Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Lịch sử đấu tranh Cách mạng của Đảng bộ, nhân dân Trà Vinh và những thành tựu sau 20 năm tái lập tỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.33 KB, 34 trang )

Tìm hiểu về lịch sử Trà Vinh
TÀI LIỆU DỰ THI
Lịch sử đấu tranh Cách mạng của Đảng bộ, nhân dân Trà Vinh
và những thành tựu sau 20 năm tái lập tỉnh
(Tài liệu này do một người bạn biên soạn, chỉ mang tính chất tham
khảo. Do đó tôi không chịu trách nhiệm về nội dung bản tài liệu này)
Câu 1 : Một trong những chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên đầu tiên ở Trà
Vinh và Tỉnh ủy Trà Vinh được thành lập vào thời gian nào? Ở đâu? Nêu họ
và tên đồng chí Bí thư chi bộ đầu tiên ?
Đáp án :
1) Mùa xuân năm 1930 tại tỉnh Trà vinh, sau khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời vào ngày 3 tháng 2 năm 1930 thì Xứ ủy nam kỳ đả cử đồng chí
Ung Văn Khiêm (Ủy viên xứ ủy) và đồng chí Dương Quang Đông đến Trà


vinh thành lập các chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên gồm: chi bộ An Trường,
chi bộ Mỹ Long và chi bộ tỉnh lỵ Trà vinh; trong đó chi bộ An Trường là chi
bộ đầu tiên được thành lập do đồng chí Nguyễn Phát Đạt làm Bí thư.
2) Đến mùa thu năm 1930 Tỉnh ủy Trà Vinh được thành lập tại nhà số
09 đường Công Xi rượu nếp nay là đường Lê Lợi tỉnh Trà Vinh do Đồng chí
Dương Quang Đông làm bí thư Chi bộ.
Câu 2 : Từ khi được thành lập đến nay, Đảng bộ tỉnh Trà Vinh trải qua
mấy kỳ đại hội? Ở đâu ? Nêu họ tên các đồng chí Bí thư tỉnh ủy qua các thời
kỳ, từ khi thành lập Tỉnh ủy đến nay?
Đáp án:
Từ khi được thành lập từ năm 1930 đến 2012 Đảng bộ tỉnh Trà Vinh đã
trải qua được chín (IX) kỳ Đại hội:

- Đại hội lần thứ I đến lần thứ III được tổ chức tại ấp Cồn Trứng, xã
Trường Long Hòa, huyện Duyên Hải.
- Từ Đại hội lần thứ V đến lần thứ IX được tổ chức tại Tỉnh ủy Trà
Vinh.
- Các đồng chí nguyên là Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ khi thành lập tỉnh
ủy đến nay gồm:
1/ Đồng chí Huỳnh Ngọc Trảng: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ năm 1930
đến tháng 9 năm 1931.
2/ Đồng chí Nguyễn Văn Trung: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ cuối năm
1931 đến giữa năm 1933 bị tực dân pháp bắt, đày ra côn đảo và hy sinh
trong nhà tù.
3/ Đồng chí Trương Văn Nhâm: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ năm 1934

– 1938.
4/ Đồng chí Trần Chí Nam: Bí thư tỉnh ủy Trà vinh từ tháng 10 năm
1939 đến tháng 4 năm 1940.
5/ đồng chí Võ Hoàng: Bí thư Tỉnh ủy Trà vinh từ cuối tháng 4 năm
1940 đến đầu tháng 12 năm 1940.
6/ Đồng chí Nguyễn Văn Hai: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ đầu năm
1940 đến tháng 12 năm 1940.
7/ Đồng chí Phan Văn Bảy: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ tháng 12 năm
1940 đến tháng 6 năm 1941.
8/ Đồng chí Dương Quang Đông: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ năm
1942 – 1945.
9/ Đồng chí Phạm Thái Bường: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh qua các giai

đoan sau:
+ Đầu năm 1939
+ Tháng 5 năm 1946 đến tháng 8 năm 1948.
+ Tháng 5 năm 1951 đến tháng 1 năm 1953.
10/ Đồng chí Dương Văn Hạnh: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ cuối
tháng 9 năm 1948 đến tháng 6 năm 1949.
11/ Đồng chí Nguyễn Kiến Nghĩa: Bí thư tỉnh ủy Trà Vinh từ tháng 6
năm 1949 đến tháng 9 năm 1949.
12/ Đồng chí Nguyễn Ngọc Thanh: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ tháng
10 năm 1949 đến tháng 5 năm 1951 và từ tháng 1 năm 1953 đến tháng 7
năm 1954.
13/ Đồng chí Trần Thành Đại: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ tháng 7

năm 1954 đến tháng 7 năm 1957.
14/ Đồng chí Trần Văn Long: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ Tháng 7
năm 1957 đến đầu năm 1962.
15/ Đồng chí La Lâm Gia: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ đầu năm 1962
đến giữa năm 1963.
16/ Đồng chí Phạm Văn Kiệt: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ năm 1963 –
1965.
17/ Đồng chí Nguyễn Đáng: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ năm 1965 –
1969 và năm 1977 – 1984.
18/ Đồng chí Nguyễn Tấn Liền: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ tháng 2
năm 1974 đến tháng 10 năm 1974.
19/ Đồng chí Nguyễn Ký Ức: Bí thư Tỉnh ủy Cửu long từ năm 1984 –

1989.
20/ đồng chí Trịnh Văn Lâu: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ năm 1991-
1992.
21/ Đồng chí Bùi Quang Huy: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ tháng 5
năm 1992 đến tháng 1 năm 2001.
22/ Đồng chí : Nguyễn Thái Bình: Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh từ năm
2001 - 2010.
23/ Đồng Chí Trần Trí Dũng: Bí thư Tỉnh ủy Trà vinh từ năm 2011
đến nay.
Câu 3 : Nêu cảm nghĩ của anh (chị) về thắng lợi của cuộc tổng khởi
nghĩa cách mạng tháng tám năm 1945 ở tỉnh Trà Vinh.
Đáp án:

Cách mạng tháng tám là sự khởi đầu quan trọng trong cuộc chiến giành
chính quyền của nhân dân Trà Vinh. Tỉnh ủy Trà Vinh đã thể hiện được vai
trò là đầu tàu trong chiến lược, nhận định tình hình cục diện, chớp thời cơ,
hòa vào khí thế cách mạng đang sôi sục cả nước vận dụng chiến thuật, chiến
lược đánh vào tâm lý, áp đảo về tinh thần làm cho địch hoang man mất
phương hướng. Biết vận dụng sức mạnh quần chúng làm thế tiên phong cho
lực lượng vũ trang cướp chính quyền. Đây là chiến lược đơn giản nhưng hữu
hiệu, bởi nó phải kết hợp được nhiều yếu tố: dân tộc, tình đoàn kết, tinh thần
cách mạng, đường lối của đảng chính sự kết hợp được các yếu tố trên, đã
tạo ra được bước ngoặc lớn làm nên chiến thắng của cách mạng Trà Vinh.
Thắng lợi của cuộc cách mạng còn thể hiện được tinh thần đoàn kết thắm
thiết của ba dân tộc anh em Kinh – Khmer – Hoa, đây còn là điểm tựa vững

chắc, là niềm tin của nhân dân trước vai trò lãnh đạo của Đảng trên bước
đường đấu tranh vì sự nghiệp cách mạng.

