Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tổng hợp lý thuyết ôn thi môn Ngân hàng Phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.37 KB, 28 trang )

I.Lý do ra đời của các NHPT :
1. Xuất phát từ nhu cầu “cần một tổ chức có thể tài trợ cho tất cả các dự án phát triển”
Có nhiều nguồn tài trợ cho dự án phát triển, , bao gồm: nguồn ngân sách nhà nước, từ các tổ chức tài chính quốc
tế, vay ngân hàng thương mại hoặc từ những người hưởng lợi từ dự án. Tuy nhiên, mỗi nguồn tài trợ có những
đặc điểm khác nhau và chỉ thích hợp cho một hoặc một số dự án nhất định. Từ đó làm nảy sinh nhu cầu cần có
nguồn tài trợ rộng nhất, bao trùm nhất, có thể tài trợ cho tất cả các dự án. Và NHPT ra đời như là một điều tất
yếu, vì nguồn tài trợ của nó đảm bảo đủ 3 yêu cầu: tập trung với khối lượng lớn trong thời gian ngắn, lãi suất
thấp và thời gian sử dụng dài. Mặt khác, NHPT không chỉ đơn thuần là giải ngân, cấp tín dụng cho các dự án
mà trước đó nó cũng thực hiện các nghiệp vụ như một ngân hàng thương mại, tức là cũng có phân tích, thẩm
định các dự án dựa trên nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng ; người vay phải đảm bảo hoàn trả vốn và lãi
sau thời gian cam kết. Đồng thời NHPT cũng phải quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn của các dự án, có biện
pháp phòng ngừa rủi ro, có thể gợi ý hoặc hỗ trợ nếu các dự án gặp khó khăn… Như vậy đối tượng phục vụ của
NHPT được mở rộng ra rất nhiều, từ những dự án quy mô trung bình cho tới những dự án lớn, có ảnh hưởng
quan trọng tới sự phát triển của vùng, ngành hoặc liên quan đến phân phối thu nhập cho các tầng lớp dân cứ
nghèo, cải thiện môi trường….
2.Đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho phát triển kinh tế
Để nền kinh tế phát triển thì nhu cầu vốn là rất lớn, đặc biệt vốn trung và dài hạn, ví dụ như:
+ Nhu cầu về cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng cho phát triển giao thông, thương mại mậu
dịch, điện nước, y tế giáo dục… nhằm nâng cao giá trị cuộc sống.
+ Nhu cầu của các doanh nghiệp: đầu tư mới trang thiết bị máy móc, mở rộng quy mô sản xuất nhằm
tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải hơn cho xã hội.
Tuy nhiên những nguồn để đáp ứng nhu cầu trên là rất hạn chế, đặc biệt tại các nước đang phát triển. Nguyên
nhân do:
- Hệ thống NHTM với nguồn vốn ngắn hạn là chủ yếu, chỉ tập trung cho vay ngắn hạn.
+ Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn thấp và kì hạn thường chỉ từ 3 đến 7 năm => Kỳ hạn cho vay của
nhiều NHTM không phù hợp với các công trình xây dựng cơ bản có quy mô lớn và sử dụng trong thời gian dài,
thu hồi vốn chậm.
+ Thị trường nợ kém phát triển => các tài sản chủ yếu của NHTM kém thanh khoản vì vậy sẽ rất rủi ro nếu
sử dụng các nguồn có kỳ hạn ngắn 1 - 3 năm để cho vay 10 - 20 năm.
+ Sự thay đổi tỷ giá theo hướng giảm giá nội tệ khiến NHTM rất khó khăn khi cung cấp các khoản cho vay
trung và dài hạn bằng ngoại tệ. Mà đây là nguồn vốn rất cần thiết để các doanh nghiệp nhập thiết bị từ nước


ngoài.
- Thị trường vốn trung, dài hạn không có koặc kém phát triển.
Nhu cầu đầu tư dài hạn thường đáp ứng thông qua thị trường vốn dài hạn, hoặc thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên, cả hai loại thị trường này đều đang bị hạn chế tại các nước đang phát triển. Thị trường chứng khoán ở
những nước này thường chậm phát triển hoặc phát triển “méo mó” do sự can thiệp sâu của Nhà nước, thể hiện ở
hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, gò bó kìm nén sự phát triển của thị trường. Đồng thời, thu hút vốn đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài là kênh gọi vốn dài hạn quan trọng song bị hạn chế bởi môi trường đầu tư chưa hấp dẫn,
hoặc bởi giới hạn trong lĩnh vực đầu tư đối với nước ngoài.
- Chi ngân sách cho phát triển kinh tế bị hạn chế.
Nguyên nhân do thu ngân sách nghèo nàn, tăng trưởng chậm trong khi nhu cầu chi thường xuyên ngày càng lớn,
do đó tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển bị hạn chế. Đồng thời nhiều khoản chi đầu tư đã bị giảm hiệu quả lớn do
tình trạng tham nhũng và trình độ quản lý yếu kém trong bộ máy chính phủ.
*Những nguyên nhân trên đã tạo ra khoảng cách lớn giữa cung và cầu trên thị trường tài chính dài hạn. Một
trong những chính sách giải quyết là xây dựng một loại hình tổ chức tài chính có khả năng thu hút và cung cấp
các nguồn vốn trung và dài hạn có hiệu quả cho các dự án phát triển. Đó chính là NHPT.
3.Thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong tài trợ dài hạn (chính sách tín dụng có hạn chế và ưu tiên,
chương trình tín dụng chỉ định)
Xuất phát từ công thức của phát triển kinh tế:
Phát triển kinh tế = Tăng trưởng kinh tế + chuyển dịch cơ cấu kinh tế + tiến bộ xã hội
Trong đó, mục tiêu tăng trưởng kinh tế có thể được thực hiện thông qua các dự án thương mại. Còn mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hiện đại, hợp lý và mục tiêu đảm bảo xã hội ngày càng tiến
bộ, văn minh thì chỉ có thể thực hiện qua các dự án phát triển. Tuy nhiên, có 2 vấn đề lớn cần giải quyết, đó là:
- Thứ nhất, các dự án phát triển có khả năng sinh lời thấp nhưng rủi ro lại cao hơn các dự án thông thường, nhất
là các dự án trong các ngành công nghiệp mũi nhọn và dự án đầu triển khai tại vùng nông thôn.
- Thứ hai, nhiều NHTM không sẵn sàng đầu tư vào dự án phát triển do phần lớn các khoản tín dụng của NHTM
đòi hỏi phải có tài sản thế chấp và phải có hiệu quả tài chính theo cơ chế thị trường. Sự khan hiếm nguồn vốn
làm cho lãi suất các nguồn tài chính này rất đắt, không thích hợp với các dự án phát triển dài hạn có tỷ lệ sinh
lời thấp, rủi ro cao và thường không có tài sản đảm bảo.
*Hai vấn đề trên cho thấy NHTM không phải là tổ chức có khả năng tài trợ cho các dự án phát triển, do đó
NHPT ra đời như là một tổ chức tài chính thực hiện và kiểm soát chính sách tài trợ ưu tiên có hạn chế của

Chính phủ nhằm thực hiện các công cụ đầu tư đặc biệt. Các hoạt động của NHPT nhằm mục đích xã hội nhiều
hơn là mục đích kinh tế, có tính chất hỗ trợ nhiều hơn là kinh doanh, đảm bảo thực hiện được các dự án phát
triển góp phần đảm bảo các lợi ích xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
4.Yêu cầu thực hiện các mục tiêu phát triển có hiệu quả
Một dự án phát triển hướng tới nhiều mục tiêu khác nhau: tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, thu hẹp
khoảng cách giàu nghèo giữa các khu vực, bảo vệ môi trường sinh thái… nhưng vẫn cố gắng thu lợi nhuận ở
một mức nhất định. Các mục tiêu này trong nhiều trường hợp tự mâu thuẫn với nhau và gây cản trở hoạt động
của các thể chế tài chính theo cơ chế thị trường, chủ yếu hoạt động vì lợi ích kinh tế.
Mặc dù thực hiện mục tiêu phát triển nhưng các dự án phát triển lại không thích hợp hoàn toàn với phương pháp
cấp phát ngân sách, do có nguồn thu trực tiếp từ bán sản phẩm của dự án. Chính phủ sử dụng nguồn vốn tín
dụng để tài trợ cho các dự án phát triển vì:
- Ngân sách Nhà nước nghèo nàn, lại phải ưu tiên cho các dự án không thể hoàn lại vốn. Trong khi
đó nhiều dự án phát triển tạo nguồn thu trực tiếp, có khả năng sinh lời, có khả năng hoàn trả, có thể
và cần thiết phải tiếp cận với nguồn vốn tín dụng. Áp lực trả vốn và lãi buộc chủ đầu tư phải tìm
kiếm và thực hiện các dự án có hiệu quả tài chính rõ ràng dù mức sinh lời thấp và rủi ro cao, đồng
thời phải thực hiện các giải pháp tăng tính hiệu quả tài chính của dự án.
- Tài trợ bằng cách cho vay có nhiều ưu thế: vốn của Nhà nước thường được cộng thêm vốn đối
ứng huy động trên thị trường, tạo điều kiện mở rộng quy mô cho dự án phát triển. Kết quả của việc
hoàn trả là nguồn vốn của Nhà nước được tái tạo, tiếp tục 1 hoạt động tài trợ mới. Ngoài ra, tài trợ
ưu đãi qua chương trình tín dụng của Chính phủ được thực hiện có hiệu quả thông qua hoạt động của
NHPT, vì NHPT là tổ chức tài chính, là công cụ đầu tư đặc biệt của Chính phủ. Như vậy ngoài việc
cung cấp các nguồn tài trợ trung và dài hạn cho các dự án, NHPT còn cung cấp với 1 số điều kiện ưu
đãi hơn mà các tổ chức tín dụng khác không có.
*Như vậy, NHPT đc thành lập nhằm tài trợ các loại hình đầu tư phát triển có hiệu quả tài chính.
II.Quan niệm và đặc điểm của NHPT
1,Quan niệm:
Là tổ chức tín dụng mà hoạt động chủ yếu là tài trợ trung và dài hạn cho các dự án phát triển
1.1. Hoạt động :
1.1.1. Huy động và quản lý vốn
* Yêu cầu với nguồn vốn

Nguồn vốn của ngân hàng phải đảm bảo kỳ hạn và lãi suất
Hoạt động chủ yếu là tài trợ cho các dự án dài hạn có knăng sinh lời thấp hoặc rủi ro cao,nên nhpt phải
có nguồn vốn hỗn hợp với lãi suất tương đối thấp, thời gian sử dụng dài và chấp nhận rủi ro
-Các hình thức huy động :
+Huy động tiền gửi trên thị trường :
* Huy động chủ yếu thông qua mở tài khản thanh toán cho các dự án và các DN vay theo dự án
*Các khoản tiền gửi của dân cư chủ yếu là tiết kiệm trung và dài hạn với lãi suất cao,thời hạn dài
+NH phát hành giấy nợ trung và dài hạn :
*Huy động các quỹ của nhà nước (tài trợ của nhà nước cho dự án phát triển)
*Huy động các khoản tài trợ từ các tổ chức khác
*Vay nước ngoài(song phương,đa phương hoặc từ các tổ chức tài chính phát triển)
*Tài trợ từ ngân hàng TW
*Vốn và quỹ của ngân hàng
- Quản lý nguồn vốn :
Chiến lược nguồn vốn của ngân hàng là khai thác triệt để các nguồn hỗ trợ từ chính phủ,các tổ chức tài
chính,tiết kiệm trung và dài hạn của dân cư. Huy động vốn trung và dài hạn :
+Liên kết các sự án trong nước và các nhà tài trợ nước ngoài được coi là hoạt động quan trọng
trong huy động vốn: Đòi hỏi ngân hàng phải am hiểu và nhạy bén với các điều kiện chính trị xã hội mà
nhà tài trợ đưa ra (Nghiên cứu nhà tài trợ,các nhân tố ảnh hưởng đến nhà tài trợ,tìm kiếm các dự án thích
hợp với từng nhà tài trợ).
+ NH kêu gọi tài trợ: Xây dựng các phương án xin tài trợ,gặp các nhà tài trợ thuyết minh tính cấp thiết của dự
án,kế hoạch thực hiện,chi phí ngân sách…
+ NH xác lập mối quan hệ giữa chính phủ và ngân hàng trong tài trợ dự án
+ NH phát hành giấy nợ : Việc phát hành giấy nợ gồm có : Xác định mệnh giá,loại tiền ; xác định thời điểm và
địa điểm ; khả năng chuyển nhượng ; xây dựng phương án phát hành ; xác định tỉ lệ thích hợp của nguồn vay
mượn
+ NH dự báo các nhân tố ảnh hưởng đến huy động tiết kiệm trung và dài hạn
- Quản lý kỳ hạn và chi phí của nguồn :
Để đảm bảo mức sinh lời hợp lý,ngân hàng duy trì tài sản thanh khoản ở mức rất thấp. Do vậy quản lý nguồn
vốn bao gồm :

