Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Lễ hội cầu mưa gắn với hệ thống thờ tứ pháp ở xã Lạc Hồng - Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.5 KB, 73 trang )

Tên đề tài:
Tìm hiểu về Lễ hội cầu mưa
gắn với hệ thống thờ tứ pháp
ở xã Lạc Hồng- Hưng Yên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3.Mục đích nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.Đóng góp của báo cáo
6. Bố cục của báo cáo
CHƯƠNG I: CHƯƠNG I:
Khái quát chung về Lễ hội cầu mưa
và hệ thống thờ Tứ pháp
1.1. Vài nét về lễ hội cầu mưa
1.1.1 Khái niệm lễ hội
1.1.2 Lễ hội cầu mưa
2.1 Thờ Tứ pháp – khái niệm, lịch sử và ý nghĩa
2.1.1 Tứ pháp
2.1.2. Lịch sử thờ tứ pháp
2.1.3 Ý nghĩa thờ tứ pháp
Tiểu kết
CHƯƠNG II:
Hình thức và ý nghĩa của lễ hội cầu mưa gắn với hệ thống thờ tứ pháp ở
xã Lạc Hồng, Hưng Yên
2.1. Vài nét về hệ thống thờ tứ pháp ở xã Lạc Hồng – Hưng Yên.
2.1.1 Vài nét về huyện Văn Lâm - Hưng Yên
2.1.2 Hệ thống thờ tứ pháp và chùa Pháp Vân ở xã Lạc Hồng
2.2. Hình thức lễ hội cầu mưa xã Lạc Hồng
2.2.1 Công tác chuẩn bị cho lễ hội
2.2.2 Nghi lễ chính thức làm lễ rước cầu mưa


2.3 Ý nghĩa.
2.3.1 Ý nghĩa tâm linh của lễ hội cầu mưa
2.3.2 Ý nghĩa đối với đời sống nhân dân của lễ hội cầu mưa
tiểu kết.
CHƯƠNG III.
Một số bất cập của lễ hội cầu mưa ở xã Lạc Hồng và những biện pháp
khắc phục.
3.1 Những bất cập và khó khăn còn tồn đọng của lễ hội
3.2 Nguyên nhân của những bất cập và khó khăn còn tồn đọng trong lễ hội
3.3 Các biện pháp bảo tồn phát huy những giá trị của lễ hội cầu mưa ở xã
Lạc Hồng
tiểu kết
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lễ hội là hoạt động phán ánh rõ nét nhất những sinh hoạt văn hoá của
một công đồng cư dân trong một không gian cụ thể và là môi trường tốt nhất
để lưu giữ những giá trị truyền thống qua các thời đại. Mỗi vùng quê Việt
Nam đều nằm trong dòng chảy văn hoá thống nhất nhưng nó vẫn mang nét
riêng biệt, đặc trưng của con người nơi đó tạo nên một bức tranh văn hoá lễ
hội Việt Nam phong phú và đa dạng.
Xã Lạc Hồng(thuộc huyện Văn Lâm,tỉnh Hưng Yên) là một vùng đất
anh hùng và vùng gần trung tâm Đồng bằng sông Hồng hiện nay. Do vậy lễ
hội nơi đây mang đậm nét văn hoá chung của vùng hoà quyện với những nét
riêng của văn hoá cư dân vùng nông nghiệp tạo nên một sắc thái văn hoá độc
đáo. Nói đến lễ hội ở xã Lạc Hồng ta không thể không nhắc đến lễ hội Cầu
Mưa (một lễ hội mới được khôi phục lại trong thời gian gần đây) một trung
tâm hội tụ văn hoá truyền thống của cư dân vùng này, lễ hội cầu mưa gắn
liền với hệ thống thờ tứ pháp.Tìm về lễ hội Cầu Mưa gắn với hệ thống thờ tứ
pháp là chúng ta tìm đến chìa khoá để giải mã phần nào đó con người và

truyền thống văn hoá ở xã Lạc Hồng.Tuy nhiên mảng nghiên cứu lễ hội Cầu
Mưa gắn với hệ thống thờ tứ pháp vẫn còn bỏ trống.
Chính vì thế, chúng tôi nghiên cứu lễ hội cầu mưa gắn với hệ thống
thờ tứ pháp ở xã Lạc Hồng nhằm làm rõ vai trò và vị trí của nó trong đời
sống văn hoá của cư dân trong vùng. Đây không chỉ là nơi để cho mọi người
về đây hành hương lễ Phật, mà còn là nơi để du khách có thể tham quan
vãng cảnh chùa, tìm hiểu di tích, lịch sử, chiêm ngưỡng hệ thống tứ pháp
trong vùng bề thế hay để thưởng thức vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình của thiên
nhiên nơi đây. Lễ hội Cầu Mưa gắn với hệ thống thờ tứ pháp như một sự hội
tụ văn hoá đặc trưng của xã Lạc Hồng. Đó là những lí do thúc đẩy chúng tôi
tiến hành đề tài “Tìm hiểu về Lễ hội cầu mưa gắn với hệ thống thờ tứ pháp
ở xã Lạc Hồng - Hưng Yên.”
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong tâm thức của người Việt, lễ hội truyền thống từ lâu đã trở thành
một sinh hoạt văn hóa không thể thiếu được vì lễ hội chính là sự phản ánh
phong tục tập quán, tín ngưỡng và bản sắc của dân tộc.Nghiên cứu lễ hội từ
lâu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu .Các nhà nghiên
cứu đã nhìn nhận đánh giá lễ hội từ nhiều khía cạnh khác nhau. Mảng
nghiên cứu lễ hội cầu mưa đã được một số người đề cập tới nhưng chủ yếu
là qua các bài báo, tiểu luận như: Lễ hội cầu mưa người Lô Lô ( theo báo
điện tử vietbao.vn đăng ngày 05 tháng 9 năm 2008); lễ hội cầu mưa (hay
còn gọi là lễ hội Xến Xó Phốn) của người Thái vùng Tây Bắc (theo
vietbao.vn đăng ngày 03 tháng 10 năm 2008); Phú Yên: Phục dựng lễ hội
“Cầu mưa” của người dân tộc Êđê ( theo báo điện tử baovanhoa.vn đăng
năm 2010 viết bởi Nguyễn Trần Vĩ ); lễ hội cầu mưa của người Chăm Vân
Canh, Bình Định( theo báo điện tử đăng ngày 22 tháng
5 năm 2010); Lễ hội cầu mưa người Chăm ở Bình Thuận(theo báo điện
tử : đăng ngày 22 tháng 5 năm 2010). Nhưng chủ yếu là
các công trình tìm hiểu về lễ hội cầu mưa của các đồng bào dân tộc thiểu số,
còn ở vùng đồng bằng thì chưa thấy đề cập tới nhiều. Ở đồng bằng, chúng ta