Câu 4 : Ý nghĩa và tầm quan trọng chiến dịch Cầu Kè (từ 07/12/1949 –
16/01/1950)
Đáp án :
Sơ lược chiến thắng lịch sử chiến dịch Cầu Kè.Điển hình là trận La
Bang 16/12/1948 Trận đánh mở màn cho sự phối hợp các lực lượng. Kết quả
ta tiêu diệt đồn La Bang ,diệt và bắt tù binh toàn bộ lực lượng cứu viện của
địch gồm đại đội 1 của tiểu đoàn hỗn hợp Viễn Đông số 1 cùng lực lượng
hiện có ở Cầu Ngang thu toàn bộ vũ khí .Chiến dịch Cầu Kè từ tháng
7/12/1949 đến 16/1/1950,chiến dịch nầy lực lượng của ta đả tiêu diệt 17

đồn , bắn chìm 1 tàu chiến,một tàu chở quân,tiêu diệt gọn tiểu đoàn An Giê
Ri số 1,đánh quị 2 tiểu đoàn khác và một đại đội quân dù,tổng số lính viễn
chinh bị tiêu diệt trên 500 tên,hơn 200 tên bị bắt sống, giải giáp bảo an trên
hàng chục phum, sóc,thu 800 súng .
Ý nghĩa và tầm quan trọng :
Chiến dịch Cầu Kè
Thắng lợi La Bang, Cầu Kè là một mốc son chói lọi của toàn đảng,
toàn quân, toàn dân, tỉnh Trà Vinh trong kháng chiến chống lại các đế quốc
xâm lược hùng mạnh nhất và được truyền đi nhanh chóng trên chiến trường
toàn quốc và làm chấn động dư luận nước Pháp. Đây là thắng lợi to lớn cả
về mặt quân sự lẫn chính trị, là cơ sở để phát triển thế và lực để vượt qua
những thử thách mới chuẩn bị cho tổng phản công của quân và dân ta. Qua

đó, tiếp tục khẳng định năng lực lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc sát
đúng của Đảng ta, của việc tích cực chuẩn bị sức người sức của, của Đảng
bộ và đồng bào các dân tộc Trà Vinh và sự phối kết hợp giữa ba thứ
quân : dân quân du kích,bộ đội địa phương huyện,tỉnh và bộ đội chủ lực
của khu trong cách đánh địch
Câu 5 : Nêu những phong trào đấu tranh chính trị tiêu biểu của đồng
bào các dân tộc Kinh - Khmer – Hoa trong các cuộc đấu tranh chống Mỹ?
Đáp án:
Từ tháng 7/1954 đến tháng 7/1956,đồng bào các dân tộc Trà Vinh
Vẫn nhẫn nại chịu đựng khó khăn vượt qua thử thách,nóng lòng mong đợi
đến ngày tổng tuyển cử thống nhất đất nước,những người thân yêu đi tập kết
trở về đoàn tụ gia đình … Nhưng càng gần đến ngày 20/7/1956,thì Mỹ-

Diệm càng bộc lộ dã tâm thâm độc chiếm miền nam,tuyên bố “ không có
hiệp thương ‘’,hô hào “lấp sông bến hải ‘’, “Bắc tiến “…và kèm kẹp nhân
dân miền nam bằng chế độ độc tài phát xít.lòng dân Trà Vinh sục sôi căm
thù Mỹ-Diệm
Dưới sự lảnh đạo đấu tranh của Tỉnh Ủy ngày 20/7/1956,ở tỉnh lỵ Trà
Vinh nổ ra cuộc đấu tranh quy tụ hơn 10 ngàn người Việt-Khmer -Hoa từ
các huyện trong tình.Từng đoàn người kéo vào nội ô diễu hành trên đường
phố rồi kéo vào dinh tỉnh trưởng đấu tranh hô to các khẩu hiệu kêu gọi đoàn
kết tương thân tương ái,chống bất công, đòi hòa bình hiệp thương tổng tuyển
cử ,chất vấn tỉnh trưởng,đưa yêu sách …Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ
của quần chúng buộc tỉnh trưởng Trà Vinh phải chấp nhận yêu sách.Khí thế
của cuộc đấu tranh nầy đả khích lệ tinh thần đấu tranh của quần chúng trong

toàn tỉnh.Tỉnh ủy Trà Vinh thận trọng,bình tỉnh chỉ đạo và theo dõi sát
phong trào đấu tranh của quần chúng ,kịp thời lãnh chỉ đạo để hướng nội
dung tập trung đòi :dân sinh dân chủ,chống phân biệt đối xử,chống trả thù
người kháng chiến cũ,đòi hòa bình thống nhất đất nước,chống bắt lính,chống
ác ôn hà hiếp nhân dân
Từ ngày 20/7/1956 đến cuối năm 1956 và trong năm 1957,1958 ở
Trà Vinh có hàng trăm cuộc biễu tình đấu tranh diễn ra khắp nơi trên địa
bàn tỉnh,
Nổi bật trong phong trào đấu tranh chính trị của đồng bào Trà vinh
trong năm 1957 là cuộc đấu tranh ở huyện Trà Cú do Acha Lui Sarat đứng
đấu và cuộc đấu tranh ở huyện Châu Thành do ông Ma Ha Sơn Thông phụ
trách theo sự phân công của tỉnh ủy diễn ra tại chùa Sam Rông Ek ( tại xả

Nguyệt Hóa,huyện Châu Thành ) Lực lượng tham gia cuộc đấu tranh nầy là
sư sãi và đồng bào 3 huyện, Tiểu Cần, Cầu Kè, Càng long,cuộc đấu tranh đả
qui tụ sư sãi hơn 70 chùa Khmer trong tỉnh diễn đàn được sáng tạo mang tên
“ Diễn tự do về ngày phật đản 2.500 năm “ nhầm biểu thị ý chí của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Tỉnh Đảng bộ, tạo được thế cô lập ngụy quân,ngụy
quyền.Từ năm 1957 trở đi,ngụy quyền “ tố cộng, diệt cộng “ lên hàng
đầu,tăng cường công cụ bạo lực và các hoạt động tổ chức phản cách
mạng,chĩa mũi nhọn vào Đảng Cộng sản và những người kháng chiến cũ,
Mỹ-Diệm tăng cường quân đội,cảnh sát,bảo an dân vệ…lực lượng quân đội
năm 1959 tăng gấp đôi năm 1957 ( gần 14 ngàn tên ) gom dân lập các “ khu
trù mật “ hòng tách quần chúng khỏi sự lãnh đạo của Đảng
Câu 6 : Lực lượng vũ trang nhân tỉnh Trà Vinh (thời kỳ chống Mỹ) ra

