Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

câu hỏi và đáp án lý thuyết chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.41 KB, 25 trang )

Câu hỏi ôn tập chứng khoán
Câu 1: Mối quan hệ rủi ro và hiệu quả đầu tư chứng khoán ở VN ?
Khi đầu tư vào cổ phiếu, các nhà đầu tư thường kỳ vọng vào hai loại thu nhập, đó là thu
nhập từ cổ tức và từ mức tăng thị giá cổ phiếu. Thu nhập của một khoản đầu tư là phần
chênh lệch giữa kết quả thu được sau một khoảng thời gian đầu tư và vốn gốc mà nhà đầu
tư phải bỏ ra ban đầu. Rủi ro được định nghĩa như là một sự khác biệt giữa giá trị thực tế và
giá trị kỳ vọng. Theo các lý thuyết cũ, rủi ro là những yếu tố làm cho mức sinh lời giảm. hiện
nay người ta cho rằng cả mọi yếu tố làm cho thu nhập thay đổi so với dự tính dù là tăng hay
giảm đều coi là rủi ro. Đầu tư vào cổ phiếu chứa đựng nhiều loại rủi ro bao gồm cả rủi ro hệ
thống và phi hệ thống: - r ủ i r o h ệ t h ố n g b a o g ồ m : + r ủ i ro tỷ giá+ rủi ro thị
trường + rủi ro lãi suất + rủi ro sức mua -Rủi ro phi hệ thống bao gồm: r ui r o kinh
doanh, rủi ro tài chính, rủi ro quản lý. Cũng như các lĩnh vực đầu tư khác, trong
đầu tư chứng khoán tồn tại mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa mức thu nhập với mức rủi ro. Thu
nhập càng cao thì mức độ rủi ro tiềm ẩn càng lớn. Nếu sử dụng mô hình CAPM để phân tích
thi ta cũng có CT:

ks = Rrisk free + Beta * (Rmarket - Rrisk-free)

với ks là lãi suất kỳ vọng trên cổ phiếu.
Trong đó:
* Beta là chỉ số phản ánh rủi ro thị trường của một cổ phiếu. Beta có thể được dự đoán dựa
trên các số liệu quá khứ* Rrisk free là tỷ lệ phi rủi ro, và thường là lãi suất trái phiếu chính
phủ vì loại lãi suất này được coi là không có rủi ro thanh toán* Rmarket là thu nhập thị
trường kỳ vọng qua thời gian. Qua công thức trên ta cũng thấy rằng Beta càng cao tức rủi ro
càng cao thì ks tức thu nhập kì vọng càng lớn.

Câu 2: Nguyên tắc đầu tư của Warrant Buffet ? Những nguyên tắc này có thể dụng tại
VN không ? tại sao ?
Đầu tư vào công ty chứ không đầu tư vào cổ phiếu:
Warrant Buffet quan niệm rằng cổ phiếu chỉ giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu của cổ đông
đối với công ty đó. Ông không đầu tư vào cổ phiếu, mà ông đầu tư vào công ty. Nói một


cách khác, ông hoàn toàn không quan tâm đến việc mua đi bán lại cổ phiếu trong thời gian
ngắn. Thay vào đó, ông áp dụng chiến lược buy and hold – mua và giữ - nghĩa là ông giữ cổ
phiếu trong thời gian dài, rất dài và đôi khi giữ luôn nếu đó là những công ty ông xác định là
chiến lược của mình.
Đầu tư theo giá trị thực – công thức đầu tư của Warrant Buffet:
Warrant Buffet cho rằng về lâu về dài giá thị trường của cổ phiếu sẽ phản ánh giá trị nội tại
của nó. Do đó, những cổ phiếu tốt là những cổ phiếu đang được thị trường đanh giá thấp
(underpriced) hơn giá trị nội tại của nó. Theo ông, khoảng cách giữa giá thị trường và giá trị
nội tại này càng lớn thì biên độ an toàn, cũng như lợi nhuận mà nhà đầu tư nhận được từ cổ
phiếu sẽ càng cao. Để có lợi nhuận thì phải tính được giá trị thật hay giá trị nội tại của cổ
phiếu hay công ty đó. Warrant Buffet thì không đưa ra một công thức cụ thể nào của riêng
ông. Do đó, theo một số tác giả, công thức tính giá trị thực của ông là một bí ẩn. Tuy vậy,
theo phần lớn tác giả và nhà nghiên cứu khác, Warrant Buffet sử dụng nguyên tắc xác định
giá trị cơ bản như những nhà đầu tư, phân tích tài chính khác.
Cái duy nhất làm cho ông thành công là ông nghiên cứu rất kỹ và rất sâu từng công ty ông
sắp đầu tư. Ông từng nói: “Để là nhà đầu tư thành công, chúng tôi đọc hành trăm, hàng
ngàn báo cáo thường niên của các công ty”. Ngoài những chỉ số tài chính, ông còn quan tâm
hết sức đặc biệt đến vị trí, lợi thế cạnh tranh của công ty và năng lực của ban lãnh đạo.
Những câu hỏi của Warrant Buffet đặt ra trước khi quyết định công ty/cổ phiếu để đầu tư:
*Công ty có phát triển tốt hay không, có lợi thế cạnh tranh không ? Warrant Buffet chỉ muốn
mua cổ phiếu công ty có lợi thế cạnh tranh cao: hoặc là công ty dẫn đầu thị trường của
ngành kinh doanh chính của nó, hoặc là có thương hiệu được khách hàng đánh giá cao.
Ông không muốn đầu tư vào những công ty không có lợi thế cạnh tranh và chỉ có thể cạnh
tranh bằng cách giảm giá bán. Warrant Buffet còn xem xét xem công ty mà ông sắp đầu tư
có nguy cơ bị công lớn mạnh khác nhảy vào cạnh tranh. Ông là người sáng chế ra từ
“economic moat” ngụ ý nói đến công ty đó có lợi thế cạnh tranh và tạo ra “hàng rào” ngăn
cản sự cạnh tranh của các công ty khác.
*Công ty đó có mô hình kinh doanh đơn giản không? Warrant Buffet chỉ đầu tư các công ty
có mô hình đơn giản, dễ hiểu, không quá phức tạp. Ông chỉ đầu tư những ngành mà ông
biết rõ.

*Lợi nhuận công ty tốt, đang tăng trưởng ổn định không?
*Tỷ số Nợ/Vốn có thấp không? Tỷ số Lợi nhuận/Nợ có cao không? Giả sử lợi nhuận không
đạt được mức kỳ vọng, công ty có khả năng trả được những món nợ đến hạn không?
*Tỷ lệ Lợi nhuận/Vốn đầu tư có tốt không? Đây là một trong những chỉ số mà Warrant
Buffet đặc biệt quan tâm. Ông chỉ đầu tư vào những công ty tạo ra mức lợi nhuận tốt.
*Chi phí vận hành của công ty có ở mức chấp nhận được hay không?
*Dòng tiền mặt để đầu tư có đủ lớn để tạo ra lợi nhuận và sự tăng trưởng?
*Công ty có giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư hay không? Việc công ty chia cổ tức hay không
chia cổ tức là một trong những khác biệt giữa Benjamin Graham và Warrant Buffet.
Benjamin Graham cho rằng công ty nên chia cổ tức cho nhà đầu tư. Khi đó công ty sẽ trở
thành một máy in tiền với tốc độ ngày càng cao nhờ hiệu ứng tuyệt vời của lãi suất kép.
*Bạn quản lý giỏi, có tầm nhìn, có bề dày thành tích về quản lý kinh doanh, có đạo đức
không? Warrant Buffet chỉ đầu tư vào những công ty ông tin rằng ban lãnh đạo có năng
lực.
Chọn thời điểm mua:
Kế tiếp Warrant Buffet sẽ chọn thời điểm mua. Ông không bao giờ vội vã mua những cổ
phiếu có biên độ an toàn không rõ ràng. Thường thì ông sẽ đợi thị trường vào giai đoạn điều
chỉnh hoặc khi thị trường đang thời kỳ giảm giá mạnh. Khi đó ông sẽ mua được cổ phiếu
của công ty với giá thấp hơn giá trị nội tại của nó. Phương pháp đầu tư đơn giản này giúp
ông thoát được những tổn thất trong những giai đoạn mà hầu hết mọi người bị thiệt hại ví
như giai đoạn cổ phiếu của công ty Internet bùng nổ và sụp đổ. Tuy vậy, ông bị một số
người phê bình là quá thận trọng và vì thế đã bỏ qua những cơ hội lớn.
Không quan tâm:
Với chiến lược đầu tư nói trên của Warrant Buffet không quan tâm nhiều đến sự lên xuống
của giá cả thị trường chứng khoán cũng như chu kỳ kinh tế. nói đúng hơn ông chỉ quan tâm
đến việc lên xuống giá khi khi ông chọn thời điểm mua. Khi đã mua rồi, ông không quan tâm
đến sự lên xuống của giá nữa.
Một điểm nữa khá đặc biệt là ông rất ít quan tâm đến việc đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Nhiều nhà đầu tư đã nghiên cứu và thực hiện thành công các phương pháp đa dạng hóa
danh mục đầu tư tức là chọn nhiều cổ phiếu của các công ty khác nhau, ngành khác nhau

có tác dụng bổ sung, tương hỗ nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất có thể trong khi giảm rủi
ro đến mức thấp nhất. Warrant Buffet không theo trường phái đa dạng hóa này. Ông cho
rằng nếu đã chọn doanh nghiệp tốt để đầu tư thì sẽ đạt lợi nhuận cao và rủi ro thấp. việc đa
dạng hóa danh mục đầu tư, tức là chọn thêm những cổ phiếu khác vào danh mục đầu tư sẽ
giảm lợi nhuận cao tạo ra từ công ty/cổ phiếu chính yếu.
Những câu nói hay:
Luật 1: Đừng bao giờ thua lỗ.
Luật 2: không bao giờ quên luật số 1. Nguyên tắc này khác hẳn với nguyên tắc cơ bản của
các nhà kinh doanh cổ phiếu thành công đó là phải biết chấp nhận thắng và thua.
“Rủi ro đến từ việc bạn không biết việc mình đang làm”
“Giá là những gì chúng ta phải trả. Giá trị là những gì chúng ta nhận được”
“Nếu là nhà đầu tư bạn hãy tập trung vào việc công ty đó sẽ hoạt động kinh doanh như thế
nào. Nếu là nhà đầu cơ, bạn hãy quan tâm đến thị trường của nó, và đó không phải là cách
làm hay cuộc chơi của chúng tôi”
“Nguyên tắc để làm giàu:Hãy sợ hãi khi những người khác tham lam. Hãy tham lam khi
những người khác sợ hãi”
Theo ông khi số đông “tham lam” sẽ đẩy giá cổ phiếu lên quá cao, vượt qua giá trị thật. Còn
khi số đông sợ hãi sẽ đẩy giá cổ phiếu xuống tạo ra những cổ phiếu có biên độ an toàn, và
lợi nhuận trong tương lai cao.
“Thời gian là kẻ thù của những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và là bạn của doanh nghiệp
đang ăn nên làm ra. Nếu doanh nghiệp bạn đầu tư có tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
20-25%, thời gian là bạn của bạn. Nếu tỷ suất của doanh nghiệp thấp hơn mức bạn mong
muốn thì thời gian là kẻ thù của bạn.
Theo ông, nếu “lỡ” đầu tư vào doanh nghiệp có lãi suất thấp hơn kỳ vọng, thì hãy rút ra càng
sớm càng tốt, vì càng để lâu, nhà đầu tư càng bị lỗ và vì thế mất cơ hội đầu tư công ty tốt.
còn nếu đã đầu tư đúng công ty làm ăn hiệu quả, thì đừng rút tiền gốc và cổ tức ra khỏi
doanh nghiệp. càng để lâu bao nhiêu thì lợi nhuận sinh ra càng cao bấy nhiêu.
Warren Buffett và 9 nguyên tắc đầu tư lừng lẫy
Mục: Đầu tư - Trading




Warren Buffett, nhà tiên tri xứ Omaha, đã trở thành một trong những người giàu nhất thế giới
chỉ nhờ tuân thủ những nguyên tắc đơn giản, nhưng rất quan trọng, này.

