Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam và những vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.17 KB, 38 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA NGÂN HÀNG

ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Giáo viên: Trần Thị Lộc
Nhóm 5 – H302 – sáng thứ 6
Hà Nội 20.11.2010
Danh sách thành viên Nhóm 5 H302 sáng thứ 6
stt Tên thành viên Lớp
1 Đào Thị Hải Huyền TCDNB_K11
2 Hoàng Thị Cẩm Tú TCDNB_K11
3 Nguyễn Thị Ngọc Huế TTQTB_K11
4 Vũ Giang Lam TCDNC_K11
5 Trần Văn Chiến TCDNC_K11
6 Nguyễn Thanh Thủy TCDNB_K11
7 Trần Phi Hùng TCDNB_K11
8 Nguyễn Quang Đức TCDNB_K11
9 Bùi Trường Minh TCDNA_K11
10 Phạm Thế Huỳnh TCDNB_K11
11 Mai Hồng Minh TCDNB_K11
12 Nguyễn Văn Thương TCDNB_K11
13 Nguyễn Thị Thùy Linh TCDNE_K11
Mục Lục
Tính độc lập, trách nhiệm của NHNN chưa thích ứng với mức độ hội nhập tài chính
thế giới và phù hợp thể chế chính trị ở nước ta. Kỹ thuật thu thập, xử lý thông tin
chưa đáp ứng được với tình hình biến động của nền kinh tế do đó việc đưa ra quyết
định điều hành CSTT đôi lúc còn chậm. Năng lực dự báo yếu kém, lúng túng, bị
động, giải pháp chưa sát với yêu cầu thực tế 33


Lời Mở Đầu
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các
biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát… Để đạt
được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó
có vai trò cơ bản, quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các
công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng
đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn
các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế
luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối
với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà
nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và
quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các
công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về
chính sách tiền tệ , chúng em quyết định chọn đề tài :
“Điều hành CSTT của NHNN Việt Nam từ năm 2007 đến nay và những
vấn đề đặt ra.”
Trong quá trình sưu tập và làm bài, chúng em phân ra nhiều phần khác nhau để
phân tích và có thể đứng ở một khía cạnh nào đó có thể hạn hẹp. Chính sách tiền
tệ của NHNN VN trong giai đoạn 2007 -2010 rất rộng lớn, có thể kiến thức của
chúng em chưa đáp ứng được yêu cầu của các thầy (cô) yêu cầu. Chúng em rất
mong sự đóng góp ý kiến từ các thầy (cô) và các bạn để bài tiểu luận của chúng
em được tốt hơn nữa.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!!
Chương I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1) Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ

a. Khái niệm chính sách tiền tệ :
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi
thảo và thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của mình nhằm đạt các mục
tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế .
Chúng ta có thể hiểu, chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà NHNN
VN (NHTW) thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ
trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội của
đất nước trong một thời kì nhất định. Mặt khác, nó là một bộ phận quan trọng
trong hệ thống chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ.
Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng:
chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất
kinh doanh ,giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất
nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền , tăng lãi suất làm giảm
đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng-
chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền).
b. Vị trí chính sách tiền tệ :
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là
một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực
lưu thông tiền tệ .Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ
mô khác như chính sách tài khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối
ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách
tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính
sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.
2) Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
a. Ổn định giá trị đồng tiền :
NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền
của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên hai mặt: Sức mua đối
nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua đối
ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới

ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh
tế không thể phát triển được,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ
lệ thất nghiệp tăng lên.
b. Tăng công ăn việc làm:
CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa
các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ
thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận
một tỷ lệ lạm phát tăng lên. Mặt khác, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả
của cuộc cải tiến kĩ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm. Theo nhà
kinh tế học Arthur Okun thì khi GNP thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng, thì
mức thất nghiệp tăng 1%.
Từ những điều trên cho thấy, vai trò của NHTW khi thực hiện mục tiêu này : tăng
cường đầu tư mở rộng sản xuất – kinh doanh, chống suy thoái kinh tế theo chu kỳ,
tăng trưởng kinh tế ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên.
c. Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các
chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc
biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của dân
chúng đối với Chính phủ.
Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu : Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau, không tách
rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu
thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên
một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp
với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Mặt khác để biết các mục tiêu cuối cùng trên có thực hiện được không, thì các
NHTW phải chờ thời gian dài ( một năm –khi kết thúc năm tài chính).
3. Các công cụ điều tiết:
Công cụ CSTT là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi NHTW nhằm ảnh

hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất, từ
đó mà đạt được các mục tiêu của CSTT.
a. Công cụ trực tiếp:
Là các công tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông hoặc các mức
lãi suất trung và dài hạn. Công cụ trực tiếp được áp dụng phổ biến trong thời kỳ
các hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ. Các công cụ được sử dụng đó là:
 Hạn mức tín dụng
 Ấn định lãi suất
 Ấn định tỷ giá
• Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM:
 Khái niệm :là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không
được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định(một năm) để
thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín
dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô(tốc độ
tăng trưởng ,lạm phátiêu thụ )sau đó NHTW sẽ phân bổ cho các NHTM và
NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHTW quy định .
 Cơ chế tác động: Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với
lượng tiền cung ứng, việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho
nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục
tiêu của NHTM.
 Đặc điểm:Giúp NHTW điều chỉnh ,kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi
các công cụ gián tiếp kém hiệu quả ,đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao
trong những giai đoạn phát triển quá nóng,tỷ lệ lạm phát quá cao của nền
kinh tế .Song nhược điểm của nó rất lớn : triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa
các NHTM,làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế ,dễ phát sinh
nhiều hình thức tín dụng ngoàI sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá
kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên
• Quản lý lãi suất của các NHTM:
 Khái niệm :NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi
suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó,từ đó