đời trong thời gian nào? ở đâu? Nêu một số chiến công lớn của lực lượng vũ
trang tỉnh Trà Vinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ?
Đáp án:
Câu hỏi nầy rất khó cho người tham gia cuộc thi xác định địa phương tổ
chức thành lập đơn vị lực lượng vũ trang đầu tiên của tỉnh Trà Vinh Vì theo
sách “Tỉnh ũy Trà Vinh hạt nhân lảnh đạo phong trào cách mạng – 70 năm
thắng lợi vẽ vang 1930-2000 xuất bản tháng 4/2002 trang 46 có ghi lại rằng

Ngày 14 tháng 5 năm 1959 tại ấp LA Ghi, xả Long Vĩnh, tỉnh ủy Trà
Vinh có tổ chức lễ ra mắt đơn vị lực lượng vũ trang của tỉnh mang tên “
Tiểu đoàn Cửu Long “ do đồng chí Phan Quốc Hùng (Sáu Hoàng ) Tỉnh ủy
viên phụ trách .Còn theo sách “ Lịch sử Tỉnh Trà Vinh tập 3. 1954-1975

xuất bản năm 2005 trang 58 “ ghi lại rằng .Ngày 14/5/1959 .Tại ấp Láng
Cháo xã Trường Long hòa ,huyện Duyên Hải, Tỉnh ủy Trà vinh tổ chức lễ ra
mắt, còn nội dung các phần sau đều trùng khớp(Tuy mang tên tiểu đoàn
nhưng thực tế đơn vị ra mắt chỉ có một trung đội ,biên chế hai tiểu đội, một
tiểu đội có 10 đồng chí bộ binh và tổ trinh sát có 5 đồng chí ,tổ công trường
có 3 đồng chí,tổ cứu thương có 4 đồng chí …Sau lễ ra mắt đơn vị được giao
nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền tấn công địch và hổ trợ phong trào quần
chúng nổi dậy
Một số chiến công lớn của lực lượng vũ trang tỉnh Trà Vinh trong
công cuộc kháng chiến chống Mỹ
1/ Kế hoạch đồng khởi được phổ biến xuống các xã, ấp vào đêm 13
rạng ngày 14/9/1960, lửa đồng khởi đả bùng lên khắp tỉnh Trà Vinh.Tại Mỹ

Long ,quân và dân Mỹ Long nhất tề đứng lên bằng bạo lực quần chúng ,kết
hợp vũ trang .binh vận thắng lợi vẽ vang –là xả đầu tiên được giải phóng
tỉnh Trà Vinh .cùng với chiến công của Mỹ Long, Hiệp Thạnh , Ngũ Lạc,
Hiệp Mỹ, Long Hữu , ( Cầu Ngang ) Tân An, An Trường, ( Càng Long )
Tam Ngãi , An Phú Tân, Thạnh Phú ( Cầu Kè ) Long Đức , (Châu Thành )
Giải phóng cơ bản các xả tuyến sông hậu của huyện Trà Cú
2/ Đúng 0 giờ ngày 01 tháng 02 năm 1968 ,quân ta nổ súng vào các
mục tiêu trong lúc địch sơ hở mất cảnh giác ,bảo lửa cách mạng đả bùng
cháy lên khắp tỉnh Trà Vinh ,sôi động nhất là địa bàn tỉnh lỵ Đảng bộ,quân
dân Trà Vinh đả tạo được thế bất ngờ về chiến lược vừa tiến công ,vừa nổi
dậy đều khắp vừa tập trung đánh thẳng vào các cơ quan đầu nảo của ngụy
quân ,ngụy quyền ,biến hậu phương địch thành chiến trường ,góp phần phá

sản chiến lược “ chiến tranh cục bộ “ của quân xâm lược Mỹ .Chiến công
của Trà Vinh trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 được Đảng và
nhà nước khen tặng cho Trà Vinh Huân Chương Thành Đồng Hạng Nhất và
lá cờ chiến thắng với tám chữ vàng “ Toàn dân nổi dậy ,đoàn kết lập công “
3/ Nhầm phát huy thế tiến công và nổi dậy ,Tỉnh ủy đả chỉ đạo cho
tỉnh đội tổ chức lực lượng đánh một số trận lớn vào những khu vực chủ yếu
của địch như đánh vào cứ điểm bảo an Cầu Kè .cứ điểm chùa phướng ,(thị
xả Trà Vinh ) trường huấn luyện Ba Se gây cho địch nhiều tổn thất về lực
lượng và phương tiện chiến tranh làm quân địch khó khăn,lúng túng trên địa
bàn tỉnh lỵ
Câu 7 : Tổng công kích, tổng khởi nghĩa chiến dịch Hồ Chí Minh giải
phóng hoàn toàn Trà Vinh vào ngày 30/4/1975 diễn ra như thế nào? Ý nghĩa

của cuộc thắng lợi 30/4/1975?
Đáp án:
Diễn biến tổng công kích, tổng khởi nghĩa chiến dịch Hồ Chí Minh tại
Trà Vinh
Để thực hiện thắng lợi Tổng công kích.Tổng khởi nghĩa mà đỉnh cao
là chiến dịch Hồ Chí Minh tại Trà Vinh tỉnh ủy quyết định thành lập Ban
Chỉ Huy tổng công kích tổng khởi nghĩa tỉnh Trà Vinh gồm các đồng chí
1/ Đ/c Nguyễn Nam ( Năm Ròm ) – Phó Bí thư Tỉnh ủy , chính trị viên
Tỉnh đội làm chỉ huy trưởng
2/ Đ/c Nguyễn Phước Dợt ( Hai Trị) – Tỉnh đội Trưởng làm chỉ huy
phó tổng công kích
3/ Đ/c Nguyễn Thành Triệu ( Hai Tiến ) –Thường vụ Tỉnh ủy làm chỉ

huy phó phụ trách khởi nghĩa
4/ Đ/c Trần Văn Tư ( Tư Tranh ) –Tỉnh ủy viên,Ủy viên
5/ Đ/c Thạch Nhân (Tư Nhân ) – Tỉnh ủy viên - Ủy viên
6/ Đ/c Võ Thị Đào ( Ba Đào ) – Tỉnh ủy viên - Ủy viên
7/ Đ/c Lê Tấn Đạt (Tư Thi ) – tỉnh ủy viên - Ủy viên
Ngày 28/4/1975 là ngày quân dân ta ở Trà Vinh từ các hướng nổ
súng bắt đầu tiến công trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.Thực hiện tổng
công kích tổng khởi nghĩa tỉnh đả huy động một lực lượng quân sự khoảng
2.500 quân của tỉnh và các huyện với một lực lượng tương đương với
địch,du kích xã ấp và một lực lượng quần chúng to lớn trên 150.000 người
nổi dậy tiến công đánh bại quân thù giải phóng tỉnh lỵ Trà Vinh
Diễn biến ngày 30/4/1975