Nguyên tắc 1: Hãy sống tiết kiệm

Khi nền kinh tế rời vào suy thoái và buộc bạn phải sống tiết kiệm thì hãy nhìn vào mặt tích cực của
nó: bạn có thể đang giống với Warren Buffet.

Warren Buffett vẫn đang sống trong ngôi nhà khiêm tốn tại Omaha Omaha, bang Nebraska (Hoa Kỳ)
được ông mua cách đây hơn 50 năm.

Tại sao sống tiết kiệm có thể giúp Buffet trở thành nhà đầu tư vĩ đại?

Thứ nhất, điều này giúp ông có nhiều tiền hơn để đầu tư.

Thứ hai, một người tiết kiệm thì cũng sẽ yêu cầu lối sống tiết kiệm đến các cấp quản lý. Đối với
Buffet, việc trả lương quá mức là báo động đỏ.

Thứ ba, người tiết kiệm thì không cần mức sinh lời nhanh để chu cấp cho lối sống xa hoa. Điều này
giúp cho họ suy nghĩ cẩn thận hơn khi mua bán chứng khoán, giúp họ trở thành nhà đầu tư hiệu
quả.

Nguyên tắc 2: Chờ đợi “miếng mồi ngon”

Hãy kiên nhẫn chờ đợi một thời gian cho đến khi sự hỗn loạn của thị trường đem đến những “miếng
mồi ngon” hoặc là định giá cổ phiếu của những công ty tiềm năng trở nên rất rẻ.

Nguyên tắc 3: Hãy là người đi ngược xu hướng


Một trong những cách tốt nhất để tìm kiếm lợi nhuận là đi ngược lại đám đông.

Trong lá thư thường niên gửi cổ đông vào năm 1986, Buffett đã viết: “Chúng tôi đơn giản là chỉ cố
gắng sợ hãi khi người khác tham lam và chỉ tham lam khi người khác sợ hãi”.

Điều này không có nghĩa là đám đông luôn luôn sai lầm, mà vì hành động của đám đông thường đã
được phản ánh vào giá.

Vì vậy, khi đám đông đang cực kỳ bi quan thì thường là thời điểm để mua chứng khoán; còn khi
phần lớn đang tự tin thì hãy cẩn trọng.

Nguyên tắc 4: Đầu tư vào những gì bạn hiểu

Một trong những nguyên tắc cơ bản của Buffett là: Nếu bạn không hiểu về sản phẩm của công ty
hay cách mà công ty kiếm tiền thì hãy tránh xa nó.

Điều này là không hề dễ dàng.

Trong cơn sốt dotcom cuối những năm 1990, Buffet đã không đầu tư vào các công ty công nghệ, vì
ông cho rằng ông không hiểu những công ty này.

Ông trở thành nhà đầu tư rất khôn ngoan khi sau đó, bong bóng công nghệ sụp đổ.

Nguyên tắc 5: Đừng phụ thuộc vào người khác về quyết định đầu tư

Nếu bạn cần người khác nói rằng bạn đang đầu tư đúng hướng thì không thể trở thành nhà đầu tư
như Buffett.

Buffett đã thu được lợi nhuận vượt trội vì mua cổ phiếu mà người khác không thích, và không được

các chuyên gia nói tới.

Nguyên tắc 6: Mua công ty rẻ

Đây là triết lý của nhà đầu tư theo trường phái đầu tư giá trị.

Đầu tiên, Buffett ước tính “giá trị nội tại” (intrinsic value) của doanh nghiệp. Sau đó, xác định một
“ngưỡng an toàn” (margin of safety) để mua chứng khoán.

Nguyên tắc 7: Lựa chọn công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững (economic moats)

Nói cách khác, công ty phải sở hữu rào cản gia nhập, và khiến đối thủ không thể gia nhập vào
ngành kinh doanh một cách dễ dàng.

Đây có thể là sở hữu bản quyền điều chế dược phẩm, ưu thế về thương hiệu…

Ví dụ, đối với BNSF Railway, rất khó để các công ty vận tải khác có thể xây dựng đủ hệ thống
đường sắt ở Bắc Mỹ để cạnh tranh trong lĩnh vận vận chuyển đường sắt.

Hay Coca-Cola, một khoản đầu tư dài hạn của Buffett, có ưu thế về nhãn hiệu và hệ thống phân
phối trên toàn cầu.

Nguyên tắc 8: Mua cổ phiếu yêu thích với số lượng lớn/tập trung

Nhiều quỹ đầu tư tối thiểu rủi ro bằng cách đa dạng hóa danh mục.

Tuy vậy, Buffett lại dường như đi ngược lại đám đông khi cố gắng tìm những công ty ưa thích và
mua vào với lượng lớn.

Buffett cho rằng ông có thể hạn chế rủi ro bằng việc hiểu biết về công ty nhiều hơn thị trường, và

sau đó là kiên nhẫn để chờ đợi mua vào với giá hợp lý.

Nguyên tắc 9: Nắm giữ suốt đời

Buffett thường nói rằng thời gian nắm giữ mà ông yêu thích là “mãi mãi”. Ẩn chứa trong lời nói bông
đùa này là 2 hàm ý:

(1) Một công ty chỉ xứng đáng để đầu tư khi nó có thể vượt trội trong nhiều thập kỷ sau đó.

(2) Bạn phải tự mình quyết định khoản đầu tư của mình và tránh chạy theo đám đông.

Tuy vậy, điều này không có nghĩa là bạn mua cổ phiếu rồi quên nó đi.

Buffett theo dõi các khoản đầu tư rất sát sao và thoát ra khi ông nghĩ rằng giá cổ phiếu đã đạt đến
mức giá trị nội tại, hay khi phát hiện có vấn đề.

Buffett đã bán cổ phiếu Fannie Mae và Freddie Mac, các công ty cho vay mua nhà thế chấp, trước
khi cổ phiếu các công ty này “nổ tung” theo sau cuộc khủng hoảng 2008 – 2009.


Những nguyên tắc này có thể dụng tại VN không? tại sao ?
Quy tắc số 1
Nghĩa đen của QUY TẮC SỐ 1 là “ Không để mất tiền” nhưng thực tế nó có nghĩa là hãy đầu
tư một cách chắc chắn. Sự chắc chắn này sẽ có được bằng cách MUA CỔ PHIẾU CỦA
MỘT CÔNG TY TUYỆT VỜI VỚI MỨC GIÁ HẤP DẪN.

Điều này cũng chính là kết tinh của trường phải đầu tư giá trị nổi tiếng của tỷ phủ Warren
Buffet m nghiệm thực tế trên thị trường để có thể áp dụng phương pháp của Buffet. Thành
công thmà thế giới vẫn ca tụng lâu nay. Chúng ta sẽ mất nhiều thời gian để nghiên cứu, mất
nhiều thời gian để kiểì chưa biết được vì thị trường VN vẫn chưa phát triển giống thị trường

nước ngoài và nhà đầu tư nhỏ lẻ chúng ta cũng không có được vị thế như Buffet để mà có
được những thông tin quan trọng để xác định cái gọi là “giá trị vô hình” của doanh nghiệp.
Tuy nhiên nếu thực hiện theo Quy tắc số 1 thì cũng giúp ích chúng ta rất nhiều trong việc lựa
chọn các cổ phiếu.
Các bước phân tích theo Quy tắc số 1
Bước 1 : Hãy trả lời 4 câu hỏi sau đây khi đến với 1 cổ phiếu của một công ty

- Câu hỏi 1 : “Công ty này có ý nghĩa gì với bạn không?”. Điều cốt lõi mà câu hỏi này nhắc
nhở bạn chính là hãy tìm hiểu một chút thông tin về công ty đó. Có nhiều nhà đầu tư hiện
nay chỉ biết mã cổ phiếu ABC,XYZ chứ chẳng biết tên gọi của công ty đó là như thế nào,
kinh doanh trong lĩnh vực gì.
- Câu hỏi 2 : “Công ty này có lợi thế cạnh tranh lớn hay không?”. Câu hỏi này nhắc nhở bạn
hãy xem công ty này làm ăn trong nhóm ngành nghề nào, khả năng cạnh tranh với các
ngành nghề khác ra sao? Khả năng cạnh tranh với các công ty trong ngành thế nào? Quy
tắc số 1 khuyên bạn nên tìm hiểu ngay các công ty đang đứng đầu hoặc trong nhóm đứng
đầu ngành. Ví dụ nói đến thủy sản tại TT Việt Nam thì HVG nổi lên là một công ty đầu
ngành. Nói đến ngành sản xuất các sản phẩm nhựa thì không thế không nhắc đến NTP hay
BMP. Các trang web thống kê về chứng khoán cũng có tổng hợp theo ngành. Giúp ích rất
nhiều cho các bạn.
- Câu hỏi 3 : “Công ty có được quản lý tốt hay không?”. Đây là một câu hỏi hết sức quan
trọng mà bạn phải trả lời. Quản trị của công ty quyết định đến sự thành bại của công ty đó.
Các động thái của ban quản trị đối với cổ đông của công ty cũng hết sức quan trọng. Một
công ty không quan tâm đến quyền lợi của cổ đông thì sớm hay muộn cũng thất bại. Tại thị
trường Việt Nam, bạn có thể dễ dàng nhận thấy đâu là công ty có quản trị tốt. Chắc mọi
người vẫn nhớ vụ cấu kết làm giá giữa hội đồng quản trị VTV với cổ đông lớn, vụ các cổ
đông AAA làm giá có kết hợp CT HĐQT hay gần đây có vụ cổ phiếu DVD. Có thể chúng ta
rất khó khăn trong việc đánh giá năng lực của Hội Đồng Quản Trị. Nhưng chí ít chúng ta
cũng nên quan tâm đến Báo Cáo Thường Niên (cái này rất ít công ty niêm yết trên sàn thực
hiện), Đi họp Đại Hội Cổ Đông, Thường Xuyên theo dõi các động thái mua bán của thành
viên HĐQT…v v…Tôi chưa thấy chủ tịch hay thành viên HĐQT của VNM, HAG,SSI đăng ký

bán cổ phiếu trong những năm vừa qua.
- Câu hỏi 4 : “Biên độ an toàn về giá cổ phiếu của công ty này như thế nào?”. Để trả lời câu
hỏi này thì việc đầu tiên bạn nên làm là theo dõi biến động giá của cổ phiếu công ty này hiện
tại và cả trong quá khứ. Sau đó là kết hợp với việc phân tích các chỉ số cơ bản hiện tại của
công ty trong năm hiện tại và kế hoạch dài hạn 5 năm của công ty để có thể tính toán cho
mình mức giá mong muốn. Việc này kết hợp với phân tích kỹ thuật thì quả là tuyệt vời.

