Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Vận dụng bản đồ tư duy vào một số tiết dạy kiểu bài nói, viết theo chủ điểm ở phân môn tập làm văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 17 trang )








SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY
VÀO MỘT SỐ TIẾT DẠY KIỂU
BÀI NÓI, VIẾT THEO CHỦ ĐIỂM
Ở PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
LỚP 3



A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Môn Tiếng Việt ở lớp 3 thống nhất với mục tiêu chung của Chương
trình Tiếng Việt toàn cấp học là :
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt
(nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt
động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học môn Tiếng Việt, góp phần
rèn luyện các thao tác của tư duy.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và
những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn
học của Việt Nam và của nước ngoài.
- Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tập làm văn là phân môn thực hành và rèn luyện tổng hợp bốn kỹ


năng nghe – nói - đọc viết, có tính chất tích hợp các phân môn khác trong
môn Tiếng Việt. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một
văn bản nói hoặc viết.
Ngôn ngữ là công cụ để phát triển tư duy. Chính vì vậy hướng dẫn
cho học sinh nói đúng, viết đúng, rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ là
hết sức cần thiết. Nhiệm vụ đó phụ thuộc phần lớn vào việc dạy - học Tiếng
Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.
Trong chương trình Tập làm văn lớp 3, kiểu bài Nói, viết theo chủ
điểm rèn luyện cho học sinh kĩ năng nói, viết, đồng thời cũng tạo điều kiện
cho các em củng cố những hiểu biết về phạm vi hiện thực được phản ánh
trong chủ điểm học tập.
Năm học 2011 – 2012 thực hiện giảm tải một số nội dung ở một số
môn học, bài học, trong đó có phân môn Tập làm văn lớp 3. Ở các tuần 11,
14, 16, không yêu cầu làm các bài tập nghe - kể (Bài tập1), giành thời gian
cho hoạt động nói theo chủ điểm (Bài tập2); tuần 31, không yêu cầu làm
bài tập 2, giành thời gian cho hoạt động nói về bảo vệ môi trường ở bài tập
1. Với thời lượng 40 phút cho một hoạt động nói theo chủ điểm, đó là điều
kiện thuận lợi để giúp học sinh rèn kĩ năng nói, nhiều học sinh được tham
gia trình bày trước lớp.


Bản đồ tư duy còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, … là hình
thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý
chính của một nội dung, hệ thống hoá một chủ đề… bằng cách kết hợp việc
sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết. Đặc điểm tâm sinh lí học
sinh Tiểu học thường dễ thuộc nhưng chóng quên, các em thường ghi nhớ
nhanh nhờ vào quan sát hình ảnh sống động, nhiều màu sắc. Để giúp các
em tiếp cận được với tri thức của nhân loại đòi hỏi người giáo viên phải đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của
học sinh. Thay đổi từ việc dạy cho học sinh kiến thức là chính chuyển sang

dạy cho học sinh cách học là chính. Làm thế nào để học sinh nói, viết được
đoạn văn theo chủ điểm đúng yêu cầu đặt ra, đạt được mục tiêu của môn
học? Để đạt được hiệu quả dạy học, qua tìm hiểu tài liệu, theo dõi trên các
trang web dạy học, tôi mạnh dạn vận dụng bản đồ tư duy vào một số tiết
dạy kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm ở phân môn Tập làm văn lớp 3.

B. NỘI DUNG
Trong quá trình dạy một tiết Tập làm văn, để đạt mục tiêu đề ra bên
cạnh việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên, học sinh cần phải có
vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế. Học tốt Tập làm văn sẽ giúp
học sinh học tốt các môn học khác đồng thời giáo dục các em những tình
cảm lành mạnh, trong sáng; rèn luyện khả năng giao tiếp và góp phần đắc
lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của Tiếng việt, hình thành
nhân cách con người Việt Nam.
I. THỰC TRẠNG:
1. Thuận lợi:
Với kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm, để tạo điều kiện thuận lợi cho
học sinh, SGK thường đưa ra những đề tài gần gũi với các em và những đề
tài ấy thường cũng là đề tài mở.
Giáo viên luôn không ngừng học hỏi, đổi mới phương pháp dạy học,
lựa chọn và tổ chức những hình thức luyện tập phù hợp mục tiêu dạy và
học để dẫn dắt rèn luyện học sinh thực hành những bài văn nói – viết một
cách độc lập, sáng tạo.