+ Tính toán chi phí huy động nhằm đảm bảo nguyên tắc kinh doanh có lãi : Các dự án khác nhau cần
tính toán mức chi phí nguồn vốn khác nhau .Kỳ hạn nguồn vốn rất quan trọng đối với hoạt động cho
vay của NHPT (kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao)
+Quản lý thanh khoản
1.1.2. Sử dụng vốn :
NHPT thực hiện mục tiêu kinh doanh thông qua sử dụng vốn hình thành các khoản mục tài sản
-Các loại tài sản :
+ Ngân quỹ:
*Tiền mặt trong két,tiền gửi tại NHTW và các NH khác , thường chiếm tỷ trọng nhỏ
* Nguồn phát hành trái phiếu và tiết kiệm trung và dài hạn thường ổn định nên NH có thể dự đoán quy
mô và thời điểm để trả có kế hoạch thu nợ và huy động phù hợp
* Thường xuyên trả lãi cho các khoản tiết kiệm và trái phiếu
+ Tài trợ ngắn hạn : Quy mô tài trợ ngắn hạn nhỏ chủ yếu trong các dự án phát triển mà do NH tài trợ
trung và dài hạn
+ Tài trợ theo dự án( trung và dài hạn): Là hoạt động quan trọng của NHPT.Có thể chia theo các tiêu
thức khác nhau sau :
*Tài trợ theo dự án được chỉ định trước của chủ tài trợ
* Tài trợ theo dự án do NH khai thác và tìm kiếm
*Tài trợ theo dự án với nguồn vốn ưu đãi
* Tài trợ theo dự án với nguồn vốn thị trường
* Tài trợ độc lập
+Các tài sản khác
* Đầu tư trực tiếp vào các ngành kinh tế : NHPT tham gia trực tiếp vào hoạt động của các dự án
và các doanh nghiệp thông qua mua cổ phần. Theo cách này NH trực tiếp chia sẻ rủi ro với các chủ đầu

* Cho thuê: NHPT có thể tài trợ cho các dự án thông qua cho thuê.Hình thức này thích hợp với
các dự án có vốn tự có ít
- Quản lý tài sản :
Xác định ngân quỹ của NH trong mối quan hệ với nhu cầu thanh khoản trong trung và dài hạn
Phần lớn các khoản tiền gửi và cho vay đều là trung và dài hạn,do vậy NHPT phải tính toán nhu cầu

thanh khoản chu kỳ và xu hướng nhằm đảm bảo ngân quỹ hợp lý
+Quản lý rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái:
* Rủi ro lãi suất : Một trong các biện pháp giảm rủi ro lãi suất là áp dụng lãi suất thả nổi,tuy
nhiên áp dụng biện pháp này cho các dự án dài hạn với khả năng sinh lời thấp là rất khó khăn, do việc ra
tăng lãi suất sẽ trở thành gánh nặng tài chính mà nhiều dự án không vượt qua được.NHPT thường áp
dụng các biện pháp san sẻ rủi ro giữa người cho vay và người đi vay bằng cách đặt ra nhiều kỳ hạn trả
nợ nhằm giảm bớt rủi ro lãi suất
*Rủi ro hối đoái : Nhiều khoản vay từ nước ngoài của NHPT dưới hình thức ngoại tệ mạnh,do
vậy nếu NH cho vay lại bằng nội tệ thì phải đối đầu với rủi ro hối đoái. NH có thể áp dụng biện pháp
cho vay bằng ngoại tệ hoặc sử dụng giá thả nổi để chuyển rủi ro hối đoái lên khách hàng
+Quản lý các khoản cho vay và tính sinh lời của tài sản: Nội dung quản lý thanh khoản cho vay bao
gồm
* Xác định quy mô và tỷ trọng các khoản cho vay ưu đãi theo chỉ thị của chính phủ
* Xác định rủi ro từ các dự án
* Tìm kiếm phân tích thẩm định các dự án phát triển phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế
của quốc gia
1.1.3 Các hoạt động khác : bảo lãnh , tư vấn . hỗ trợ đầu tư
1.2. Vai trò
Ngân hàng phát triển có vai trò đặc biệt như là một công cụ của nhà nước trong việc đánh giá , khuyến
khích và tài trợ các dự án phát triển.
- NHPT là một tổ chức phát triển kinh tế có nhiệm vụ tập trung các nguồn vốn trung, dài hạn để đầu tư
có trọng điểm và ưu đãi cho các dự án phát triển.
Vai trò này của ngân hàng được thể hiện thông qua :
+Các mục tiêu phát triển mà ngân hàng theo đuổi :
Hoạt động chính của NHPT là tài trợ cho các dự án phát triển nhằm phát triển công nghiệp và nông
nghiệp. Thông qua cho vay trung hạn và dài hạn , ngân hàng khuyến khích phát triển cơ sở hạ tầng , phát
triển doanh nghiệp , thay đổi cơ cấu thu nhập và cơ cấu kinh tế …
+ các loại dự án mà ngân hàng tài trợ :
NHPT tài trợ cho các dự án có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của vùng , nghành hoặc liên quan
đến phân phối thu nhập cho các tầng lớp dân cư nghèo , cải thiện môi trường … kết hợp mục tiêu tài

chính và các mục tiêu xã hội khác .
+ Các nghiệp vụ chính mà NHPT thực hiện :
a ) Tìm kiếm các dự án theo định hướng chính phủ
b ) Phân tích thẩm định các dư án , tính toán các mục tiêu xã hội bên cạnh mục tiêu kinh tế nhằm đảm
bảo thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển
c ) Tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức tài chính khách.
- NHPT khuyến khích và duy trì hiệu quả kinh tế của các dự án .
NHPT về cơ bản là một tổ chức tín dụng , hoạt động trên cơ sở lấy thu bù chi và có lãi , dựa trên tính
chất này mà ngân hàng được phân biệt với các tổ chức quản lý và hành chính khác . Ngân hàng tìm kiếm
lợi nhuận thông qua tài trợ cho các dự án , có nghĩa là thu tư các dự án phải đủ bù đắp chi phí của ngân
hàng và có thặng dư thích hợp . Các khoản tài trợ của ngân hàng tuân theo nguyên tắc cơ bản của chế độ
tín dụng ngân hàng: Người vay phải hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian . Để thực hiện được nguyên
tắc này , ngân hàng phải tim kiếm các dự án có hiệu quả kinh tế , quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn của
dự án , có biện pháp phòng ngưa rủi ro … qua đó ngân hàng thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả tài
chính của các chủ đầu tư.
- NHPT hỗ trợ các doanh nghiệp và các vùng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa là chiến lược tất yếu của mọi quốc gia trên con đường phát triển kinh
tế . Một trong những yêu cầu phát triển kinh tế có hiệu quả của các nước dang phát triển là công nghiệp
hóa phù hợp với tăng trưởng kinh tế . Trong điều kiện công nghệ còn lạc hậu , nguôn vốn khan hiếm , để
phát triển nhanh chóng rất cần phải tập trung các nguôn lực phát triển công nghệ vào một số đầu mối
chính nhằm đầu tư cho các loại hình công nghệ chủ lực phù hợp với điều kiện của đất nước . NHPT
được sử dụng như là thể chế phát triển vể công nghệ khi tài trợ cho dư án thuộc các nghành kinh tế mũi
nhọn , các dự án phát triển sản phẩm mới , hoặc ứng dụng công nghệ mới .
Vai trò này thể hiện :
a ) Khi dự án cần thiết bị và công nghệ , NHPT có thể phục vụ bằng cách cho vay để nhập thiết bị và
công nghệ.
b ) Ngân hàng có khả năng đánh giá công nghệ không chỉ là xu hướng phát triển công nghệ trong nước
và trên thế giới mà còn gợi ý những khả năng thay thế phù hợp với hoàn cảnh địa phương.
c ) Ngân hàng giúp chủ đầu tư nhập công nghệ mà họ có khả năng vận hành, duy trì và sửa chữa .
d ) NHPT còn được sử dụng để phát triển các vùng trọng điểm hoặc các vùng còn lạc hậu thông qua cho

vay trung và dài hạn các dự án cải tạo và phát triển giao thông, điện nước…
- Hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa.
Thực hiện chính sách tín dụng XK như cho vay XK, bảo lãnh tín dụng XK, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh
thực hiện hợp đồng XK.
- Thúc đẩy thị trường tài chính phát triển.
NHPT đã và đang chứng tỏ mình không chỉ là một công cụ đắc lực của Chính phủ trong tài trợ đầu tư và
xuất khẩu mà còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển thị trường tài chính với sự đa dạng về dịch
vụ và hoạt động năng động trên thị trường vốn khu vực và quốc tế; tiềm lực tài chính mạnh.Cung ứng
các dịch vụ thanh toán cho khách hàng và tham gia hệ thống thanh toán trong nước và quốc tế phục vụ
các hoạt động của Ngân hàng Phát triển theo quy định của pháp luật
2.ĐẶC ĐIỂM
Phân tích tên gọi “ngân hàng phát triển” để hiểu đây cũng là một hình thức ngân hàng, tức là nó vẫn sẽ mang
các đặc điểm cơ bản của một ngân hàng. NHPT cũng là một tổ chức tín dụng, hoạt động trên cơ sở lấy thu bù
chi và có lãi. Dựa trên tính chất này mà NHPT được phân biệt với các tổ chức quản lý và hành chính khác. Tuy
nhiên, cũng như sự giống và khác nhau giữa “dự án phát triển” và “dự án thương mại”, ngân hàng phát triển
cũng có những điểm khác biệt so với ngân hàng thương mại, để có thể thực hiện tốt nhất mục tiêu “hướng đến
các lợi ích xã hội” của mình.
 NHPT là một tổ chức tài chính được sự hỗ trợ của Chính phủ : Hầu hết các NHPT trên thế giới
đều có sự tham gia và hỗ trợ rất lớn của Chính phủ. Ở Việt Nam, NHPT là tổ chức tài chính của
Chính phủ, có nhiệm vụ tổ chức nguồn vốn cho dự án phát triển, nguồn tài trợ của Chính phủ dưới
hình thức cấp tín dụng được thực hiện thông qua NHPT. Nói cách khác, NHPT hoạt động nhằm
phục vụ chính sách phát triển của Nhà nước. Do đó NHPT được hưởng một số ưu đãi nhất định từ
phía Nhà nước, ví dụ như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0%, không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi;
được Chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà
nước theo quy định của pháp luật….
 Bên cạnh nguồn tài trợ từ Chính phủ, NHPT còn có khả năng tự huy động trên thị trường vốn, do
đó NHPT có thể tài trợ một cách đa dạng với nhiều loại lãi suất, hình thức khác nhau. Do đó thích
hợp cho nhiều loại dự án phát triển khác nhau. Thông qua NHPT, vốn ưu đãi được quay vòng có
hiệu quả.
 Phương thức hoạt động chủ yếu là đầu tư trung và dài hạn cho các công trình kinh tế trọng điểm,

hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển thông qua đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ. Điều này hoàn toàn
tương ứng với đặc điểm của các dự án phát triển, chủ yếu là các dự án trung và dài hạn. Các nghiệp
vụ chính mà NHPT thực hiện là:
- Tìm kiếm các dự án theo định hướng của Chính phủ.
- Phân tích, thẩm định các dự án, tính toán các mục tiêu xã hội bên cạnh mục tiêu kinh tế nhằm
đảm bảo thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển.
- Tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức tài chính khác.
Qua 3 đặc điểm cơ bản trên, có thể thấy sự khác biệt cơ bản và những ưu điểm vượt trội của NHPT trong việc
tài trợ cho các dự án phát triển
So sánh Ngân hàng phát triển và Ngân hàng thương mại
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIẺN
Hình thức sở hữu
NHTM có thể ở nhiều dạng khác nhau: NHTM
quốc doanh, NHTM tư nhân, NHTM cổ phần,
NHTM liên doanh, NHTM 100% vốn nước
ngoài
NHPT là một tổ chức tài chính được sự hỗ trợ
của Chính phủ, NHPT VN có 100% vốn nhà
nước
Mục tiêu hoạt động
Tìm kiếm lợi nhuận thông qua các
hoạt động trung gian tín dụng , trung
gian thanh toán
NHPT VN được thành lập vào năm 2006 với mục tiêu thực
hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng xuất
khẩu của nhà nước
Huy động vốn
• Huy động tiền gửi không kì hạn
từ các tổ chức và dân cư
• Huy động tiền gửi có kì hạn

• Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
• Phát hành các giấy tờ có giá: trái
phiếu, tín phiếu…
• Vay của ngân hàng nhà nước: vay
thế chấp, vay tái cấp vốn
• Vay từ các tổ chức tín dụng khác:
liên ngân hàng
• Vay nước ngoài
• Vốn tự có của ngân hàng
• Huy động tiền gửi trên thị trường
chủ yếu trung hạn dài hạn thông qua việc
mở tài khoản thanh toán phục vụ các dự
án hoặc các doanh nghiệp
• Phát hành các giấy nợ trung và
dài hạn
• Huy động các quỹ của nhà nước
• Huy động các khoản tài trợ từ các
tổ chức khác
• Vay nước ngoài, vay thông qua
thị trường quốc tế có đảm bảo của Nhà
Nước
• Tài trợ từ Ngân hàng Nhà Nước
• Từ vốn và quỹ của Ngân hàng
Sử dụng vốn
• Nghiệp vụ ngân quỹ
o Tiền mặt tại quỹ
o Tiền gửi tại Ngân hàng
nhà nước
o Tiền gửi tại các ngân hàng
• Nghiệp vụ ngân quỹ

o Tiền mặt tại quỹ
o Tiền gửi tại các ngân hàng
khác
o Tiền gửi tại Ngân hàng
khác
• Nghiệp vụ cho vay
o Chiết khấu thương phiếu
o Cho vay ứng trước
o Cho vay vượt chi
o Bao thanh toán hay tín
dụng ủy thác thu
o Cho vay thuê nhà
o Tín dụng bằng chữ kí
o Tín dụng tiêu dùng
• Nghiệp vụ đầu tư
o Trái phiếu chính phủ
o Trái phiếu công ty
o V v
• Đầu tư vào tài sản có khác như:
trang thiết bị ngân hàng
• Dịch vụ ngân hàng:
o Dịch vụ thanh toán
o Kinh doanh ngoại hối
o Ủy thác và đại lý
o Cung ứng tư vấn tài
chính…
Nhà Nước
(Tuy nhiên khoản mục này thường chiếm rất
nhỏ)
• Tài trợ ngắn hạn: rất ít

• Tài trợ các dự án trung dài hạn:
Là hoạt động quan trọng, phản ánh mục
tiêu chính của ngân hàng, gồm các hình
thức:
o Tài trợ theo chỉ định trước
của chủ đầu tư
o Dự án do Ngân hàng tự
khai thác và tìm kiếm
o Dự án với nguồn ưu đãi
o Tài trợ độc lập hoặc đồng
tài trợ
• Đầu tư vào các tài sản khác
Một số đặc điểm khác
• NHTM phải dự trữ bắt buộc theo
quy định của NHNN
• Được phép nhận tiền gửi của dân

• Kinh doanh dựa trên mục tiêu lợi
nhuận
• Có hệ thống chi nhánh rộng khắp
trên các tỉnh thành quận huyện
• Kinh doanh và nộp thuế theo quy
• Không phải dự trữ bắt buộc
• Không được phép nhận tiền gửi
của dân cư
• Không vì mục tiêu lợi nhuận
• Chỉ tập trung ở một vài nơi
định của nhà nước như các doanh nghiệp
khác
• Ngân hàng thương mại có khả

năng mở rộng tiền gửi không kì hạn từ
một khoản ban đầu (chức năng tạo tiền
của NHTM)
• Được chính phủ bảo lãnh thanh
toán và không phải đóng thuế và các
khoản nộp khác cho Ngân sách Nhà nước
• Không có chức năng này
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN
1. Nhân tố 1 : Mục tiêu và phương thức hoạt động của ngân hàng
1.1. Mục tiêu và phương thức hoạt động của NHPT
1.1.1.Mục tiêu hoạt động của NHPT
NHPT Hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, phục vụ phát triển kinh tế
1.1.2. Phương thức hoạt động của NHPT
Ngân hàng sử dụng nguồn vốn đặc biệt cho các mục tiêu ưu đãi làm cho tình hình tài chính của NHPT
gặp nhiều khó khăn khi các nguồn vốn ưu đãi giảm sút.
NHPT phải cho vay các đối tượng ưu đãi, phải chịu đựng rủi ro tín dụng và rủi ro hối đoái lớn.
=>Trong trường hợp như vậy nếu đánh giá hiệu quả hoạt động của NHPT không chỉ đơn thuần dựa vào
yếu tố lợi nhuận.
* Các hoạt động của NHPT ở một số nước, khu vực
- huy động và tiếp nhận vốn trong và ngoài nước, khu vực.
- Thực hiện chính sách TDĐT: Cho vay đầu tư, hỗ trợ sau đầu tư, bảo lãnh TDĐT.
- Ngoài ra các hoạt động của NHPT gồm thực hiện chính cho vay, bảo lãnh, nhận ủy thác nguồn vốn của
chính phủ nước đó trao,cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng , NHPT của mỗi nước đều hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực TDĐT phát triển và TDXK
1.2. Đánh giá ảnh hưởng của mục tiêu và phương thức hoạt động đến hiệu quả hoạt động của NHPT
- NHPT thực thi hiệu quả chính sách TDĐT, TDXK của mỗi nước sẽ góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, đẩy mạnh XK nước đó, tạo nhiều việc làm cho người dân trong nước.
- Qua mục tiêu hoạt động của NHPT ta thấy được vai trò to lớn của NHPT nhờ việc huy
động
và tài trợ

vốn cho các dự án phát triển, đặc biệt là các dự án trọng điểm của quốc gia,
NHPT
ngày càng tham gia đắc
lực hơn vào sự nghiệp phát triển kinh tế.
- NHPT mỗi nước không chỉ góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài
chính trong nước mà còn
liên kết quốc gia đó với thị trường tài chính nước ngoài, hoặc NHPT của 1 khu vực có tác động liên kết tài chính
giữa các nước trong khu vực
- Hơn nữa NHPT sẽ tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của nền kinh
t
ế
=> Tuy nhiên cũng do phương thức và mục tiêu của NHPT phục vụ dự án, chương trình với hỗ trợ lãi
suất, thời hạn…nên các NHPT gặp khó khăn ảnh hưởng đến hiệu quả như
Rủi ro tín dụng gia tăng,
Rủi ro thanh
khoản ở mức
cao
, tính khả dụng của vốn điều lệ thấp, rủi ro tài chính cũng là vấn đề rất lớn.

2. Nhân tố 2 : Các dự án mà ngân hàng tài trợ
2.1. Dự án mà NHPT tài trợ
NHPT tài trợ cho các dự án có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của vùng , ngành hoặc liên quan
đến phân phối thu nhập cho các tầng lớp dân cư nghèo, cải thiện môi trường…kết hợp các mục tiêu tài chính và
mục tiêu xã hội khác.
- Huy động, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện TDĐT phát triển và TDXK
của Nhà nước theo quy định của Chính phủ.
- Thực hiện chính sách TDĐT: Cho vay đầu tư; Hỗ trợ sau đầu tư; Bảo lãnh TDĐT.
- Thực hiện chính sách TDXK: Cho vay xuất khẩu (cho nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu vay); Bảo lãnh
TDXK; Bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
- Nhận ủy thác quản lý nguồn vốn ODA được Chính phủ cho vay lại; nhận uỷ thác, cấp phát cho vay đầu

tư và thu hồi nợ của khách hàng từ các tổ chức trong và ngoài nước thông qua hợp đồng nhận uỷ thác giữa
NHPT với các tổ chức uỷ thác.
2.2. Mục tiêu của dự án phát triển và mục tiêu của NHPT
Hoạt động chính của NHPT là tài trợ cho các dự án phát triển nhằm phát triển công nghiệp và nông
nghiệp. Thông qua cho vay trung hạn và dài hạn, NHPT khuyến khích phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển doanh
nghiệp, thay đổi cơ cấu thu nhập và cơ cấu kinh tế…
2.2.1. Mục tiêu quốc gia
Dự án phát triển là những dự án lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của quốc gia.
Dự án phát triển là những dự án lớn cả về quy mô và về vốn đầu tư, công nghệ, cũng như lao động sử
dụng.
Dự án phát triển nằm trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược cụ thể
như
- công nghiệp hóa, phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói giảm nghèo…
- Khuyến khích xuất khẩu: các dự án phát triển xuất khẩu mũi nhọn, xây dựng cơ sở chế biến xuất khẩu,
xây dựng cảng biển…
- Thay thế nhập khẩu: phát triển công nghiệp chế biến, sử dụng tối đa lợi thế của đất nước.
- Phát triển nông thôn: xây dựng đê điều, nghiên cứu lai tạo giống mới.
- Sản xuất các ngành liên quan đến an ninh xã hội và quốc gia như viễn thông, điện nguyên tử…
2.2.2 Mục tiêu của ngân hàng
NHPT về căn bản là một tổ chức tín dụng , hoạt động trên cơ sở lấy thu bù chi và có lãi, dựa trên tính
chất này mà ngân hàng được phân biệt với các tổ chức quản lý và hành chính khác. Ngân hàng tìm kiếm lợi
nhuận thông qua tài trợ cho các dự án, có nghĩa là thu từ dự án phải bù đắp chi phí của ngân hàng và có thặng
dư thích hợp. Các khoản tài trợ của ngân hàng tuân thủ nguyên tắc cơ bản của chế độ tín dụng ngân hàng: người
vay phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian. Để thực hiện được nguyên tắc này, ngân hàng phải tìm kiếm
các dự án có hiệu quả kinh tế, quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn của dự án, có biện pháp phòng ngừa rủi ro …
qua đó ngân hàng thúc đẩy việc sử dụng vốn cai hiệu quả tài chính của chủ đầu tư.
2.2. Ảnh hưởng của dự án đến hiệu quả hoạt động của NHPT
2.2.1. Mục tiêu của ngân hàng khi tài trợ dự án :
Ngay từ định nghĩa, chúng ta đã biết, NHPT là một tổ chức tín dụng mà hoạt động chủ yếu là tài trợ trung
và dài hạn cho các dự án phát triển. Vì vậy, mục đích của NHPT khi tài trợ dự án đó là tài trợ có hiệu quả cho

các dự án phát triển. Thể hiện :
 Thu hồi được vốn và có lãi :
NHPT về căn bản là một tổ chức tín dụng , hoạt động trên cơ sở lấy thu bù chi và có lãi, dựa trên tính chất
này mà ngân hàng được phân biệt với các tổ chức quản lý và hành chính khác. NHPT tìm kiếm lợi nhuận thông
qua tài trợ cho các dự án, có nghĩa là thu từ dự án phải bù đắp chi phí của ngân hàng và có thặng dư thích hợp.
Các khoản tài trợ của ngân hàng tuân thủ nguyên tắc cơ bản của chế độ tín dụng ngân hàng, đó là nguyên tắc
hoàn trả : người vay phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Tất cả các ngân hàng, trong đó có
NHPT đều đặt mục tiêu này lên hàng đầu khi tài trợ. Để thực hiện được nguyên tắc này, ngân hàng phải tìm
kiếm các dự án có hiệu quả kinh tế, quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn của dự án, có biện pháp phòng ngừa rủi
ro …qua đó ngân hàng thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả của chủ đầu tư.
Từ việc thu hồi được vốn và có lãi, NHPT sẽ quay vòng vốn phục vụ được nhiều dự án hơn.
 Tập trung các nguồn vốn cho phát triển kinh tế :
Nước ta là một nước đang phát triển, vì vậy nhu cầu vốn để tài trợ cho các dự án phát triển là rất lớn. Tuy
nhiên nguồn tài trợ trung và dài hạn này lại rất hạn chế. Nguyên nhân là do hệ thống ngân hàng thương mại với
nguồn vốn ngắn hạn là chủ yếu nên chỉ tập trung cho vay ngắn hạn, thị trường chứng khoán kém phát triển, chi
ngân sách nhà nước cho phát triển lạ bị hạn chế. Vì vậy, nó tạo ra khoảng cách lón giữa cung và cầu trên thị
trường tài chính dài hạn. NHPT khi tài trợ dự án thì mục tiêu của nó là cung cấp nguồn vốn cho các dự án này.
NHPT huy động vốn, tập trung vốn từ các nguồn : Huy động tiền gửi trên thị trường, phát hnàh giấy nợ trung và
dài hạn, huy động các Quĩ của Nhà nước, huy động các khoản tài trợ từ các tổ chức khác, vay nước ngoài, tài
trợ từ NHTW, vốn và quĩ của chính ngân hàng…
 Thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội :
Bên cạnh mục tiêu hiệu quả tài chính, phát triển kinh tế đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các mục tiêu kinh
tế xã hội như thay đổi cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường…nhằm đảm bảo tăng trưởng một
cách bền vững. Các dự án phát triển là rất cần thiết nhằm thực hiện những mục tiêu trên. Là một tổ chức tài
chính thực hiên chính sách tài trợ ưu tiên có hạn chế của Chính phủ nhằm thực hiện các công cuộc đầu tư đặc
biệt, nên mục đích của NHPT khi tài trợ cho các dự án phát triển này là để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội.
2.2.2. Tác động của Nhân tố “ Các dự án mà ngân hàng tài trợ” đến hiệu quả hoạt động của NH
Vai trò của ngân hàng được đánh giá bởi thành công của những dự án phát triển mà ngân hàng tài trợ. Nếu
ngân hàng có dự án lành mạnh, tức là có sự phù hợp giữa mục tiêu quốc gia và mục tiêu của ngân hàng, khi dự
án thành công sẽ đem lại lợi nhuận cho ngân hàng :