thấy đề cập nhiều tới hệ thống thờ tứ pháp xuất hiện với tần số nhiều trên
các tạp chí và trên mạng, báo điện tử và viết cả thành sách xuất bản: bài tiểu
luận “Tín ngưỡng thờ Tứ Pháp tại đồng bằng Bắc Bộ”(Trần Lan Chi,
tập san pháp luận số 09 ngày 05 tháng 11 năm 2009
phapluanonline.com) Nguyễn Đăng Duy, 2001, Văn hóa Tâm linh, NXB
VH-TT; Hội chùa Tứ Pháp và tục thờ mẫu của người Việt ( theo báo điện tử
đăng ngày 01 tháng 10 năm 2010); Nguyễn Duy
Hinh, 1999, Tư Tưởng Phật Giáo Việt Nam, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà
Nội; Viện nghiên cứu Hán Nôm, Di Văn chùa Dâu, Nguyễn Quang
Hồng chủ biên, NXB KHXH, Hà Nôi 1997; Lê Mạnh Thát, tập 1 (1999)
tập 2 (2001) tập 3 (2002) Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, , NXB Thành
phố; Đức Thiện, Hiện tượng tiếp biến văn hóa trong tín ngưỡng thờ Tứ
Pháp, tạp chí NCPH số 3/2003; Chu Quang Trứ, Hệ thống chùa Tứ Pháp -
đền thần trong chùa Phật, KTVN số 1/99 ....v..v... Chúng ta thấy việc nghiên
cứu lễ hội cầu mưa gắn với hệ thống thờ tứ pháp chưa có bài báo cáo tiểu
luận nào đề cập tới, nếu có cũng chỉ phân tích nhìn nhận đơn lẻ từng vấn đề
chứ không có cái nhìn tổng quan chi tiết về vấn đề “ lễ hội cầu mưa gắn với
hệ thống thờ tứ pháp”.
Quần thể di tích hệ thống thờ tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở xã Lạc
Hồng là một thắng cảnh đẹp và là một lễ hội lớn trong vùng. Do vậy, đã từ
lâu nó đã được nhiều người biết đến. Từ ngày Hưng Yên tái lập tỉnh (1997),
xã Lạc Hồng đã được đầu tư rất nhiều trong việc tôn tạo và bảo vệ hệ thống
thờ tứ pháp và phục dựng lễ hội cầu mưa. Đây là một vùng đất đã có hệ
thống thờ tứ pháp từ rất lâu đời nhưng chưa có nhà nghiên cứu nào nghiên
cứu và tìm hiểu những nét đặc sắc độc đáo về văn hóa lễ hội ở vùng đất này.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về lễ hội Cầu Mưa gắn với hệ thống thờ tứ pháp chúng tôi
nhằm mục đích :
- Thứ nhất nghiên cứu về lễ hội Cầu Mưa gắn với hệ thống thờ tứ
pháp như một biểu tượng tiêu biểu nhất của văn hoá nơi đây, góp phần giữ

gìn bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của lễ hội vùng này khi nó đang bị
biến đổi mạnh mẽ trong đời sống xã hội hiện đại. Đồng thời qua đó phát huy
giá trị văn hoá và thắng cảnh của khu di tích lịch sử nổi tiếng này nhằm phục
vụ đời sống tinh thần của nhân dân trong vùng và hoạt động du lịch của địa
phương trong sự nghiệp phát triển kinh tế hiện nay.
- Thứ hai góp phần khắc hoạ toàn cảnh về đời sống vật chất cũng như
đời sống văn hoá tinh thần của người dân nơi đây. Đó cũng chính là động
lực to lớn, là sức mạnh tinh thần của nhân dân xã Lạc Hồng trong công cuộc
xây dựng đất nước.
- Thứ ba nêu ra những bất cập còn tồn đọng trong lễ hội và đưa ra
những biện pháp khắc phục.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu nét văn hóa của Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là “lễ hội
cầu mưa gắn với hệ thống thờ tứ pháp” - một vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa,
tuy nhiên có tính chất liên ngành với các lĩnh vực khác như: lịch sử, địa lý,
dân tộc học, văn học dân gian...
- Phạm vi nghiên cứu
Bài viết đề tài của chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu về những hình
thức và ý nghĩa của lễ hội cầu mưa gắn với hệ thống thờ tứ pháp ở một địa
phương cụ thể là xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm,tỉnh Hưng Yên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu này chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau trong phương pháp nghiên cứu chung của ngành khoa
học xã hội và những phương pháp nghiên cứu đặc thù của chuyên ngành dân
tộc học. Đó bao gồm những phương pháp như: khảo sát thực địa, điều tra hồi
cố, quan sát trực tiếp, phỏng vấn sâu, xử lí tài liệu thu thập được trong quá
trình nghiên cứu.
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng nguồn tài liệu thu thập được
trong quá trình đi điền dã thực địa trong suốt thời gian diễn lễ hội cầu mưa 8