Để giúp học sinh viết được những bài văn hay, ý tưởng phong phú,
sáng tạo giáo viên luôn chú trọng rèn kĩ năng nói cho học sinh vì học sinh
nói tốt sẽ trình bày bài viết tốt.
Học sinh đã nắm vững kiến thức, kĩ năng từ các lớp dưới. Đây là cơ
sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn lớp ba.

2. Khó khăn:
Tập làm văn là phân môn khó so với các phân môn khác của môn
Tiếng Việt, vì vậy việc dạy – học ở phân môn này có những hạn chế nhất
định.
Trong việc rèn kĩ năng nói-viết cho học sinh, giáo viên có đầu tư
nghiên cứu mục tiêu các tiết dạy để lựa chọn các phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp từng đối tượng học sinh, nhưng sự
đầu tư chưa sâu nên hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn chưa cao.
Dụng cụ trực quan thiếu, giáo viên chỉ nói suông nên học sinh không
hiểu, không nắm bắt được thông tin vì vậy bài làm không đạt hiệu quả cao.
Chất lượng giảng dạy ở phân môn Tập làm văn vẫn chưa đáp ứng
được sự mong mỏi của xã hội. Đối với học sinh lớp 3, để giúp các em nói,
viết được đoạn văn ngắn (5-7 câu) theo chủ điểm giáo viên thường gặp khó
khăn khi hướng dẫn các em nói, viết thành câu, thành đoạn. Bởi vốn từ của
các em chưa nhiều, kiến thực thực tế còn nhiều hạn chế. Một hạn chế nữa
đó là do đặc điểm vùng miền, khả năng ngôn ngữ của học sinh không được
lưu loát. Trong quá trình làm bài, nhiều em còn lúng túng khi dùng từ, diễn
đạt ngôn ngữ vụng, có em viết không đúng yêu cầu của đề bài, có những
bài làm đảm bảo về số câu nhưng không đủ ý.
3. Khảo sát phân môn Tập làm văn:
Thời điểm: Tháng 9/2011
Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 3A
Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu
36 2/36 = 5,6% 8/36 = 22,2% 21/36 = 58,3% 5/36 = 13,9%

Từ thực trạng trên, tôi đã tiến hành một số biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả giờ dạy kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm.




II. CÁC BIỆN PHÁP CHỦ YẾU
1. Hướng dẫn chuẩn bị:
Để có một tiết học hiệu quả, khâu chuẩn bị rất cần thiết với cả thầy
và trò. Với kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm, học sinh phải được hướng dẫn
chuẩn bị ngay từ khi bắt đầu học mỗi chủ điểm. Học sinh cần phải tích luỹ
vốn từ, đặt câu qua các tiết học Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả; sưu
tầm tranh ảnh và tìm hiểu cách vẽ bản đồ tư duy theo chủ điểm.