 Tính sinh lời và rủi ro của dự án phát triển :
Các dự án phát triển thường chứa đựng quá nhiều mục tiêu chính trị xã hội, lấn át hoặc rất khó xác định
các chỉ tiêu sinh lời. Về cơ bản, ngân hàng có trách nhiệm cung cấp các khoản cho vay rủi ro cao. Kết cục phát
triển của công cuộc đầu tư là không chắc chắn, ngành công nghiệp hoặc công nghệ có thể hoàn toàn mới, người
vay có cư cấu tài chính rủi ro và không có bảo lãnh. Những yếu tố này làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân
hàng.
 Tính đa dạng của dự án phát triển :
Nếu ngân hàng tài trợ cho các dự án một cách đa dạng thì có thể đạt được sự kết hợp có hiệu quả giữa
doanh lợi và rủi ro. Ngược lại, khi tài trợ ngân hàng bị giới hạn bởi các lĩnh vực riêng biệt như nông nghiệp,
công nghiệp chế tạo thì rất khó để đạt được hiệu quả trong hoạt động của mình
 Tính phức tạp của dự án :
Các dự án mà ngân hàng tài trợ là các dự án có vốn đầu tư lớn, công nghệ phức tạp, hay thay đổi so với
dự toán, thời gian vận hành dài, liên quan đến nhiều ngành…dẫn đến việc thẩm định dự án, phân tích tài chính
và kiểm tra trong quá trình sử dụng vốn vay thường rất khó khăn. Từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của
ngân hàng.
 Khả năng lựa chọn và quyết định tài trợ cho dự án nào
Rất nhiều các dự án phát triển do các cơ quan Chính phủ, các ngành đưa đến và ngân hàng phải tài trợ.
Khả năng lựa chọn và quyết định của ngân hàng rất nhỏ. Tình trạng này sẽ làm cho bộ máy ngân hàng kém linh
hoạt và nhạy bén.
3. Nhân tố 3 : Chính sách của Nhà nước
3.1. Các chính sách của NN đối với NHPT
Ví dụ như VN:
1. Nghị định số 151/NĐ-CP ngày 20/12/2006 về Tín dụng đầu tư phát triển và Tín dụng xuất khẩu của Nhà
nước.
2. Nghị định 106/2008/NĐ-CP ngày 19/09/2008 về Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định
151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
3. Thông tư số 69/2007/TT-BTC ngày 25/6/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Nghị
định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà
nước.
4. Thông tư số 16/2009/TT-BTC ngày 22/01/2009 hướng dẫn sửa đổi Thông tư số 69/2007/TT-BTC

ngày 25/6/2007 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP hiệu lực ngày 24/02/2009.
5. Thông tư số 105/2007/TT-BTC ngày 30/8/2007 hướng dẫn xử lý rủi ro Tín dụng đầu tư và tín
dụng xuất khẩu của Nhà nước.
6. Thông tư số 05/2009/TT-NHNN ngày 7/4/2009 quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất đối
với các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn ngân hàng để thực hiện đầu tư mới phát triển sản xuất - kinh
doanh.
7. Quyết định số 17/QĐ-HĐQL ngày 17/3/2008 của HĐQL NHPT ban hành kèm theo Quy chế xử
lý rủi ro vốn tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
8. QĐ số 653/QĐ-NHPT ngày 22/09/2008 về việc ban hành Sổ tay nghiệp vụ cho vay đầu tư.
9. Công văn số 1096/ NHPT-TDĐT ngày 21/4/2009 về việc hướng dẫn thực hiện hỗ trợ lãi suất đối
với các dự án vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước.
3.2. Ý nghĩa các chính sách của NN đối với NHPT
Các ngân hàng phát triển thành công đều dựa trong việc phát triển mối quan hệ giữa chính phủ và ngân
hàng. Sao cho đảm bảo là chính phủ có hỗ trợ cho ngân hàng.đồng thời các quyết định cho vay của ngân hàng
đều dựa trên tính hiệu quả tài chính của dự án.
Các điều kiện tồn tại ngân hàng phát triển cho thấy môi trường kinh tế phù hợp với hoạt động của ngân
hàng là sự lãnh đạo và can thiệp của nhà nước vào quá trình phát triển kinh tế. Nhiều nước có luật về NHPT và
các quy định riêng cho ngân hàng ngày , trở thành khung pháp lý để điều chỉnh và kiểm soát hoạt động của
ngân hàng
3.3. Tác động của các chính sách của NN tới hiệu quả hoạt động của NHPT
3.3.1. Tác động tích cực
Nhà nước thường hỗ trợ trực tiếp cho ngân hàng ( cấp cho nguồn vốn ưu đãi,cấp bù lãi suất bảo lãnh cho
các khoản đi vay và cho vay … ) Sự hỗ trợ này rất quan trọng , cho phép ngân hàng thực hiện được các mục
tiêu kinh tế và xã hội khác . Sự hỗ trợ của nhà nước cho ngân hàng càng lớn, phạm vi hoạt động và ảnh hưởng
của ngân hàng càng rộng và ngược lại
Đồng thời, thông qua các hình thức hỗ trợ gián tiếp (như bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ lãi suất…), NHPT
đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, các chủ đầu tư tiếp cận được các nguồn vốn
của ngân hàng thương mại, góp phần đẩy mạnh huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh.
3.3.2. Tác động tiêu cực

Mặt khác hoạt động của ngân hàng là do chính phủ kiểm soát, trong nhiều trường hợp, các cơ quan của
chính phủ đã can thiệp trực tiếp vào các quyết đinh cho vay cua ngân hàng, gây tâm lý ỷ lại , không chịu trách
nhiệm của cán bộ ngân hàng. Các khoản trợ giúp của chính phủ cho các chương trình tín dụng chỉ định , nếu
không có cơ chế và kiểm soát tốt sẽ trở thành đối tượng của tham nhũng và lãng phí.
3.4. Liên hệ thực tế
Chính sách của CP Việt Nam đối với VDB
Cần khẳng định vị trí pháp lý của NHPT Việt Nam với 100% vốn Nhà nước, vừa là công cụ của Chính
phủ, vừa là một ngân hàng trong hệ thống các tổ chức tài chính – tín dụng nước ta. Đồng thời, cần hoàn thiện
hệ thống các cơ chế, chính sách để vừa tăng cường quản lý của Nhà nước, vừa tạo sự chủ động trong hoạt động
độc lập để tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, xây dựng NHPT xứng đáng là công cụ mạnh
của Chính phủ trong việc triển khai những chương trình phát triển kinh tế – xã hội, có ý nghĩa chiến lược do
Chính phủ hoạch định, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Bởi vậy, phát huy vai trò của NHPT Việt Nam còn có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, nhất là xét trên khía cạnh vừa tôn trọng, vận dụng những quy luật khách quan của cơ chế thị
trường, vừa thực hiện tối ưu vai trò hướng dẫn, quản lý, tác động và điều tiết của Nhà nước.
Ở Việt nam nói riêng , Cơ chế chính sách về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước mới
cũng đã đặt ra yêu cầu đối với chủ đầu tư, khách hàng vay vốn tại NHPT phải có thực lực và nâng cao trách
nhiệm của họ đối với việc sử dụng nguồn vốn tín dụng của Nhà nước, thông qua báo cáo tài chính minh bạch,
nguồn vốn chủ sở hữu tham gia dự án đâu tư, tài sản thế chấp khi vay vốn tại NHPT, nghĩa vụ khi thực hiện trả
nợ đúng hạn
Nội dung chính sách đối với NHPT và tác động đến hiệu quả hoạt động của NHPT
1. Nguồn vốn của VDB hoàn toàn được ngân sách bao cấp.
- Trong 5 năm qua, VDB huy động thêm được 180 nghìn tỷ đồng, tương đương 9,6% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội, chủ yếu thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu VDB do Chính phủ bảo lãnh.
- Một nguồn vốn khác chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu nguồn của VDB là quản lý vốn ODA và các
quỹ quay vòng của Chính phủ với con số khoảng 9,5 tỷ USD.
- Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, nếu bị thiếu vốn thì VDB huy động từ dân cư, tổ chức kinh tế, tổ
chức tín dụng, nhà nước cấp bù lãi suất sau.
- Khi cho vay thì VDB cũng không phải vất vả tìm dự án tốt để giải ngân như mọi ngân hàng khác. Vì
VDB thực hiện cơ chế cho vay theo chỉ đạo của nhà nước, dự án ở đâu, VDB cho vay ở đó.

- Nếu được vay vốn của VDB, đối tượng thụ hưởng sẽ được hưởng mức lãi suất rất thấp. Theo cơ chế
hiện hành, VDB đang áp dụng mức lãi suất cho vay trung dài hạn, cho vay lại từ nguồn vốn ODA, cho vay ngắn
hạn, tín dụng xuất khẩu đều cùng một mức 11,4%/năm. Tất nhiên, mức lãi suất này chỉ áp dụng cho các dự án
của doanh nghiệp nhà nước
2. Để hỗ trợ cho các DNNVV(doanh nghiệp nhỏ và vừa) không có tài sản thế chấp, Chính phủ đã cho
phép VDB bảo lãnh cho các DN vay vốn.
- Trong bối cảnh khủng khoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt Nam suy giảm, các doanh nghiệp trong
nước, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đang gặp nhiều khó khăn, sản xuất kinh doanh đình trệ,
thậm chí nhiều doanh nghiệp đã phải cắt giảm lao động.
Dự báo đến cuối năm tổng số lao động mất việc sẽ lên tới 300.000 - 400.000 người. Số này tập trung ở
nhóm các DNNVV trong các lĩnh vực may mặc, điện tử, chế biến gỗ những đơn vị sử dụng nhiều lao động
nhưng lại không chủ động, không có những đơn hàng ổn định.
Thống kê từ Hiệp hội DNNVV, trong tổng số 20% DNNVV đứng bên bờ vực phá sản đã có tới 7.000 DN
công bố giải thế và hơn 3.000 DN khác phải ngừng sản xuất. Ngoài ra, tính trung bình chung cho cả khối
DNNVV, mức suy giảm lên tới 30 - 50% so với trước đây.
 Để ngăn chặn đà suy giảm, Chính phủ và Nhà Nước đã ban hành Quyết định 14 cho phép Ngân hàng
Phát triển Việt Nam (VDB) bảo lãnh để các DNNVV có thể vay vốn ngân hàng, mở rộng sản xuất kinh doanh,
kích cầu đầu tư và tiêu dùng, chủ động ngăn ngừa suy giảm kinh tế.
*) Tác động của chính sách:
- Theo đó, đối tượng được VDB bảo lãnh vay vốn cũng được mở rộng, không chỉ có 350.000 DNNVV
mà những DN có quy mô lớn hơn cũng có thể được bảo lãnh vay vốn.
- Theo thống kê của VDB, tính đến nay đã có hơn 20 ngân hàng ký thỏa thuận hợp tác về cấp vốn và bảo
lãnh vay vốn với ngân hàng này.
- Theo các hợp đồng ký kết, mặc dù các DNNVV được VDB bảo lãnh sẽ mất 0,5% phí bảo lãnh trên tổng
số vốn vay nhưng lãi suất vay vốn vẫn thấp hơn lãi suất trên thị trường, thậm chí ngân hàng có thể được hỗ trợ
4% lãi suất vay vốn.
3. VDB được cấp bù lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
Ngày 20/8/2010, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) có văn bản số 6340/NHNN-CSTT hướng dẫn
việc cấp bù lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu của Nhà nước đối với Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Theo đó, Nhà nước cấp bù 4%/năm lãi suất đối với Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) để thực hiện

giảm lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với các khoản vay theo hợp đồng tín dụng xuất khẩu của Nhà
nước (hỗ trợ chi phí vay vốn cho nhà xuất khẩu) được ký kết, giải ngân từ ngày 17/4 đến ngày 31/12/2009.
Thực hiện các chính sách của Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân
hàng để sản xuất kinh doanh, thời gian qua VDB đã tích cực triển khai hỗ trợ lãi suất kích cầu, trong đó có việc
thực hiện giảm lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu.
Tác động :
 Theo thống kê của VDB, tính riêng quý I/2009, thời điểm bắt đầu thực hiện các gói hỗ trợ lãi suất
4%, VDB đã giải ngân vốn tín dụng xuất khẩu đạt 8.120 tỷ đồng và tính đến tháng 5/2009 VDB đã giải ngân
được 9.443 tỷ đồng vốn tín dụng xuất khẩu, dư nợ đạt 15.328 tỷ đồng.
 Bằng cách kích cầu này đã trực tiếp góp phần gia tăng các hoạt động đầu tư phát triển của doanh
nghiệp, giúp duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo nền tảng và động lực của sự phát triển xã hội cả hiện tại,
cũng như tương lai.
 Việc cho vay TDXK đã giúp các doanh nghiệp Việt Nam giảm chi phí đầu vào, tăng khả năng cạnh
tranh, tranh thủ thời cơ mở rộng và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế,
tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp giữ vững thị trường truyền thống, khai thác các thị trường mới và tiềm
năng. Với doanh số cho vay gần 3 tỷ USD trong 3 năm qua, NHPT đã hỗ trợ các doanh nghiệp thu về kim
ngạch xuất khẩu gần 3,5 tỷ USD; số cho vay xuất khẩu ngày càng tăng góp phần thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế
nhập siêu cho nền kinh tế.
4. Nhân tố 4 : Các nhân tố xã hội
4.1. Các nhân tố xã hội tác động đến hiệu quả hoạt động của NHPT
Bao gồm:
• Con người: Là nhân tố quan trọng, cung cấp lao động cho các dự án phát triển, là nhân tố điều hành, chỉ
đạo thực hiện dự án
• Công nghê: Công nghệ có vai trò quan trọng đối với các dự án phát triển
• Môi trường : Sự ổn định xã hội,chính trị nơi các NHPT có các DAPT đang được thực hiện.
• Thể chế: được hiểu là “những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội, buộc mọi người phải tuân theo”.
Còn theo *Ngân hàng Thế giới (2002) định nghĩa thể chế là “những quy định và tổ chức, bao gồm cả chính thức
lẫn không chính thức, điều phối hoạt động của con người.”
4.2. Tác động của các nhân tố xã hội đến hiệu quả hoạt động của NHPT
4.2.1. Tác động tích cực