tháng 4 âm lịch ở xã Lạc Hồng như nguồn tài liệu quan trọng chủ yếu. Đó
chính là những văn bia, hoành phi, câu đối, truyền thuyết và những lời kể
của các cụ già cao tuổi ở địa phương. May mắn cho chúng tôi là người con
của quê hương từ nhỏ rất hay đi xem lễ hội cầu mưa và trong thời gian làm
nghiên cứu này được tham dự lễ hội cầu mưa . Do vậy chúng tôi sẽ cố gắng
hết sức để tái hiện lại một cách sinh động và đầy đủ nhất về lễ hội cầu mưa
đồng thời nêu bật văn hoá truyền thống cũng như sự biến đổi của lễ hội cầu
mưa trong đời sống xã hội hiện đại.
6.Đóng góp của báo cáo
- Bài báo cáo này góp phần làm sáng tỏ thêm về tín ngưỡng thờ tứ
pháp ở đồng bằng Bắc Bộ nói chung, và một số nét văn hóa độc đáo trong
Lễ hội cầu mưa ở xã Lạc Hồng hiện nay nói riêng.
- Đề ra một số giải pháp giữ gìn nét văn hóa truyền thống trong Lễ cầu
mưa ở xã Lạc Hồng,huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hội
nhập của đất nước hiện nay.
- Quảng bá hình ảnh văn hóa độc đáo của Lễ hội cầu mưa ở xã Lạc
Hồng không chỉ cho du khách trong cả nước mà còn cho du khách nước
ngoài biết đến, cũng như xóa bỏ những nghi ngờ, những quan niệm sai lệch
về Lễ hội.
- Kết quả của bài báo cáo có thể làm nguồn tư liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy, học tập về văn hóa, cũng như nét tín ngưỡng thờ tứ
pháp trong Lễ hội cầu mưa ở xã Lạc Hồng, tỉnh Hưng Yên.Góp phần cung
cấp những cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách,chủ trương của
chính quyền địa phương về công tác văn hóa, tư tưởng xã Lạc Hồng, tỉnh
Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay.
7. Bố cục của báo cáo
CHƯƠNG I: CHƯƠNG I:
Khái quát chung về Lễ hội cầu mưa
và hệ thống thờ Tứ pháp
1.1. Vài nét về lễ hội cầu mưa

1.1.1 Khái niệm lễ hội
1.1.2 Lễ hội cầu mưa
2.1 Thờ Tứ pháp – khái niệm, lịch sử và ý nghĩa
2.1.1 Tứ pháp
2.1.2. Lịch sử thờ tứ pháp
2.1.3 Ý nghĩa thờ tứ pháp
Tiểu kết
CHƯƠNG II:
Hình thức và ý nghĩa của lễ hội cầu mưa gắn với hệ thống thờ tứ pháp ở
xã Lạc Hồng, Hưng Yên
2.1. Vài nét về hệ thống thờ tứ pháp ở xã Lạc Hồng – Hưng Yên
2.1.1 Vài nét về huyện Văn Lâm - Hưng Yên
2.1.2 Hệ thống thờ tứ pháp và chùa Pháp Vân ở xã Lạc Hồng
2.2. Hình thức lễ hội cầu mưa xã Lạc Hồng
2.2.1 Công tác chuẩn bị cho lễ hội
2.2.2 Nghi lễ chính thức làm lễ rước cầu mưa
2.3 Ý nghĩa.
2.3.1 Ý nghĩa tâm linh của lễ hội cầu mưa
2.3.2 Ý nghĩa đối với đời sống nhân dân của lễ hội cầu mưa
tiểu kết.
CHƯƠNG III.
Một số bất cập của lễ hội cầu mưa ở xã Lạc Hồng và những biện pháp
khắc phục
3.1 Những bất cập và khó khăn còn tồn đọng của lễ hội
3.2 Nguyên nhân của những bất cập và khó khăn còn tồn đọng trong lễ hội
3.3 Các biện pháp bảo tồn phát huy những giá trị của lễ hội cầu mưa ở xã
Lạc Hồng
tiểu kết
TÀI LIỆU THAM KHẢO.