Bước 2 : Các chỉ số tài chính cơ bản của một công ty
1. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư ( ROE)
2. Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu
3. Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS)
4. Tỷ lệ tăng trưởng giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu (BVPS)
5. Các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn
Một số lưu ý :
- Để hiểu các chỉ số này thì có rất nhiều nguồn để chúng ta tham khảo online trên mạng từ
công thức tính cho đến ý nghĩa của nó. Tuy nhiên nguồn tin cậy nhất vẫn là chúng ta dựa
trên BÁO CÁO TÀI CHÍNH NĂM ĐÃ KIỂM TOÁN của công ty đó để tự tính toán.
- Tôi nhấn mạnh đến “ tỷ lệ tăng trưởng” tức là các chỉ số này tại năm tài chính phải có tỷ lệ
tăng trên 10% so với năm trước. Hoặc bạn có thể theo dõi quá trình tăng của các chỉ số
trong 5 năm trở lại đây thì mới có thể biết được công ty tăng trưởng như thế nào. Có nhiều
công ty tăng vốn liên tục nhưng tỷ lệ lợi nhuận không tăng theo tương ứng. Tại TTCK Việt
Nam khi các doanh nghiệp vẫn còn non trẻ thì chúng ta cũng khó đòi hỏi tỷ lệ tăng trưởng
cao về EPS. Bạn có thể nhìn thấy khối ngân hàng là một minh chứng rõ rệt
( ACB,STB,EIB…). REE cũng là một ví dụ điển hình. Từ một công ty bluechip qua tăng vốn
nhiều lần nhưng lợi nhuận không hề cải thiện. Và giá cổ phiếu REE bây giờ thì các bạn cũng
biết rồi.
- Các khoản nợ không phải điều gì xấu xa. Doanh nghiệp mà được vay nợ nhiều cũng là một
doanh nghiệp đáng chú ý. Vấn đề là khả năng trả nợ ra sao. Các bạn phải đặc biệt theo dõi
những chính sách kinh tế vĩ mô, thị trường hàng hóa thế giới để xem nó ảnh hưởng như thế
nào đối với ngành nghề mà doanh nghiệp đang hoạt động. Ví dụ như hiện tại các doanh

nghiệp BĐS rất khó khăn trong ngắn hạn và thậm chí cả trung hạn ( nếu như nhà nước
không có chính sách mới hỗ trợ ). Đi kèm với các doanh nghiệp này thì các doanh nghiệp
thép và xi-măng cũng vạ lây. Còn ngành cao su tự nhiên thì đang bay cao nhờ hưởng lợi về
việc giá cao su thế giới tăng mạnh trong thời gian qua.

Tuy nhiên có những lưu ý về thực tiễn đầu tư tại TTCK VN
- “Có nên chơi cổ phiếu được làm giá không?”. Một câu hỏi rất thú vị bởi lẽ trên tt của
chúng ta có rất nhiều vụ làm giá cổ phiếu. Theo tôi là vẫn nên chơi nhưng phải đặc biệt cẩn
thận và không bao giờ dùng toàn bộ số tiền của mình đầu tư vào những cổ phiếu như vậy.
Chỉ tối đa 30% tài khoản của bạn thôi nhé. Tôi khuyến nghị bạn vẫn nên kết hợp cả phương
pháp chọn cổ phiếu theo Quy tắc số 1 trên để quyết định đầu tư. Vẫn có những cổ phiếu tốt
được làm giá đấy. Tại sao lại không chơi nhỉ? Tuy nhiên hãy chọn những cp có thanh khoản
khá trở lên, khối lượng giao dịch TB 10 phiên liên tiếp phải trên 50k cổ phiếu đối
với penny stock, trên 100k cổ phiếu đối với dòng mid-cap.
- “ Cut loss – công việc không muốn làm vẫn phải làm”. Vấn đề này có thể nói là hầu
như ai cũng mắc phải. Nói mãi rồi, nhiều kinh nghiệm xương máu rồi sao vẫn cứ sai lầm
trong việc cut loss. Bạn nên tập đối diện với việc mình sai. Các bạn và tôi đã sai lầm và
chắc sẽ vẫn có những sai lầm trong tương lai. Việc này là bình thường ngay với cả những
nhà đầu tư vĩ đại như Buffet. Vấn đề là chúng ta phải khắc phục hậu quả ngay khi ta nhận
thấy sai lầm chứ đừng để nó nghiêm trọng hơn. Đặc biệt lưu ý khi bạn dùng margin, hay cut
loss ( hay ít nhất phải cut phần margin) khi thị trường xuống giá 2 phiên liên tiếp.
- “ Tôi bị lỡ tàu rồi – phải tìm mọi cách lên tàu thôi”. Như các bạn cũng biết cầm tiền
trong uptrend xoắn hơn nhiều so với cầm cổ trong downtrend. Khi tôi post bài này lên diễn
đàn cũng đúng vào lúc thị trường đang trong tình thế nhạy cảm. Nhiều người lỡ tàu đang rất
“xoắn”. Hãy quên nó đi bạn ạ. Chờ một con sóng khác. Chúng ta đầu tư cả đời chứ có đầu
tư vào một con sóng rồi từ bỏ thị trường đâu. Đừng tự đưa mình vào tình thế nguy hiểm khi
cứ cố gắng lao vào mua cổ phiếu sau khi chứng kiến vài phiên tăng trần liên tiếp vì rất có
thể lúc chúng ta lên được tàu thì đoàn tàu chả còn ai.
- “ Hàng phím-Hàng nóng-Cổ phiên ăn 300% x y z”. Bạn sẽ gặp nhiều băng rôn biểu
ngữ tràn ngập các diễn đàn chứng khoán khi thị trường tăng điểm. Tò mò vào xem cũng là

nguy hiểm rồi. Hành động theo mà không suy nghĩ thì lại càng nguy hiểm hơn. Nên nhớ rằng
những người mà bạn không quen biết, thậm chí những người có giao tiếp với bạn hay ngay
cả Broker quản lý tài khoản của bạn cũng có thể khiến bạn trắng tay. Nếu bạn không có
nguồn thông tin đáng tin cậy đã được kiểm chứng nhiều lần thì bạn chỉ nên tin vào danh mục
được lựa chọn theo Quy tắc số 1 của mình.
- “Đòn bẩy tài chính ( margin ) và Bán Khống ( Shortsell)…hãy luôn tìm cách tránh xa”.
Đây là nhấn mạnh cuối cùng của tôi trong các lưu ý về thực tiễn đầu tư trên TT Việt Nam.
Tôi phải dùng cụm từ TÌM CÁCH TRÁNH XA… vì nó cứ giống như nghiện heroin vậy.
Chứng kiến tận mắt tác hại của nó rồi mà vẫn cứ muốn thử. Chỉ đến khi sắp chết ( cháy tài
khoản ) mới biết là mình không nên sờ vào. Nói đùa vậy thôi chứ các công cụ margin hay
shortsell cũng có tác dụng giúp làm giàu nhanh chóng. Nhưng chúng ta nếu đang ở level
mới tham gia thị trường thì tuyệt đối không nên sử dụng. Chỉ khi chúng ta có nhiều kinh
nghiệm, trải qua nhiều thăng trầm của thị trường, biết rõ được lúc nào nên ra nên vào, học
thuộc lòng bài học “ cut loss” và biết về Phân Tích Kỹ Thuật thì mới nên dùng thử.



Câu 3: Những yếu tố nào cần quan tâm khi đầu tư chứng khoán ? liên hệ đến điều
kiện cụ thể TTCK VN ?
Quy tắc số 1
Nghĩa đen của QUY TẮC SỐ 1 là “ Không để mất tiền” nhưng thực tế nó có nghĩa là hãy đầu
tư một cách chắc chắn. Sự chắc chắn này sẽ có được bằng cách MUA CỔ PHIẾU CỦA
MỘT CÔNG TY TUYỆT VỜI VỚI MỨC GIÁ HẤP DẪN.

Điều này cũng chính là kết tinh của trường phải đầu tư giá trị nổi tiếng của tỷ phủ Warren
Buffet mà thế giới vẫn ca tụng lâu nay. Chúng ta sẽ mất nhiều thời gian để nghiên cứu, mất
nhiều thời gian để kiểm nghiệm thực tế trên thị trường để có thể áp dụng phương pháp của
Buffet. Thành công thì chưa biết được vì thị trường VN vẫn chưa phát triển giống thị trường
nước ngoài và nhà đầu tư nhỏ lẻ chúng ta cũng không có được vị thế như Buffet để mà có
được những thông tin quan trọng để xác định cái gọi là “giá trị vô hình” của doanh nghiệp.