2. Hướng dẫn tìm hiểu đề bài:
Giáo viên cần cho học sinh tự xác định rõ yêu cầu các bài tập. Giúp
học sinh tự xác định đúng yêu cầu bài tập để khi thực hành các em sẽ
không chệch hướng, đảm bảo đúng nội dung đề tài cần luyện tập.
3. Hướng dẫn tìm hiểu hệ thống câu hỏi gợi ý:
Hệ thống câu hỏi gợi ý tiết Tập làm văn kiểu bài Nói, viết theo chủ
điểm trong SGK sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập làm văn;
học sinh dựa vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành một đoạn văn ngắn.
Giáo viên cần cho học sinh đọc toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm
vững nội dung từng câu hỏi; từ đó giúp các em trình bày đoạn văn rõ ràng,
mạch lạc đủ ý, dùng từ đúng, câu văn đúng ngữ pháp. Giúp học sinh nắm
vững nội dung từng câu hỏi gợi ý sẽ hạn chế được việc trình bày ý trùng
lặp, chồng chéo. Tạo được sự liên kết giữa các ý với nhau trong đoạn văn.
Giáo viên cần giúp các em hiểu nghĩa của các từ ngữ có trong câu
hỏi để học sinh hiểu và trình bày đúng yêu cầu, các từ ngữ này có thể là các
từ mới hoặc các từ khó hiểu đối với địa phương. VD: Nói về bảo vệ môi
trường, cần giúp học sinh hiểu môi trường gồm những gì? Để bảo vệ môi
trường em cần làm gì? Những việc làm đó có phù hợp, gần gũi với các em
không? Các em đã thực hiện hằng ngày như thế nào?
Trong các câu gợi ý, có một số câu hỏi gộp khiến học sinh lúng túng
khi diễn đạt ý, do đó ý không trọn vẹn, bài văn thiếu sinh động sáng tạo.
Giáo viên cần chia thành các câu gợi ý nhỏ để giúp các em có những ý

tưởng phong phú, hồn nhiên. Việc chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ sẽ có


nhiều học sinh được rèn kĩ năng nói, giúp các em thêm tự tin và giáo viên
dễ dàng sửa chữa sai sót cho học sinh. Ví dụ: Nói về quê hương, cần gợi ý
cho học sinh nêu cảnh đẹp ở quê hương em là gì? Cảnh đó có gì đẹp? Yêu
quê hương, em làm những gì để quê hương ngày càng thêm đẹp?
Như vậy qua hệ thống câu hỏi, giúp học sinh bày tỏ được thái độ,
tình cảm, ý kiến nhận xét đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học.
Song song với quá trình đó giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh
về câu trả lời của bạn để học sinh rút ra được những câu trả lời đúng, cách
ứng xử hay. Từ đó giúp học sinh mở rộng vốn từ, rèn kĩ năng diễn đạt
mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh, có cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài văn
của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc đồng thời hình thành cho
các em cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống.
4. Hướng dẫn liên tưởng, tưởng tượng:
Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi nên đa số bài văn của học sinh lớp 3 có
ý tưởng chưa phong phú, sáng tạo, các em thường trình bày hạn hẹp trong
khuôn khổ nhất định. Nếu trong một bài Tập làm văn, học sinh chỉ biết diễn
đạt nội dung bằng những gì đã quan sát; hoặc thực hành một cách chính
xác theo các gợi ý; bài làm như thế tuy đủ ý nhưng không có sức hấp dẫn,
lôi cuốn người đọc, người nghe. Vì vậy, với từng đề bài giáo viên nên có
những câu hỏi gợi ý, khuyến khích học sinh liên tưởng, tưởng tượng thêm
những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và hợp lí qua việc sử dụng các
biện pháp so sánh, nhân hoá, để từ đó học sinh biết trình bày bài văn giàu
hình ảnh, sinh động, sáng tạo. Trí tưởng tượng, liên tưởng ở học sinh lứa
tuổi này rất hồn nhiên ngây thơ và ngộ nghĩnh, cho nên để rèn luyện kĩ
năng này cho học sinh, giáo viên có thể chuẩn bị những câu, đoạn văn hay
cho học sinh tham khảo, học hỏi làm phong phú thêm vốn kiến thức cho
các em.