ảnh hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được
quản lý mức cung tiền của mình.
 Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ
ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm
cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo.
 Đặc điểm:Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo
mục tiêu của từng thời kỳ,đIều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có
điều kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp.Song, nó dễ làm
mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là
“giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu
về vốn trong nến kinh tế .Mặt khác việc thay đổi quy định đIều chỉnh lãI
suất dễ làm cho các NHTM bị động,tốn kém trong hoạt động kinh doanh
của mình.
• Tỉ giá hối đoái:
 Khái niệm : Tỉ giá hối đoái là đại lượng biều thị mối tương quan về mặt giá
trịgiữa hai đồng tiền.nói cách khác tỉ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị
tiền tệ nước này được biểu hiện bằng một đơn vị tiền nước khác.
 Cơ chế tác động: Tác động đến hoạt động kinh tế , từ hoạt động xuất nhập
khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước qua biến đổi của giá
cả hàng hóa.
 Đặc điểm: Ngân hàng trung ương có thể ấn định tỉ giá cố định hay tha nổi
theo quan hệ cung cầu ngoai tệ trên thị trường ngoại hối bện canh đó còn có
tỉ gía cố định nhưng di động khi cần thiết và tỉ giá thả nổi có quản lý.khi
vận dung công cụ này không phải NHTU đẩy tỉ giá lên cao hay kéo tỉ gái
xuống thấp mà ổn định tỉ gái ở một mức độ hợp lí phù hợp vói đặc điểm
điều kiện thực tế của đất nước trong từng giai đoạn để tác động chung cuộc
của nó là tốt nhất.
b.Công cụ gián tiếp:
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của CSTT, thông
qua cơ chế thị trường mà tác động này được lan truyền đến các mục tiêu trung

gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Bao gồm:
• Nghiệp vụ thị trường mở:
 Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực
hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết
lượng tiền cung ứng.
 Cơ chế tác động :
Nghiệp vụ thị trường mở có 2 loại: được phép mua bán chứng khoán
vào những thời điểm nhất định sau khi nghiệp vụ được tiến hành và loại
không được phép mua bán lại.
Khi NHTW đem chứng khóan ra thị trường mở để bán nó thu tiền hay
séc về, cho nên:
o Giảm lượng cung tiền mắt trong lưu thông từ đó giảm khả năng cho vay
của các ngân hàng trung gian.
o Khi ngân hàng trung gian mua chứng khóan của NHTW thì dự trữ tiền
của nó sẽ giảm xuống và khả năng cung ứng tiền của nó bị thắt chặt.
o Lượng chứng khoán tăng lên, chứng khoán trở nên thừa và giá của nó sẽ
giảm xuống, lãi suất của nó sẽ tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng lên
buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất để tránh tình trạng người dân rút
tiền ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào chứng khoán. Lãi suất ngân hàng
tăng làm lượng tiền cung ứng giảm và do đó tiền trở nên khan hiếm, do
đó tỉ giá và giá cả hàng hóa giảm xuống. Và ngược lại khi NHTW ra thị
trường mở để mua chứng khoán.
Như vậy khi NHTW thực hiện nghiệp vụ bán, nó thắt chặt cung ứng tiền,
tăng lãi suất, giảm tỉ giá và giá cả hạ xuống và ngược lại khi thực hiện
nghiệp vụ mua.
 Đặc điểm: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là
một công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối lượng
chứng khoán mua ( bán ) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần điều
chỉnh, ít tốn kém về chi phí , dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy, vì được
thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ

thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì
cần phảI có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ ,thị trường vốn.
• Dự trữ bắt buộc:
 Khái niệm : Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ lại,
do NHTW qui định, gửi tại NHTW, không hưởng lãI, không được dùng
để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định
trên tổng só tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán,
sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
 Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực
tiếp đến số nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của
các NHTM.Mặt khác khi tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng
cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãI suất cho vay tăng
(giảm), từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng).
 Đặc điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp
NHTW chủ động trong việc đIều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động
của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt
buộc là ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh
hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm ,phức tạp,
tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của
các NHTM.
Chương II:
THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CSTT Ở VIỆT NAM NĂM 2007
TỚI NAY
I. Thực trạng CSTT ở Việt Nam:
1) Bối cảnh chung:
Năm 2007, kinh tế Việt Nam phát triển trong điều kiện khó khăn nhiều hơn thuận
lợi so với các năm trước.
 Về khó khăn: Thị trường thế giới biến động lớn, phức tạp. Giá cả nhiên liệu,
vật tư, nhất là xăng dầu, phôi thép, thép, nguyên liệu sợi, vải, vật liệu phục vụ
công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, thức ăn chăn nuôi tăng cao.