Tuy nhiên nếu thực hiện theo Quy tắc số 1 thì cũng giúp ích chúng ta rất nhiều trong việc lựa
chọn các cổ phiếu.
Các bước phân tích theo Quy tắc số 1
Bước 1 : Hãy trả lời 4 câu hỏi sau đây khi đến với 1 cổ phiếu của một công ty

- Câu hỏi 1 : “Công ty này có ý nghĩa gì với bạn không?”. Điều cốt lõi mà câu hỏi này nhắc
nhở bạn chính là hãy tìm hiểu một chút thông tin về công ty đó. Có nhiều nhà đầu tư hiện
nay chỉ biết mã cổ phiếu ABC,XYZ chứ chẳng biết tên gọi của công ty đó là như thế nào,
kinh doanh trong lĩnh vực gì.
- Câu hỏi 2 : “Công ty này có lợi thế cạnh tranh lớn hay không?”. Câu hỏi này nhắc nhở bạn
hãy xem công ty này làm ăn trong nhóm ngành nghề nào, khả năng cạnh tranh với các
ngành nghề khác ra sao? Khả năng cạnh tranh với các công ty trong ngành thế nào? Quy
tắc số 1 khuyên bạn nên tìm hiểu ngay các công ty đang đứng đầu hoặc trong nhóm đứng
đầu ngành. Ví dụ nói đến thủy sản tại TT Việt Nam thì HVG nổi lên là một công ty đầu
ngành. Nói đến ngành sản xuất các sản phẩm nhựa thì không thế không nhắc đến NTP hay
BMP. Các trang web thống kê về chứng khoán cũng có tổng hợp theo ngành. Giúp ích rất
nhiều cho các bạn.
- Câu hỏi 3 : “Công ty có được quản lý tốt hay không?”. Đây là một câu hỏi hết sức quan
trọng mà bạn phải trả lời. Quản trị của công ty quyết định đến sự thành bại của công ty đó.
Các động thái của ban quản trị đối với cổ đông của công ty cũng hết sức quan trọng. Một
công ty không quan tâm đến quyền lợi của cổ đông thì sớm hay muộn cũng thất bại. Tại thị
trường Việt Nam, bạn có thể dễ dàng nhận thấy đâu là công ty có quản trị tốt. Chắc mọi
người vẫn nhớ vụ cấu kết làm giá giữa hội đồng quản trị VTV với cổ đông lớn, vụ các cổ
đông AAA làm giá có kết hợp CT HĐQT hay gần đây có vụ cổ phiếu DVD. Có thể chúng ta
rất khó khăn trong việc đánh giá năng lực của Hội Đồng Quản Trị. Nhưng chí ít chúng ta
cũng nên quan tâm đến Báo Cáo Thường Niên (cái này rất ít công ty niêm yết trên sàn thực
hiện), Đi họp Đại Hội Cổ Đông, Thường Xuyên theo dõi các động thái mua bán của thành
viên HĐQT…v v…Tôi chưa thấy chủ tịch hay thành viên HĐQT của VNM, HAG,SSI đăng ký
bán cổ phiếu trong những năm vừa qua.
- Câu hỏi 4 : “Biên độ an toàn về giá cổ phiếu của công ty này như thế nào?”. Để trả lời câu

hỏi này thì việc đầu tiên bạn nên làm là theo dõi biến động giá của cổ phiếu công ty này hiện
tại và cả trong quá khứ. Sau đó là kết hợp với việc phân tích các chỉ số cơ bản hiện tại của
công ty trong năm hiện tại và kế hoạch dài hạn 5 năm của công ty để có thể tính toán cho
mình mức giá mong muốn. Việc này kết hợp với phân tích kỹ thuật thì quả là tuyệt vời.

Bước 2 : Các chỉ số tài chính cơ bản của một công ty
1. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư ( ROE)
2. Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu
3. Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS)
4. Tỷ lệ tăng trưởng giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu (BVPS)
5. Các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn
Một số lưu ý :
- Để hiểu các chỉ số này thì có rất nhiều nguồn để chúng ta tham khảo online trên mạng từ
công thức tính cho đến ý nghĩa của nó. Tuy nhiên nguồn tin cậy nhất vẫn là chúng ta dựa
trên BÁO CÁO TÀI CHÍNH NĂM ĐÃ KIỂM TOÁN của công ty đó để tự tính toán.
- Tôi nhấn mạnh đến “ tỷ lệ tăng trưởng” tức là các chỉ số này tại năm tài chính phải có tỷ lệ
tăng trên 10% so với năm trước. Hoặc bạn có thể theo dõi quá trình tăng của các chỉ số
trong 5 năm trở lại đây thì mới có thể biết được công ty tăng trưởng như thế nào. Có nhiều
công ty tăng vốn liên tục nhưng tỷ lệ lợi nhuận không tăng theo tương ứng. Tại TTCK Việt
Nam khi các doanh nghiệp vẫn còn non trẻ thì chúng ta cũng khó đòi hỏi tỷ lệ tăng trưởng
cao về EPS. Bạn có thể nhìn thấy khối ngân hàng là một minh chứng rõ rệt
( ACB,STB,EIB…). REE cũng là một ví dụ điển hình. Từ một công ty bluechip qua tăng vốn
nhiều lần nhưng lợi nhuận không hề cải thiện. Và giá cổ phiếu REE bây giờ thì các bạn cũng
biết rồi.
- Các khoản nợ không phải điều gì xấu xa. Doanh nghiệp mà được vay nợ nhiều cũng là một
doanh nghiệp đáng chú ý. Vấn đề là khả năng trả nợ ra sao. Các bạn phải đặc biệt theo dõi
những chính sách kinh tế vĩ mô, thị trường hàng hóa thế giới để xem nó ảnh hưởng như thế
nào đối với ngành nghề mà doanh nghiệp đang hoạt động. Ví dụ như hiện tại các doanh
nghiệp BĐS rất khó khăn trong ngắn hạn và thậm chí cả trung hạn ( nếu như nhà nước
không có chính sách mới hỗ trợ ). Đi kèm với các doanh nghiệp này thì các doanh nghiệp

thép và xi-măng cũng vạ lây. Còn ngành cao su tự nhiên thì đang bay cao nhờ hưởng lợi về
việc giá cao su thế giới tăng mạnh trong thời gian qua.

Tuy nhiên có những lưu ý về thực tiễn đầu tư tại TTCK VN
- “Có nên chơi cổ phiếu được làm giá không?”. Một câu hỏi rất thú vị bởi lẽ trên tt của
chúng ta có rất nhiều vụ làm giá cổ phiếu. Theo tôi là vẫn nên chơi nhưng phải đặc biệt cẩn
thận và không bao giờ dùng toàn bộ số tiền của mình đầu tư vào những cổ phiếu như vậy.
Chỉ tối đa 30% tài khoản của bạn thôi nhé. Tôi khuyến nghị bạn vẫn nên kết hợp cả phương
pháp chọn cổ phiếu theo Quy tắc số 1 trên để quyết định đầu tư. Vẫn có những cổ phiếu tốt
được làm giá đấy. Tại sao lại không chơi nhỉ? Tuy nhiên hãy chọn những cp có thanh khoản
khá trở lên, khối lượng giao dịch TB 10 phiên liên tiếp phải trên 50k cổ phiếu đối
với penny stock, trên 100k cổ phiếu đối với dòng mid-cap.
- “ Cut loss – công việc không muốn làm vẫn phải làm”. Vấn đề này có thể nói là hầu
như ai cũng mắc phải. Nói mãi rồi, nhiều kinh nghiệm xương máu rồi sao vẫn cứ sai lầm
trong việc cut loss. Bạn nên tập đối diện với việc mình sai. Các bạn và tôi đã sai lầm và
chắc sẽ vẫn có những sai lầm trong tương lai. Việc này là bình thường ngay với cả những
nhà đầu tư vĩ đại như Buffet. Vấn đề là chúng ta phải khắc phục hậu quả ngay khi ta nhận
thấy sai lầm chứ đừng để nó nghiêm trọng hơn. Đặc biệt lưu ý khi bạn dùng margin, hay cut
loss ( hay ít nhất phải cut phần margin) khi thị trường xuống giá 2 phiên liên tiếp.
- “ Tôi bị lỡ tàu rồi – phải tìm mọi cách lên tàu thôi”. Như các bạn cũng biết cầm tiền
trong uptrend xoắn hơn nhiều so với cầm cổ trong downtrend.Nhiều người lỡ tàu đang rất
“xoắn”. Hãy quên nó đi bạn ạ. Chờ một con sóng khác. Chúng ta đầu tư cả đời chứ có đầu
tư vào một con sóng rồi từ bỏ thị trường đâu. Đừng tự đưa mình vào tình thế nguy hiểm khi
cứ cố gắng lao vào mua cổ phiếu sau khi chứng kiến vài phiên tăng trần liên tiếp vì rất có
thể lúc chúng ta lên được tàu thì đoàn tàu chả còn ai.
- “ Hàng phím-Hàng nóng- Cổ phiên ăn 300% x y z”. Bạn sẽ gặp nhiều băng rôn biểu
ngữ tràn ngập các diễn đàn chứng khoán khi thị trường tăng điểm. Tò mò vào xem cũng là
nguy hiểm rồi. Hành động theo mà không suy nghĩ thì lại càng nguy hiểm hơn. Nên nhớ rằng
những người mà bạn không quen biết, thậm chí những người có giao tiếp với bạn hay ngay
cả Broker quản lý tài khoản của bạn cũng có thể khiến bạn trắng tay. Nếu bạn không có

nguồn thông tin đáng tin cậy đã được kiểm chứng nhiều lần thì bạn chỉ nên tin vào danh mục
được lựa chọn theo Quy tắc số 1 của mình.
- “Đòn bẩy tài chính ( margin ) và Bán Khống ( Shortsell)…hãy luôn tìm cách tránh xa”.
Đây là nhấn mạnh cuối cùng của tôi trong các lưu ý về thực tiễn đầu tư trên TT Việt Nam.
Tôi phải dùng cụm từ TÌM CÁCH TRÁNH XA… vì nó cứ giống như nghiện heroin vậy.
Chứng kiến tận mắt tác hại của nó rồi mà vẫn cứ muốn thử. Chỉ đến khi sắp chết ( cháy tài
khoản ) mới biết là mình không nên sờ vào. Nói đùa vậy thôi chứ các công cụ margin hay
shortsell cũng có tác dụng giúp làm giàu nhanh chóng. Nhưng chúng ta nếu đang ở level
mới tham gia thị trường thì tuyệt đối không nên sử dụng. Chỉ khi chúng ta có nhiều kinh
nghiệm, trải qua nhiều thăng trầm của thị trường, biết rõ được lúc nào nên ra nên vào, học
thuộc lòng bài học “ cut loss” và biết về Phân Tích Kỹ Thuật thì mới nên dùng thử.