4. Hướng dẫn lập bản đồ tư duy:
Có thể hiểu bước lập bản đồ tư duy cũng chính là bước hướng dẫn
học sinh lập dàn ý để chuẩn bị cho phần nói theo chủ điểm.
Yêu cầu học sinh:
+ Nghĩ trước khi viết


+ Viết ngắn gọn
+ Viết có tổ chức
+ Viết theo ý của mình, có chừa khoảng trống để bổ sung
Giáo viên làm mẫu, hướng dẫn học sinh thao tác vẽ và đọc trên bản
đồ. Sau đó yêu cầu học sinh sử dụng vốn từ ngữ đã thu thập được qua quá
trình chuẩn bị để tự hoàn thành bản đồ tư duy của chính mình.
Từ bức ảnh trung tâm hoặc từ trung tâm, học sinh có thể chia thành
nhiều nhánh, mỗi nhánh là một ý chính. Từ nhánh chính học sinh vẽ thêm
các nhánh nhỏ với các từ ngữ để miêu tả cho ý chính đã nêu.
Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ
như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi học sinh vẽ một
kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau,
cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng Bản đồ
tư duy theo một cách riêng, do đó việc lập bản đồ tư duy phát huy được tối
đa khả năng sáng tạo của mỗi học sinh. Ví dụ:
Tuần 11: Nói về quê hương
Hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy (cá nhân)
- Giáo viên giới thiệu bản đồ tư duy GV đã chuẩn bị
- Hướng dẫn HS chọn từ trung tâm
- Hướng dẫn HS viết các từ ngữ chỉ cảnh vật ở các nhánh chính; tìm
các hình ảnh so sánh, gợi tả để điền vào các nhánh phụ,…; tiếp tục tìm các
từ ngữ nói lên tình cảm của mình…với nơi mình đang ở.





Tuần 31: Thảo luận về Bảo vệ môi trường
Hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy (nhóm)
- GT bản đồ tư duy GV đã chuẩn bị
- Hướng dẫn HS chọn từ trung tâm
- Hướng dẫn HS viết các từ ngữ về môi trường ở các nhánh chính;
tìm các biện pháp, việc làm bảo vệ môi trường vào các nhánh phụ…



5. Báo cáo, thuyết minh bản đồ tư duy:
Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu miệng các câu mà mình lập được.
Ban đầu có thể chưa theo một trình tự nhất định nhưng các em phải nói trọn
vẹn câu. Sau đó, mới yêu cầu học sinh tự sắp xếp các câu sao cho hợp lí
hơn.
Đồng thời, giáo viên yêu cầu các học sinh khác lắng nghe để chỉnh
sửa cách dùng từ, đặt câu cho các bạn. Giáo viên chỉ là cố vấn, trọng tài để
các em tự hoàn thiện được bản đồ tư duy, hình thành được đoạn văn.
6. Giao việc về nhà:
Từ bản đồ tư duy mà các em lập được ở lớp, giáo viên yêu cầu học
sinh viết thành đoạn văn theo chủ điểm chuẩn bị cho tiết Tập làm văn viết.





III. MỘT SỐ GIÁO ÁN MINH HOẠ

Tuần 11
Tiết Tập làm văn Tuần 11 giảm tải bài tập nghe - kể, giành toàn bộ
thời gian cho bài tập nói về quê hương. Với đối tượng học sinh trường tôi,
phần các em sinh ra và lớn lên trong khu vực thành phố nên giáo viên yêu
cầu học sinh nói về nơi mình đang ở.
Tập làm văn: Nói về quê hương
I. Mục tiêu: Rèn kĩ năng nói
Học sinh biết nói về quê hương (nơi mình đang ở) theo gợi ý trong
Sách giáo khoa. Bài nói đủ ý, dùng từ đặt câu đúng. Bước đầu biết dùng
một số từ ngữ gợi tả hoặc hình ảnh so sánh để bộc lộ tình cảm với quê
hương.
II. Chuẩn bị:
GV: Bản đồ tư duy vẽ trên giấy khổ lớn; Giấy A4 để phát cho HS
HS: Màu vẽ
III. Các hoạt động dạy - học chủ yếu:
Hoạt động 1 (5’): Khởi động
- Y/c Hs nêu các từ ngữ chỉ sự vật nơi em
ở; các từ ngữ chỉ tình cảm với cảnh vật nơi
em ở (đã học ở tiết Luyện từ và câu, sau đó
mở rộng thêm theo hiểu biết thực tế của
HS)
- GV ghi các từ ngữ HS nêu lên bảng nháp
- Gọi một số HS đọc lại
- HS nêu miệng