• Với các điều luật rõ ràng, thủ tuc đơn giản sẽ giúp NHPT hoạt động dễ dàng hơn, có thể tiết kiệm được
thời gian, chi phí đi lại, đầu tư nhiều hơn vào mục tiêu chính là dự án
• NHPT hoạt động vì mục tiêu xã hội, thì sẽ có nhiều cơ hội thu hút đuợc các nguồn vốn nước ngoài,các
tổ chức phi chính phủ,các nguồn quỹ có mục đích công cộng,có nhiều ưu đãi hơn so với các ngân hàng khác, từ
đó sẽ dễ dàng hơn trong việc chi hay trả nợ,dự án tiến hành thuận lợi hơn, giúp tăng hiệu quả của ngân hàng lên
• Nhân tố xã hội thuộc ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả và sự thành công của dự án phát triển mà NHPT
tài trợ, từ đo ảnh hưởng tích cực đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà NHPT đặt ra tức là cũng ảnh hưởng
tích cực đến hiệu quả hoạt động của NHPT như
+ Nhân tố xã hội như yếu tố môi trường, khi được cải thiện chất lượng sẽ là nền tảng tốt cho NHPT có
càng nhiều các DAPT có tính khả thi cao hơn
+ Công nghệ cao sẽ ít cần tới lao động thủ công, hoạt động có năng suất hơn, dự án hoạt động có chất
lượng hơn
+ yếu tố con người, con người luôn luôn là nhân tố quyết định hàng đầu đến sự thành công của mọi hoạt
động trong nền kinh tế xã hội . Con người có trình độ chuyên môn, có năng lực nghiệp vụ, có khả năng phát huy
sáng tạo là nhân tố tất yếu không thể thiếu trong sự thành công của bất kỳ hoạt động nào. DAPT chỉ có thể
thành công khi có thể thỏa mãn điều kiện trên. Bên cạnh đó, nếu có thể tranh thủ được nguồn nhân lực trẻ, năng
động, tay nghề cao nhưng chi phí nhân công trung bình ( chi phí nhân công ở VN thường được đánh giá là thấp
so với với các nước khác ) thì cũng là điều kiện tốt cho DA hoạt động hiệu quả.
+ Yếu tố về chất lượng các dịch vụ an sinh xã hội, y tế, giáo dục : Các dịch vu y tế tốt, giáo dục tốt, sẽ tạo
một môi trường lành mạnh,cung cấp nguồn lao động trí thức, có tay nghê, có kinh nghiệm, lãnh đạo tốt
+ các vấn đề về môi trường hoạt động, môi trường kinh tế xã hội ví dụ như sự trợ giúp của cơ quan chính
quyển địa phương, sự hỗ trợ của nhân dân các cấp, sự tạo điều kiện thuận lợi cho DAPT được tiến hành và đi
vào vận hành hiệu quả … tất cả tạo nên sự thành công cho dự án phát triển mà sự hiệu quả của dự án phát triển
cũng đánh giá được hiệu quả hoạt động của NHPT.
4.2.2. Tác động tiêu cực
• Khi phải lựa chọn giữa mục tiêu tài chính và mục tiêu xã hội ( chọn công nghệ rẻ, thu hút nhiều lao
động…) thì vai trò phát triển công nghệ hiện đại bị coi nhẹ trong hoạt động của NHPT, từ đó chất lượng hoạt
động các dự án của NH bị ảnh hưởng và dễ dàng dẫn đến hiệu quả của NH bị ảnh hưởng không tốt.Cũng như
khi lựa chọn tiêu chí xã hội giảm thất nghiệp bằng cách chọn phương án dùng nhiều lao động thì năng suất hoạt
động của NHPT cũng sẽ bị giảm,chất lượng có thể không cao

• Các áp lựa xã hội thường có khuynh hướng làm giảm hiệu quả tài chính các dự án mà ngân hàng tài
trợ.Ngân hàng hoạt động thường vì mục tiêu lợi nhuận,do đó khi lựa chọn giữa bất kì một phương án kinh
doanh hay sản xuất nào thì các nhà lãnh đạo thường đặt mục tiêu tài chính lên đầu.NHPT thì lại thường chọn
mục tiêu xã hội vì lợi ích của tòan xã hội nếu 1 dự án đó đem lại việc làm cho người dân hay giảm chi phí cho
cộng đồng.Vì thế mà nó thường làm giảm hiệu quả tài chính các dự án mà NHPT tài trợ.
Câu hỏi: Quy trình tài trợ dự án của NHPT Việt Nam có gì giống và khác so với quy trình này tại các
NHTM.
Kết cấu:
Làm rõ thuật ngữ
Quy trình tài trợ dự án tại các NHTM
Tổng quan về NHPT Việt Nam và Quy trình tài trợ dự án tại NHPT Việt Nam
So sánh
Bài làm:
Làm rõ thuật ngữ
Tài trợ dự án: Là hoạt động trợ vốn đối với những dự án đầu tư, với thời gian sử dụng vốn tương đối dài.
Sự khác nhau giữa tài trợ và cho vay:
Khi một Ngân hàng cho khách hàng vay một khoản tiền thì điều đầu tiên cần xem xét là tình hình tài chính của
khách hàng và tài sản để đảm bảo cho khoản vay đó, đồng thời phải xem xét mức lãi suất cho vay theo từng
loại kỳ hạn nợ như thế nào.
Việc tài trợ cho một khách hàng thì có thể tài trợ cho không, hoặc thu nợ vốn theo những điều khoản giữa hai
bên cam kết mà trong đó thường người ta coi thành quả thu được hoặc là lợi ích có được sau này là yếu tố chính
để đảm bảo cho khoản tài trợ đó.
Đối tượng tài trợ dự án của NHPT: các dự án phát triển.
Đối tượng tài trợ dự án của NHTM: bao gồm cả dự án phát triển và dự án tạo thu nhập.
- Các dự án đầu tư xây dựng bất động sản (như dự án chung cư cao cấp, căn hộ cho thuê, cao ốc văn phòng,
khách sạn, khu dân cư )
- Các dự án xây dựng mới hoặc mở rộng cơ sở kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp,
- Đầu tư vào các dự án để thành lập doanh nghiệp mới
- Góp vốn liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần với các doanh nghiệp khác
- Và các hình thức hợp tác đầu tư khác.

3.2. Quy trình tài trợ dự án của NHPT Việt Nam và so sánh
3.2.1. Thẩm định trước khi tài trợ
3.2.1.1. Lựa chọn dự án
Sau khi đi qua đầy đủ các bước thẩm định một dự án phát triển như trên, số dự án được cho là khả thi không
phải là một. Tuy nhiên do nguồn vốn có hạn không thể đầu tư cho tất cả các dự án , vì thể cần phải lựa chọn dự
án và sắp xếp thứ tự ưu tiên các dự án khả thi để có kế hoạch đầu tư nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực nhất.
3.2.1.2. Thẩm định người chịu trách nhiệm, người điều hành doanh nghiệp, cơ chế quản lý
Cả ngân hàng phát triển và ngân hàng thương mại đều mong muốn có lợi nhuận nên việc thẩm định người chịu
trách nhiệm là hoàn toàn với mục đích giống nhau, đều là thẩm định xem năng lực quản lý của người chịu trách
nhiệm dự án tốt hay không vì điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoàn vốn của dự án.
Chỉ khác ở đối tượng vay vốn
- NHTM, các tổ chức tín dụng khác:
+ NHPT tài trợ thông qua NH đầu mối, NHPT lựa
chọn dự án và kêu gọi tài trợ từ các NHTM
+ NHPT tài trợ một phần vốn, với LS thấp và phần
còn lại do các NHTM tài trợ với LS Tmai, NHTM đồng
thời giải ngân ủy thác phần vốn của NHPT
NHPT thẩm định khả năng cho vay, thu hồi vốn và khả
năng tài chính của NHTM
- Các tập đoàn kinh tế
+ Đây là KH có tiềm lực tài chính mạnh, trình độ quản
lý cao, tuy nhiên đây là KH có thể gây khó khăn trong
quá trình tài trợ của NHPT do tính chất sở hữu phức
tạp, cơ chế quản lý đa dạng
=> NH phải thẩm định tình hình TC của người vay
trong mối quan hệ giữa CTy mẹ- Cty con, Tổng Cty-
đơn vị thành viên hạch toán độc lập
- Các bộ, chính quyền tỉnh
+ Đây không phải là đối tượng trực tiếp đi vay mà
thông qua các DA

-Thường là các doanh nghiệp
+ NH phân tích tình hình tài chính của
DN xem có lành mạnh hay không. Đây
là cơ sở quan trọng để ngân hàng tiến
hành cho vay
NHPT NHTM
- NHPT với tư cách là tổ chức tài chính của chính phủ, những
dự án mà ngân hàng này tài trợ nhằm mục đích trước hết vì lợi
ích kinh tế xã hội => ngân hàng sẽ lựa chọn những dự án
không những có lợi nhuận, mà còn phải có những lợi ích XH
NHTM với mục tiêu hoạt động vì
lợi nhuận => Ngân hàng sẽ lựa chọn
những dự án mang lại lợi nhuận
Tính toán các chỉ tiêu về lợi nhuận và kinh tế: ENPV(giá trị
hiện tại ròng kinh tế),EIRR(tỷ suất nội hoàn kinh tế),EBCR
( tỷ số lợi ích, chi phí kinh tế)…
Tính toán theo các tiêu chí lợi
nhuận NPV, IRR, BCR…
+ Do khó phân tích về chủ đầu tư nên ngân hàng cần
ràng buộc trách nhiệm với bộ , tỉnh
NH xem xét cơ chế quản lý của chủ đầu tư đối với dự án
3.2.1.3. Xem xét các dự án liên quan
Đây là một đặc điểm của DAPT, DAPT thường không được xây dựng trên điều kiện có sẵn của thị trường. Quá
trình thực hiện dự án này kéo theo yêu cầu phải thực hiện dự án khác có liên quan. Nó hình thành dựa trên sự
vận hành của một số dự án và là động lực để phát triển các dự án thương mại khác
=> Đây chỉ là nghiệp vụ của ngân hàng phát triển
Còn trong trường hợp NHTM tham gia đồng tài trợ vào DAPT thì họ không có chức năng thẩm định dự án,
Công việc này sẽ do NHPT thẩm định và lựa chọn
3.2.1.4. Xác định rủi ro của dự án
Đây là nghiệp vụ mà cả NHPT và NHTM đều quan tâm.