5 lỗi cần tránh khi đầu tư năm 2012
28/01/2012 | 05:07
Bỏ qua việc tái cân bằng tỷ trọng, chỉ đầu tư một loại cổ phiếu duy nhất có
thể là bẫy nhấn chìm các “đại gia lướt sóng”.
1. “Ăn theo” thành tựu trong quá khứ
Theo Erik Carter, chuyên gia phân tích và chiến lược tại Financial Finesse, nếu ra
quyết định dựa vào kết quả tốt đẹp qua các năm cũ, bạn rất có thể phải đối mặt với rủi
ro. Chẳng hạn, vào những năm 90 tại Mỹ, người ta cho rằng cổ phiếu tăng trưởng và
công nghệ sẽ thịnh hành do doanh thu 2 nhóm này đã tăng gấp đôi suốt thời gian dài
trước đó. Thậm chí, một số nhà phân tích còn mong chờ “thời đại kinh tế mới”, nơi
khái niệm sản phẩm, lợi nhuận không còn quan trọng bằng cú click chuột trên những
trang web.
Thật không may, lời tiên đoán cuối cùng lại sai và doanh thu nhóm cổ phiếu trên làm
giới “lướt sóng” thua lỗ tới nửa vốn giai đoạn năm 2000-2002. Không chỉ riêng chứng
khoán, các nhà đầu tư cần cảnh giác khi dựa vào những bản báo cáo đẹp mắt và đổ
tiền như trút nước cho lĩnh vực sinh lời khác như trái phiếu, vàng, bất động sản.
2. Cố gắng dự đoán hướng đi thị trường
Trên lý thuyết, việc phân tích đúng hướng thị trường sẽ giúp các nhà đầu tư kiếm

"đậm". Thực tế tìm ra những dự đoán thường dễ làm hơn ứng dụng chúng vào chiến
lược đầu tư. Không những thế, nhiều nhận định sai còn làm rối loạn dòng chảy nguồn
vốn và tâm lý người chơi.
Tuy vậy, ngày càng nhiều chuyên gia thi nhau dự báo hướng đi thị trường và sẵn
sàng kiếm lời ngay trên những phân tích đó. Warren Buffett từng tuyên bố: “Mọi người
cần ngừng ngay việc phỏng đoán tương lai, không chỉ riêng thị trường chứng khoán
hay các mức lãi suất, mà còn toàn ngành kinh tế, thậm chí là cả kết quả bầu cử.”
3. Chỉ đầu tư vào một loại duy nhất
Nguyên tắc bất kỳ nhà đầu tư nào cũng thuộc lòng là đa dạng hóa danh mục nhằm
phân tán rủi ro. Tuy vậy, sai lầm lớn nhất hầu hết người chơi vẫn mắc phải là chi quá
nhiều tiền (khoảng 10-15% tỷ trọng danh mục) vào cổ phiếu công ty họ.
Thực tế, một mã chứng khoán có thể mất điểm trong khi toàn thị trường tăng điểm.
Do đó, dân “lướt sóng” nên mua ít nhất 20 loại khác nhau hoặc đầu tư qua các quỹ
đại chúng, quỹ chuyển đổi để kiểm sốt thua lỗ. Mặt khác, sau khi đa dạng hóa chứng
khốn, người mua có thể hướng tới lĩnh vực khác như trái phiếu, ngoại tệ hoặc bất
động sản, thị trường hàng hóa
4. Phớt lờ chi phí
Hai vấn đề cơ bản nhưng tác động lớn đến lợi nhuận tương lai là chi phí và doanh
thu. Các “tay chơi” cổ phiếu thơng qua quỹ đại chúng cần lưu ý về chi phí quản lý, tư
vấn cùng các phụ phí đi kèm. Một nghiên cứu tại Mỹ dựa trên 248 quỹ chất lượng
chuẩn cho thấy, trong 10 năm chỉ có 4 quỹ thơng báo lợi nhuận tốt, hầu hết các quỹ
còn lại nhận kết quả kinh doanh tệ hơn mức trung bình họ từng có.
5. “Qn” tái cân bằng tỷ trọng
Ngun tắc quan trọng bất cứ ai trong giới “bn cổ phiếu” cũng ghi nhớ, đó là bám
chặt chiến lược đầu tư và thường xun tái cân bằng tỷ trọng danh mục.
Nếu bạn dự định phân bổ vốn 60% cho cổ phiếu, 40% trái phiếu, nhưng sau một thời
gian mua - bán, tình thế đảo chiều thành 40% cổ phiếu – 60% trái phiếu, bạn cần thay
đổi để đưa tỷ trọng về mức cân bằng 60-40 ban đầu. Điều này giúp bạn thêm động
lực muốn bán cổ phiếu ngay khi có cơ hội và thường xun kiểm tra tỷ trọng danh
mục.


Câu 4: Cách tính chỉ số VN Index ? Theo Anh/Chị việc sử dụng các chỉ số trên hiện
đang bị những hạn chế gì ? Đề nghị hướng khắc phục ?
Chỉ số chứng khoán Việt Nam:
Hiện tại, VNI – Index đang được tính theo phương pháp Bình qn Pascher, căn cứ vào
giá thị trường tại một thời điểm của tất cả các cổ phiếu được niêm yết trên SGD chứng
khốn thành phố Hồ Chí Minh với quyền số là số chứng khốn niêm yết của cơng ty đó so
với thời điểm ban đầu.
Cơng thức tính như sau:
 Ví dụ tại phiên thứ 1: Ngày 5/09/2000 ta có kết quả giao dòch đầu tiên.
Tên công
ty

hiệu
Giá thực
hiện
Số lượng cổ
phần
Giá trò thò
trường
Cơ điện
lạnh
REE
16.000đ
15 triệu cp
240.000 triệu
Cáp – VLVT
SAM
17.000đ
12 triệu cp

204.000 triệu

 VN index =
)2(
)1(
00
11


iixQP
iixQP

(1) : Tổng giá trò thò trường tại thời điểm tính toán.
(2) : Tổng giá trò thò trường tại thời điểm gốc.
P1i : Giá cả giao dòch thực tế của cổ phần công ty i
Q1i , Q0i : Số lượng cổ phần công ty i
P0i : Giá cả cổ phần công ty i tại thời điểm gốc.

 VN index =
100100
)1217000()1516000(
)1217000()1516000(



x
trxtrx
trxtrx
điểm


 Phiên thứ 2: Ngày 9/09/2000 ta có kết quả khớp với giá:

- Cổ phần của REE là 16.300 đồng.

- Cổ phần của SAM là 17.200 đồng.

 VNindex =

55,101100
000.444
900.450
100
)1217000()1516000(
)1217200()1516300(



xx
trxtrx
trxtrx
điểm

Như vậy sau phiên thứ 2 thì Chỉ số chứng khoán Index tăng 1,55 điểm và tăng
1,55%.
- Phương pháp Pascher là phương pháp thống kê được sử dụng khá phổ biến, tuy nhiên
nó có nhược điểm căn bản là những thành tố có quyền số lớn có tác động chi phối đến
sự thay đổi của chỉ số. Do đó, chỉ số VNI – Index sẽ có xu hướng phản ánh biến động
của những cổ phiếu có tổng giá trị niêm yết lớn hơn là phản ánh sự thay đổi của tồn thị
trường. Mặt khác, tại Việt Nam, số lượng cổ phiếu lưu hành được tính cả những cổ phiếu
khơng thực sự tự do tham gia vào giao dịch thị trường như cổ phiếu đang được nắm giữ

bởi hội đồng quản trị, các cổ đơng chiến lược, Nhà nước, Do vậy VN-Index khơng
hồn tồn phản ánh chính xác được sự vận động của thị trường.
2. CHỈ SỐ VN-30
Chỉ số VN30 ra đời với mục tiêu cung cấp cho NĐT một chỉ báo tốt hơn, những thơng
tin chi tiết hơn, khắc phục những nhược điểm cơ bản của VNI – Index, xây dựng
những chỉ số có thể giao dịch được và tăng cường sự hội nhập quốc tế của thị trường
chứng khốn Việt Nam khi áp dụng đầy đủ hơn những thơng lệ quốc tế trong tính tốn
các chỉ số.
VN30 vẫn được tính tốn dựa theo phương pháp thống kê Pascher, tuy nhiên, việc
lựa chọn cấu phần của chỉ số và cách tính tốn chỉ số có những thay đổi căn bản sau:
2.1. Chọn rổ chứng khốn đưa vào tính tốn
Với việc tham khảo các thơng lệ quốc tế, 30 cổ phiếu thành phần của VN-30 được lựa
chọn theo các bước như sau:
 Bước 1: Sàng lọc tất cả các cổ phiếu đang niêm yết theo giá trị vốn hóa của tất cả các
cổ phiếu niêm yết: Chọn 50 cổ phiếu có giá trị vốn hóa trung bình ngày trong 6 tháng
lớn nhất.
Tại hầu hết các thị trường chứng khoán trên thế giới hiện nay, một chỉ số được tính
toán cho một nhóm các cổ phiếu lớn nhất, có tính thanh khoản lớn nhất thường được quan
tâm theo dõi nhất và biến động của chỉ số này được coi là đại diện cho diễn biến chung của
toàn thị trường như Dow Jones Industrial Average-Dow 30 hay S&P 500 (Mỹ); Nikkei 225
(Nhật); FTSE 100 (Anh); Hang Seng Index (Hồng Kong, 46 cổ phiếu)…
 Bước 2: Sàng lọc về tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng thực tế so với tổng số cổ
phiếu niêm yết – tỷ lệ free float (f)
• Nếu f≤ 5%: loại bỏ khỏi rổ chọn
• Nếu 5% < f ≤ 10%: loại bỏ khỏi rổ chọn nếu cổ phiếu không thuộc nhóm 10 cổ phiếu
có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất (trong bước 1)
• Nếu f > 10%: xét bước tiếp theo
Hiện nay, các chỉ số hàng đầu trên thế giới đều có sự điều chỉnh cho tỷ lệ tự do chuyển
nhượng (free float) của các mã cổ phiếu cấu phần như nhóm chỉ số Standard & Poor
(như S&P 500 của Mỹ, S&P/ASX 200 của Úc hay S&P/TSX 60 của Canada) hay FTSE

(như Straits Times của Singapore hay FTSE KLCI của Malaysia).
 Bước 3: Sàng lọc thanh khoản của cổ phiếu: Chọn ra 40 cổ phiếu có giá trị giao dịch
bình quân ngày trong 6 tháng cao nhất. Trong đó gồm:
• 30 cổ phiếu nằm trong danh mục chính thức của rổ
• 10 cổ phiếu dự phòng
Cách tính toán một số chỉ số cũng theo phương pháp này như chỉ số AEX của thị trường
chứng khoán Hà Lan hay S&P/TSX 60 Capped của Canada (phiên bản điều chỉnh tỷ lệ giới
hạn giá trị vốn hóa của chỉ số S&P/TSX 60).
2.2. Điều chỉnh quyền số Pascher
Để tránh tình trạng có cổ phiếu chiếm tỷ trọng quá lớn trong nhóm 30 cổ phiếu, tỷ
trọng của từng cổ phiếu trong rổ sẽ được giới hạn ở 10%, tức là tỷ trọng vốn hóa của
một cổ phiếu so với tổng vốn hóa 30 cổ phiếu tối đa là 10%.
Con số 10% được lựa chọn dựa trên thống kê dữ liệu quá khứ từ 1/1/2009 –
30/6/2011, của 30 cổ phiếu thuộc rổ chỉ số được tính ra 6 tháng/1 lần. Dữ liệu thống
kê cho thấy có 99,7% cổ phiếu có tỷ trọng nằm trong khoảng (trung bình +/- 3*SD, SD
là độ lệch chuẩn của dữ liệu).
Theo phương pháp thống kê, tỷ trọng tối đa vào khoảng 11 – 12%, do đó, con số 10%
được lựa chọn để tính toán.
2.3. Công thức tính VN-30

Việc lựa chọn các cổ phiếu, các tỷ lệ ; sẽ được thực hiện định kì 6 tháng/lần vào tháng
1 và tháng 7 hàng năm theo những tiêu chí nhất định và do một hội đồng chuyên trách đảm
nhiệm.