- 5 HS đọc thành tiếng, lớp
đọc thầm

Hoạt động 2 (10’): Hướng dẫn lập bản đồ tư duy
- Hướng dẫn HS tìm hiểu theo câu hỏi gợi ý:
+ Gia đình em đang sống ở đâu?
+ Cảnh vật ở đó có gì đẹp?



+ Em thích nhất cảnh vật gì?
- Lần lượt trả lời
+ Gia đình em đang sống
ở…
+ Những ngôi nhà rộng rãi
với khu vườn nhỏ trước sân/
Những ngôi nhà cao tầng rất
đẹp/…




+ Tình cảm của em với nơi em ở như thế
nào?
- GT bản đồ tư duy GV đã chuẩn bị

- Hướng dẫn HS chọn từ trung tâm

- Hướng dẫn HS viết các từ ngữ chỉ cảnh vật
ở các nhánh chính; tìm các hình ảnh so sánh,
gợi tả để điền vào các nhánh phụ,…; tiếp tục
tìm các từ ngữ nói lên tình cảm của mình…
+ Chiều về được chạy nhảy

trên hè phố sạch sẽ, thoáng
mát/…
+ Em thấy khu phố nơi em ở
thật gần gũi, thân thương/…
- Quan sát





- HS tự tìm từ phù hợp nơi
mình đang ở
- HS tự tìm từ để điền vào
bản đồ của mình
Hoạt động 3 (20’): Báo cáo, thuyết minh
- Gọi 1 HS giỏi dựa vào bản đồ tư duy để
nói mẫu cho cả lớp nghe
Y/c HS nhận xét theo tiêu chí:
+ Đúng nội dung chưa?
+ Có mấy câu?
+ Dùng từ, đặt câu đúng chưa?
+ Sắp xếp các câu đã hợp lý chưa?
- GV nhận xét, chỉnh sửa
- Y/c HS nói cho nhau nghe theo nhóm
- Gọi HS nói trước lớp
Y/c HS nghe và nhận xét
- GV nhận xét, chỉnh sửa, ghi điểm.
- 1 HS lên bảng trình bày
Lớp theo dõi, nhận xét theo
tiêu chí





- Lắng nghe
-Nói cho nhau nghe theo N2
- Một số học sinh nói trước
lớp
Nhận xét, bổ sung
Hoạt động 4(5’): Củng cố, dặn dò
- GV nhận xét và biểu dương những học sinh học tốt.
- Yêu cầu học sinh tiếp tục bổ sung, hoàn thành bản đồ tư duy rồi viết
thành đoạn văn nói về nơi em ở.


- Chuẩn bị bài:
+ Yêu cầu học sinh mở SGK, đọc gợi ý tiết Tập làm văn tuần 12.
+ Yêu cầu HS sưu tầm tranh, ảnh cảnh đẹp đất nước; Dựa vào câu
hỏi gợi ý lập bản đồ tư duy để nói về cảnh đẹp đất nước chuẩn bị cho
tiết Tập làm văn tuần 22.
Tuần 12
Tập làm văn: Nói, viết về cảnh đẹp đất nước
I. Mục tiêu:
- Rèn kĩ năng nói: Dựa vào một bức tranh (hoặc một tấm ảnh) về một
cảnh đẹp ở nước ta, học sinh nói được những điều đã biết về cảnh đẹp đó
(theo gợi ý). Lời kể đủ ý, có cảm xúc, thái độ mạnh dạn, tự nhiên.
- Rèn kĩ năng viết: Học sinh viết được những điều vừa nói thành
đoạn văn (5-7 câu). Dùng từ đặt câu đúng, bộc lộ được tình cảm với cảnh
vật trong tranh (ảnh).
II. Chuẩn bị:

GV: + Ảnh biển Phan Thiết, Hồ Gươm, Cửa Lò
+ Bảng phụ ghi câu hỏi gợi ý.
HS: Sơ đồ tư duy về một cảnh đẹp của đất nước mà em thích
III. Các hoạt động dạy học chủ yếu
Hoạt động 1 (1’): Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh
Hoạt động 2 (7’): Nói về cảnh biển Phan Thiết
- Treo bảng phụ, Y/c HS đọc
- Y/c HS quan sát ảnh và trả lời lần
lượt theo câu hỏi:
+ Ảnh chụp cảnh gì? ở nơi nào?
+ Màu sắc của cảnh vật trong ảnh
như thế nào?

+ Cảnh trong bức ảnh có gì đẹp?

+ Cảnh trong bức ảnh gợi cho em
suy nghĩ gì?
- 1 HS đọc thành tiếng, lớp đọc thầm

- Quat sát ảnh và trả lời câu hỏi

+ Cảnh biển ở Phan Thiết.
+ Trời trong xanh. Mặt biển xanh
màu ngọc bích. Núi xanh lam. Rặng
dừa ven bờ xanh rì. Bãi cát trắng
tinh…
+ Quang cảnh biển thật là đẹp vì có
núi và biển kề bên nhau…
+ Em rất thích/ Em rất tự hào vì đất




- Gọi HS nói lại toàn bộ theo gợi ý
GV theo dõi, cùng HS khác chỉnh
sửa cho HS nói về các dùng từ (nếu
cần)
- GV giới thiệu thêm ảnh Hồ Gươm,
Cửa Lò
nước mình có nhiều cảnh đẹp/ Em
muốn được đến ngắm cảnh biển.
- 1 HS nói theo gợi ý; các HS khác
lắng nghe, nhận xét và bổ sung (nếu
cần)
- theo dõi
Hoạt động 3 (15’): Nói về cảnh đẹp đất nước mà em biết
- Y/c HS nói tên cảnh đẹp mà em
biết (qua tranh ảnh đã sưu tầm)
- Y/c HS dùng sơ đồ tư duy đã
chuẩn bị để nói cho nhau nghe về
cảnh đẹp mà em biết.
- Tập nói trước lớp
+ Mời HS xung phong
GV cùng HS khác nhận xét về nội
dung, cách dùng từ, đặt câu.
+ Gọi 5 HS khác nói
GV biểu dương học sinh nói tốt,
chỉnh sửa cho những học sinh còn
mắc lỗi về dùng từ, đặt câu.
- HS lần lượt nêu tên


- HS dựa vào sơ đồ để nói



- 1 HS nói trước lớp qua ảnh
HS khác nhận xét, bổ sung (nếu cần)

- 5 HS nói trước lớp
Bình chọn bạn nói hay.
Hoạt động 4 (15’): Viết về cảnh đẹp đất nước
Bước 1: Giúp học sinh nắm yêu cầu
của bài tập
+ Gọi HS đọc Y/c
+ GV lưu ý HS: không nhất thiết
phải trả lời theo 4 câu hỏi gợi ý. Các
em có thể viết tự do, các câu văn
phải liền mạch. Chú ý dùng từ đặt
câu đúng; nhớ viết hoa các tên riêng.