CHƯƠNG I:
Khái quát chung về Lễ hội cầu mưa
và hệ thống thờ Tứ pháp
1.1. Lễ hội cầu mưa
1.1.1. Khái niệm lễ hội
Trước đây ông cha ta chỉ có khái niệm hội:hội Cổ Loa,hội Gióng.
Khái niệm lễ hội xuất hiện vào năm 1983.Các hội đều có phân thành hội
lệ tổ chức vào những năm không được mùa ,hội lớn tổ chức vào những
năm “phong đăng hòa cốc” (được mùa lớn). Những năm mất mùa nghiêm
trọng không tổ chức hội lệ mà chỉ tổ chức bao sái.
* Phân loại hội:
- Theo nơi tổ chức: chiếm phần lớn là hội đình, một số khác là hội
chùa hoặc đền.
- Theo qui mô hội :
+ Chiếm phần lớn là hội làng, một số hội liên làng có quan hệ thân
thuộc về lịch sử địa lý.
+ Một số Hội là hội vùng: hội Gióng,hội Lim quan họ.
+ Có hội mang qui mô quốc gia: hội đền Hùng
- Theo nội dung hội:
+ Chiếm phần lớn là hội nông nghiệp biểu dương trưng bày các sản
phẩm nông nghiệp và cầu mong được mùa (phong đăng hòa cốc).
Hội nông nghiệp thường gắn với yếu tố phồn thực, yếu tố âm dương
hòa hợp. Có hội cầu ngư cầu cho sóng yên biển lặng. Có hội cầu mưa cầu
cho mưa thuận gió hòa. Một số hội làng nghề nhớ ơn tổ nghề.
+ Có hội lịch sử: ví dụ hội Gióng
+ Hội văn nghệ giao duyên, ví dụ hội Quan họ, hội hát Đúm (Hải
Phòng)
* Diễn trình hội
- Khâu chuẩn bị: Dọn vệ sinh đường làng ngõ xóm.
- Lễ rước nước: Lấy nước thờ cúng.

- Mộc dục: Lau rửa đồ thờ trong đình miếu.
- Vào đám:
+ Rước nghênh
+ Tế nghinh
+ Chầu tế
- Các trò diễn: diễn lại cuộc đời công tích của Thành Hoàng ,
- Tổ chức tế giã
* Đặc điểm ý nghĩa của hội:
+ Hội là một công đoạn của chu kì sản xuất nông nghiệp.
+ Hội đáp ứng yêu cầu đời sống tâm linh đáp ứng yêu cầu văn hóa hóa
cho ng nông đân
+ Hội phản ánh tín ngưỡng phong tục tập quán ,sự phân tầng xã hội
+ Hội phản ánh ước vọng của cư dân nông nghiệp: mưa thuận gió hòa,
phong đăng hòa cốc, đông con nhiều cháu
+ Hội phản ánh lịch sử dựng nước đi kèm với lịch sử giữ nước, hầu
hết các vị thành làng là vị tướng có công lãnh đạo đất nước, người truyền
nghề.
+ Cùng với đình, hội là kết tinh của tinh thần cộng đồng làng xã(mọi
người cùng lo chuẩn bị, tham dự hội đóng góp tiền của cho hội.)
+ Hội là yếu tố phi vật thể lớn nhất trong văn hóa làng.
1.1.2 Lễ hội cầu mưa.
Lễ hội nông nghiệp là lễ hội phản ánh cuộc sống của nhà nông trong
quá trình làm ăn, sinh hoạt, cải tạo tự nhiên, xây dựng bản làng. Lễ hội nông
nghiệp rất phong phú đa dạng và được mở theo mùa, theo chu kỳ sản xuất
nông nghiệp, theo thời vụ làm ăn của từng địa phương mà chủ yếu là vào
cuối vụ thu hoạch, đầu vụ cấy. Lễ hội nông nghiệp được bắt nguồn từ nông
nghiệp và phục vụ mục đích nông nghiệp nên trong tâm thức của người nông
dân mở hội cũng là một công việc cần thiết và quan trọng như bất kỳ khâu
sản xuất nào trong quá trình làm ăn. Lễ hội cầu mưa nằm trong hệ thống lễ
hội nông nghiệp gắn với hệ thống thờ tứ pháp,nhằm cầu cho mưa thuận gió

hòa, giúp cho nhân dân làm ăn thuận lợi.Từ xa xưa, người Việt vốn là dân
nông nghiệp. Họ đã biết nương tựa vào sức mạnh thiên nhiên, môi trường tự
nhiên quanh mình để canh tác hiệu quả, nhằm có được những vụ thu hoạch
tối ưu cho mình.
Họ luôn tự nhủ, phải:
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông gió, trông ngày trông đêm.
Trời, đất, mưa thì đã đành, ngay cả đến tác động của gió đối với canh
tác cũng đã được người nông dân quan tâm, họ có những nhận xét rất thực
tiễn và cũng đầy thơ mộng:
Tháng Giêng là tiết gió bay/Tháng Hai gió mát trăng bay vào đèn
Tháng Ba gió đưa nước lên/Tháng Tư gió đánh cho mềm ngọn cây
Tháng Năm là tiết gió Tây/Tháng Sáu gió mát cấy cày tính sao
Tháng Bảy gió lọt song đào/Tháng Tám là gió lọt vào hôm mai
Tháng Chín là gió rải ngoài/Tháng Mười là gió heo may rải đồng
Tháng Một gió về mùa Đông/Tháng Chạp gió lạnh gió lùng chàng ơi.
(Ca dao)
Gió là cỗ xe chở mây đến tạo ra mưa. Nên rốt cuộc, mưa mới thật là
sự quan tâm thiết thực hàng đầu của người nông dân:
Lạy trời mưa thuận gió hoà
Để cho chiêm tốt, gió tươi em mừng.
Mưa không phải là sản phẩm nhân tạo mà là hiện tượng thiên nhiên.
Muốn có mưa thì phải cầu xin trời đất. Muốn lời cầu xin được hữu hiệu, thể
hiện lòng mong mỏi thiết tha của con người thì cần phải tổ chức ra lễ hội: Lễ
hội cầu Mưa, cầu Thần, cầu Thánh, cầu Trời, cầu Phật. Lễ thường trang
nghiêm; hội thường ồn ào, sôi động, có chiều phóng túng. Song, trong một lễ
hội, khó mà phân định được rạch ròi đâu là lễ và đâu là hội, mà lễ và hội
quyện vào nhau như một màn diễn xướng tổng hợp thể hiện cái tâm thức
vừa thiêng vừa tục của người đến dự. Mưa không chỉ có tác động trực tiếp
đến sản xuất nông nghiệp, đến sự sống của động thực vật mà còn được