4. NHỮNG VẤN ĐỀ XUNG QUANH VIỆC TÍNH TOÁN VN30
Mặc dù VN30 – Index đã khắc phục được một số nhược điểm của VNI – Index hiện tại, tuy
nhiên, chúng tôi nhận thấy việc thực hiện tính toán chỉ số này vẫn còn có hai vấn đề sau:
4.1. Lựa chọn rổ 30 cổ phiếu
Chúng tôi nhận thấy có 2 vấn đề chưa xuất hiện trong dữ liệu lịch sử, tuy nhiên có thể ảnh
hưởng đến việc tính toán chỉ số:

- Có cổ phiếu không thuộc top 50 (theo bước 1) nhưng lại có số lượng cổ phiếu tự do
chuyển nhượng chiếm tỷ trọng lớn so với thị trường.
- Việc sàng lọc ở bước 2 có thể loại đi một số lượng lớn hơn 10 cổ phiếu dẫn đến việc
không còn đủ 40 cổ phiếu sử dụng ở bước 3.
Vì vậy, chúng tôi đồng ý với quan điểm của Tiến sĩ Tôn Tích Quý - Phó giám đốc Trung tâm
Nghiên cứu khoa học và Đào tạo chứng khoán tại Hội thảo giới thiệu VN-30 ngày 15/9 tại Hà
Nội, về việc ưu tiên chọn lọc theo tỷ lệ free – float. Chúng tôi cho rằng, thay vì sàng lọc bước
1 theo giá trị vốn hóa của tất cả các cổ phiếu niêm yết, top 50 cổ phiếu có giá trị vốn hóa
bình quân ngày trong 6 tháng tính cho số cổ phiếu tự do chuyển nhượng lớn nhất sẽ được
lựa chọn, tức là thực hiện sàng lọc theo bước 2 trước, sau đó chọn ra 50 cổ phiếu có giá trị
lớn nhất.
4.2. Tỷ trọng cổ phiếu trong tính toán
Theo thống kê của HOSE để xây dựng VN30 – Index, có đến 99,7% cổ phiếu có tỷ lệ c (tỷ
trọng vốn hóa) nằm trong khoảng (trung bình tỷ trọng +/- 3*SD), tức là hầu hết các cổ phiếu
có tỷ trọng ở mức dưới 11 – 12%. Do đó, theo quy luật số lớn, chúng tôi cho rằng, không
cần thiết giới hạn tỷ lệ c ở mức 10%.


Câu 5: Anh/Chị hiểu gì về chứng khoán phái sinh liên hệ đến TTCK VN ?
Các nghiệp vụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển ngày càng sâu, rộng
và đa dạng của thị trường tài chính. Sự biến động khó lường của giá cả hàng hoá, lãi
suất, tỷ giá trên thị trường là những nguyên nhân gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư trong các
phi vụ mua, bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi ro thua lỗ có thể xẩy ra, các nghiệp vụ tài
chính phái sinh đã được hình thành, đó thực chất là những hợp đồng tài chính mà giá trị cuả
nó phụ thuộc vào một hợp đồng mua bán cơ sở (hay còn gọi là chính phẩm).
Đến nay, trên thị trường tài chính quốc tế nghiệp vụ tài chính phái sinh đã phát triển rất
mạnh với các nghiệp vụ phái sinh rất đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai trò quan trọng
trong hệ thống tài chính toàn cầu. Sở dĩ nó phát triển thành công như vậy, là do sử dụng
nghiệp vụ này đem lại lợi ích cho các thành viên thị trường. Trên thị trường có thể phân ra
thành 3 loại thành viên: Người đầu tư, người đầu cơ, người cơ lợi. Sự dụng nghiệp vụ tài

chính phái sinh đều mang lại lợi ích cho 3 loại thành viên này: Người đầu tư phải đối diện
với những rủi ro do biến động giá cả của các sản phẩm chính, họ phải sử dụng nghiệp vụ
phái sinh để giảm thiểu hoặc loại bỏ rủi ro; đối với người đầu cơ lại muốn đánh cuộc trên
những biến động giá cả của sản phẩm chính, họ dùng nghiệp vụ này như một đòn bẩy đặc
biệt; đối với người cơ lợi ( thực hiện lợi nhuận mà không có rủi ro) bằng cách sư dụng chênh
lêch giá giữa các thị trường tài chính khác nhau, họ đã sử dụng rất hiệu quả các nghiệp vụ
phái sinh để hưởng chênh lệch giá.
Dưới đây xin đề cập đến một số nghiệp vụ phái sinh chuẩn và không chuẩn hay còn gọi là
công cụ phái sinh độc lập và công cụ phái sinh “được gắn thêm” hiện đang được giao dịch
phổ biến trên thị trường tài chính quốc tế.
1. Một số công cụ phái sinh độc lập:
Hợp đồng mua bán trước(còn gọi là công cụ kỳ hạn): Là một công cụ tài chính phái sinh
đơn giản. Đó là một thoả thuận mua hoặc bán một tài sản ( hàng hoá hoặc các tài sản tài
chính) tại một thời điểm trong tương lai với một giá đã xácđịnh trước.
Đặc điểm của hợp đồng này là:
 Thông thường hợp đồng này được thực hiện giữa các tổ chức tài chính (TCTC)với
nhau, hoặc giữa TCTC với các khách hàng là doanh nghiệp phi tài chính (các hợp
đồng này thường được ký kết song phương).
 Trong hợp đồng này người mua được gọi là người giữ thế trường vị (long position),
người bán được gọi là người giữ thế đoản vị (short position).
 Hợp đồng này chỉ được thực hiện khi đáo hạn: Đến thời điểm đáo hạn người giữ vị
thế đoản vị phải thực hiện bán tài sản cho người giữ vị thề trường vị và nhận một
khoản tiền từ người mua với mức giá cả đã định trước trong hợp đồng, cho dù vào
thời điểm đó giá thị trường của tài sản đó có cao hơn hoặc thấp hơn giá xác định
trong hợp đồng. Nếu giá thị trường cao hơn giá hợp đồng thì người giữ vị thế trường
vị sẽ có lãi (có giá trị dương), còn người giữ vị thế đoạn vị bị giá trị âm; và ngược lại.
Hợp đồng mua bán trong tương lai: là một công cụ tài chính phái sinh, tương tự như hợp
đồng mua bán trước, chỉ khác có một số điểm sau:
Hợp đồng mua bán trong tương lai thường được ký kết và thực hiện hợp đồng thông qua
một môi giới trên thị trường chứng khoán; và người mua và người bán thường không quen

biết nhau, do vậy đơn vị môi giới thường đưa ra một số các tiêu chuẩn cho những hợp đồng
này. Hiện nay, những thị trường chứng khoán mua bán hợp đồng trong tương lai là Hội
đồng mậu dịch Chicago - Chicago Board of Trade( CBOT), Sở thương mai Chicago-
Chicago Mercantile Exchange (CME) và Sở giao dịch các hợp đồng tương lai London. Các
loại hàng hoá được giao dịch trên thị trường chứng khoán mua bàn hợp đồng trong tương
lai gồm, heo, bò ,đường, len , sản phẩm tài chính gồm, chỉ số chứng khoán, ngoại tệ, trái
phiếu công ty, trái phiếu chính phủ.

Ngày giao hàng không được xác định một cách chính xác như hợp đồng mua- bán trước,
mà được qui định theo tháng và khoảng thời gian của tháng phải giao. Văn phòng thị trường
chứng khoán (người môi giới) xác định khối lượng, chất lượng của hàng hoá giao dịch, cách
giao hàng, giá hợp đồng, và cũng có thể xác định luôn giá trị hợp đồng mua bàn tương lai có
thể thay đổi trong một ngày.

Người mua, bán phải trả phí hoa hồng cho người môi giới, và giá rao bàn được xác định
trên sàn giao dịch chứng khoán.

Có hai loại thương nhân trên sàn giao dịch: Thứ nhất là những người môi giới ăn hoa hồng,
họ sẽ thực hiện mua bán theo lệnh của nhà đầu tư và tính hoa hồng; thứ 2 là người tự đầu
tư.

Để tránh những rủi ro khi thực hiện hợp đồng mua bàn trong tương lai, do người mua, hoặc
người bán tháo lui khỏi hợp đồng vì sự biến động giá trên thị trường bất lợi cho mình, hoặc
do đến thời điểm thanh toán, người mua không có khả năng tài chính. Văn phòng chứng
khoán phải đưa ra những qui định về yều cầu dự trữ tối thiểu đối với người ký hợp đồng
tương lai với nhà môi giới. Khoản tiền dự trữ này được giữ tại một tài khoản của người đầu
tư mở tại văn phòng chứng khoán.

Ví dụ: Giả sử vào tháng 3 bạn gọi cho nhà môi giới của bạn tại CBOT, và yêu cầu ông ta
mua cho bạn 100 lượng vàng vào thời điểm tháng 7. Những sự việc gì sẽ xẩy ra sau lệnh

của bạn:
- Bước 1, người môi giới sẽ chuyển lệnh của bạn cho một đại diện tại CBOT. ở đây lênh này
sẽ do một người đưa tin chuyển đến cho một thương nhân của bàn giao dịch. Người này sẽ
cố tìm giá tốt nhất trên thị trường và ra dầu hiệu bằng tay cho các thương nhân biết rằng có
người muốn mua một hợp đồng vàng tương lai với giá như vậy.
- Bước 2, Nếu có một thương nhân (bên bán) chấp nhận với mức giá và thời gian bán như
vậy, thì là đã kết thúc thương thuyết.Sau đó người ta sẽ thông báo cho bạn biết thông qua
người môi giới của bạn là hợp đồng đã đựoc ký kết.
Kết thúc một hợp đồng tương lai, hiếm khi được diễn ra như ký kết ban đầu, mà thường xảy
ra sự hoàn đổi trong suốt thời gian đáo hạn: Nếu như một người đầu tư ở thế trường vị đối
với một hợp đồng tương lai mua vàng vào tháng 7, nhưng vào ngày 6/3, anh ta có thể kết
thúc vị trí này vào ngày 20/4 bằng cách chọn vị trí đoản vị đối với hợp đồng bán vàng vào
tháng 7. Vào ngày 6/3 nếu một người ở vị trí đoản vị đối với hợp đồng tương lai vào tháng 7
anh ta có thể kết thúc hợp đồng này vào ngày 20/4 bằng cách chọn vị trí trường vị vào tháng
7. Trong cả 2 trường hợp tiền lời hay lỗ của người đầu tư phản ánh những thay đổi của giá
cả giữa ngày 6/3 với ngày 20/4.
Trong hoạt động ngân hàng, các ngân hàng đã sử dụng nhiều nghiệp vụ này trong kinh
doanh chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư để phòng chống rủi ro do biến động lãi suất
trong tương lai. Để hạn chế rủi ro biến động lãi suất trong tương lai, nhìn chung đòi hỏi các
ngân hàng phải giữ vị thế trên thị trường trong tương lai đối nghịch với vị thế hiện thời trên
thị trường giao ngay. Bởi vậy, một ngân hàng có kế hoạch mua trái phiếu “ tạo thế trường”
trên thị trường giao ngay có thể bảo vệ được giá trị của những trái phiếu này bằng việc ký
hợp đồng bán trái phiếu trên thị trường tương lai tạo vị thế đoản.nếu ngay sau đó, giá trái
phiếu giảm trên thị trường giao ngay, thì sẽ có một khoản lợi nhuận được bù đắp xuất hiện
từ thị trường tương lai và điều này giúp cho ngân hàng tối thiểu hoá tổn thất gây ra do biến
động lãi suất.
Hợp đồng quyền chọn (quyền chọn mua hoặc bán): Là một sản phẩm tài chính phái sinh
rất được ưa chuộng. Hợp đồng quyền chọn cổ phiếu được thực hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào
năm 1973, từ đó thị trường này phát triển tăng vọt và ngày nay được thực hiện trên khắp thị
trường tài chính thề giới. Hợp đồng quyền chọn được thực hiện với các hoạt động mua,