Đúng 0 giờ 5 phút ngày 30/4/1975, đại đội đặc công dùng bộc phá
tấn công mục tiêu then chốt trận địa pháo sân bay của địch. Sự phát hỏa nầy
đồng thời là hiệu lệnh toàn mặt trận. Sau khi nổ bộc phá, đại đội đặc công
triển khai lực lượng nổ súng tấn công thọc sâu vào trung tâm trận địa đánh
trúng kho đạn cháy nổ làm quân ta bị thương vong ( bị thương 6, hy sinh 3 ).
Quân địch cố thủ tại một góc trận địa chống trả quyết liệt
Sở chỉ huy tiền phương lệnh cho đồng chí Chín Hải tập trung hỏa
lực quyết đánh diệt và chiếm cho được trận địa pháo trong đêm, với tinh
thần chiến đấu ngoan cường mặc dù bị thương rất nặng đồng chí Chín Hải
vẫn ngoan cường không rời tay súng kiên quyết bám trận địa và anh dũng hy
sinh. Trận chiến đấu giằng co quyết liệt, hai bên giành giật từng tấc đất trên
trận địa pháo. Trước khí phách ngoan cường của quân ta, quân địch ở đây sa

sút tinh thần, tìm đường trốn chạy
Tại khu vực sân bay, đại đội trinh sát nhanh chóng đánh chiếm đồn
bảo an và chuyễn hướng tấn công kho đạn hỏa tiển. Một số binh sĩ địch ở
đây thương vong số còn lại tìm đường thoát thân . Kho đạn hỏa tiễn nổ tung,
lửa sáng bừng một góc trời, toàn bộ lính địch trong hệ thống lô cốt bảo vệ
sân bay hoảng hốt tháo chạy. Đại đội trinh sát làm chủ mục tiêu sân bay
Tại hướng chủ yếu đội xung kích của tiểu đoàn 501 đã diệt gọn 2 lô
cốt tiền tiêu của địch trong những phút đầu tiên, mở cửa cho đội hình toàn
tiểu đoàn tiến sâu vào các mục tiêu gần Dinh Tỉnh trưởng (100 m). Trên
đường tiến vào các mục tiêu, lực lượng tiểu đoàn 501 giao chiến với tiểu
đoàn bảo an 470 của địch, đánh thiệt hại nặng 1 đại đội của tiểu đoàn này và
tiêu diệt 6 lô cốt ở các khu vực ngã ba, ngã tư. Cũng trên hướng chủ yếu ,lực

lượng tiểu đoàn 4 dùng hỏa lực kềm chế các lô cốt địch để bộ binh nhanh
chóng tiến công các cừ điểm, đánh bật một đại đội của tiểu đoàn bảo an 470
sang khu vực Tiệm Rượu .Quân ta tiếp tục tiến thẳng khu vực Ty thuế vụ,
Ty Công chánh cách Dinh Tỉnh trưởng (80m). Đại đội 67 bộ đội thị xã băng
qua cầu Tiệm Tương tiến về mục tiêu Nhà Đèn và cầu Long Bình .Trên
đường tiến quân lực lượng nầy đọ súng quyết liệt với đơn vị thám báo của
địch, Hai bên giành giựt nhau từng đoạn đường, góc phố trên đường
Calmette và quân ta làm chủ khu vực garare
Trên hướng thứ yếu, tiểu đoàn 509 chia thành hai mũi tiến quân từ
Tri Tân xuyên vào nội ô thị xã trong đêm. Trên đường tiến quân một mũi
gặp 2 đại đội thuộc tiểu đoàn bảo an 404 và đơn vị hành chánh tiếp vận của
địch. Một mũi khác phối hợp với đại đội công an vũ trang kết hợp nội tuyến

bức hàng đồn Tri Tân B, diệt 1 lô cốt và đánh tan 1 đại đội thuộc tiểu đoàn
404 của địch trên đường Tri Tân A, sau đó phối ho85p với đại đội Công an
võ trang đánh vào lô cốt 1 tại Ngã Ba Rạp Hát. Đến 4 giờ sáng toàn bộ khu
vực Tri Tân A ,Tri Tân B và Tầm Phương được giải phóng, quân ta tiếp cận
bao vây ổ đề kháng của địch trên cao điểm Rạp Hát đến 10 giờ 30 phút dùng
3 mũi giáp công bức hàng, bức rút lực lượng nầy
Khu vực trường tiểu học và trại lính bảo an bình định cuộc chiến
đấu giữa ta và địch diễn ra ác liệt. Đến 6 giờ sáng, bộ binh với 3 xe bọc thép
của địch phản kích điên cuồng
Lực lượng du kích và quần chúng Long Đức bức hàng 7 đồn. Đến 10
giờ bọn địch treo cờ trắng đầu hàng. Tiếp tục ta chiếm căn cứ vàm Trà Vinh
bắt sống toàn bộ tiểu đoàn 472 thu 800 súng và toàn bộ quân trang quân

dụng.
Cùng đêm này, ở Đa Lộc-Châu Thành ta kết hợp vũ trang và quần
chúng nổi dậy vây bức đồn Điệp Thạch,giải phóng ấp Điệp Thạch-Tâm
Phương nối liền ấp Tri Tân
Trên hướng tiến quân Tiểu đoàn 512 tiến đánh vào khu vực hậu cần
hành chánh tiếp vận và trận địa pháo tiểu khu nhưng bị địch ở trường huấn
luyện và hậu cứ pháo binh địch chống cự ,chiến trận diễn ra giằng co quyết
liệt quân ta không tiến được vào mục tiêu .Tiểu đoàn 512 trụ lại khu vực Mã
Tiền tổ chức truy quét địch ,đuổi quân địch chạy khỏi các đồn Mả Tiền,Chùa
Chim, Sóc Thác- ta giải phóng khu vực nầy
Đại đội 67 tiến quân cập sông Long Bình đánh vào mục tiêu thám báo
Nhà Đèn, địch chống trả quyết liệt, quân ta triển khai đội hình làm chủ khu