Bước 2: HS viết bài
GV bao quát lớp
Bước 3: HS đọc bài viết (nếu còn
thời gian)
GV nhận xét, ghi điểm


+ 1 HS đọc thành tiếng, lớp đọc
thầm
+ Lắng nghe





- Viết bài vào vở

- Đọc bài viết



- Lắng nghe
Hoạt động 5(2’): Củng cố, dặn dò
- Khen học sinh biết dùng từ hay, đặt câu đúng, đủ ý; chữ viết sạch,
đẹp.
- Dặn học sinh chưa làm xong sẽ được hoàn thành tiếp vào giờ tự
học.
- Chuẩn bị bài tuần 13: Viết thư
+ Cho HS xem gợi ý (SGK Tiếng Việt Tập 1 trang 110)
Giới thiệu một số bản đồ tư duy học sinh tự thiết lập:















IV. KẾT LUẬN
1. Kết quả đạt được.
Được sự quan tâm, động viên của Ban Giám hiệu nhà trường, tôi
mạnh dạn vận dụng bản đồ tư duy vào một số tiết dạy giảm tải ở các tuần
11, 14, 16, 31 và một số tiết dạy khác. Trải qua quá trình vận dụng, vừa làm
vừa học, vừa rút kinh nghiệm đã đạt được một số kết quả sau:
+ Học sinh có thói quen làm việc, học tập một cách khoa học.
+ Phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh.
+ Đảm bảo tính linh hoạt, tự chủ, sáng tạo trong mỗi tiết học.
+ Đặc biệt, việc được tự tay “thiết kế” bản đồ tư duy làm cho học
sinh vô cùng thích thú học phân môn Tập làm văn, tình cảm thầy trò ngày
càng trở nên thân thiện hơn.
+ Kĩ năng nói của học sinh ngày càng được hoàn thiện hơn. Học sinh
biết tìm từ, ý; đặt câu đúng; biết vận dụng so sánh, nhân hoá; khả năng diễn
đạt ngôn ngữ tiến bộ rõ rệt, các em nói lưu loát, trôi chảy.
Kết quả khảo sát phân môn Tập làm văn
Thời điểm: Tháng 3/2012
Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 3A
Tổng số

Giỏi Khá Trung bình Yếu
36 10/36 = 27,8%

15/36 = 41,7%

11/36 = 30,5% 0
2. Bài học kinh nghiệm:
Từ những kết quả đã nêu trên, trong quá trình giảng dạy để việc vận

dụng bản đồ tư duy có hiệu quả, cũng như để nâng cao chất lượng học tập
của học sinh giáo viên cần phải thực hiện tốt những vấn đề sau:
+ Giáo viên phải có định hướng tốt các hoạt động, có hiểu biết thực
tế; chuẩn bị công phu, thực sự sáng tạo trong quá trình giảng dạy. Đảm bảo
tính tích hợp hợp lí giữa các phân môn Tập đọc – Chính tả - Luyện từ và
câu - Tập làm văn. Vận dụng các phương pháp, biện pháp tối ưu, linh hoạt
các hình thức tổ chức dạy học, tránh sự nhàm chán, buồn tẻ cho học sinh.


+ Các đường nét, hình ảnh, màu sắc trong bản đồ tư duy được sử
dụng với mức độ, hợp lý, không bị lạm dụng, không quá tải đối với học
sinh, không gây nhiễu loạn làm mất tập trung vào bài học.
+ Chú ý cách tổ chức hoạt động của học sinh để phát huy tính tích
cực hoạt động của các em trong quá trình học tập bằng việc sử dụng hệ
thống câu hỏi đa dạng, phù hợp mọi đối tượng học sinh. Giáo viên linh hoạt
trong việc tổ chức các phương pháp học tập nhóm, trao đổi thảo luận.
+ Giáo viên phải đặc biệt chú trọng rèn kĩ năng nói và viết (dùng từ,
đặt câu, tạo lập văn bản) trong giờ dạy phân môn Tập làm văn.
Trên đây là một vài suy nghĩ trong việc vận dụng bản đồ tư duy
nhằm đem lại niềm hứng thú cho học sinh trong học tập, góp phần rèn
luyện kĩ năng nói, viết trong phân môn Tập làm văn lớp 3.
Sáng kiến kinh nghiệm này chắc chắn không thể tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế nhất định. Rất mong sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp
và Hội đồng khoa học để vấn đề đưa ra được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


















×