tổ chức quần chúng, ngồi thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vơ sản phong kiến mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.”
2.5.2.Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất
- Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam, một chính đảng
của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt” có
tổ chức chặt chẽ, kỷ luật, nghiêm minh và mật thiết liên lạc với quần chúng.
- Hồ Chí Minh đã xây dựng được một đảng cách mạng tiền phong, phù hợp
với thực tiến cách mạng Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng phụng
sự Tổ Quốc, phụng sự nhân dân được dân tộc ta thừa nhận là đội tiền phong của
mình.
- Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngon cờ lãnh đạo duy nhất đối với
cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của cách
mạng.


13

2.6. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm tồn dân tộc chính

là đồn kết tồn dân trên cơ sở liên minh công – nông.
Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn
kết toàn dân, trên cơ sở liên minh cơng nơng làm nịng cốt”... Trong đó, “thực hiện
cho được liên minh cơng nơng vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi
của cách mạng”. Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nơng dân, Hồ
Chí Minh chorằng, nơng dân là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng
hóa nên họln có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó, cách
mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của giai cấp nơng dân và là sự nghiệp
của tồndân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nông dân là một lực lượng rất to
lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn
kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập, thống nhất thật sự, ắt phải dựa
vào lực lượng
của nơng dân. Đồng bào nơng dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lịng nồng nàn
u nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh. Do vậy, vấn đề giải
phóng dân tộc ở Việt Nam, thực chất là vấn đề nông dân. Nông dân vừa là động
lực, vừa là lực lượng đơng đảo, nịng cốt, và cũng là đối tượng vận động của cách
mạng.
Như vậy, tổ chức chính trị có thể thực hiện việc quy tụ, tập hợp rộng rãi mọi tầng
lớp nhân dân là “Mặt trận dân tộc thống nhất” dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm tạo
ra sức mạnh của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do; đấu tranh
chống lại kẻ thù là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến, tay sai .
2.7.Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc:
– Đây là một điểm mới mẻ và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng
sản quốc tế, như đã nói ở trên, đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách


14

mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vơ sản ở chính

quốc. Tun ngơn thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919 có đoạn viết: “Công nhân
và nông dân không những ở An Nam, Angiêri, Bengan mà cả Ba Tư hay Ácmênia
chỉ có thể giành được độc lập khi mà công nhân các nước Anh và nước Pháp lật đổ
được Lơiit Gicgiơ và Clêmăngxơ, giành chính quyền nhà nước vào tay mình”.
Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc
địa được thông qua Đại hội VI Quốc tế Cộng sản, ngày 1-9-1928 viết: “Chỉ có thể
thực hiện hồn tồn cơng cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành
được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Quan điểm này, vơ hình trung đã giảm
tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
– Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1924) Nguyễn Ái Quốc đã phân tích:
“Vận mệnh giai cấp vơ sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh giai cấp vô sản ở các
nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các
thuộc địa… nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở
các thuộc địa”, nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh rắn
đằng đuôi”.
– Vận dụng công thức của Các Mác: “Sự giải phóng giai cấp cơng nhân phải là sự
nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Nguyễn Ái Quốc đã đi tới điểm: “Cơng
cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự
nỗ lực của bản thân anh em”.
– Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế
quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc,
ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã sớm cho rằng: “Cách mạng thuộc địa
không những không phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc mà có thể giành
thắng lợi trước”, và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ
nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở
phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”.


15


– Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn, một cống
hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác- Lênin, đã được thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
2.8. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực
Các thế lực đế quốc sử dựng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã
man các phong trào yêu nước. "Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động
bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi". Chưa đánh bại được lực lượng và đè bẹp ý
chí xâm lược của chúng thì chưa thể có thắng lợi hồn tồn. Vì thế, con đường để
giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thê là con đường cách mạng bạo lực. Đánh giá
đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí Minh vạch rõ tính
tất yếu của bạo lực cách mạng. "Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai
cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng,
giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin, coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng
bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng.Trong thời kỳ vận động giải phóng dân
tộc 1940-1945, Người cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng cơ sở của bạo lực
cách mạng bao gồm hai lực lượng: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ
trang nhân dân. Theo sáng kiến của Người, Mặt trận Việt Minh được thành lập. Đó là
nơi tập hợp, giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị quần chúng, một lực lượng cơ
bản và giữ vai trò quyết định trong tổng khởi nghĩa vũ trang. Hình thức của bạo lực
cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, nhưng phải "Tùy tình
hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng
đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành
thắng lợi cho cách mạng".
Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực thể hiện bằng khởi nghĩa vũ trang với lực lượng
chính trị là chủ yếu. Đó là cơng cụ để đập tan chính quyền của bọn phátxít Nhật và tay
sai, giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết
định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu quân sự

và chính trị của chúng. Nhưng đấu tranh vũ trang khơng tách biệt với đấu tranh chính
trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh
chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến
hành đấu tranh vũ trang.