bán: Cổ phiếu, chỉ số thị trường chứng khoán, ngoại tệ, công cụ nợ, các hợp đồng mua bán
tương lai và hàng hoá.
Có hai loại hợp đồng quyền chọn: Hợp đồng quyền chọn mua (call option)và hợp đồng
quyền chọn bán (put option). Hợp đồng quyền chọn mua là thoả thuận cho phép người cầm
hợp đồng có quyền mua sản phẩm từ một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày
đáo hạn của hợp đồng. Còn hợp đồng quyền bán là thoả thuận cho phép người cầm hợp
đồng có quyền bán sản phẩm cho một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo
hạn của hợp đồng.
Đặc điểm của hợp đồng lựa chọn: Khác với hợp đồng mua bàn trước và hợp đồng mua bán
tương lai hợp đồng quyền chọn không bắt buộc các bên phải giao sản phẩm. Hợp đồng chỉ
quy định quyền giao hay nhận, mà không bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của mình. Người mua
quyền có thể: Thực hiện quyền, hay bán quyền cho một người mua khác; hay không thực
hiện quyền . Để có quyền này, khi ký hợp đồng, người cầm hợp đồng phải trả quyền phí ;
giá trong hợp đồng được gọi là giá thực hiện hay là giá nổ (Strike price); ngày định trong
hợp đồng gọi là ngày đáo hạn hay hày thực hiện.
Có hai kiểu thực hiện hợp đồng quyền chọn, đó là thực hiện hợp đồng quyền chọn theo kiểu
Mỹ và theo kiểu châu Âu. Theo kiểu Mỹ là thực hiện quyền chọn vào bất kỳ thời điểm nào
trước ngày đáo hạn. Theo kiểu châu Âu là thực hiện quyền chọn chỉ trong ngày đáo hạn.
Hiện nay trên các thị trường chứng khoán hầu hết thực hiện theo kiểu Mỹ.
Ví dụ: Một người đầu tư mua 100 cổ phiếu IBM dưới hình thức hợp đồng lựa chọn kiểu
châu âu với giá định trước là 100 USD/1 cổ phiếu, ngày đáo hạn là 2 tháng và quyền phí là 5
USD. Giả sử đến ngày đáo hạn giá cổ phiếu cổ phiếu thấp hơn 100 USD, thì nhà đầu tư có
thể sẽ từ chối không mua và chịu mất 500 USD quyền phí (5x100). Trong trường hợp giá
cao hơn nhà đầu tư sẽ thực hiện hợp đồng.
Một điểm đáng chú ý là: trong khi người mua hợp đồng lựa chọn call mong muốn giá của
sản phẩm hợp sẽ tăng lên trong ngày đáo hạn thì người mua hợp đồng lựa chọn Put lại hy
vọng giá xuống. Nếu cao hơn giá định trước họ sẽ từ chối quyền bán và chịu mất quyền phí.
Tất nhiên sự từ chối hay không từ chối quyền khi giá ngày đáo hạn cao (hay thấp) hơn giá
nổ sẽ được các nhà đầu tư tính toán trên cơ sở mức độ chênh lệch giữa giá định trước với
giá ngày đáo hạn và quyền phí.

Các hợp đồng quyền chọn thường được giao dịch trên thị trường chứng khoán hoặc thị
trường phi chính thức. Hiện nay, chủ yếu các hợp đồng quyền chọn được mua bán rộng rãi
tại văn phòng thị trường chứng khoán( Chicago board Option Exchange–CBOE,
Philadelphia Exchange–PHLX, The American Stock Exchange–AMEX, The Pacific Stock
Exchange–PSE, The New York Stock Exchange–NYSE ). Việc mua bán dưới hình thức
hợp đồng chọn tại các văn phòng thị trường chứng khoán có nhiều khía cạnh giống như
mua bán hợp đồng tương lai. Văn phòng thị trường chứng khoán phải xác định rõ các điều
kiện, mức độ, thời gian đáo hạn và ấn định giá của hợp đồng quyền chọn được mua bán
trên thị trường của họ.Và để giảm rủi ro của việc thực hiện hợp đồng, lúc mua sản phẩm (cổ
phiếu chẳng hạn), người đầu tư mở tài khoản dự trữ bắt buộc với người môi giới của họ,
mức độ dự trữ tuỳ thuộc vào loại hàng hoá được giao dịch và tuỳ vào từng tình huống cụ
thể.Đồng thời, cũng có những quy định để kiểm soát thị trường hợp đồng quyền chọn, như
những qui định kiểm soát ứng xử của thương nhân, của những người tạo lập thị trường.
Nghiệp vụ hoán đổi: là một hợp đồng trong đó hai bên thoả thuận trao đổi nghĩa vụ thanh
toán. Thông thường giao dịch này bao gồm các thanh toán lãi, và trong một số trường hợp
là thanh toán nợ gốc. Giao dịch hoán đổi lãi suất và hoán đổi ngoại tệ là sản phẩm của thị
trường phi tập trung (OTC) được kết hợp trực tiếp giữa hai ngân hàng, hoặc giữa ngân hàng
với khách hàng. Theo đó không có mẫu chuẩn của hợp đồng giao dịch hoán đổi và các hợp
đồng kiểu này sẽ khác nhau về một số nội dung.
Trước khi các giao dịch hoán đổi xuất hiện, bên vay và bên cho vay thường bị giới hạn ở lãi
suất cố định hoặc lãi suất thả nổi, cấp vốn hoặc cho vay trên cơ sở tiền mặt. Nhà đầu tư
hoặc ngân hàng sẽ gặp phải sự không tương xứng về lãi suất giữa tài sản có và tài sản nợ.
Ví dụ công ty vay lãi suát cố định , nhưng lại đầu tư vào thị trường lãi suất thả nổi, chắc chắn
sẽ bị lỗ khi lãi suất giảm do không có khoản tăng thu nhập từ tài sản có lãi suất thả nổi.
Giao dịch hoán đổi được tạo ra để xử lý những sự không tương xứng này, tạo cho ngân
hàng, doanh nghiệp kiểm soát tốt hơn các dòng lưu chuyển tiền tệ của mình. Khi mới xuất
hiện công cụ này vào đầu thập kỷ 1980, các ngân hàng dàn xếp các giao dịch hoán đổi cho
các bên cụ thể có nhu cầu cần bổ sung cho nhau. Các ngân hàng thu được phí do làm đại
diện trong các giao dịch này. Thị trường càng phát triển, ngân hàng tham gia với vai trò chủ
chốt, thực hiện những bù trừ tất cả các trạng thái với các bên ngang nhau và đối nghịch. Thu

nhập được tạo ra từ sự chênh lệch giữa lãi suất hoán đổi thanh toán và nhận được, hoặc
phí trả trước để giàn xếp.
2. Các công cụ phái sinh không chuẩn (được gắn thêm):
Những năm gần đây, trên thị trường tài chính đã suất hiện nhiều công cụ tài chính phái sinh
khác được thiết kế dựa trên những nguyên lý cơ bản của các công cụ tài chính quyền chọn
(call, put) và hợp đồng mua bán tương lai, gọi là hợp đồng lựa chọn Exotics, hay còn gọi là
những công cụ phái sinh không chuẩn. Các ví dụ sau cso thể minh hoạ phần nào về công cụ
phái sinh không chuẩn:
Ví dụ 1: Về trái phiếu của Standard Oils
Năm 1986 công ty Standard Oils phát hành loại trái phiếu mà người mua không nhận
được lãi suất, nhưng đến ngày đáo hạn người mua 1000 USD trái phiếu sẽ nhận được một
số tiền phụ trội dựa trên giá của xăng dầu lúc đó. Số tiền phụ trội này bằng tích số của 170
với mức giá dầu tăng vượt mức 25 USD/thùng, tuy nhiên mức giá vượt lên không quá 40
USD/thùng. Tức lợi tức nhận được tối đa là 2.250 USD với 1000 USD trái phiếu. Trường
hợp giá dầu không tăng thì người mua chỉ nhận được gốc trái phiếu khi đến ngày đáo hạn.
Ví dụ 2:Trái phiếu ICON
Năm 1985, tổ chức ngân hàng Banker Trust đã phát hành một loại trái phiếu mang tên
ICONs (Index currency notes). Lợi tức thu được từ trái phiếu này phụ thuộc vào tỷ giá với
ngoại tệ. Ngân hàng thỏa thuận trước với người mua trái phiếu 2 mức tỷ giá X1 và X2
(X1>X2). Nếu đến ngày đáo hạn, tỷ giá lớn hơn X1 thì người mua trái phiếu sẽ nhận được
toàn bộ số tiền như đã thoả thuận trước, nếu tỷ giá nhỏ hơn X2 người chủ trái phiếu không
nhận được một đồng nào ngoài tiền gốc. Nếu tỷ giá trong khoảng X1 và X2 sẽ nhận được
một phần nhỏ lợi tức nào đó.
Ví dụ 3: Hợp đồng lựa chọn trước trong một khoảng định
Hợp đồng loại này thường được sử dụng trong mua bán ngoại tệ. Một hợp đồng mua bán
trước khoảng định là quyền chọn mua ( hoặc bán) trong giới hạn dao động tỷ giá định trước.
Giả sử ngày 8/5/2005 một công ty Hoa kỳ sẽ cần đồng bảng anh trong vòng 90 ngày nữa.
Công ty này có thể ký một hợp đồng mua trước khoảng định bảng anh quanh mức tỷ giá
1,6056 trong 90 ngày nữa. Theo hợp đồng này, tỷ giá được đặt dao động quanh mức 1,6056
(từ mức 1,5700 đến 1,6400). Nếu đến ngày đáo hạn tỷ giá nhỏ hơn 1,570 công ty sẽ trả theo