người bình dân dựa vào để giãi bày những mối quan hệ lứa đôi, quan hệ gia
đình, những thân phận trong xã hội như có thể nghe thấy trong ca dao Việt
Nam. Trong một năm thường có 2 kỳ lễ hội cầu Mưa chính, vào tháng
Ba,Tư và tháng Tám, Chín: “Mồng 8 không mưa/Bỏ cả cày bừa mà lấp lúa
đi”; “Mồng 9 tháng Chín không mưa/Thì con bán cả cày bừa mà ăn”.
Ngày nay, hệ thống kênh rạch tưới tiêu đã phát triển chằng chịt khắp
chốn đồng quê, song hàng năm dân chúng vẫn tổ chức các lễ hội cầu Mưa ở
những nơi vốn đã từng diễn ra để biểu lộ tâm thức cầu mong, lòng biết ơn
trời cao đã ban mưa xuống. Lễ hội cầu Mưa đã trở thành một sinh hoạt văn
hoá đặc thù của người Việt, thu hút không chỉ dân chúng nơi có lễ hội mà cả
từ các vùng lân cận đến, thể hiện tâm thức giao cảm giữa con người với
thiên nhiên
2.1 Thờ Tứ pháp – khái niệm, lịch sử và ý nghĩa
2.1.1 Tứ pháp
Tứ pháp là danh từ để chỉ các nữ thần trong tín ngưỡng Việt Nam gồm:
Mây – Mưa - Sấm - Chớp, đại diện cho các hiện tượng tự nhiên có vai trò
quan trọng trong xã hội nông nghiệp. Sau này khi Phật giáo vào Việt Nam
thì nhóm các nữ thần này được biến thành Tứ pháp với truyền thuyết về Phật
Mẫu Man Nương.
Liên quan đến tín ngưỡng thờ nữ thần còn có hệ thống các chùa gọi là
Tứ pháp, hiện chỉ thấy trong vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Các vị nữ thần đó
gồm :
+ Pháp Vân (nữ thần mây)
+ Pháp Vũ (nữ thần mưa)
+ Pháp Lôi (nữ thần sấm)
+ Pháp Điện (nữ thần chớp)
Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp là hiện tượng tín ngưỡng bản địa
của nước ta mang đậm màu sắc của nền văn minh lúa nước kết hợp với Phật
giáo - tôn giáo du nhập từ Ấn Độ, tồn tại khá phổ biến ở đồng bằng Bắc bộ.
Hình thái thờ thần Tứ Pháp là một trong những hình thái tín ngưỡng thờ thần

nông nghiệp cổ sơ khi mà đời sống nông nghiệp lệ thuộc hoàn toàn vào thiên
nhiên. Tứ Pháp bao gồm Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tượng
trưng cho những thế lực thiên nhiên như mây, mưa, sấm, chớp.
2.1.2 Lịch sử thờ tứ pháp.
Đầu công nguyên, Phật giáo du nhập vào nước ta trong bối cảnh bị
phong kiến Trung Quốc đô hộ (nước mất, văn hóa Đông Sơn bị tàn phá và
phải cưỡng nhận văn hóa phương Bắc). Trong điều kiện đó, Phật giáo truyền
trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam đã có một sự dung hợp kỳ diệu với các vị
thần nông nghiệp bản địa tạo nên một hệ thống tư tưởng giáo lý và thờ cúng
mang yếu tố riêng biệt. Thời gian đầu Phật giáo du nhập vào nước ta, văn
hóa bản địa đã thẩm thấu một cách nhanh chóng văn hóa Phật giáo, tiếp thu
trọn vẹn tinh thần bao dung và nhân từ truyền trực tiếp từ Ấn Độ và biến sự
dung hợp giữa hai nền văn hóa này lại thành một thứ vũ khí chống lại sự
đồng hóa một cách áp đặt của văn hóa Trung Quốc phương Bắc. Phật giáo,
lúc đó đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp cứu nước, giữ gìn văn
hóa Đông Sơn và duy trì những tín ngưỡng bản địa.
Như vậy, người Việt đã tự tạo ra một vị Phật cho riêng mình, cũng
như hoàn chỉnh được tín ngưỡng Phật pháp. Các yếu tố bản địa (nội sinh) và
Ấn Độ (ngoại nhập) đã kết hợp tài tình với nhau để tạo nên một thể thống
nhất qua câu chuyện về nàng Man Nương. Sự tích Man Nương và tục thờ Tứ
Pháp được lưu truyền từ thế kỷ thứ II sau Công nguyên, và đã được ghi chép
trong rất nhiều truyện sách cổ xưa như: Lĩnh Nam Chích Quái, Kiến Văn
Tiểu Lục, Văn Hiến Thông Khảo, An Nam Chí Lược... với những chi tiết
khác biệt nhau. Tuy nhiên, nguồn gốc của Tứ Pháp được nhiều người biết
đến nhất được ghi lại trong truyện Man Nương - sách “Lĩnh Nam Chích
Quái” (Trần Thế Pháp, thế kỷ XIV, Vũ Quỳnh - Kiều Phú, 1492) và vào
giữa thế kỷ XVII mới được in thành sách riêng. Hiện còn lưu lại qua bản
“Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh Ngữ Lục” khắc gỗ tại chùa Dâu được
khắc vào năm thứ 13 niên hiệu Cảnh Hưng (1752).
“ Chuyện kể rằng ở vùng Thuận Thành, Bắc Ninh, có cô gái 13 tuổi