16

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của các
thế lực đế quốc xâm lược. Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh
mạng con người, Người luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu.
Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết
xung đột bằng biện pháp hịa bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận
những nhượng bộ có nguyên tắc.
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không cịn khả
năng hịa hỗn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn giành
thắng lợi bằng qn sự thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động chiến tranh.
Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo, hịa bình thống nhất biện chứng
với nhau. u thương con người, u chuộng hịa bình, tự do, cơng lý, tranh thủ mọi
khả năng hịa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến
tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng,
dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc lập,
tự do. Đánh giặc khơng phải là tiêu diệt hết lực lượng, mà chủ yếu là đánh bại ý chí
xâm lược của chúng, kết hợp giành thắng lợi về quân sự với giải pháp ngoại giao để
kết thúc chiến tranh.
Theo Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc "lực lượng chính là ở dân".
Người chủ trương tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.Xuất phát từ
tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ Chí Minh khơng chủ
trương tiến hành kiểu chiến tranh thơng thường, có chiến tuyến rõ rệt, chỉ dựa vào lực
lượng quân đội và dốc toàn lực vào một số trận sống mái với kẻ thù, mà chủ trương

phát động chiến tranh nhân dân, dựa vào lực lượng tồn dân, có lực lượng vũ trang
làm nịng cốt, đấu tranh tồn diện với kẻ thù đế quốc với tư tưởng chiến lược tiến công,
phương châm chiến lược đánh lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Hồ Chí Minh nói:
"Khơng dùng tồn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, khơng thể nào thắng lợi
được".Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về hình thái của bạo lực cách mạng. Mục đích của cách mạng và chiến tranh
chính nghĩa là vì độc lập, tự do, làm cho khả năng tiến hành chiến tranh nhân dân trở
thành hiện thực, làm cho toàn dân tự giác tham gia kháng chiến. Trước những kẻ thù
lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài.
Trong chiến tranh, "quân sự là việc chủ chốt", nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ
với đấu tranh chính trị. "Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị
sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn". Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có
ý nghĩa chiến lược, có tác dụng thêm bạn bớt thù, phân hóa và cô lập kẻ thù, phát huy


17

yếu tố chính nghĩa của cuộc đấu hanh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ của quốc tế. Hồ Chí Minh chủ trương "vừa đánh vừa đàm", "đánh
là chủ yếu, đàm là hỗ trợ". Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm, phát triển kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. Người kêu gọi "hậu phương
thi đua với tiền phương", coi "ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nơng là
chiến sĩ”, "tay cày tay súng, tay búa tay súng, ra sức phát triển sản xuất để phục vụ
kháng chiến". Chiến tranh về mặt văn hóa hay tư tưởng so với những mặt khác cũng
không kém quan trọng.
Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm phát huy
cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ
bên ngoài. Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh ln đề cao sức
mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần
độc lập, tự chủ.

Độc lập, tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một quan
điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra
sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả cả về vật chất và tinh
thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.

3.Giá trị lý luận và thực tiễn
Làm phong phú học thuyết Mác Lênin về cách mạng thuộc địa
+ Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin xác định con đường cứu nước theo khuynh hướng
chính trị vơ sản, nhưng con đường cách mạng giải phóng dân tộc là do Hồ Chí Minh
hoạch định, chứ khơng phải đã tồn tại từ trước.
Hồ Chí Minh khơng tự khn mình trong những ngun lý có sẵn khơng rập khn
máy móc lý luận đấu tranh giai cấp vào điều kiện lịch sử ở thuộc địa, mà có sự kết
hợp hài hòa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc theo quan
điểm giai cấp và giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc gắn độc lập dân tộc
với phương hướng xã hội chủ nghĩa.


18

Sử dụng “phương pháp làm việc biện chứng”, Người đã phân tích thực tiễn xã hội
thuộc địa, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc
địa xây dựng nên lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và truyền bá vào Việt Nam.
Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống
những quan điểm sáng tạo, độc đáo. Lý luận đó phải trải qua những thử thách hết
sức gay gắt. Trong những năm 1923-1924, 1927-1928 và 1934- 1938, Quốc tế Cộng
sản không ủng hộ mà coi đó là những tư tưởng “dân tộc chủ nghĩa”. Những năm
1930-1935 tư tưởng đó bị phê phán trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng và trên
báo chí ở nước ngồi. Song, thực tiễn đã chứng minh lý luận cách mạng giải phóng

dân tộc của Hồ Chí Minh là đúng đắn.
+ Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc
Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh hết sức độc
đáo và sáng tạo thấm nhuần tính nhân văn.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa nhất là so sánh lực lượng quá chênh
lệch về kinh tế và quân sự giữa các dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa đế quốc. Hồ Chí
Minh đã xây dựng nên lý luận về phương pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh
nhân dân.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng
thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ sáng tạo, bao gồm cả đường lối
chiến lược, sách lược và phướng pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa. Đó là một di sản tư tưởng qn sự vơ giá mà Hồ Chí Minh để lại cho Đảng
và nhân dân ta.
- Làm chuyển hóa phong trào yêu nước, tạo điều kiện cho sự ra đời Đảng Cộng sản
Việt Nam


19

+ Làm chuyển hóa phong trào yêu nước Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là ánh sáng soi đường cho
lớp thanh niên yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đang đi tìm chân lý, là ngọn cờ
hướng đạo phong trào cách mạng Việt Nam trước khi

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng đó được
những người Việt Nam yêu nước tiếp thu như một ánh sáng chân lý của chính mình,
“giống như người đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”.
Tư tưởng đó thâm nhập vào phong trào cơng nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
góp phần quyết định trong việc xác lập con đường cứu nước mới, làm cho phong
trào yêu nước Việt Nam chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vơ sản.

Hồ Chí Minh đã tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Xam rồi đem chủ nghĩa
Mác – Lênin và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc truyền bá cho họ dẫn dắt họ
đi theo con đường mà chính Người đã trải qua: từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Sự chuyển hóa tiêu biểu nhất là Tân Việt cách mạng đảng, từ lập
trường tư sản đã chuyển sang lập trường vơ sản.
Đó là sự chuyển hóa mang tính cách mạng, đưa sự nghiệp gỉai phóng và phát triển
dân tộc tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Xam
Trước hết. cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc
của Hồ Chí Minh là một vũ khí tư tưởng mới của phong trào yêu nước Việt Nam,
làm cho phong trào yêu nước chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản và cũng
trở thành một trong những điều kiện dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.



×