mức tỷ giá 1,5700; nếu giá nằm trong khoảng 1,570-1,6400, công ty sẽ trả theo thời giá; nếu
thời giá lớn hơn 1,6400 công ty sẽ trả bằng mức 1,6400.
Hiện nay trên thị trường tài chính xuất hiện rất nhiều các loại công cụ phái sinh không chuẩn,
như hợp đồng lựa chọn bắt đầu trong tương lai, là loại hợp đồng ta phải trả ngay, nhưng chỉ
bắt đầu tại thời điểm nào đó trong tương lai; hợp đồng lựa chọn hỗn hợp là hợp đồng lựa
chọn dựa trên các hợp đồng lựa chọn. Có 4 loại hợp đồng hỗn hợp chính: Call dựa trên Call,
Put đựa trên Call, Put dựa trên Put, Call dựa trên Put; hợp đồng lựa chọn có dào; giao dịch
hoán đổi lãi suất chéo Cross Currency Swap - CCS là loại nghiệp vụ phái sinh cơ bản giúp
cho khách hàng có khả năng phòng ngừa rủi ro tỷ giá và lãi suất. Có thể mô tả qui trình đó
như sau:
Bên A và bên B ký hợp đồng CCS với nội dung như sau:
+ Số tiền 10 triệu USD,
+ Tỷ giá 1 USD = 15.800 VND.
+ Ngày hiệu lực 1/6/2005;
+ Ngày đáo hạn 1/6/2010
+ Lịch trình dòng tiền: 3 tháng một lần, chia đều suốt thời hạn 5 năm
+ Lãi suất: Bên A trả 8% trên 158 tỷ VND, Bên B trả Libor 3 tháng trên 10 triệu USD. Định kỳ
trả lãi 3 tháng một lần.
Hợp đồng CCS có thể có hoặc không có trao đổi ban đầu, nhưng nhất thiết phải có trao đổi
cuối cùng, hai bên có thể thoả thuận trả lãi suất cố định hay thả nổi tuy theo yêu cầu.
Sơ đồ dòng tiền.
(1) Trao đổi ban đầu ( tỷ giá 1 USD = 15.800 VND) vào ngày 1/6/2005. Bên A chuyển cho
NH ( bên B) 10 triệu USD, Bên B chuyển cho Bên A 158 tỷ VND.
(2) Sự trao đổi cuối cùng (tỷ giá 1 USD = 15.800 VND) bắt đầu ngày 1/9/2005 cứ 3 tháng 1
lần cho đến 1/6/2010. Tổng cộng có 20 lần trao đổi.
- Bên A chuyển cho bên B 7,9 tỷ VND, Bên B chuyển cho bên A 0,5 triệu USD;
- Lãi suất Bên A trả cho Bên B là 8%/năm, Bên B trả cho bên A lai suất Libor 3 tháng.
Trên thực tế ở các nước trong khu vực, hợp đồng CCS như dạng trên rất phổ biến và giúp
cho khách hàng phòng ngừa rủi ro tỷ giá và lãi suất.
- Hợp đồng quyền chọn lãi suất chặn trên và chặn hai đầu

+ Quyền chọn lãi suất chặn trên tối đa : được áp dụng khi khách hàng vay vốn theo lãi suất
thả nổi nhưng không phải trả vượt quá một mức lãi suất được xác định trước. Đến thời điểm
đáo hạn nếu lãi suất thực tế vượt mức lãi suất xác định trước, khách hàng chỉ phải trả lãi
suất theo mức đã xác định trước trong hợp đồng. Trường hợp lãi suất hiện thời thấp hơn lãi
suất xác định trước khách hàng trả theo lãi suất hiện thời. Để có quyền này, khách hàng
phải trả một mức phí nhất định theo thoả thuận.
+ Quyền chọn chặn hai đầu, được áp dụng khi khách hàng vay lãi suất thả nổi với mong
muốn phải trả lãi suất trong một khung xác định trước.
- Nghiệp vụ tiền gửi kết hợp quyền chọn tiền tệ- Dual currency Deposit. Nghiệp vụ này có
thể được mô tả như sau:
+ Khách hàng và TCTD thoả thuận với nhau về một giao dịch tiền gửi thông thường kèm
theo một hợp đồng quyền chọn, theo đó đến ngày đáo hạn, nếu tỷ giá đồng tiền thấp hơn
(hoặc cao hơn) tỷ giá thoả thuận ban đầu thì người gửi tiền sẽ nhận được tiền gốc và tiền lãi
bằng đồng tiền đã gửi ban đầu; nếu tỷ giá lớn hơn (hoặc thấp hơn) mức tỷ giá thoả thuận
ban đầu thì người gửi tiền sẽ nhận tiền gốc và tiền lãi bằng đồng tiền khác theo tỷ giá và loại
đồng tiền do khách hàng và TCTD thoả thuận ban đầu.
+ Có kỳ hạn cố định và thường là ngắn hạn;
+ Lãi suất của loại tiền gửi này có thể cao hơn lãi suất tiền gửi thông thường cùng kỳ hạn và
gắn với quyền chọn tiền tệ có thể phát sinh rủi ro
Trên thị trường tài chính ở Việt nam, các nghiệp vụ phái sinh bắt đầu xuất hiện khoảng 5
năm trước đây và đến nay xuất hiện nhiều loại công cụ phái sinh chuẩn và không chuẩn
đang được thực hiện.Tuy nhiên, cơ sở pháp lý các các nghiệp vụ phái sinh còn mang tính
thí điểm và đơn lẻ, ngoại trừ giao dịch hoán đổi lãi suất đã có qui chế của NHNN ( Quyết
định sso 1133/2003/QĐ - NHNN, ngày 30/9/2003 ban hành kèm theo qui chế). Đồng thời số
lượng các giao dịch còn ít khoảng gần 15 hợp đồng hoán đổi lãi suất và một số ít hợp đồng
phái sinh không chuẩn khác đã được cho phép thực hiện( trong số đó có một số giao dịch đã
chưa phát sinh giao dịch). Có thể liệt kê một số TCTD đã được Ngân hàng nhà nước cho
phép thực hiện:
- Ngân hàng Citibank thực hiện thí điểm hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền từ ngày 1/3/2005
đến 2/2006.

- Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo
giữa 2 đồng tiền chéo (Cross Currency Swap- CCS) đối với khoản vay ngoại tệ của khách
hàng sau khi khách hàng vay ngoại tệ;thực hiện cung cấp sản phẩm gắn với rủi ro tín dụng-
lãi suất cơ cấu cho tiền gửi và giấy tờ có giá, theo đó lãi suất của khách hàng được hưởng
sẽ không cố định mà nằm trong một khoảng giao động nhất định và phụ thuộc vào sự biến
động của một số yếu tố thị trường , như tỷ giá, lãi suất, giá sản phẩm hàng hóa nào đó
- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất
đối với các khoản cho vay hoặc đi vay trung hạn bằng USD hoặc euro. Đối tác thực hiện
giao dịch quyền chọn lãi suất là các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, các NHTM hoạt
động tại VN được NHNN cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất và các
NH nước ngoài. Số gốc của hợp đồng quyền chọn lãi suất tối đa bằng 15% vốn tự có của
NHĐT&PT. Tổng số là hợp đồng trong thời gian thí điểm không vượt quá 50% mức vốn tự
có của NH. thời hạn hợp đồng không quá 5 năm; thực hiện nghiệp vụ tiền gửi kết hợp quyền
chọn tiền tệ- Dual currency Deposit; thực hiện hoán đổi tiền tệ chéo. Đó là việc trao đổi các
dòng tiền trong tương lai bằng các đồng tiền khác nhau. Trong các giao dịch hoán đổi chéo
thường có việc hoán đổi thanh toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền sang thanh
toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền khác. Số tiền gốc trong giao dịch có thể
được hoán đổi vào kỳ đầu (nếu có) và kỳ cuối, hoặc nhiều kỳ trong thời gian hiệu lực của
giao dịch
- NHNT thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn với các đối tác
là TCTD hoạt động tại Việt Nam và các pháp nhân khác hoạt động ở trong nước và nước
ngoài, phù hợp với các qui định của pháp luật. Quyền chọn thuộc về NHNT là quyền kết thúc
trước hạn hợp đồng Swap đối với các khoản vay của BTC.
- NH HSBC thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cộng dồn – Daily range accrual, thời hạn
của hợp đồng tối đa 5 năm. Theo thoả thuận hoán đổi này, khách hàng vay cuả HSBC sẽ trả
Sibor cộng với phần chênh lệch và tổng lãi suất phải trả này không vượt quá mức lãi suất
cao nhất đã được định trước. Đổi lại HSBC sẽ trả Sibor cộng với phần chênh lệch cho
những ngày lãi suất Sibor giao động trong một khoảng được định trước. Cụ thể, hợp đồng
này thoả thuận giữa khách hàng vay vốn với thời hạn 6 năm lãi suất thả nổi. Nếu đến ngày
đáo hạn lãi suất Sibor không vượt quá mức lãi suất xác định trước (4,5%/năm ) thì HSBC sẽ

trả lãi suất cho khách hàng với mức lãi suất (Sibor + 1,1% ). Trường hợp vượt mức lãi suất
định trước, thì HSBC không phải trả mức lãi suất này. Đổi lại, khách hàng sẽ trả cho HSBC
mức lãi suất (Sibor + 0,6%), nhưng tối đa không vượt quá 5,1%/ năm; thực hiện giao dịch
hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền
- Thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ (Option ngoại tệ/ VND): Đã cho phép thực hiện
thí điểm NHTMCP Quốc tế,), ngân hàng NT (8/2005); NHTM cổ phần Á Châu, NHĐT&PT,
NHTMCP Kỹ thương, NHTMCP Quân đội (12/2005).
- NH Calyon, citibank, ABN-AMRO thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện
trong tương lai (Forward Start Swap) là thoả thuận để tham gia giao dịch hoán đổi lãi suất
vào một ngày cụ thể trong tương lai theo một mức lãi suất đã được định trước.
- Cho phép NH TMCP kỹ thương thực hiện giao dich hợp đồng tương lai trên thị trương
hàng hoá (9/2004);Vinasin thực hiện giao dịch hoán đổi ngoại tệ
Qua thống kê trên cho thấy, thị trường các công cụ tài chính phái sinh đã hình thành ở Việt
Nam, tuy nhiên còn rất nhỏ bé và chưa phổ biến. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là
do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn thấp, trên thị trường còn thiếu
vắng các nhà đầu tư am hiểu kỹ về lợi ích cũng như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các loại
nghiệp vụ này. Bên cạnh đó các nhà môi giới, các nhà cơ lợi còn quá ít trên thị trường tiền
tệ, thị trường chứng khoán để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ thị trường này.
Sự kém phát triển của thị trường phái sinh là một thách thức không nhỏ trong quá trình hội
nhập và mở cửa thị trường tài chính ở Việt Nam. Khi mà rủi ro luôn là bạn đường của các
nhà đầu tư và ngày càng gia tăng trong quá trình hội nhập, thì phát triển thị trường các
nghiệp vụ phái sinh được xem như là là chắn quan trọng để hạn chế rui ro cuả thị trường đối
với những nhà đầu tư. Vì vậy phát triển thị trường phái sinh là rất cần thiết hiện nay.

×