Man Nương đến chùa Phúc Nghiêm học đạo. Trụ trì chùa này là một nhà sư
người Ấn Độ tên là Khâu-đà-la( La Đồ Lê). Một hôm, nhà sư tình cờ bước
qua người Man Nương lúc nàng nằm ngủ, và nàng thụ thai một cách thần kỳ.
Sau 14 tháng, nàng Man Nương sinh hạ một bé gái, đứa bé được nhà sư
Khâu-đà-la dùng phép chú đưa vào cây Dung Thụ già. Sau đó, nhà sư trao
cho Man Nương một cây gậy thần có thể làm mưa cứu hạn hán cho dân làng.
Khi Man Nương 80 tuổi, cây đổ trôi về bến sông Dâu thì không trôi nữa.
Thái thú Sĩ Nhiếp nằm mộng phải tạc tượng Phật từ cây Dung Thụ đó nhưng
bằng cách nào cũng không kéo được cây lên bờ, chỉ khi có dải yếm của Man
Nương kéo vào bờ thì mới kéo cây lên được. Cây Dung Thụ được tạc thành
4 pho tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện mang vào chùa thờ
tự. Trong thân cây, con của Man Nương đã hóa thành đá và được gọi là
“Thạch Quang Phật”, hiện được thờ tại chùa Dâu. Man Nương mất vào ngày
mồng tám tháng tư, cũng chính là ngày đản sinh của thái tử Tất-đạt-đa (theo
truyền thống xưa của Phật giáo). Sau khi mất, bà được người đời xưng tụng
là Phật Mẫu Man Nương.”
Câu chuyện này cho thấy bản chất của hệ thống Tứ Pháp Việt Nam,
đó là sự dung hòa giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian là thờ thần tự nhiên
và thờ Mẫu. Đây có thể gọi là hiện tượng “tiếp biến văn hóa” (acculturation)
từ Ấn Độ sang Việt Nam và mang một bản sắc riêng của một vùng văn minh
nông nghiệp lúa nước. Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp tại vùng châu thổ
đồng bằng sông Hồng mang nặng yếu tố văn hóa bản địa trong quá trình tiếp
xúc giao lưu với văn hóa ngoại lai, và cũng là minh chứng cho sự tác động
ngược trở lại của văn hóa bản địa đối với văn hóa ngoại lai trong quá trình
“Ấn Độ hóa”.
Trước khi câu chuyện này xảy ra cả ngàn năm lịch sử, các di vật tồn
tại trong văn hóa Đông Sơn và nhà nước Văn Lang cho thấy nhân dân ta đã
có một số tín ngưỡng bản địa hình thành từ việc chinh phục đồng bằng và
phát triển nghề trồng lúa nước. Do quan niệm vạn vật hữu linh, những hiện
tượng thiên nhiên như mây, mưa, sấm, chớp đối với những con người sơ sử

là những thế lực siêu nhiên cần được thờ cúng để mong mưa thuận gió hòa,
hạn chế thiên tai. Khi Phật giáo được tiếp nhận vào Việt Nam, các nhà
truyền giáo đã nhận thấy Phật giáo muốn bén rễ vào mảnh đất này thì phải
có sự dung hòa với tín ngưỡng dân gian. Cuộc hôn phối tinh thần giữa một
người con gái bản địa (tượng trưng cho tín ngưỡng dân gian, đại diện cho cư
dân văn minh nông nghiệp lúa nước) với một nhà sư Ấn Độ là Khâu-đà-la
(đại diện cho triết lý và văn hóa Phật giáo Ấn Độ) đã ra đời. Các vị Phật Ấn
Độ đã hóa thân với các vị thần tự nhiên của Việt Nam, tạo nên một vị Phật
Việt Nam hoàn toàn riêng biệt. Các vị thần Mây, Mưa, Sấm, Sét được Phật
hóa để trở thành Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Ðiện. Đó là Tứ
Pháp - Phật giáo dân gian Việt Nam.
Thờ Mẫu là một hình thức thờ cúng tín ngưỡng đặc trưng của các cư
dân nông nghiệp thể hiện sự kính trọng đối với quyền năng sinh sản và biết
ơn tổ tiên. Trong nền nông nghiệp cổ sơ, giống cái giữ vai trò quan trọng
trong sản xuất trực tiếp ra của cải, do đó các Thần - Phật Tứ Pháp cũng được
tôn thờ dưới hình tượng của các nữ thần. Tôn thờ Mẫu Phật (Man Nương),
người có công tái tạo ra một hình thức tôn giáo mới mang đậm tính bản địa,
cũng đã đưa Phật giáo thiêng liêng và huyền bí gần gũi hơn với cuộc sống
đời thường. Đây cũng là một triết lý sâu xa của tín ngưỡng thờ Tứ Pháp
trong đời sống tâm linh của người dân Việt.
Đầu tiên, Phật Tứ Pháp chỉ được thờ trong các chùa ở vùng Luy
Lâu, Bắc Ninh. Nhưng ngày nay, tín ngưỡng thờ Tứ Pháp phổ biến tại nhiều
vùng miền thuộc đồng bằng Bắc bộ. Có thể kể đến một số chùa như sau:
Tại vùng Bắc Ninh có chùa Dâu (còn gọi là chùa Cổ Châu, Diên Ứng) thờ
Pháp Vân, Pháp Vũ. Chùa Tướng (chùa Phi Tướng thờ Pháp Lôi), chùa Dàn
(chùa Phương Quang) thờ Pháp Điện. Ngoài ra còn có chùa Tổ Phúc
Nghiêm (Mãn Xá) thờ Phật Mẫu Man Nương, và các chùa Tứ Pháp Dâu,
Đậu, Dàn, Tướng đều quay hướng Tây chầu về chùa Tổ. Chùa Tứ Pháp rải
rác tại các thôn Ngọc Trì, Thuận An, Đức Nhân và Nghi An thuộc xã Trạm
Lộ (Thuận Thành, Bắc Ninh).