Thị trường xuất khẩu một số mặt hàng biến động phức tạp như dệt may, da
giày, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng, động cơ điện Điều đó
đã làm cho giá cả tiêu dùng trong nước tăng cao liên tục chưa có điểm dừng.
Các điểm yếu của nền kinh tế vốn tồn tại nhiều năm nay như kết cấu hạ tầng yếu
kém, nhất là giao thông, thủy lợi, điện đã bộc lộ rõ nét qua thiên tai năm 2007
không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế bền vững với tốc độ cao.
 Về thuận lợi: Thành quả nổi bật của những năm qua là duy trì được tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%/ năm trong 5 năm 2001 - 2005 và
8,17% năm 2006, thế và lực của Việt Nam đã mạnh lên so với các năm
trước. Đó là những tiền đề vật chất rất quan trọng, là yếu tố thuận lợi cơ
bản để các ngành, các cấp thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch năm 2007.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và
thực hiện cam kết PNTR với Hoa Kỳ, do đó, thị trường xuất khẩu mở rộng, các
rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn
chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao qua Hội nghị cấp cao
APEC năm 2006. Quan hệ ngoại giao, các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu tư, mở
rộng thị trường xuất khẩu được củng cố và tăng cường thông qua các cuộc thăm
cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng với sự tham gia của các nhà doanh
nghiệp. Tình hình chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng bảo đảm, đã tạo môi
trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp
trong nước.
Thị trường và giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam diễn biến theo
hướng cầu lớn hơn cung như dầu thô, gạo, cà phê, chè, thủy sản Do đó, giá cả
các mặt hàng này tăng cao, có lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Bối cảnh trên đây đã tác động trực tiếp, toàn diện đến quá trình và kết quả sản
xuất, kinh doanh của các ngành, các doanh nghiệp và xu thế biến động thị trường,
giá cả trong nước trên cả 2 mặt thành tựu và hạn chế, bất cập của nền kinh tế năm
2007.
Sang đến năm 2008 tình hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến động
phức tạp. Cụ thể:

• Tình hình thế giới:
Từ đầu năm 2008, giá dầu thô và nhiều loại vật tư, lương thực trên thị trường thế
giới tăng đột biến, giá dầu thô đã tăng trên 140 USD/thùng; giá lương thực tăng
trên 1.000 USD/tấn. Kinh tế tăng trưởng chậm lại trên phạm vi toàn cầu, trước hết
là do những khó khăn trong thị trường nhà đất của Mỹ và sự mất giá của đồng đô
la làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ giảm sút.
Từ sự suy thoái của kinh tế Mỹ, suy thoái kinh tế và lạm phát đã lan rộng ra các
nền kinh tế lớn khác trong năm 2008 như EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ và
ảnh hưởng toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Quí I năm 2008 của các nước đều
giảm. Dự báo chỉ số CPI của các nước năm 2008 sẽ tăng cao hơn nhiều các năm
trước.
• Tình hình trong nước:
Từ năm 2007 một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế đã có những biểu hiện
xấu và tiếp tục tác động sang năm 2008 như: chỉ số giá trong năm 2007 tăng tới
12,6%; tổng kim ngạch nhập khẩu tăng tới 39% và nhập siêu lên tới 29% tổng kim
ngạch xuất khẩu; cân đối tiền tệ, các chỉ số về tổng phương tiện thanh toán, tổng
mức huy động vốn và tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế đều tăng rất cao. Các dự
báo khi xây dựng kế hoạch năm 2008 biến động khá lớn so với tình hình thực tế
(tỷ giá giữa đồng Việt nam với USD; lãi suất tiết kiệm; mức lãi suất cho vay ).
Kinh tế thế giới bước sang 2009 với nhiều lo âu và thấp thỏm. Mỹ, đầu tầu kinh tế
toàn cầu sau khi “lên dốc” không thành vào quý III năm 2008, đã trượt dốc không
phanh. Các kế hoạch cứu trợ khẩn cấp liên tiếp được đưa ra nhưng chưa thể ngăn
chặn được sự “bốc hơi” của lượng tài sản tài chính lên tới hơn 30.000 tỉ USD.Toàn
thế giới đã chịu “chấn động” của “cơn sóng thần thế kỷ”. Lạm phát, giá hàng hóa,
vật tư tăng cao.
Nếu tăng trưởng kinh tế năm 2008 của nước ta diễn ra theo đúng kịch bản 6,5%,
thì hy vọng rằng trong năm 2009 chúng ta vẫn tiếp tục là nền kinh tế thu hút nhiều
sự quan tâm của cộng đồng kinh doanh và tài chính quốc tế. Tuy vậy, khó khăn về
nguồn vốn và tín dụng quốc tế chưa đi qua. Thu hút vốn FDI trong năm tới sẽ gặp
nhiều khó khăn. Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao sẽ trở thành vấn nạn của năm 2009, kéo

theo hiệu ứng là các tệ nạn tiêu cực xã hội. Tạo đủ công ăn việc làm cho người lao
động là một thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2009. Khu vực doanh
nghiệp, đặc biệt khối tư nhân, còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn
tín dụng. Thu hẹp quy mô và giãn sản xuất, đồng nghĩa với việc cắt giảm nhân
công hoặc sử dụng không hết thời gian làm việc, là những giải pháp phổ biến tại
nhiều đơn vị sản xuất thời gian qua.
Mặt bằng lãi suất đã được điều chỉnh giảm dần suốt 6 tháng cuối năm 2008 nhưng
trên thị trường tín dụng, ngân hàng và doanh nghiệp vẫn chưa tìm được tiếng nói
chung.
Do tình trạng suy thoái kinh tế và thất nghiệp còn gia tăng, nhu cầu tiêu dùng
trong năm 2009 sẽ giảm mạnh. Ngân hàng Thế giới ước tính mậu dịch thế giới sau
khi tăng 6,2% trong năm 2008 sẽ suy giảm còn 2,1% trong năm tới. Từ đó, có thể
xác định một năm khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam đang ở phía trước. Mặc dù
giá nhập khẩu cũng có xu thế giảm, nhưng muốn bảo đảm nhập siêu ở mức an
toàn, cần tiếp tục kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu và cổ vũ thực hành tiết
kiệm trong tiêu dùng và đầu tư.
Trong năm 2009, NHNN đã thành công trong việc kích thích tăng trưởng ở mức
5,3%, trong khi kiềm chế lạm phát ở mức 6,5%. Nền kinh tế đã dần đi vào ổn
định. Năm 2010, NHNN sẽ cố gắng đáp ứng cả hai mục tiêu, nhưng mục tiêu tăng
trưởng sẽ chiếm ưu thế vì tình hình kinh tế thế giới sẽ biến chuyển thuận lợi hơn,
tạo điều kiện cho VN tăng trưởng nhanh hơn so với năm ngoái. Để đạt mức tăng
trưởng 6,5% cho 2010 chúng ta phải chấp nhận một mức độ lạm phát cao hơn
7%. Một mức lạm phát 7-9% có thể chấp nhận được
Kinh tế trong nước có xu hướng tăng trưởng cao, thị trường tài chính, tiền tệ và
kinh tế vĩ mô về cơ bản là ổn định. Mặc dù vậy, giá cả hàng hóa tiêu dùng trong
nước tăng ở mức khá cao. Chỉ số giá tiêu dùng 2 tháng đầu năm nay tăng 3,35%,
hầu hết các nhóm mặt hàng đều tăng.
Như vậy, giá cả hàng hóa tiêu dùng tăng ở mức khá cao trong những tháng đầu
năm nay, nhưng so với cùng kỳ các năm gần đây chưa phải là đột biến. Nguyên
nhân trực tiếp và chủ yếu làm cho giá cả hàng hóa tiêu dùng tăng là do tác động