Thông qua việc tìm hiểu, phân tích và dự báo tổng quan về những nhân tố ảnh hưởng đến tương lai của dự án,
từ đó xác định những rủi ro có thể làm cho dự án trở nên tồi tệ từ đó nhanh chóng tìm biện pháp khắc phục
3.2.2. Tìm kiếm nguồn tài trợ thích hợp
NHPT NHTM
-Tìm kiếm nguồn phù hợp: Tùy thuộc từng dự án
+ DA có khả năng sinh lời thấp => Nguồn lãi suất hỗn
hợp( lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi )
+ DA có khả năng sinh lời cao => nguồn trên thị trường
+ DA có thời gian dài => khả năng chuyển hóa nguồn vốn
-Huy động tiết kiệm trung và dài hạn, phát hành giấy nợ trung và
dài hạn
- Nguồn ODA, các nguồn tài trợ của các thể chế tài chính quốc tế
với lãi suất thấp, thời gian dài
- Đồng tài trợ với các ngân hàng thương mại
- phát hành giấy tờ có giá
- Đi vay ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng khác
- Huy động tiết kiệm trung và dài hạn
- Đồng tài trợ với các NHTM khác, hoặc
NHQD.
3.2.3. Các phương thức tài trợ
3.2.3.1. Giống nhau:
Cả hai lọai ngân hàng khi tài trợ cho các dự án đều có các phương thức tài trợ sau:
Cho vay toàn bộ vốn tín dụng.
Đối với NHPT phương pháp này được áp dụng khi :các dự án không có khả năng tiếp với các NHTM, mục tiêu
xã hội lớn, doanh lợi thấp, rủi ro cao
Đối với NHTM phương pháp này được áp dụng khi dự án xin tài trợ có doanh lợi cao, khả năng hoàn trả
vốn cho NH lớn, hoặc các dự án có tài sản đảm bảo lớn
Đồng tài với các NHTM hoặc tổ chức tài chính khác.
Đây là phương thức mà cả hai ngân hàng: NHTM và NHPT thực hiện khi tài trợ dự án để san sẻ rủi ro

cho các các ngân hàng khác, Vì vậy phương pháp này thích hợp với các dự án có quy mô lớn, thời gian dài hoặc
độ rủi ro cao.
Tài trợ thông qua một ngân hàng thương mại.
Khi hai ngân hàng này xem xét thấy dự án xin tài trợ có hiệu quả họ có thể tài trợ đối với một NHTM để
ngân hàng này cấp tín dụng cho dự án. Hình thức tài trợ cho NHTM có thể cho vay một phần nhu cầu vốn, cấp
một chênh lệch lãi suất Hình thức tài trợ này khác với đồng tài trợ là ở đây có một ngân hàng xin tài trợ và nó
có trách nhiệm hoàn trả vốn cho NHPT hoặc NHTM ban đầu.
3.2.3.2. Khác nhau:
Vì mục tiêu hoạt động của NHPT là tài trợ cho các dự án phát triển thường có quy mô lớn, doanh lợi
thấp, thời hạn tín dụng lâu nên ngoài phương thức trên NHPT còn sử dụng các phương thức tài trợ khác là:
NHPT cho vay một phần, phần còn lại là của các tổ chức tín dụng khác:
Thường áp dụng đối với dự án tương đối hấp dẫn các NHTM. Dự án có thể chia thành nhiều dự án nhỏ,
các tiểu dự án tập hợp thành một chương trình của chính phủ: ví dụ chương trình phát trình mía đường , NHPT
có thể cho vay để phát triển vùng nguyên liệu, làm đường vận chuyển, còn NHTM cho vay làm nhà máy hoặc
NHPT cho vay trung và dài hạn còn NHTM cho vay ngắn hạn.
NHPT bảo lãnh để dự án phát hành trái phiếu dài hạn trên thị trường trong nước và quốc tế, hoặc vay của ngân
hàng nước ngoài.
Ví dụ,Ngân hàng Eximbank của Pháp sẽ cho vay với lãi suất thấp với các doanh nghiệp nước ngoài mua
máy bay của Pháp( với điều kiện phải có bảo có bảo lãnh của chính phủ hoặc tổ chức tín dụng có uy tín).
Trường hợp này, NHPT có thể bảo lãnh cho hàng không vay của Eximbank của Pháp để phát triển đội bay
3.2.4. Ký kết hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng của cả NHPT và NHTM đều có sự thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng về quy
mô,lãi suất của các khoản tín dụng, các khoản phí, thời hạn tín dụng và kỳ hạn trả nợ, quyền hạn và trách nhiệm
của ngân hàng trong quá trình tài trợ, nghĩa vụ của khách hàng trong việc trả nợ ngân hàng, số tiền gốc lãi phải
trả hàng kỳ Tuy nhiên vì mục tiêu hoạt động của hai loại hình ngân hàng này khác nhau nên các quy định cụ
thể cũng có những điểm khác nhau:
Điểm
SS
NHPT NHTM
1.

Quy
mô và
cơ cấu.
- Vì các dự án tài trợ là các DAPT nên quy
mô cơ cấu lớn, cần tài trợ từ nhiều nguồn.
- Công thức xác định :
+ Nhu cầu vay vốn = Nhu cầu vốn đầu tư -
vốn tự có -Nguồn khác.
+ Nhu cầu vay ngân hàng= Nhu cầu vay-
Vay các tổ chức tín dụng khác.
- Tài trợ DATM quy mô nhỏ, nên
vốn tài trợ chủ yếu là của riêng
NHTM .
- Công thức xác định:
+ Nhu cầu ĐT theo DA= nhu cầu ĐT
vào TSCĐ+ nhu cầu ĐT vào TSLĐ.
+ Tín dụng của ngân hàng= nhu cầu
đầu tư- các nguồn tài trợ khác.
2.
Lãi suất
- Lãi suất của NHPT thường thấp hơn LS
trên TT nhằm phản ánh hỗ trợ của CP’ cho
các DAPT. Tuy nhiên LS này phải bù đắp
được chi phí huy động và các chi khác của
NH, bao gồm cả các chi phí rủi ro.
- Đối với các đối tượng khác nhau thì chịu
các mức LS khác nhau phù hợp với khả năng
sinh lời: cho vay các hộ nghèo chịu LS < cho
vay các hộ giàu đang trong thời kỳ thu hoạch
lớn, tỷ suất LN cao.

- Việc phân biệt LS như trên sẽ hạn chế được
sự bao cấp của NN, làm cho LS phù hợp với
khả năng sinh lời của DA
- Lãi suất của NHTM thường là lãi
suất trên thị trường nó phản ánh khả
năng cạnh tranh của NH, đồng thời
đảm bảo mục tiêu lợi nhuận cho NH.
- Đối với các đối tượng khác nhau
cũng có LS khác nhau: ví dụ, DN lớn
là khách hàng có tín nhiệm trong việc
thanh toán gốc, lãi thì có thể vay lãi
suất thấp hơn là các khách hàng mới.
- Việc phân biệt LS giúp cho NHTM
quản lý tốt hơn NV của mình cũng có
nghĩa là đảm bảo mục tiêu LN cho
NH.
3.
Đảm
Do thời hạn tín dụng dài, các tài sản dùng
trong thế chấp thường khó bán để thu hồi
Do các tài sản thế chấp của dự án
thường dễ bán hơn, vốn tài trợ của dự
bảo tiền
vay
vốn. Vì vậy cần có sự đảm bảo:
- Đảm bảo của CP’có thể dưới hình thức:
+ Bù đắp một phần tổn thất cho NH (ngoài
quỹ DP) nếu chủ không trả được.
+Mua lại một số khỏan nợ của NH để đảm
bảo tính thanh khoản cho NH trong một số

trường hợp cần thiết.
+Bao tiêu một số sản phẩm của dự án với giá
có lợi cho dự án.
- Đảm bảo của chủ đầu tư: Vì là dự án phát
triển nên chủ đầu tư có thể là Bộ, Tổng công
ty, các cấp chính quyền, những đơn vị này
có thể đứng ra bảo lãnh trả nợ cho NHPT.
án nhỏ nên tài sản đảm bảo thường là
do chủ đầu tư đưa ra, hoặc sự bảo
lãnh của các tổ chức tín dụng khác là
được tài trợ.
3.2.5. Giải ngân, giám sát Dự án, thu nợ và điều chỉnh Dự án của NHTM và NHPT
3.2.5.1. Giống nhau
Giải ngân là bước tiếp theo của quá trình ra quyết định tín dụng, là quá trình phát tiền vay cho khách hang, ngân
hàng giám sát tiến độ đầu tư, góp phần kiểm tra và kiểm soát xem vốn tín dụng có được sử dụng đúng mục đích
cam kết hay không?
Thu nợ là quá trình ngân hàng thu nợ vay từ khoản vay của khách hàng
Sau khi dự án kết thúc thì Ngân hàng đánh giá việc thực hiện dự án, góp phần tạo nên thành công hoặc gây ra
thất bại cho Dự án, để rút ra kinh nghiệm cho các Dự Án tiếp theo.
3.2.5.2 Khác nhau
Chỉ
tiêu
NHPT NHTM
1.
Giải
Ngân
Cơ sở giải ngân: dựa vào chứng từ hóa đơn nhập
máy móc thiết bị, mua vật liệu xây dựng, chi phí
giải phóng mặt bằng,…
Cơ sở: dựa vảo mức tín dụng đã cam

kết trong hợp đồng.
2.
Giám
sát
dự án
Là giai đoạn hình thành TSCĐ, quyết định chất
lượng của việc đầu tư. Bao gồm:
- Kiểm soát chi phí(thông qua định mức, hóa
đơn nhập hàng, )
- Kiểm soát tiến độ thực hiện
- Kiểm soát chất lượng hạng mục công trình
Là giai đoạn nhằm mục tiêu đảm bảo
tiền vay sử dụng đúng mục đích, kiểm
soát rủi ro tín dụng:
- Giám sát tài khoản của khách hàng
tại ngân hàng
- Phân tích báo cáo tài chính của
khách hàng theo định kỳ
- Giám sát thông qua việc trả lãi.
….
3.
Thu nợ
Gắn với quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp
Theo đúng những điều khoản cam kết
trong hợp đồng tín dụng.
PHÂN TÍCH ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA CÁC NGUỒN VỐN CÓ THỂ TÀI TRỢ CHO DỰ ÁN PHÁT
TRIỂN
(trừ nguồn từ ngân hàng phát triển)
Những vấn đề chung về nguồn tài trợ DAPT

Nguồn tài trợ DAPT và vai trò của nguồn tài trợ DAPT
DAPT là những dự án lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của quốc gia. DAPT nhằm tới hai
mục tiêu là hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội.
Một DAPT phải trải qua chu trình của nó với 3 giai đoạn chính, từ giai đoạn chuẩn bị và phê duyệt dự án; đến
giai đoạn đầu tư và đi vào vận hành quản lý, khai thác. Ngay từ khi dự án còn nằm trên những trang giấy, những
nhà hoạch định dự án không chỉ quan tâm đến đầu ra mà còn đặt nhiều mối quan tâm ngay từ đầu vào cho dự
án. Yếu tố đầu vào quan trọng nhất của DAPT chính là nguồn vốn tài trợ.
Nguồn vốn tài trợ cho dự án hay lượng tư bản đóng góp vào để hình thành nên dự án nó đóng vai trò sống còn
cho 1 DAPT, quyết định sự tồn tại của dự án và ảnh hưởng lớn tới tiến trình hoàn thành dự án.
Vì vậy, việc thiết kế nguồn tài trợ hợp lý sẽ tạo ra được phương án huy động vốn tối ưu cho DAPT cũng như để
thực hiện dự án thành công.
Đặc điểm nguồn tài trợ cho DAPT
Do bản thân DAPT mang những đặc trưng riêng biệt nên nó cũng đòi hỏi nguồn tài trợ có những yêu cầu phù
hợp.
Thứ nhất, DAPT thực hiện chiến lược phát triển tầm cỡ quốc gia, do đó, qui mô của 1 DAPT rất lớn. Vì vậy,
nguồn tài trợ cho DAPT thường gồm nhiều nguồn khác nhau (hay còn được gọi là đồng tài trợ), để đảm bảo tập
trung vốn với khối lượng lớn trong thời gian ngắn.
Thứ hai, thời gian thực hiện DAPT thường kéo dài, dấn đến, vốn tài trợ cho DAPT được coi như là nguồn vốn
trung và dài hạn. Vì thế, nguồn tài trợ cho DAPT cũng phải là nguồn vốn trung và dài hạn, để đảm bảo thời gian
hoàn trả vốn cho nhà đầu tư.
Thứ ba, DAPT thường đặt lợi ích xã hội lên trên lợi ích kinh tế. Trong khi đó nguồn tài trợ cho DAPT không
chỉ có mỗi nguồn từ vốn chủ sở hữu mà còn có nguồn vốn vay. Thậm chí, cơ cấu nguồn vốn vay chiếm phần
nhiều. Việc trả lãi vay được rút ra từ lợi nhuận thu được từ dự án. Vì thế, những DAPT phục vụ lợi ích xã hội
không hướng đến mục tiêu lợi nhuận đòi hỏi nguồn tài trợ với lãi suất thấp, lãi suất ưu đãi.
Thứ tư, với những đặc điểm trên, nên ta thường thấy vốn tài trợ cho DAPT thường đến từ các tổ chức tài chính
có tiềm lực lớn, các tổ chức tài chính nước ngoài hay của chính phủ trong và ngoài nước.
Các cách huy động nguồn tài trợ cho DAPT
Trên giác độ tài chính doanh nghiệp, nguồn tài trợ bao gồm nguồn vốn nợ và nguồn vốn chủ sở hữu. Theo đó,
các cách huy động chủ yếu:
Sử dụng 100% vốn chủ