- Tại Hà Nội có một số hệ thống chùa thờ Tứ Pháp thờ Pháp Vân như
chùa Keo (Dâu), chùa Nành (Gia Lâm), chùa Pháp Vân, Pháp Vũ ở Thanh
Trì.
- Hà Tây có chùa Đậu (chùa Thành Đạo, chùa Vua, chùa Bà, chùa Pháp
Vũ) thờ Pháp Vũ, chùa Pháp Vân.
- Tại Hưng Yên có chùa Thái Lạc (thờ Pháp Vân), chùa Hồng Cầu thờ
Pháp Vũ, chùa Hồng Thái thờ Pháp Điện, chùa Nhạc Miếu thờ Pháp Lôi (xã
Lạc Hồng). Chùa Lạc Đạo (thờ Pháp Vân), chùa Hoằng (thờ Pháp Vũ), chùa
Tân Nhuế (Pháp Điện), Hướng Đạo (Pháp Lôi) tại xã Lạc Đạo.
- Tại Nam Định chùa Quế Lâm, chùa Do Lễ, chùa Thôn Bốn (Kim
Bảng) thờ Pháp Vân, chùa Bà Đanh (Kim Bảng), chùa Trinh Sơn (Thanh
Liêm) thờ Pháp Vũ. Chùa Đặng Xá (Kim Bảng), chùa Nứa (Duy Tiên) thờ
Pháp Lôi, chùa Bà Bầu thờ Pháp Điện (Phủ Lý).
Các ngôi chùa Tứ Pháp thường tọa lạc trên diện tích rộng, thoáng
đãng, địa thế đẹp, tụ thủy. Kiến trúc mở để thu hút khách thập phương gần
xa và tổ chức các lễ hội. Giữa các khối nhà bố trí vườn hoa, cây cảnh. Các
khu vực nhà phụ làm nơi sinh hoạt của Tăng, Ni và thờ Tổ thường được bố
trí xung quanh ẩn nấp vào cây xanh tạo nên cảnh sắc thiên nhiên giữa đạo
với đời. Trong mặt bằng kiến trúc dàn trải như thế, có những công trình kiến
trúc mang tính đột khởi tạo thành điểm nhấn, ví dụ như tháp Hòa Phong tại
chùa Dâu (giờ còn lại là kiến trúc cao 3 tầng), gác chuông tại chùa Đậu, gác
chuông gác khánh trên nóc nhà Tiền đường của chùa Nành.

Nếu như với các công trình kiến trúc Phật giáo thờ các nhân thần như
Không Lộ thiền sư (Nguyễn Minh Không) thời Lý, Nguyễn Bình An thời
Trần thì thường tồn tại kiểu thờ “Tiền Phật hậu Thánh”, Thánh được thờ sau
điện thờ Phật… Thì ngược lại, trong các ngôi chùa thờ Tứ Pháp (những vị
Thánh có nguồn gốc tự nhiên) thì hệ thống tượng thờ kiểu “Tiền Thánh hậu
Phật”, đẩy hệ thống tượng Tứ Pháp lên trên hệ thống tượng Phật. Tuy nhiên,
hiện nay, các công trình được trùng tu lại đều được bố trí theo kiểu “Tiền

Phật hậu Thánh”. Vì vậy, ta gặp hầu hết các tòa cung cấm là nơi thờ Thánh,
căn trước thượng điện mới là nơi thờ Phật.
Tượng trong hệ thống Tứ Pháp đều rất cao lớn, (tư thế ngồi thiền cao
khoảng 1,5m) thường tạc ở tư thế thân thẳng, tay phải giơ lên, tay trái để
trên đùi cầm chuỗi ngọc. Các pho tượng có tóc xoăn màu đen, nhục khảo nổi
cao, tai dài, tọa trên đài sen, gương mặt đẹp với những nét thuần Việt, đức
độ. Những pho tượng tạc từ thế kỷ XVI đầu XVII mặc áo sát người (tượng
Pháp Vân, chùa Dâu), còn muộn hơn thường để mình trần mặc váy (tượng
Pháp Vân, chùa Nành). Thường các tượng Tứ Pháp sơn màu gụ bóng (tổng
hợp màu đỏ của máu và màu đen của mây đen tượng trưng cho nguồn sống
và sự huyền bí).
2.1.3. Ý nghĩa thờ tứ pháp.
Xét bản chất sâu xa, tín ngưỡng Tứ Pháp bắt nguồn từ quan niệm vạn
vật hữu linh. Đây là một quan niệm tối cổ của con người trong quá trình
sống phải đối mặt với muôn vàn khó khăn do mà thiên nhiên tạo ra. Quan
niệm vạn vật đều có linh hồn, người nguyên thủy nhìn thấy đằng sau mỗi
hiện tượng tự nhiên đều có một vị thần. Vị thần đó quyết định sự vận hành
của vũ trụ, trong đó có đời sống con người, đặc biệt, đối với một vùng đất
nông nghiệp trồng lúa nước. Quan niệm về thần Mưa, thần Gió hẳn đã ăn
sâu vào tâm thức người dân Việt từ xa xưa, trước khi Phật giáo đặt chân tới
mảnh đất này. Đến khi Phật giáo vào Việt Nam, các nhà sư đã nhìn thấy rõ
điều đó và nhận thấy nếu Phật giáo muốn bén rễ vào mảnh đất này thì phải
có sự dung hòa với tín ngưỡng dân gian. Nhận thức ấy không sai lầm, và đó
là nguyên nhân sâu xa của cuộc hôn phối tinh thần giữa một người con gái
bản địa (tượng trưng cho tín ngưỡng dân gian) với một vị chân tu thông tuệ
(tượng trưng cho một tôn giáo lớn). Kết quả của sự giao thoa văn hoá ấy là
hệ thống Tứ Pháp, bốn vị Phật mang đậm tính chất dân gian của người Việt
mà có người gọi không sai là Phật giáo dân gian.
Những chùa Tứ Pháp trước kia thường được dân làng và dân trong
vùng tổ chức các lễ cầu đảo mỗi khi hạn hán. Ở Tứ Pháp, tồn tại cả linh khí