của giá cả hàng hóa thế giới, nhu cầu tiêu dùng tăng cao trong dịp Tết Nguyên đán
và việc điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng thiết yếu.
2. Diễn biến về việc điều hành CSTT:
a. Giai đoạn 2007:
Thực hiện ý kiến chỉ đạo nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2007, NHNN trong
thực thi CSTT đã bám sát mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm
phát, đảm bảo sự ổn định tiền tệ, ổn định hệ thống ngân hàng, góp phần ổn
định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao,
bền vững trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế - nhiều thuận lợi, nhưng
cũng không ít thách thức. Trên cơ sở đó, NHNN đã thực hiện các giải pháp
điều hành CSTT như sau:
+)Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá
VND gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế:
Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê duyệt năm
2007, NHNN đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết có hiệu quả
khối lượng tiền cung ứng này, nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ tăng dự trữ
ngoại hối Nhà nước, hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam, góp phần bình ổn
thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời cũng hút mạnh lượng tiền đã cung ứng
ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ dư thừa vốn khả dụng của các
NHTM, hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh toán (TPTTT), qua đó
giảm áp lực lạm phát. Cụ thể:
- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã hút được một lượng tương đối
lớn vốn khả dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết kịp thời sự
thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số TCTD, đảm bảo duy trì ổn định
tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường.
- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006
để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng
trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát
trong những tháng cuối năm.
- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát tín

hiệu ổn định lãi suất thị trường. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung ngoại
tệ dồi dào, từ 01/03/2007, NHNN đã chính thức thực hiện bỏ qui định về trần
lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD để hoàn toàn tự do hóa lãi suất
thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay
chiết khấu trong hạn mức phân bổ.
+) Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở
cửa thị trường tài chính:
- Ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ
0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Đồng
thời NHNN đã thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các NHTM,
Kho bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp để hạn chế sức ép
tăng giá đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà nước. Chênh
lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của NHNN và tỷ giá bình quân trên thị trường
liên ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
- Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính
phủ, NHNN đã duy trì hạn mức Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30% tổng
dự trữ ngoại hối nhà nước, (xác định theo quý) với biên độ +/- 10% thay vì xác
định hạn mức theo giá trị tuyệt đối như trước đây. Việc xác định hạn mức như
vậy cho phép NHNN tăng cường tính linh hoạt trong điều hành tỷ giá, kịp thời
ứng phó với các rủi ro đảo chiều của các nguồn vốn, đặc biệt là các nguồn vốn
đầu tư gián tiếp của nước ngoài.
- NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu
thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước
tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời
điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.
- Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại hối;
triển khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam,
khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt.

+) Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín
dụng, tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.
Bên cạnh việc sử dụng các công cụ CSTT để thu hút tiền dư thừa của các
TCTD để hạn chế việc mở rộng quá mức đầu tư tín dụng và tăng TPTTT,
NHNN tiếp tục thực hiện hoàn thiện cơ sở pháp lý và yêu cầu các TCTD thực
hiện các quy định về kiểm soát rủi ro, quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay
đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế như:
- Yêu cầu các TCTD tiếp tục thực hiện Công văn số 7318/NHNN-CSTT ngày
25/8/2006 về việc thực hiện một số biện pháp để kiểm soát việc cho vay đầu
tư, kinh doanh chứng khoán ở mức hạn chế và đảm bảo an toàn. Ban hành Chỉ
thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín
dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó có qui định khống chế dư nợ vốn cho
vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán ở mức dưới
3% tổng dư nợ tín dụng của TCTD
- Ban hành Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 quy định các
TCTD không được cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trực thuộc hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, không được cho vay không có bảo
đảm đối với các khoản vay nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán và trong thời
hạn 1 năm kể từ ngày Quyết định 03 có hiệu lực, các TCTD phải điều chỉnh để
đáp ứng các quy định trên.
- Đồng thời, bổ sung sửa đổi quy định về tín dụng, trích lập và sử dụng dự
phòng rủi ro phù hợp với chuẩn mực quốc tế và yêu cầu tăng cường năng lực
tài chính của NHTM khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, hệ số rủi ro của các
khoản cho vay để đầu tư chứng khoán, các khoản cho vay đối với công ty
chứng khoán nhằm kinh doanh, mua bán chứng khoán được nâng lên mức
150% (theo quy định tại Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN là 100%);
- Ban hành văn bản số 3224/NHNN-CSTT ngày 10/4/2007 quy định việc các
TCTD báo cáo định kỳ về hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán, cho vay có

bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán, ủy thác đầu tư và chiết khấu giấy tờ có giá
nhằm phục vụ việc giám sát thường xuyên hoạt động cho vay đối với nhu cầu
vốn này và có các giải pháp xử lý kịp thời; ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-
NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay
đầu tư, kinh doanh chứng khoán và các văn bản hướng dẫn lộ thực hiện đối với
các NHTM đã cho vay vượt mức khống chế tỷ lệ 3%, giảm dần cho đến thời
điểm 31/12/2007 phải đảm bảo tỷ lệ 3%; tăng cường thanh tra, giám sát việc
mở rộng quy mô và chất lượng tín dụng theo Chỉ thị này.
- Ban hành Chỉ thị số 06/2007/CT-NHNN ngày 02/11/2007 về yêu cầu các tổ
chức tín dụng và các đơn vị trực thuộc NHNN thực hiện các giải pháp đảm bảo
khả năng thanh toán và kiểm soát tổng phương tiện thanh toán.
- Tổ chức họp với các NHTM và NHNN chi nhánh thành phố Hà Nội, Đà
Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh để triển khai thực hiện
các giải pháp cụ thể về tiền tệ, tín dụng. NHNN đã chỉ đạo các NHTM tích cực
tham gia nghiệp vụ thị trường mở, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, kiểm soát chặt
chẽ tín dụng đối với một số lĩnh vực có độ rủi ro cao như cho vay để đầu tư,
kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay bằng
ngoại tệ, cho vay tiêu dùng.
- Tiến hành thanh tra tại các TCTD về hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh
chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán.
b. Giai đoạn 2008:
 6 tháng đầu năm:
Trong 6 tháng đầu năm, áp lực lạm phát gia tăng mang tính toàn cầu, CPI của Việt
Nam trong 6 tháng tăng bình quân là 15,03%, mức thâm hụt cán cân thương mại ở
mức kỷ lục (hơn 14% GDP). Trước tình hình đó thực hiện các công văn số
75/TTg-KTTH, ngày 15 tháng 1 năm 2008, và 319/TTg-KTTH, ngày 03 tháng 03
năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường các biện pháp kiềm chế lạm
phát năm 2008 cùng với nghị quyết 10/2008/NQ_CP về các biện pháp kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững;
NHNN đã thực hiện các giải pháp điều hành CSTT như sau:

+) Điều hành CSTT theo hướng thắt chặt để kiềm chế tốc độ tăng tổng phương
tiện thanh toán và kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng nhằm đảm bảo mức
tăng tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng không vượt quá 30%.
Để thực hiện mục tiêu này, NHNN đề ra những giải pháp và biện pháp cụ thể:
Thứ nhất, chỉ đạo các TCTD kiểm soát chặt chẽ những lĩnh vực cho vay có rủi ro
cao như đầu tư kinh doanh chứng khoán, bất động sản thông qua việc:
- Siết chặt lại các điều kiện được cho vay và khống chế tổng dư nợ cho vay, chiết
khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán không được vượt quá 20%
vốn điều lệ của TCTD.
- Yêu cầu các TCTD khống chế tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay bất
động sản ở mức hợp lý so với tổng dư nợ và nguồn vốn cho vay.
- Ban hành Quyết định số 09/2008/QĐ-NHNN về cho vay bằng ngoại tệ của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng vay là người cư trú nhằm hạn chế cho vay đối
với nhu cầu không nhất thiết phải sử dụng vốn ngoại tệ.
Thứ hai, sử dụng các công cụ của CSTT như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc
(DTBB), thị trường mở để điều tiết lượng vốn khả dụng của các ngân hàng thương
mại (NHTM) và từ đó tác động lên khả năng cung vốn ngân hàng ra thị trường
theo mục đích đặt ra và thu hút mạnh tiền từ lưu thông về, cụ thể:
- Tăng tỷ lệ DTBB (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các
TCTD hoạt động trên địa bàn nông thôn).
- Tăng khối lượng bán tín phiếu trên nghiệp vụ thị trường mở và phát hành 20.300
tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các TCTD có quy mô vốn huy động bằng VND
trên 1.000 tỷ đồng (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Quỹ tín
dụng nhân dân Trung ương).
- 6 tháng đầu năm 2008, NHNN đã 2 lần thay đổi các lãi suất cơ bản, lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất chiết khấu theo hướng tăng lên. Điều này được thực hiện nhằm
tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ
tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền, cụ thể :
+ Tăng lần 1: lãi suất cơ bản lên 12%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 13%/năm, lãi
suất chiết khấu lên 11%/năm.

+ Tăng lần 2: Lãi suất cơ bản lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 15%/năm, lãi
suất chiết khấu lên 13%/năm.
+) Nâng dự trữ bắt buộc đối với các NHTM và qui định các NH mua tín phiếu
NHNN:
- Ban hành Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc
đối với tổ chức tín dụng. Cụ thể, mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt
buộc bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay vì áp dụng dự trữ
bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống như
thời gian qua. Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1% đối với các loại tiền gửi so
với tỷ lệ quy định hiện nay. Không điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông nghiệp nông thôn.
- Ban hành quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu NHNN bằng
VND dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng với nội dung chủ yếu
là: tổng giá trị tín phiếu NHNN phát hành bắt buộc đợt này là 20.300 tỷ đồng, kỳ
hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,80%/năm; hình thức phát hành là ghi sổ; giá trị tín
phiếu được phân bổ cho từng tổ chức tín dụng theo quy mô, tỷ trọng huy động vốn
bằng đồng Việt Nam của từng tổ chức tín dụng; thời điểm phát hành tín phiếu là
ngày 17/3/2008.
+) Bình ổn thị trường ngoại hối:
- Để bình ổn thị trường ngoại hối, NHNN đã thực hiện hàng loạt biện pháp, như
nới rộng biên độ tỷ giá từ ±1% lên mức ±2% tạo sự linh hoạt tỷ giá sát với cung -
cầu thị trường; thực hiện mở rộng đối tượng bán ngoại tệ cho các NHTM, việc can
thiệp dựa vào trạng thái ngoại tệ của các NHTM trong ngày, thực hiện minh bạch
các thông tin về dự trữ ngoại hối.
- Bên cạnh đó, NHNN thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại tệ,
cấm các tổ chức tín dụng (TCTD) không được mua - bán USD thông qua ngoại tệ
khác, phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý các hoạt
động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật trên thị trường và thiết lập đường
dây nóng. Hành động này đã có tác động nâng cao kỷ luật thị trường, góp phần
tích cực tạo bình ổn thị trường.