vực garare
Tiểu đoàn 5 tiến đánh bứt rút các đồn tuyến sông Long Bình ( phường
5) chiếm lli4nh tuyến cầu Long Bình, bị bọn thám báo án ngữ, quân ta
không vượt được qua cầu
Trước sức tiến công của quân ta ,tên Tỉnh trưởng Vĩnh Bình, Nguyễn
Văn Sơn đả hoang mang liên tục kêu gọi vùng 4 chiến thuật chi viện . Bộ tư
lệnh vùng 4 chiến thuật ra lệnh cho tỉnh trưởng Vĩnh Bình phải tử thủ. Đến 6
giờ sáng địch kết hợp bộ binh và 3 xe bọc thép phản kích,tiểu đoàn 501 chặn
đánh buộc chúng phải dừng lại ngã ba đường Cây Me- Trại giam . Thế trận
giằng co giữa ta và địch trên các mục tiêu trong nội ô
Đến khoảng 9 giờ 30 phút sở chỉ huy tiền phương nhận được tin Tổng
Thống Sài Gòn Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng cách mạng. Chỉ huy

trưởng Tổng Công kích Tổng khởi nghĩa kịp thời điện báo cho đồng chí Hai
Trị chỉ huy trực tiếp mặt trận và dùng máy thông tin kêu gọi Tỉnh trưởng
Nguyễn Văn Sơn đầu hàng và yêu cầu tên nầy ra lệnh cho các đơn vị ngụy
quân, các quận trưởng đấu hàng cách mạng
Chỉ huy trưởng Tổng công kích. Tổng khởi nghĩa lệnh cho đồng chí
Năm Thanh đang chỉ huy cánh quân tiểu đoàn 509 và bộ phận chỉ đạo mũi
khởi nghĩa phát động lực lượng quần chúng xuống đường tiến công làm tan
rã địch ; đồng thời chỉ đạo cho đồng chí Võ Văn Triệu ( Hai Tiến) nhanh
chóng đưa lực lượng vào tiếp quản thị xã
Trước khí tế tiến công Và đòn cân não của lực lượng vũ trang binh sĩ
ngụy buông súng đầu hàng lột quần áo lính mặc thường phục,trong đó có tên
thiếu tá Huỳnh Cao Phẩm ở Ty an ninh ngụy mặc thường phục cùng vợ chạy

trốn ,Đồng chí Nguyễn Thành Trạng tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 4 vận động
tên Phẩm trở lại Ty cảnh sát kêu gọi đồng bọn đầu hàng
Tên trung Tá Nguyễn Văn Sơn tỉnh trưởng Vĩnh Bình cho xe chạy ra
sân bay kêu gọi vùng 4 chiến thuật đưa trực thăng đến để giúp hắn tẩu
thoát .Tên Sơn bị đồng chí Út Danh đại đội trưởng đơn vị đặc công phát hiện
chặn lại,trong khi đó trực thăng địch lượn vòng bầu trời thị xã bị quân ta bắn
trả không hạ cánh được cuối cùng tên Sơn phải trở lại Dinh tỉnh trưởng .
Đồng chí Lư Quang Hiểu theo lệnh của đồng chí Tư Tranh mượn 1 chiếc xe
jeep của tiệm cưa Quảng Hưng Long cắm cờ mặt trận dân tộc giải phóng
miền nam việt Nam chở 5 vị sư trong đó có nhà sư Sara vào tòa hành chính
trực tiếp kêu gọi tên tỉnh trưởng Nguyễn Văn Sơn đầu hàngvà đưa hắn ra
chùa phướng . tại đây đồng chí Tư Tranh bắt tên Sơn viết lời đầu hàng,ngồi

xe chạy khắp nơi trong thị xã kêu gọi toàn bộ binh lính ngụy ở Trà Vinh
buông súng đầu hàng cách mạng
Ban chỉ huy gồm đồng chí Nguyễn Trường Thọ (Năm Ròm) và các
đồng chí Nguyễn Phước dợt ( Hai Trị ) Lê Tấn Đạt ( Tư Thi ) Dương Nghĩa
Hiệp ( Hai Hiệp ) Phạm Minh Hậu ( Tư Hậu ) Nguyễn Ngọc Thảo ( Bảy Đấu
) và Lê Chí Linh ( Ba Linh ) cùng lực lượng ta tử cầu Long Bình tiến theo lộ
Lý Thái Tổ (nay là Hùng Vương) vào Dinh tỉnh trưởng còn ở trong Dinh lúc
nầy còn tên đại úy Ri (xử lý thường vụ ) ra cổng đón các chỉ huy quân đội
cách mạng và mời vào Dinh
Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 lá cờ mặt trận dân tộc giải
phóng miền nam Việt Nam được tung bay trước Tòa hành chánh và Dinh
tỉnh trưởng ,thị xã Trà Vinh được giải phóng cùng lúc với giải phóng Sài

Gòn
Tại sở chỉ huy cơ bản ,đồng chí Nguyễn Văn Tiết ( Ba Trắng) , Bí
thư tỉnh ủy dùng máy bộ đàm theo dõi tình hình và kịp thời chĩ đạo các
huyện chớp thời cơ tiến công tranh thủ dứt điểm giải phóng huyện

Đến 15 giờ 30 phút 30/4/1975 , cuộc mít tinh đông đảo quần chúng
tham gia mừng chiến thắng tổ chức ngay tại sân dinh tỉnh trưởng ,thay mặt
Tỉnh ủy và Ủy và ủy ban Quân quản đồng chí Nguyễn Nam ( Năm Ròm )
đọc diễn văn tuyên bố ngụy quân ngụy quyền ở Trà Vinh đả đầu hàng, chính
quyền đã về tay nhân dân và chúc mừng đồng bào,chiến sĩ nhân ngày chiến
thắng vĩ đại
Chiến thắng 30/4/1975 Trà Vinh được hoàn toàn giải phóng lục

lượng ta có 43 đồng chí anh dũng hy sinh và 126 dđồng chí khác bị thương,
trong đó có 1 đồng chí tỉnh đội phó và1chính trị viên tiểu đoàn .Máu các
đồng chí đả đổ xuống ngay giờ phút cuối cùng vì chiến thắng vinh quang
cho dân tộc .Máu các đồng chí mãi thấm sâu vào lòng đất ,tô thằm cho màu
cờ tổ quốc .chiến thắng vĩ đại nầy đã để lại cho đương thời và hậu thế một di
sản không gì so sánh được.
Ý nghĩa cuộc thắng lợi
Giải phóng Trà Vinh góp phần giải phóng hoàn toàn miền nam
thống nhất tổ quốc,chấm dứt sự xâm lược hơn 20 năm của đế quốc mỹ trên
đất nước ta đả nói lên cuộc chiến đấu vì chính nghĩa, vì độc lập, tự do,mà
nhân dân Việt Nam anh hùng đả toàn thắng .Trong đó có sự chiến đấu ngoan
cường của toàn đảng ,toàn quân,toàn dân Trà Vinh một lòng theo đảng