dân tộc và cả sức mạnh truyền thống, phù giúp cho xã hội hiện tại và góp
phần làm nên bản sắc riêng biệt cho Phật giáo Việt Nam. Người dân tin
rằng, những vùng miền nào rước chân nhang về thờ Tứ Pháp thì ở đó được
mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Với đức Phật Tứ Pháp, hình ảnh đức
Phật Ấn Độ đã mang một nội dung mới, mang nặng yếu tố bản địa, một đức
Phật quyền năng, gần gũi với nhân dân và phò trợ cho dân tộc. Có thể nói,
tín ngưỡng Tứ Pháp là một trong những chỗ dựa về tâm linh của người Việt
qua nhiều thời đại, và tồn tại cho đến tận ngày naỵ
Tiểu kết
Không phải ngẫu nhiên tín ngưỡng Tứ pháp được định hình và phát triển
trong buổi đầu Phật giáo du nhập vào nước ta, thể hiện ý thức độc lập tự chủ
trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và kết nối tinh thần đoàn kết toàn
dân trong việc chống lại sự đồng hóa phong kiến Trung Hoa trị vì. Tới nay,
tín ngưỡng thờ tứ pháp đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm mong tìm về
cốt lõi khởi nguyên và vẻ đẹp muôn đời muôn thuở của tâm linh nông dân
Việt, để tìm lấy một số yếu tố thuộc bản sắc văn hóa dân tộc.
Thời gian qua, tín ngưỡng thờ tứ pháp chính thống đã được bảo tồn, hội
nhập với văn hóa Việt Nam trong hai ngàn năm qua đã từng bước khẳng
định vai trò to lớn trong lịch sử, đáp ứng đời sống tinh thần của người Việt,
phục vụ lợi ích của dân tộc và đời sống tâm linh bức thiết của con người.
CHƯƠNG II:
Vài nét về hệ thống thờ tứ pháp ở
xã Lạc Hồng – Hưng Yên.
2.1. Vài nét về hệ thống thờ tứ pháp ở xã Lạc Hồng – Hưng Yên.
2.1.1 Vài nét về huyện Văn Lâm - Hưng Yên
* Vị trí địa lý.
Văn Lâm là huyện nằm ở phía bắc tỉnh Hưng Yên, phía bắc và đông
bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía tây giáp thủ đô Hà Nội, phía nam giáp các
huyện Văn Giang, Yên Mỹ và Mỹ Hào, phía đông giáp tỉnh Hải Dương.
Huyện Văn Lâm có 11 đơn vị hành chính xã, thị trấn.

+ Thị trấn Như Quỳnh diện tích hành chính là 7,07 km2.
+ Xã Lạc Đạo diện tích hành chính là 8,58 km2.
+ Xã Chỉ Đạo diện tích hành chính là 5,97 km2.
+ Xã Đại Đồng diện tích hành chính là 8,03 km2.
+ Xã Việt Hưng diện tích hành chính là 7,55 km2.
+ Xã Tân Quang diện tích hành chính là 6,02 km2.
+ Xã Đình Dù diện tích hành chính là 4,48 km2.
+ Xã Minh Hải diện tích hành chính là 7,73 km2.
+ Xã Lương Tài diện tích hành chính là 8,89 km2.
+ Xã Trưng Trắc diện tích hành chính là 4,90 km2.
+ Xã Lạc Hồng diện tích hành chính là 5,20 km2.
* Lịch sử - văn hóa.
Huyện Văn Lâm là huyện đồng bằng , nằm ở phía Bắc tỉnh Hưng Yên.
Phía Tây giáp thủ đô Hà Nội, phía Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía Nam giáp
các huyện Văn Giang, Mỹ Hào, phía Đông giáp tỉnh Hải Dương. Văn Lâm
có quốc lộ 5 chạy qua và đường sắt Hà Nội – Hải Phòng chạy suốt từ Đông
sang tây, đây cũng chính là điều kiện thuận lợi để Văn lâm giao lưu trực tiếp
với trung tâm kinh tế, văn hoá lớn quan trọng của các tỉnh phía Bắc.
Mặc dù huyện Văn Lâm mới được hình thành từ năm 1890, nhưng
vùng đất Văn Lâm đã có truyền thống văn hiến, văn hoá lâu đời: Do lịch sử
hình thành nên văn hoá Văn Lâm in đậm nền văn hoá văn minh lúa nước
(đồng bằng sông Hồng), mang nền văn hoá kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh Kỳ

×