Sử dụng 100% vốn vay
Sử dụng kết hợp cả vốn chủ và vốn vay
Nhưng với những đặc điểm yêu cầu đối với nguồn tài trợ DAPT đã phân tích ở trên, ta thấy, việc sử dụng 100%
vốn chủ thường khó đạt được do hạn chế về năng lực tài chính trước đòi hỏi về qui mô của DA. Do đó, trên
thực tế, các DAPT thường có sự góp mặt của vốn vay.
Nếu trên tiêu thức về đối tượng tài trợ DAPT thì nguồn tài trợ DAPT gồm có:
Nguồn ngân sách nhà nước (NSNN)
Vay Ngân hàng thương mại
Nguồn tài trợ phát triển từ các chính phủ và tổ chức nước ngoài.
Vay từ các nguồn khác
Dưới đây, nhóm sẽ đi sâu vào phân tích đặc điểm của các nguồn tài trợ DAPT theo cách tiếp cận thứ hai này.
NSNN NHTM CPNN &
TC TCQT
Nguồn khác
Hình thức tài
trợ
thặng dư
NSNN
Phát hành
TPCP
- Cho vay trung – dài
hạn
- các chương
trình hỗ trợ phát
triển
- Vốn đầu tư trực
tiếp hoặc gián
Người hưởng lợi
đóng góp
tiếp

DA ưu tiên
DA sinh lời
thấp, rủi ro cao
hoặc DA k có
khả năng hoàn
trả
DA có hiệu quả kinh
tế, RR thấp
DAPT CSHT,
môi trường,
CBXH tại các
quốc gia đang
phát triển,
Qui mô vốn
tài trợ
Hạn chế trong
kế hoạch thu –
chi NS của NN
Nhỏ, 1 phần của DA,
tùy thuộc khả năng
chịu rr của NH
Lớn, qui đổi theo
tỷ giá.
Tùy thuộc vào
chính sách tài trợ
của TCQT.
Lãi suất
0% Tinh theo thị trường Không tính ls
hoặc lãi suất ưu
đãi

Thời gian
hoàn vốn
Dài Không dài Dài, được ân hạn
Chủ dự án đứng trước những sự lựa chọn này, cần phải đưa ra những quyết định:
DAPT cần bao nhiêu vốn?
Vốn được huy động từ những nguồn nào?
Sử dụng nguồn vốn đó ntn để hiệu quả?
Mức độ ưu tiên sử dụng vốn theo đó thường được các chủ dự án cân nhắc giữa lợi ích và chi phí theo tiêu chí
tối đa lợi ích và giảm thiểu chi phí.
Các nguồn tài trợ cho DAPT
Nguồn Ngân sách nhà nước (NSNN)
NSNN là một nguồn quan trọng đối với DAPT, nhất là đối với những DAPT tầm cỡ quốc gia và
liên quan đến lợi ích xã hội.
Theo Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua 16/12/2002 định nghĩa: NSNN là toàn
bộ các khoản thu chi của NN trong dự toán đã được cơ quan NN có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm để đảm bảo các chức năng và nhiệm vụ của NN.
2.1.1. Vai trò
- Vai trò huy động các nguồn Tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước .
- Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và chống lạm phát.
- Ngân sách Nhà nước là công cụ định huớng phát triển sản xuất.
- Ngân sách Nhà nước là công cụ điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp dân cư .
Các vai trò trên của Ngân sách nhà nước cho thấy tính chất quan trọng của Ngân sách nhà nước, với các công cụ
của nó có thể quản lý toàn diện và có hiệu quả đối với toàn bộ nền kinh tế.
2.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của nhà nước, và việc
thực hiện các chức năng của nhà nước, được nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định;
Hoạt động ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối lại các nguồn tài chính, nó thể hiện ở hai lãnh vực thu và
chi của nhà nước;
Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, luôn chứa đựng những lợi ích chung, lợi ích công
cộng;

Ngân sách nhà nước cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác. Nét khác biệt của ngân sách nhà nước
với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ có tác dụng riêng, sau
đó mới được chi dùng cho những mục đích đã định;
Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
2.1.3. Vốn NSNN tài trợ cho DAPT
Việc tài trợ cho DAPT là 1 khoản chi của NSNN. Việc cấp vốn cho DAPT, Nhà nước đã thể hiện vai trờ của
mình là người thiết kế và tạo động lực cho quá trình phát triển kinh tế.
Vốn Ngân sách cho đầu tư sẽ được ưu tiên cho những dự án không có khả năng hoàn trả (giao thông miền núi,
thủy lợi, trồng rừng phòng hộ…) hoặc có khả năng hoàn trả song mức sinh lời thấp, rủi ro cao, thời gian hoàn
vốn dài.
Nguồn ngân sách cho Dự án phát triển gồm:
Thặng dư NS (Thu Ngân sách > chi)
Trái phiếu chính phủ: sử dụng trong trường hợp khả năng tài trợ của NSNN bị hạn chế.
Thặng dư NS (Thu NS > Chi):
Thu ngân sách nhà nước: Thu Ngân sách nhà nước phản ảnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình nhà
nước sử dụng quyền lực chính trị để phân phối các nguồn tài chính của xã hội dưới hình thức giá trị nhằm hình
thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước. Như vậy, thu ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ các khoản tiền
được tập trung vào tay nhà nước để hình thành quỹ ngân sách nhà nước đáp ứng cho các nhu cầu chi tiêu của
nhà nước.
Thu ngân sách nhà nước bao gồm:
Thu trong cân đối ngân sách : bao gồm các khoản thu mang tính chất Thuế (Thuế, Phí, Lệ phí)và thu từ hoạt
động kinh tế của nhà nước
Thu bù đắp thiếu hụt của ngân sách: Trong quá trình điều hành ngân sách, các chính phủ thường có nhu cầu chi
nhiều hơn số tiền thu được và việc cắt giảm các khoản chi rất là khó khăn vì liên quan đến các hoạt động y tế,
giáo dục, văn hóa, xã hội Do đó, bắt buộc chính phủ phải tính tới các giải pháp để bù đắp sự thâm hụt của
ngân sách nhà nước. Giải pháp thường được chính phủ sử dụng là vay thêm tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu,
bao gồm vay trong nước và vay nước ngoài:
Chi ngân sách nhà nước: Chi ngân sách là một công cụ của chính sách tài chính quốc gia có tác động rất lớn đối
với sự phát triển của nền kinh tế. Đó là việc phân phối, sử dụng nguồn Thu ngân sách vào các khoản chi tiêu
khác nhau nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu của Nhà nước.

- Chi đầu tư phát triển: là những khoản chi mang tính chất tích lũy phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng
gắn với việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư của
các doanh nghiệp vào các lĩnh vực cần thiết, phù hợp với mục tiêu của nền kinh tế. (như chi mua sắm máy móc,
thiết bị và dụng cụ, chi cho xây dựng mới và tu bổ đường, trường, công sở, kiến thiết đô thị, chi cho thành lập
các DNNN )
- Chi thường xuyên: Bao gồm các khoản chi cho tiêu dùng xã hội gắn liền với chức năng quản lý xã hội của nhà
nước, khoản chi này được phân thành hai bộ phận: một bộ phận vốn được sử dụng để đáp ứng nhu cầu của dân
cư về phát triển văn hóa xã hội, nó có mối quan hệ trực tiếp đến thu nhập và nâng cao mức sống của dân cư và
một bộ phận phục vụ cho nhu cầu quản lý kinh tế xã hội chung của nhà nước.
Chi tiêu dùng thường xuyên bao gồm các khoản chi sau đây:
Chi quản lý hành chính
Chi văn hóa, giáo dục, y tế
Chi quốc phòng
Chi trợ cấp
Nhu cầu chi thường xuyên thường rất cấp bách tại các nước nghèo.Do vậy Khoản thặng dư (được hiểu là chi
cho đầu tư phát triển) sẽ được ưu tiên dành cho các dự án không có khả năng hoàn trả
Chi khác: là những khoản chi như chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do chính phủ vay, chi viện trợ của ngân
sách trung ương cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài, chi cho vay của Ngân sách trung ương,…
Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu: Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả
cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời
gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
Trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu do bộ tài chính phát hành nhằm huy động vốn cho NSNN hoặc huy động
vốn cho chương trình, dự án đầu tư cụ thể thuộc phạm vi đầu tư của nhà nước. Chính phủ phải trả gôc và lãi
trong thời gian xác định.
Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh
khoản cao. (Do có nguồn ngân sách Nhà nước đảm bảo). Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu chính phủ được
xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
Để mở rộng chi đầu tư phát triển, các loại trái phiếu được phát hành chủ yếu là trung và dài hạn, gồm có:
+ Trái phiếu kho bạc: Trái phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ một (01) năm trở lên và đồng

tiền phát hành là đồng tiền Việt Nam hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi.
+ Công trái xây dựng tổ quốc: Công trái xây dựng Tổ quốc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ một (01)
năm trở lên, đồng tiền phát hành là đồng Việt Nam và được phát hành nhằm huy động nguồn vốn để đầu tư xây
dựng những công trình quan trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ
sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước.
2.1.4. Ưu – Nhược điểm nguồn NSNN
Đối với nguồn thặng dư ngân sách
A.Ưu điểm:
Đối với nguồn vốn do ngân sách cấp, ưu điểm của nó là vốn ngân sách được sử dụng lâu dài, không phải trả lãi
hoặc có nhưng rất thấp (Các DN sẽ không phải chịu áp lưc trả lãi)
Việc sử dụng nguồn từ NSNN tránh được các điều kiện ràng buộc đối với Nhà nước so với trường hợp sử dụng
nguồn vốn vay.
Vốn ngân sách được ưu tiên cho đầu tư vào những dự án không có khả năng hoàn trả hoặc có khả năng hoàn trả
nhưng mức sinh lời thấp, rủi ro cao, thời gian hoàn vốn dài hay các dự án chú trọng vào việc mang lại các ích
lợi cho xã hội hơn là lợi nhuận của nhà đầu tư. Với đặc điểm như vậy của dự án, sẽ rất khó để chủ dự án có thể
huy động được các nguồn vốn khác từ bên ngoài, do nhà đầu tư thường quan tâm tới lợi ích cá nhân thu được từ
dự án hơn là các lợi ích mang lại cho toàn xã hội.
B.Nhược điểm:
1, Nguồn tài trợ ngân sách có hạn
Đối với các nước đang phát triển, thu ngân sách nhỏ mà nhu cầu chi tiêu lớn, do đó tình trạng phổ biến thường
là bội chi ngân sách .
Bội chi ngân sách không chỉ diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối với
những nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các nước đang phát triển, bội
chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu như: Giao thông, điện, nước
Nhiều nước phát triển và đang phát triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội chi ngân sách.
Ví dụ: Theo thống kê bộ tài chính tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 520.100 tỷ đồng, tăng 12,7% so với dự
toán (chủ yếu do tăng thu nội địa và tăng thu từ xuất nhập khẩu). Tổng chi cân đối ngân sách Nhà nước năm
2010 ước đạt khoảng 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4% so với dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển khoảng
145.000 tỷ đồng (không bao gồm phần thực hiện từ chuyển nguồn năm trước sang và ứng trước ngân sách Nhà
nước các năm sau), tăng 15,5% so với kế hoạch năm. Bội chi ngân sách Nhà nước: dự kiến sử dụng một phần