“Thà hy sinh tất cả để tổ quốc quyết sinh” đã góp phần hoàn thành cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc ở miền nam,thống nhất Tổ quốc
Sau giải phóng tỉnh nhà,đảng bộ và quân dân Trà Vinh được nhà
nước khen tặng Huân chương Tổ quốc và tuyên dương đơn vị anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân
Câu 8 : Anh ( chị ) cho biết tỉnh Trà Vinh có bao nhiêu liệt sĩ? bao
nhiêu bà mẹ Việt Nam anh hùng? bao nhiêu địa phương, đơn vị anh hùng
lực lượng vũ trang? (tính đến thời gian cuối năm 2011). Hãy kể tên 10 đơn
vị và cá nhân anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân mà anh (chị) biết?
Đáp án :
- Qua cuộc 02 cuộc đấu tranh kháng chiến chống Pháp, Mĩ giành độc
lập tự do cho tổ quốc. Đến nay theo số thống kê năm 2011 của Sở Lao động

– Thương binh và Xã hội, hiện nay tỉnh Trà Vinh đã có 19.624 liệt sĩ và 987
bà mẹ Việt Nam anh hùng đã được vinh danh.
- Toàn tỉnh có 39 địa phương, đơn vị được vinh danh anh hùng lực
lượng vũ trang, cụ thể như sau:
1/ Huyện Càng Long: Có 8 địa phương là: Dân quân du kích xã An
Trường, Huyền Hội, Bình Phú, Nhị Long, thị trấn Càng Long, Lực lượng vũ
trang nhân dân xã Mỹ Cẩm, Tân An, Đại Phước.
2/ Huyện Cầu Ngang: Có 5 địa phương gồm: Dân quân du kích xã
Hiệp Mỹ, Mỹ long, Lực lượng vũ trang nhân dân xã Long Sơn, Nhị Trường,
thị trấn Cầu Ngang.
3/ Huyện Duyên Hải: Có 6 địa phương gồm: Dân quân du kích xã
Trường Long Hòa, Lực lượng vũ trang nhân dân xã Long Vĩnh, Long Toàn,

Ngũ Lạc, Long Hữu, xã Hiệp Thạnh.
4/ Thành phố Trà Vinh: Có 1 địa phương là Dân quân du kích xã
Long Đức.
5/ Huyện Cầu Kè: Có 6 địa phương là: Dân quân du kích xã Thông
hòa và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Tam Ngãi, An Phú Tân, Châu Điền,
Ninh Thới, Thạnh Phú.
6/ Huyện Châu Thành: Có 5 địa phương là Lực lượng vũ trang nhân
dân xã Song Lộc, Lương Hòa, Thanh Mỹ, Hưng Mỹ, trong đó xã Song Lộc
được truy tăng 02 lần.
7/ Huyện Trà Cú: Có 4 địa phương gồm: Dân quân du kích xã An
Quãng Hữu và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Đại An, Long Hiệp, Lưu
Nghiệp Anh.

8/ Huyện Tiểu Cần: Có 4 địa phương là Dân quân du kích xã Hùng
Hòa, Tập Ngãi và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Tân Hòa, thị trấn Tiểu
Cần.
- Các đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang:
1/ Tiểu đoàn 501 tỉnh Trà Vinh.
2/ Tiểu đoàn 1 đoàn 9901.
3/ Tiểu đoàn 3 đoàn 9901.
4/ Tiểu đoàn 4 đoàn 9901.
5/ Công an huyện Cầu Ngang.
6/ Đội An Ninh Công An tỉnh Trà Vinh.
7/ Đội Trinh Sát Công An tỉnh Trà Vinh.
8/ Phòng Điều Tra Công An tỉnh Trà Vinh.

9/ Phòng Hình Sự tỉnh Công An tỉnh Trà Vinh.
10/ Đoàn quân sự 9901 MT 979.
- Các cá nhân anh hùng lực lượng vũ trang nhân:
1/ Lê Văn Bé.
2/ Nguyễn Thị Trường.
3/ Lâm Sắc.
4/ Đặng Văn Bé.
5/ Nguyễn Thị Út.
6/ Tô Thị Huỳnh.
7/ Kiên Thị Nhẫn.
8/ Hồ Thị Nhâm.
9/ Lê Thanh Mừng.

10/ Nguyễn Văn Cống.
Câu 9 : Hãy nêu những thành tựu chủ yếu về kinh tế - xã hội, an ninh –
quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị của tỉnh Trà Vinh từ năm 1992 đến
năm 2010?
Đáp án:
Thực hiện nghị quyết Tỉnh Đảng bộ Trà vinh lần thứ V ( 1992 –
1995 )
Giai đoạn (1992 - 1993) Qua 2 năm thực hiện đạt những kết quả sau:
Về kinh tế: đã khắc phục được một bước hậu quả thiên tai, chặn đứng
sự sa sút lương thực, đời sống nhân dân đã từng bước ổn định, cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội được nâng cấp, xây dựng mới tương đối khá.
Trong 2 năm 1992 - 1993 bị mất mùa 3 vụ liên tiếp nhưng nhịp độ tăng

trưởng GDP bình quân đạt 3.1% riêng năm 1993 tăng 8.38% so với năm
1992. So với trước khi tách tỉnh diện tích lúa tăng vụ năm 1993 tăng 14.21%
diện tích màu tăng 23.52%
Phong trào nuôi trồng thủy sản trong nhân dân bước đầu phát triển đặc
biệt nuôi tôm sú năm 1993 tăng gấp đôi năm 1992 góp phần tăng thu nhập
và cải thiện đời sống của gần 1000 hộ dân trong tỉnh.
Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp năng lực sản xuất được tăng
cường nhất là công nghiệp chế biến (gạo xuất khẩu, tôm đông lạnh, nước
mắm, hột vịt muối …) một số sản phẩm truyền thống được khôi phục lại (tơ
xơ dừa, dệt chiếu…) dịch vụ phát triển khá nhanh ở địa bàn thị xã, huyện lỵ
và tụ điểm giao lưu hàng hóa ở nông thôn, giá trị mới tạo ra năm 1993 tăng
8.8% so với năm 1992.

Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tiếp tục được phát huy. Cơ sở hạ
tầng được cải tạo và xây dựng mới đáng kể. Giao thông tương đối dễ dàng
hơn, mạng lưới điện nước được cải tạo một bước 11 xã có điện lưới quốc gia
xây dựng hệ thống tổng đài điện tử cho tỉnh, huyện, 13% số xã trong tỉnh có
mạng lưới điện thoại.
Văn hóa xã hội được cải thiện một bước địa bàn thị xã và nông thôn,
đầu tư và sửa chửa 690 phòng học giảm bớt lớp học 3 ca.
Tạo điều kiện sản xuất và công ăn việc làm cho người lao động, giải
quyết cứu tế, khai thác nhiều nguồn vốn đầu tư cho hộ nghèo vay, giải quyết
việc làm cho 136.000 lao động, xóa đói cho gần 6.400 hộ và giảm được
4.360 hộ nghèo. Đồng thời chỉ đạo cho các ngành chức năng tranh thủ các
dự án đầu tư nước ngoài xây dựng thêm 1.000 giếng khoan nâng tổng số lên

2.971 giếng khoan cung cấp nước sạch phục vụ bà con vùng nông thôn sâu,
vùng đồng bào Khmer, đáp ứng một phần nhu cầu nước sạch cho nhân dân
trong tỉnh.
Lúc mới tách tỉnh tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội có
nhiều diễn biến phức tạp nhưng do thường xuyên lãnh đạo đề cao ý thức
cảnh giác cách mạng và tinh thần sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang
nhân dân trong tỉnh và phát triển lực lượng dân quân tự vệ, phong trào quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân phát triển khá góp phần hạn chế được tệ
nạn xả hội, tội phạm hình sự. Cơ bản giữ vững ổn định chính trị và trật tự an
toàn xả hội.
Từng bước xây dựng và củng cố hệ thống chính trị, Tỉnh ủy đã chỉ đạo
sắp xếp tổ chức bộ máy từng bước vào hoạt động ổn định. Sau 2 năm tỉnh đã

thực hiện chuyển huyện thị thành cấp dự toán ngân sách gắn với sắp xếp lại
bộ máy Đảng chính quyền đoàn thể cấp tỉnh, huyện tinh gọn. Bắt đầu triển
khai sắp xếp các chức danh trong bộ máy xã, phường theo nghị định số
09/1998/NĐ-CP của Chính phủ.
Cuối năm 1993 toàn tỉnh có 112 tổ chức cơ sở Đảng được công nhận
trong sạch vững mạnh đạt 32% có 207 tổ chức cơ sở đảng vững mạnh từng
mặt, đạt 60 %.
Giai đoạn (1994 - 1995)
Để hoàn thành nghị quyết đại hội V tỉnh đảng bộ cần tập trung 2 năm
còn lại 1994 – 1995.
Kinh tế tăng trưởng khá, cơ sở hạ tầng được tăng cường một bước;
tổng sản phẩm nội địa GDP bình quân đạt mức tăng trưởng 8.45% riêng năm

1995 đạt trên 10%. Cơ cấu kinh tế địa phương chuyển dịch theo hướng giảm
tỉ trọng nông nghiệp tăng tỉ trọng giá trị công nghiệp. Ngân sách nhà nước ở
địa phương tuy chưa cân đối thu chi nhưng củng đã tăng đáng kể so với năm
1992.
Với chủ trương tự lực, tự cường, động viên nhân dân tiết kiệm trong
tiêu dùng tập trung vốn đầu tư cho sản xuất nên nguồn vốn đầu tư phát triển
toàn xả hội bình quân hằng năm tăng 23.15% trong đó vốn huy động chiếm
66.5%. Đã thực hiện một bước công nghiệp hóa nông - ngư nghiệp và kinh
tế nông thôn. Đến năm 1994 sản xuất lúa tăng cả về diện tích gieo trồng
năng xuất và sản lượng. Năm 1995 đạt 732.000 tấn lúa vượt chỉ tiêu đại hội
đề ra là 28.000 tấn. Diện tích trồng màu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây
thực phẩm, cây ăn trái, tỉ trọng chăn nuôi đều tăng hơn giai đoạn 1992 -

1993. Phát triển khai thác đánh bắt hải sản xa bờ và chuyển dần sang khai
thác hải sản có giá trị cao. Phát triển nuôi tôm sú với các mô hình đa dạng
(cua, nghêu, cá ) nuôi tôm càng xanh và sản xuất tôm sú tại chỗ góp phần
cung ứng giống cho người nuôi tôm sú giảm chi phí đáng kể.
Dịch vụ phát triển tương đối mạnh giá trị dịch vụ tăng bình quân
12.45%/năm . kinh tế đối ngoại đạt kết quả bước đầu, đã có hai dự án hợp
tác đầu tư được cấp phép triển khai thực hiện, tranh thủ được nhiều nguồn
vốn viện trợ nhân đạo và vốn vay nước ngoài để đầu tư phát triển kinh tế -
xã hội, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân tăng 13.65%.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần phát huy tác dụng rõ nét thúc đẩy kinh
tế tăng trưởng, doanh nghiệp nhà nước tăng thêm 14 đơn vị, hầu hết bố trí ở
lĩnh vực then chốt của kinh tế địa phương, một số đơn vị thích ứng kinh tế

thị trường. Hộ nông dân được khẳng định là đơn vị kinh tế tự chủ, tỉnh chỉ
đạo các địa phương giao đất giao rừng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho nhân dân.
Nhiều công trình thủy lợi đã được ngăn mặn ở vùng lúa trọng điểm,
mở rộng các trạm truyền tải điện, cải tạo lưới điện, các huyện và xã có điện,
tăng thêm 16 xã có điện lưới quốc gia nâng tổng số có 53/82 xã, phường, thị
trấn có điện, gần 13% số hộ được sử dụng điện.
Thông tin liên lạc được hiện đại hóa một bước 100% hệ thống xã,
phường đã được trang bị hệ thống điện thoại, số hộ sử dụng điện tăng gấp 7
lần so với năm 1992, đáp ứng nhu cầu thông tin cho sản xuất kinh doanh các
thành phần kinh tế.
Đến năm 1995 giải quyết việc làm cho trên 100.000 lao động phố

thổng, tình trạng thiếu việc làm và tỷ lệ hộ nghèo đói giảm, số hộ khá giả
tăng lên.
So với năm 1992 có bước phát triển rõ nét, cơ bản giữ vững ổn định
chính trị và trật tự an toàn xã hội. Lực lượng vũ trang thường trực được xây
dựng bảo đảm gọn và nhanh, lực lượng dự bị động viên dân quân tự vệ, công
an nhân dân phát triển đủ mạnh để giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội các loại tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội đã được truy quét làm trong
sạch địa bàn.
Hệ thống chính trị của tỉnh được chấn chỉnh đổi mới từng bước đi vào
hoạt động ổn định, sắp xếp bộ máy tinh gọn nâng cao bước hiệu lực và hiệu
quả, bước đầu thực hiện cải cách hành chính phát huy được vai trò chức
năng quyền hạn của cơ quan, thể hiện được quyền làm chủ của nhân dân.