 6 tháng cuối năm:
Chính sách tiền tệ 6 tháng cuối năm 2008 để chủ động ngăn chặn suy giảm
kinh tế, chính sách tiền tệ thắt chặt được chuyển dần sang nới lỏng một
cách thận trọng. Theo ý kiến chỉ đạo của Công văn số 970/TTg-KTTH ban
hành ngày 25/6/2008 về việc thực hiện biện pháp kiềm chế lạm phát và bảo
đảm ổn định kinh tế vĩ mô những tháng cuối năm 2008, NHNN đã thực
hiện một loạt các giải pháp sau:
+) Điều chỉnh lãi suất :
- Đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ 14%/năm xuống 13%/năm,
12%/năm, 10%/năm và 8,5%/năm; lãi suất tái cấp vốn từ 15%/năm xuống
14%/năm 13%/năm, 11%/năm và 9,5%/năm; lãi suất chiết khấu từ 13%/năm
xuồng 12%/năm và 11%/năm, 9%/năm và 7,5%/năm, lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh
toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng thương mại từ 15%/năm xuống
14%/năm, 13%/năm, 11%/năm và 9,5%/năm.
Bảng 1
Lãi suất CB Quyết định Ngày thực hiện
8,5%
3161/QĐ-NHNN ngày
19/12/2008
22/12/2008
10%
2948/QĐ-NHNN ngày
03/12/2008
05/12/2008
11%/năm 2808/QĐ NHNN ngày 21/11/2008
20/11/2008
12%/năm
2559/QĐ-NHNN ngày
3/11/2008

05/11/2008
13.0%/năm
2316/QĐ-NHNN ngày
20/10/2008
21/10/2008
14%/năm
1317/QĐ-NHNN ngày
10/6/2008
11/06/2008
- Đã tăng lãi suất tiền gửi DTBB bằng đồng Việt Nam đối với các TCTD từ
5%/năm lên 10%/năm và giảm 1% tỷ lệ DTBB đối với tiền nội tệ và 2% tỷ lệ
DTBB tiền gửi ngoại tệ áp dụng cho các TCTD. Tiếp đến tháng 11 giảm lãi suất
tiền gửi dự trữ bắt buộc xuống 7 % và hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống còn mức 5%
đối với Việt Nam đồng.
Bảng 2:
Lãi suất
DTBB
Quyết định Ngày thực hiện
8,5%/năm
3162/QĐ-NHNN ngày
19/12/2008
22/12/2008
9%/năm
2950/QĐ-NHNN ngày
3/12/2008
5/12/2008
10%/năm
2321/QĐ-NHNN ngày
20/10/2008
21/10/2008

5,0%/năm
2133/QĐ-NHNN ngày
25/9/2008
01/10/2008
3,5%/năm
1907/QĐ-NHNN ngày
29/8/2008
01/9/2008
-Ban hành Quyết định 2811 ngày 20/11/2008 theo đó, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
bằng đồng Việt Nam từ 10%/năm xuống còn 8%/năm, rồi từ 8% xuống còn 6%
(Quyết định 2951 ngày 03/12/2008), đến 19/12/2008 còn 5% (Quyết định 3158).
+) Điều chỉnh tỷ giá:
- Ngày 6/11/2008, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 2635/QĐ-
NHNN, theo đó,cho phép Tổng Giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng được
phép hoạt động ngoại hối ấn định tỷ giá mua bán giao ngay giữa VND và USD
trong biên độ ±3% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tăng ±1% so với mức
±2% đã được áp dụng. Biên độ tỷ giá mới sẽ được áp dụng từ ngày 07/11/2008.
Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 09/10/2008, theo
đó yêu cầu các TCTD áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động
kinh doanh, trong đó chú trọng các biện pháp ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra do tác
động của khủng hoảng tài chính và dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu, chấp hành
đúng quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh; đáp ứng
vốn tín dụng cho nền kinh tế trên cơ sở khả năng huy động vốn trong và ngoài
nước, đi đôi với kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và tiếp tục điều chỉnh cơ
cấu tín dụng để tập trung vốn cho các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu,
nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, lĩnh vực nông nghiệp nông thôn…
c. Giai đoạn 2009-nay:
 Trong năm 2009:
Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ đã phải đối mặt với nhiều thách thức
khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của

khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. NHNN đã thực thi CSTT một cách
linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường.
+) Dự trữ bắt buộc:
Từ 1/3/2009, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND của các tổ
chức tín dụng, đồng thời tiếp tục giữ nguyên lãi suất cơ bản VND.
Cụ thể, lãi suất cơ bản được giữ nguyên ở mức 7%/năm và lãi suất cho vay tối đa
là 10,5%/năm. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn
dưới 12 tháng được điều chỉnh đối với mọi loại hình tổ chức tín dụng
- Ngày 3/4/2009, Thống đốc NHNN (NHNN) đã ban hành Quyết định số 790/QĐ-
NHNN về lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với tổ chức tín
dụng (TCTD) và lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của Kho bạc Nhà nước tại NHNN.
Theo quyết định này, kể từ ngày 3/4/2009, NHNN áp dụng mức lãi suất đối với
tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ gửi tại NHNN của các TCTD là
0,1%/năm, áp dụng kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 4/2009. Tiền gửi bằng
ngoại tệ của Kho bạc Nhà nước tại NHNN cũng được áp dụng mức lãi suất
0,1%/năm.
+) Hỗ trợ tín dụng:
-Ngày 29/9, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 20/2010/TT-NHNN
hướng dẫn thực hiện các biện pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ để hỗ trợ
tổ chức tín dụng cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn.
+) Lãi suất:
Lãi suất tái cấp vốn:
Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng
08% 2664/QĐ-NHNN 25/11/2009 01/12/2009
7,0%/năm 2232/QĐ-NHNN 01/10/2009
7% 837/QĐ-NHNN 10/04/2009 10/04/2009
7% 173/QĐ-NHNN 23/01/2009 01/02/2009
- Ngày 23/01/2009 Thống đốc NHNNVN ra Quyết định số 173/QĐ-NHNN về lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán
điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của

NHNNVNđối với các ngân hàng.
-Ngày 10/04/2009 Phó Thống đốc Trần Minh Tuấn ký ban hành Quyết định số
837/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua
đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn
trong thanh toán bù trừ của NHNNVNđối với các Ngân hàng.
Theo quy định các mức lãi suất của NHNNVNnhư sau:
1. Lãi suất tái cấp vốn: 7,0%/năm.
2. Lãi suất tái chiết khấu: 5,0%/năm.
3. Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho
vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNNVNđối với các
ngân hàng: 7,0%/năm.
-Ngày 25/11/2009, Thống đốc NHNN (NHNN) Việt Nam đã ban hành các Quyết
định điều chỉnh mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và
tỷ giá.
Quy định các mức lãi suất của NHNNVNnhư sau:
1. Lãi suất tái cấp vốn: 8,0%/năm
2. Lãi suất tái chiết khấu: 6,0%/năm.
3. Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù
đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNNVNđối với các ngân hàng:
8,0%/năm.
Lãi suất cơ bản:
Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng
8% 2665/QĐ-NHNN 25/11/2009 01/12/2009
7% 2459/QĐ-NHNN 28/10/2009 01/11/2009
7,0%/năm 2232/QĐ-NHNN 01/10/2009
7% 2024/QĐ-NHNN 26/08/2009 01/09/2009
7% 1811/QĐ-NHNN 30/07/2009 01/08/2009
7% 1539/QĐ-NHNN 30/06/2009 01/07/2009
7% 1250/QĐ-NHNN 22/05/2009 01/06/2009
7% 1015/QĐ-NHNN 29/04/2009 01/05/2009

7% 626/QĐ-NHNN 24/03/2009 01/04/2009
7% 378/QĐ-NHNN 24/02/2009 01/03/2009
7,0%/năm 172/QĐ-NHNN 23/01/2009 01/02/2009
-Trước khi nghỉ Tết 2009, NHNN đưa lãi suất cơ bản của VND từ mức 8,5%
xuống còn 7% một năm. Mức cắt giảm 1,5% cũng được áp dụng với các loại lãi
suất tái cấp vốn, tái chiết khấu và cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên
ngân hàng. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9,5%/năm xuống 8%/năm; lãi
suất tái chiết khấu giảm từ 7,5%/năm xuống 6%/năm; lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh
toán bù trừ của NHNNVN đối với các ngân hàng giảm từ 9,5%/năm xuống
8%/năm.
Với phần dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng mà các ngân hàng thương mại gửi ở
NHNN, lãi suất giảm mạnh hơn, từ 8,5% xuống còn 3,6% một năm.
+) Trên thị trường ngoại hối:
- 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và
việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn
vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua
ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng. Để tăng nguồn
cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp
như:
- Mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương
mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với
các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ
nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống;
điều hoà ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng.
- Áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh
nghiệp và người dân; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy
động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống không quá
4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ

ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ
ngày 01/6/2009).
- Đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi
suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày
8/6/2009.
- Ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố lên 17.980
đồng/USD, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống
còn +/-3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ tỷ
giá.
- Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống lại
được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết cung
cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt
hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất. Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHNN đã thực
hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm 1%.
 6 tháng đầu năm 2010:
+) Điều hành lượng tiền cung ứng thông qua điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc
bằng ngoại tệ, điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn để
đảm bảo an toàn thanh toán của hệ thống ngân hàng và hỗ trợ thanh khoản
cho nền kinh tế:
Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12
tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các
tổ chức tín dụng sẽ phải nâng lên mức 9% thay cho 8% như hiện nay, thời gian áp
dụng từ ngày 1/10/2010. Đó là một trong những nội dung chính tại Thông tư số
13/TT-NHNN mà Thống đốc NHNN vừa ký ban hành quy định về các tỷ lệ bảo
đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
+) Điều hành linh hoạt công cụ lãi suất phù hợp với quy định của pháp luật,
mục tiêu kinh tế vĩ mô và điều kiện của thị trường, kết hợp với các công cụ khác
nhằm điều tiết lãi suất thị trường ở mức hợp lý, tạo điều kiện cho các NHTM
mở rộng huy động vốn và cho vay đối với nền kinh tế:
- Giữ ổn định lãi suất cơ bản 8%/năm, lãi suất tái cấp vốn 8%/năm, lãi suất tái