tăng thu ngân sách Trung ương để giảm bội chi ngân sách Nhà nước năm 2010, mức bội chi ước đạt khoảng
5,95% GDP, giảm 0,25% GDP so với kế hoạch đã đề ra. Dư nợ Chính phủ đến ngày 31/12/2010 bằng 44,5%
GDP, dư nợ công bằng 56,7% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia bằng 42,2% GDP, nằm trong giới hạn an
toàn cho phép.
2, Hiệu quả sử dụng vốn thấp
-Chất lượng nhiều công trình từ nguồn ngân sách Nhà nước không đảm bảo chất lượng, nhanh chóng
xuống cấp.
-Các công trình, dự án có nguồn vốn NS thường lãng phí và thất thoát lớn vì tình trạng “cha chung
không ai khóc”.  Điều này thể hiện trên nhiều bình diện: lãng phí vì đầu tư sai mục đích, không đạt mục tiêu,
bố trí vốn dàn trải, phân tán, thiếu tập trung,… Có thể nói, những hạn chế trong việc lập, thẩm định và phê
duyệt dự án chính là thủ phạm gây thất thoát của công.
Ví dụ : Có những dự án phải thay đổi tổng mức đầu tư, tổng dự toán nhiều lần và có dự án quyết định đầu tư
nhưng không có tiền để triển khai, quá thời gian quy định lại phải lập lại dự án; rồi lựa chọn địa điểm xây dựng
không phù hợp, phải dừng cả dự án.
Chẳng hạn, Dự án xử lý nước thải KCN Vĩnh Niệm - Hải Phòng vốn đã cấp phát 3 tỷ đồng và Dự án xử lý nước
thải khu du lịch Vịnh Tùng Dinh - Cát Bà - Hải Phòng 23,52 tỷ đồng, hoàn thành rồi không hoạt động. Hay
hạng mục vườn ươm Thanh Táo, Công trình tuyến tránh Hà Nội - Cầu Giẽ đầu tư 1,2 tỷ đồng đến nay bỏ
hoang
Ngoài ra, tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún chậm được khắc phục, dẫn đến nhu cầu vốn cho các dự án vượt
quá khả năng ngân sách. Điều này dẫn đến tình trạng có dự án phải kéo dài gần 20 năm. Điển hình là Dự án đầu
tư xây dựng trường Đại học Hàng Hải triển khai từ năm 1981 đến nay chưa xong do không bố trí đủ vốn.
Nợ đọng XDCB ở nhiều dự án đầu tư thuộc nguồn NSNN còn lớn.
Tình trạng tài trợ vốn không đúng chỗ
3,Tình trạng giải ngân các dự án có nguồn vốn NS còn chậm
Hàng năm, nhà nước dành một nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển. Tổng nguồn vốn này của nhà nước chiếm
khoảng 50% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, trong đó vốn từ NSNN và trái phiếu Chính phủ khoảng
23%. Tuy nhiên, công tác giải ngân rất đáng phải bàn.
Có một nghịch lý hiện nay trong lĩnh vực đầu tư DAPT thuộc nguồn vốn nhà nước: Một mặt, nhiều dự án không
có vốn thanh toán, vẫn triển khai thực hiện, dẫn đến nợ lớn; mặt khác, có nhiều dự án đã được bố trí vốn, nhưng
lại giải ngân chậm, thậm chí rất chậm, dẫn đến ứ đọng vốn. Giải ngân chậm gây lãng phí lớn về nhiều mặt,

không chỉ cho NSNN, mà còn cho cả nền kinh tế-xã hội và trực tiếp là ảnh hưởng đến tình hình tài chính của
các nhà thầu.
4, Quản lý tài chính trong dự án đầu tư còn lỏng lẻo gây thất thoát vốn NS. Bệnh thành tích. Chỉ coi trọng tăng
trưởng về số lượng, tốc độ tăng trưởng mà không coi trọng chất lượng tăng trưởng kinh tế
Đối với nguồn trái phiếu chính phủ (TPCP)
A. Ưu điểm:
- Thông qua phát hành trái phiếu, chính phủ có thể huy động được khối lượng vốn lớn, với thời gian sử dụng lâu
dài
- Huy động vốn từ phát hành trái phiếu khắc phục được một số nhược điểm của nguồn huy động khác. Không bị
phụ thuộc nước ngoài như trong trường hợp nhận viện trợ. Lãi suất phải trả cũng không cao như đi vay NHTM.
B.Nhược điểm:
1, Khả năng gia tăng của nguồn vốn từ phát hành trái phiếu có giới hạn
+ Đối với phát hành trái phiếu trong nước:
Từ phía người mua trái phiếu: Trên thị trường có rất nhiều kênh đầu tư khác nhau, nếu lãi suất của trái phiếu
không đủ hấp dấn thì sẽ không có người mua trái phiếu.
Từ phía chính phủ: chính phủ không thể huy động quá nhiều vốn từ phát hành trái phiếu trong nước vì sẽ ảnh
hưởng tới nguồn cung vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của dân cư, do đó có thể kìm hãm hoạt động sản
xuất kinh doanh.
+ Đối với phát hành trái phiếu ra nước ngoài:
Lượng vốn huy động được phụ thuộc vào hệ số tín nhiệm của quốc gia, vào lãi suất đưa ra. Mặt khác còn ảnh
hưởng tới chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia.
Từ các nguyên nhân trên, khả năng gia tăng của nguồn vốn này bị hạn chế.
2, Đây là nguồn vốn có chi phí đắt đỏ
Để có thể huy động được vốn từ nguồn này, chính phủ phải đưa ra mức lãi suất hấp dẫn các nhà đầu tư. Bên
cạnh đó còn có chi phí phát hành và chi phí tổ chức đấu thầu trái phiếu.
Từ hai nhược điểm trên, khả năng cung cấp của nguồn vốn này cho dự án đầu tư phát triển là có hạn.
3,Tài trợ bằng nguồn vốn này có thể gây ra tình trạng thất thoát và lãng phí vốn
+ Phát hành trái phiếu trong nước chủ yếu tài trợ cho dự án phúc lợi hoặc có khả năng sinh lời thấp dưới hình
thức cấp 100% vốn ngân sách. Đây không phải là vốn do người thực hiện bỏ ra nên có thể họ sẽ không quan
tâm tới hiệu quả của vốn đầu tư, bên cạnh đó có thể xảy ra hiện tượng rút lõi công trình

+ Phát hành trái phiếu nước ngoài chủ yếu để cho vay lại các dự án lớn của các doanh nghiệp theo mục tiêu phát
triển của nhà nước. Tuy nhiên, người trực tiếp đi vay là chính phủ, do đó, doanh nghiệp được vay lại có thể sẽ
sử dụng vốn không hiệu quả so với việc tự đi vay.Việc không trả được nợ của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng tới
khả năng trả nợ, và tăng thêm gánh nặng nợ nước ngoài của quốc gia.
2.2. Nguồn tài trợ phát triển của các Chính phủ và tổ chức tài chính quốc tế
2.2.1. Đặc điểm
Do xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, ngày nay, quan hệ kinh tế giữa quốc gia với quốc gia, giữa 1 quốc
gia với các tổ chức quốc tế trở nên phổ biến. Trên phương diện kinh tế, điều này mở rộng và gia tăng nguồn vốn
chảy vào trong nước. Đây chính là nguồn tài trợ rất tốt cho các DAPT.
Nguồn tài trợ này di chuyển thường từ những nước phát triển sang những nước đang phát triển và kém phát
triển. Đối với những nước phát triển, điều này giúp họ gia tăng hiệu quả sử dụng vốn. Còn đối với các nước
kém phát triển, thì đây là nguồn vốn giúp cải thiện và phát triển nền kinh tế trong nước còn khó khăn.
Nguồn tài trợ này luôn đi kèm với màu sắc chính trị biểu hiện ra thành những điều kiện trao đổi mà nước tài trợ
đưa ra cho nước nhận tài trợ.
Nguồi tài trợ từ nước ngoài bao gồm:
Nguồn tài trợ từ các Chính phủ nước ngoài qua hợp tác song phương hoặc đa phương.
Nguồn tài trợ từ các Tổ chức tài chính quốc tế như: WB, ADB, IMF
2.2.2. Các hình thức tài trợ
2.2.2.1. Nguồn vốn ODA
Đặc điểm
Đây là hình thức tài trợ phổ biến nhất là thông qua hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).Hỗ trợ phát triển chính
thức ODA là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà Nước hoặc Chính phủ một nước với các Chính Phủ nước
ngoài, các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia.
Lãi suất cho vay rất thấp khoảng từ 0.25-2%/năm, thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm
mới phải hoàn trả, ân hạn từ 8-10năm)
Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA
Mục tiêu chính là giúp các nước tiếp nhận phát triển kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội. Các lĩnh vực được ưu
tiên sử dụng vốn ODA bao gồm: Xoá đói, giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn; cơ sở hạ tầng kinh
tế kỹ thuật như giao thông vận tải, thông tin liên lạc…
Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ đề ra trong các

chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra định hướng chiến lược, chính
sách và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA cho từng thời kỳ. Gần đây nhất, trên cơ sở tham vấn rộng rãi
các nhà tài trợ, ngày 29 tháng 12 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 290/2006/QĐ-TTg
phê duyệt Đề án thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010. 5 lĩnh vực ưu tiên thu
hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 bao gồm:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói,
giảm nghèo).
- Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát triển và một số lĩnh vực khác).
- Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên
cứu và triển khai.
Phân loại
Căn cứ vào tính chất tài trợ:
ODA không hoàn lại: Là hình thức cung cấp ODA mà nước tiếp nhận không phải hoàn trả lại cho nhà tài trợ.
ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): Là khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân
hạn và thời gian trả nợ bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và
25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
ODA vay hỗn hợp: Là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời
với các khoản tín dụng thương mại nhưng tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các
khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
Căn cứ vào mục đích sử dụng:
Hỗ trợ cơ bản: Là loại ODA dành cho việc thực hiện nhiệm vụ chính của các chương trình, dự án đầu tư xây
dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như đường sá, cầu, cảng,…. Loại ODA này thường là các khoản vay ưu
đãi.
Hỗ trợ kỹ thuật: Là loại ODA được thực hiện nhằm chuyển giao tri thức, chuyển giao công nghệ, phát triển
năng lực, phát triển thể chế, nghiên cứu tiền đầu tư các chương trình dự án, phát triển nguồn nhân lực,… Loại
ODA này thường là ODA không hoàn lại.
Căn cứ vào nhà tài trợ:
ODA song phương: Là loại ODA được Chính phủ một nước tài trợ trực tiếp cho Chính phủ nước khác.

ODA đa phương: Là loại ODA do các tổ chức quốc tế, các tổ chức liên chính phủ tài trợ cho Chính phủ của một
nước.
ODA của các tổ chức phi chính phủ: Là loại ODA do các tổ chức phi chính phủ cung cấp.
A.Ưu điểm
Nguồn vốn tài trợ từ nước ngoài này phù hợp với dự án phát triển do đây là nguồn vốn có lãi suất thấp, thời gian
sử dụng dài. Đặc biệt thích hợp cho các DAPT tại các nước đang phát triển như Việt Nam, thiếu vốn đề phát
triển kinh tế.

B.Nhược điểm
Chịu ảnh hưởng, sức ép từ nước viện trợ về mặt kinh tế-chính trị, quốc phòng…: Các nước giàu khi viện trợ
ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo
mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng
vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình
phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).
Nước tiếp nhận đầu tư dễ rơi vào tình trạng nợ nước ngoài thậm chí không có khả năng trả nợ nếu không có
chính sách sử dụng và phân bổ hợp lý.
Ví dụ: Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các
lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều
hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp có thể đẩy
nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
Do các nguồn vốn tài trợ này đã được thiết kế cho những mục tiêu cụ thể do vậy chỉ sử dụng cho những chương
trình dự án theo thỏa thuận với bên tài trợ. Ngoài ra nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng
ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù
không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên
gia.
Giải ngân vốn ODA tại Việt Nam còn chưa đạt mục tiêu đề ra trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm và tỷ lệ giải ngân vẫn còn thấp hơn mức trung bình của thế giới và khu vực đối với một số nhà tài trợ cụ
thể. Theo Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ giải ngân trung bình của khu vực là 20%, trong khi Việt Nam chỉ đạt 14%.
Và tỷ lệ giải ngân thấp là một trong những nguyên nhân dẫn đến tổng chi ngân sách nhà nước năm 2009 lên đến

trên 530.000 tỉ đồng, tăng 8,5% so với dự toán, tương đương 31,7% GDP.
Bộ KH-ĐT cho rằng, những nguyên nhân cơ bản dẫn tới giải ngân chậm ODA là do cơ chế, chính sách trong
lĩnh vực đầu tư, xây dựng còn nhiều bất hợp lý, năng lực của cả cơ quan chủ quản và các nhà thầu còn hạn chế,
cơ chế bố trí vốn đối ứng chưa hợp lý.
Do có nhiều ưu đãi nên hiệu quả sử dụng vốn thấp:
tình trạng này được phản ánh là sự thiếu quyền hạn, thụ động hoặc trách nhiệm chưa được quy định rõ giữa các
cấp các ngành thiếu trách nhiệm.
2.2.2.2. Nguồn tài trợ từ WB, IMF
A. Nguồn tài trợ từ WB
Ngân hàng Thế giới, viết tắt là WB, là một tổ chức tài chính đa phương có mục đích trung tâm là thúc đẩy phát
triển kinh tế và xã hội ở các nước đang phát triển bằng cách nâng cao năng suất lao động ở các nước này.
Nhóm Ngân hàng thế giới bao gồm năm tổ chức:
+ Ngân hàng quốc tế Về khôi phục và phát triển (IBRD)
+ Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA)
+ Nghiệp đoàn Tài chính quốc tế (IFC)
+ Cơ quan Bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA),
+ Trung tâm quốc tế Giải quyết tranh chấp đầu tư (ICSID),
Những hoạt động chính: WB thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và xã hội ở các nước đang phát triển thông qua trợ
giúp kĩ thuật, cho vay vốn dự án đối với các chính phủ. WB huy động vốn từ những thị trường tài chính quốc tế

×