Thực hiện đổi mới và chỉnh đốn đảng, Đảng bộ đã thành lập 07 Đảng
đoàn và 23 ban cán sự đảng ở các cơ quan dân cử các đoàn thể chính trị đảng
bộ chỉ đạo sắp xếp tinh gọn theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tổ chức cơ
sở đảng trong sạch vững mạnh ngày càng tăng trong 4 năm 1992 - 1995 phát
triển thêm 2.749 đảng viên nâng toàn tỉnh có 11.486 đảng viên.
Qua 4 năm thực hiện nghị quyết đại hội lần thứ V của tỉnh đảng bộ
nhất là 2 năm 1994 - 1995 đời sống vật chất và tinh thần nhân dân trong tỉnh
được nâng lên một bước bộ mặt nông thôn đổi mới đáng kể, giao thông,
điện, nước sinh hoạt, đầu tư xây dựng mới ngày càng tăng lên.
Thực hiện nghị quyết tỉnh Đảng bộ Trà Vinh lần thứ VI (1996-
2000 )
Qua 5 năm thực hiện nghị quyết tỉnh đảng bộ Trà Vinh lần thứ VI đả

đạt những thành tựu sau:
Kinh tế đã khắc phục tình trạng tụt hậu và từng bước đưa tỉnh nhà phát
triển đi lên. Giá trị tổng sản phẩm nội địa bình quân hàng năm đều tăng đạt
8.87% / năm. Tạo thêm năng lực sản xuất mới thực hiện công nghiệp hóa
hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn đạt kết quả bước đầu, cơ cấu
kinh tề chuyển dịch bộ mặt đô thị và nông thôn được đổi mới. Thực hiện xóa
đói giảm nghèo đã giải quyết việc làm cho khoảng 60.000 lao động có việc
làm và hơn 100.000 lao động thiếu việc làm, hộ nghèo thu nhập dưới
60.000đ/người/tháng từ 17.88% giảm xuống còn 7.58% thu nhập, bình quân
đầu người trong tỉnh từ 2.535.000đ năm 1995 tăng lên 4.514.000 đ vào năm
2000.
Hiệu quả các công trình dự án Nam Măng Thít phát huy được tác

dụng, vận động nhân dân làm công tác thủy lợi nội đồng, quản lý dịch hại
tổng hợp đạt kết quả khá cao. Do đó đã tăng nhanh diện tích đất sản xuất
nông nghiệp và sản lượng lúa từ 732.000 tấn năm 1995 lên 1 triệu tấn lúa
năm 2000.
Nghề nuôi trồng thủy sản theo mô hình công nghiệp và bán công
nghiệp hiệu quả tốt. Nhiều hộ gia đình nhờ vào đầu tư nuôi tôm sú, nuôi cua,
nghiêu … thoát nghèo vượt lên khá giàu.
Song song phát triển sản xuất nông – ngư nghiệp lĩnh vực phát triển
công nghiệp của tỉnh đã tăng đáng kể so với năm 1995. Khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh phát triển khá mạnh từ 2.751 cơ sở năm 1992 tăng lên
5.630 cơ sở năm 1999.
Ở địa bàn thành phố Trà Vinh, thị trấn dịch vụ phát triển khá mạnh

nhất là dịch vụ thương mại, phục vụ sản xuất nông, ngư nghiệp, thông tin
liên lạc, tín dụng, bảo hiểm, vận tải, từng bước phục vụ nhu cầu sinh hoạt
của người dân. Bước đầu tỉnh đã có hướng phát triển dịch vụ và du lịch.
Thực hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn mặc dầu tỉnh còn gặp
nhiều khó khăn nhưng rất quan tâm thực hiện chính sách xã hội, nhất là đối
với những gia đình có công trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng quê
hương, đất nước. Nên những năm qua Tỉnh ủy đã thực hiện tốt các chính
sách xã hội, giải quyết kịp thời các chế độ trợ cấp thường xuyên, nâng cấp
nghĩa trang liệt sĩ, xây nhà bia tưởng niệm, vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa
trên 1 tỷ đồng, xây dựng 884 nhà tình nghĩa nhà tình thương, cấp sổ bảo
hiểm cho các đối tượng chính sách gia đình có công cách mạng. Tất cả bà
mẹ Việt Nam anh hùng còn sống đều được các cơ quan ban nghành nhận

phụng dưỡng suốt đời.
Thế trận an ninh nhân dân, quốc phòng toàn dân được cũng cố và tăng
cường , luôn chủ động phát hiện và đấu tranh vô hiệu hóa những hoạt động
phá hoại, phá rối an ninh trật tự và an toàn xả hội, tấn công và truy quét các
loại tội phạm, góp phần làm trong sạch địa bàn. Cảnh giác và triệt để chống
mọi âm mưu, thủ đoạn “ diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Nhiều
vụ tranh chấp khiếu kiện được giải quyết, hạn chế những vụ việc có tính
phức tạp trong dân tộc tôn giáo. Lực lượng quân sự, bộ đội biên phòng, công
an trong tỉnh được xây dựng theo hướng trong sạch, từng bước chính qui và
hiện đại.
Hệ thống chính trị được nâng cao và xây dựng theo hướng trong
sạch vững mạnh thực hiện chính sách cải cách hành chính tiến tới một cửa

một dấu ở một số địa phương và ban nghành đem lại hiệu quả. Đội ngũ cán
bộ, công chức của tỉnh từng bước được kiện toàn và có kỹ năng thái độ làm
việc ngày càng tốt hơn. Việc thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở các địa
phương chú tâm với phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Đa số đảng viên có phẩm chất đạo đức tốt. Số cơ sở đảng trong sạch
vững mạnh ngày càng tăng từ 59.26% năm 1995 lên 78.10% năm 1999. Có
4 đảng bộ cấp trên trực tiếp cơ sở được công nhận đảng bộ trong sạch vững
mạnh năm 1997,.Số đảng viên đủ tư cách được phát huy tác dụng đạt 82%
bồi dưỡng và phát triển mới 5.722 đảng viên (nâng tổng số đảng viên đến
nay hơn 17.000 đồng chí).
Thực hiện nghị quyết đại hội tỉnh đảng bộ Trà Vinh nhiệm kỳ VII
(2001- 2005)

Tổng kết thực hiện nghị quyết đại hội tỉnh đảng bộ lần thứ VII nhiệm
kỳ 2001-2005 đạt những thành tựu sau:

×