chiết khấu 6%/năm. Lãi suất cho vay VND của NHTM tối đa là 12%/năm, lãi suất
thị trường liên ngân hàng biến động không lớn (8 – 10%/năm), lãi suất huy động
VND kỳ hạn dưới 12 tháng dưới 11%/năm; lãi suất huy động bằng USD khoảng 3
– 4%/năm và cho vay khoảng 5 – 8%/năm.
- NHNN đã ban hành Thông tư số 07/2010/TT-NHNN ngày 26/02/2010 quy định
về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận của TCTD đối với khách
hàng, trong đó, mở rộng cho vay trung, dài hạn bằng VND theo lãi suất thỏa thuận
phù hợp với Nghị quyết số 23/2008/QH12 ngày 06/01/2010 của Quốc hội và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 và chỉ đạo của Thường trực Chính phủ.
+) Điều chỉnh tỷ giá, thực hiện các biện pháp chống găm giữ và đầu cơ, can
thiệp bán ngoại tệ cho các nhu cầu nhập khẩu mặt hàng thiết yếu nhằm từng
bước tạo sự chuyển biến tích cực của thị trường ngoại tệ:
- Ngày 10/02/2010, Thống đốc NHNNVNban hành Thông tư số 03/2010/TT-
NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức kinh tế tại
tổ chức tín dụng (TCTD) là 1%/năm và quyết định điều chỉnh tỷ giá bình quân liên
ngân hàng áp dụng cho ngày 11/02/2010 là 18.544 VND/USD (tăng 3,36%).
- Thực hiện hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, hạ lãi suất tiền gửi bằng ngoại
tệ của các doanh nghiệp và nâng tỷ giá danh nghĩa lên thêm 3,36%. Cùng lúc,
NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng tích cực mua lại ngoại tệ của một số tập đoàn,
tổng công ty nhà nước. Đồng thời, NHNN bán ngoại tệ ở mức hợp lý để hỗ trợ
ngoại tệ nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất. Ngoài ra, cơ quan này
cũng tiến hành đóng cửa sàn vàng, góp phần quan trọng ổn định tỷ giá cũng như
ổn định thị trường ngoại hối.
+)Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp bình ổn thị trường vàng theo chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ:
- Để bình ổn thị trường vàng trong nước, đưa giá vàng trong nước quy đổi bằng tỷ
giá thị trường tự do về sát với giá vàng thế giới để tránh tình trạng nhập lậu vàng,
từ ngày 5/2 đến ngày 24/2/2010, NHNN đã cho phép Công ty SJC nhập khẩu 6 tấn
vàng. Theo báo cáo, Công ty đã bán hết ra thị trường. Sau khi triển khai biện pháp
can thiệp thị trường vàng, đến nay, về cơ bản đã đạt được các mục tiêu nói trên

- Về tình hình đóng cửa sàn vàng và kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài;
đối với các NHTM, hiện nay có 3 NHTM đã đóng cửa Sàn giao dịch vàng, các
NHTM có Sàn giao dịch vàng khác đều đang tiến hành thực hiện các biện pháp
cần thiết để đóng cửa Sàn giao dịch vàng theo đúng thời hạn quy định. Đối với sàn
giao dịch vàng khác, theo thông tin từ các trang thông tin điện tử của các Sàn giao
dịch vàng thuộc các Công ty chứng khoán và các Sàn giao dịch vàng khác không
thuộc NHTM, các Sàn giao dịch vàng này đều đã có thông báo chính thức đóng
cửa Sàn giao dịch vàng trước ngày 30/3/2010 theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ.
+)Chỉ đạo các TCTD trong các hoạt động tín dụng, hỗ trợ lãi suất và kinh
doanh ngoại hối:
- Chỉ đạo các TCTD kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng đi đôi với mở rộng tín
dụng, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, khu vực nông thôn, chi phí sản xuất nông
– lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp, thu mua nông sản, chế biến và xuất khẩu và
các dự án lớn trọng điểm của nhà nước.
- Chỉ đạo các TCTD thực hiện việc quyết toán hỗ trợ lãi suất đối với các khoản
cho vay ngắn hạn bằng VND phát sinh trong năm 2009 theo Quyết định số
131/QĐ-TTg và triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất đối với những khoản vay trung và
dài hạn bằng VND.
- Tăng cường giám sát hoạt động kinh doanh của các TCTD (tỷ lệ an toàn, thực
hiện các quy định của pháp luật về lãi suất và quản lý ngoại hối); hệ thống TCTD
nhìn chung hoạt động an toàn, hầu hết các TCTD thực hiện đảm bảo các tỷ lệ về
chi trả, an toàn hoạt động; một số NHTM có khó khăn tạm thời, NHNN đã có biện
pháp hỗ trợ vốn để tránh tác động xáo trộn thị trường.
II. Đánh giá việc điều hành CSTT ở VN trong giai đoạn 2007
đến nay:
1. Những thành công:
• Giai đoạn 2007:
Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền
tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi

trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về
lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài
chính quốc tế
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày
giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi
suất huy động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm
nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng
trưởng kinh tế.
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong
bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND
và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh
nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập
khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
- Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo
chiều hướng tích cực
+ Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8%
năm 2007.
+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm
2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.
- Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế
+ Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực, các
sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn, nhiều lĩnh vực cho vay đầu tư
được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận
nguồn vốn vay ngân hàng, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, cho vay
chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn cũng được
mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó,
việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa dạng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu
của xã hội.
+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm

dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường
chứng khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được
theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt
động ngân hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến vững.
+ Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu
hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của
các nhóm TCTD đều giảm.
• Giai đoạn 2008:

×