Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

(Luận Văn Thạc Sĩ) Bồi Thường Khi Nhà Nước Thđ Nông Nghiệp Theo Pháp Luật Đất Đai Ở Việt Nam Từ Thực Tiễn Huyện Bắc Trà My, Tỉnh Quảng Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.71 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN TIẾN DŨNG

BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI Ở
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BẮC TRÀ MY,
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN TIẾN DŨNG

BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI Ở
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BẮC TRÀ MY,
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số


: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu,
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Tất cả các
trích dẫn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Phan Tiến Dũng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ...............................................................5
1.1. Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ........................5
1.2. Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp .......................16
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp ........................................................................................................................22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP QUA THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HUYỆN
BẮC TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM ..................................................................26
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp .....26
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam .......................................................47
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BẮC
TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM ............................................................................61
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ...................................................61
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp ........................................................................................................................65
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp .............................................................................................68
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Nghĩa đầy đủ

Từ viết tắt

1

CNH – HĐH

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

2


CNQSDĐ

Chứng nhận quyền sử dụng đất

3

GPMB

Giải phóng mặt bằng

4

LĐĐ

Luật Đất đai

5

TLSX

Tư liệu sản xuất

6

THĐ

Thu hồi đất

7


UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Tên bảng

STT
2.1
2.2
2.3

So sánh mật độ và đơn giá cây trồng tại tỉnh Quảng Nam và
Quảng Ngãi
Tình hình sử dụng đất huyện Bắc Trà My năm 2018
Thống kê về các dự án bồi thường trên địa bàn huyện Bắc Trà
My từ năm 2014 - 2018

Trang
39
48
51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một đất nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống bằng nghề

nơng. Tính đến năm 2018, diện tích đất nơng nghiệp đạt gần 26 triệu ha [2, tr.1]. Vì
vậy, sản xuất nơng nghiệp đóng một vai trị vơ cùng quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Tuy nhiên, trong những năm qua để thực hiện công cuộc CNH – HĐH để
phát triển đất nước, cùng với đó là tốc độ đơ thị hóa diễn ra nhanh chóng ở thành thị
cũng như nông thôn, đồng bằng cũng như miền núi địi hỏi một lượng lớn diện tích
đất đai nói chung, đất nơng nghiệp nói riêng để sử dụng. Vì vậy, việc THĐ nông
nghiệp tất yếu phải diễn ra, song song với đó là cơng tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước THĐ. Để các dự án này diễn ra thuận lợi, đúng tiến độ, khơng tạo ra điểm
nóng gây mất trật tự an ninh - chính trị, trật tự an tồn xã hội thì cơng tác THĐ phải
được thực hiện đúng quy định, đúng mục đích, cơng tác bồi thường phải thỏa đáng
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, công tác hỗ trợ phải đảm bảo sinh kế cho
người dân khi mất đất. Trong các khâu trên thì cơng tác bồi thường khi Nhà nước
THĐ đóng vai trị đặc biệt quan trọng.
Bắc Trà My là một trong 61 huyện nghèo trong cả nước theo Quyết định số
30a năm 2008 của Chính phủ. Trong những năm qua được sự quan tâm của các cấp
nhiều dự án đã được đầu tư cho huyện nhà, cùng với đó là việc thu hồi một lượng
lớn đất nơng nghiệp. Nhìn chung, cơng tác bồi thường khi Nhà nước THĐ nông
nghiệp tại địa phương được thực hiện khá tốt. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn tồn
tại một số hạn chế, bất cập dẫn đến tranh chấp về bồi thường. Chính vì vậy, tác giả
chọn đề tài “Bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp theo pháp luật đất đai ở
Việt Nam từ thực tiễn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam” để nghiên cứu với
mong muốn phân tích bản chất của bồi thường khi Nhà nước THĐ nơng nghiệp, tìm
ra ngun nhân của những tồn tại, hạn chế và đưa ra một số kiến nghị nhằm hồn
thiện pháp luật khi Nhà nước THĐ nơng nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay có nhiều bài viết, luận án, luận văn… về bồi thường khi Nhà nước
1


THĐ nơng nghiệp được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau như: chính sách, xã

hội học, kinh tế… Ở góc độ pháp lý có một số bài viết, luận án, luận văn sau:
Bài viết “Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm khi Nhà nước THĐ nông
nghiệp” của TS Nguyễn Quang Tuyến – Tạp chí Luật học, số 01/2009. Bài viết đã
đưa ra những cơ sở lý luận cho việc xây dựng khái niệm khi Nhà nước THĐ. Từ đó,
cung cấp cho người đọc những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước THĐ.
Luận án tiến sĩ “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp”
của tác giả Phạm Thu Thủy. Luận án đã hệ thống được những cơ sở pháp lý của
việc Nhà nước THĐ nông nghiệp, đánh giá được thực trạng pháp luật và đưa ra
những giải pháp hoàn thiện pháp luật. Luận án đã được thực hiện năm 2014 có liên
hệ với những quy định của LĐĐ 2013 vì vậy luận án chưa đánh giá được hết thực
trạng của LĐĐ 2013 qua hơn 4 năm có hiệu lực.
Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp
và thực tiễn thi hành tại thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Dương Đức Sinh.
Luận văn đã giải quyết được một số vấn đề lý luận của đề tài nghiên cứu. Đồng
thời, luận văn cũng đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ có giá trị tham khảo.
Luận văn thạc sĩ “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo
pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” của tác giả Trần Nhật Quân. Trên
cơ sở phân tích nội dung các quy định về bồi thường đất nơng nghiệp và thực tiễn
thi hành tại tỉnh Bình Định, luận văn đã đưa ra những phương hướng, giải pháp
hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp. Tuy nhiên,
một số giải pháp của luận văn chưa mang tính cụ thể.
Liên quan đến thực tiễn bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp tại
huyện Bắc Trà My chưa có cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Chính vì vậy, kế
thừa những thành tựu của những nghiên cứu trên, luận văn tập trung làm rõ những
vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp theo pháp luật đất đai
và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp từ
thực tiễn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam

2



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu hệ thống pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước THĐ nông nghiệp và thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước THĐ nông nghiệp qua nghiên cứu ở huyện Bắc Trà My. Qua đó, tìm ra những
hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật và khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng pháp luật nhằm đưa ra những quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước THĐ nơng nghiệp.
Để đạt được mục đích trên thì luận văn cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
1 Nghiên cứu, khảo cứu các tài liệu, các công trình nghiên cứu về vấn đề này.
2. Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước THĐ
nông nghiệp.
3. Đánh giá thực trạng và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước THĐ nông nghiệp.
4. Đưa ra định hướng quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp tại huyện Bắc Trà
My, tỉnh Quảng Nam thông qua việc nghiên cứu, đánh giá các quy định của LĐĐ
năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành về bồi thường khi Nhà nước THĐ
nông nghiệp từ 2014 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử để làm phương pháp luận để luận giải
những vấn để lý luận và thực tiễn cho cả luận văn.
Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh được sử

dụng ở chương 1 để nghiên cứu những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước

3


THĐ nông nghiệp theo pháp luật đất đai Việt Nam.
Phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp đối chiếu,
phương pháp đánh giá được sử dụng ở chương 2 để phân tích, đánh giá, bình luận
về thực trạng pháp luật bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp và thực tiễn thi
hành tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
Phương pháp tổng hợp, phương pháp diễn giải được sử dụng ở chương 3 để
khái quát hóa và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước THĐ nông nghiệp từ thực tiễn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn cung cấp tri thức nhận thức lý luận về bồi thường khi Nhà nước
THĐ nông nghiệp và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp. Căn
cứ luận cứ đánh giá thực trạng pháp luật và luận cứ hoàn thiện pháp luật. Nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp.
Tác giả mong muốn kết quả của luận văn là tài liệu trong nghiên cứu, đào
tạo, nội dung thực thi chính sách pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ nông
nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được thực hiện trong 3 chương sau đây:
* Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước THĐ nông
nghiệp theo pháp luật đất đai Việt Nam.
* Chương 2: Thực trạng pháp luật bồi thường khi Nhà nước THĐ nông
nghiệp và thực tiễn thi hành tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
* Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiêp từ thực tiễn

thi hành tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.

4


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Trước tiên, để hiểu được khái niệm bồi thường khi Nhà nước THĐ nơng
nghiệp chúng ta cần phải tìm hiểu một số khái niệm liên quan như: đất nông nghiệp,
THĐ nông nghiệp.
Theo FAO (Tổ chức Nông lương của Liên Hiệp Quốc) thì đất nơng nghiệp
được hiểu bao gồm các thành phần sau đây: Đất canh tác như đất trồng cây hàng
năm, chẳng hạn như ngũ cốc, bông, khoai tây, rau, dưa hấu, loại hình này cũng bao
gồm cả đất sử dụng được trong nông nghiệp nhưng tạm thời bỏ hoang (Đất hoang
hóa, đất thối hóa); đất vườn cây ăn trái và những vườn nho hay cánh đồng nho
(Thông dụng ở châu Âu); đất trồng cây lâu năm; cánh đồng, thửa ruộng và đồng cỏ
tự nhiên cho chăn thả gia súc. Tùy thuộc vào việc sử dụng hệ thống tưới tiêu nhân
tạo, đất nơng nghiệp được chia thành đất có tưới tiêu và không tưới tiêu (Thường
xuyên). Ở các nước đang khô hạn và bán khô hạn đất nông nghiệp thường được giới
hạn trong phạm vi đất tưới tiêu. Đất nông nghiệp cấu thành chỉ là một phần của lãnh
thổ của bất kỳ quốc gia, trong đó ngồi cũng bao gồm các khu vực khơng thích hợp
cho nơng nghiệp, chẳng hạn như rừng, núi, và các vùng nước nội địa. Đất nơng
nghiệp bao gồm 38% diện tích đất của thế giới, với diện tích đất trồng đại diện cho
ít hơn một phần ba đất nơng nghiệp (11% diện tích đất của thế giới) [46].
Quan niệm đất nông nghiệp của Tổ chức nông lương Liên Hợp Quốc được
hiểu theo nghĩa hẹp. Theo đó, đất nơng nghiệp là những loại đất được sử dụng để
chăn nuôi, trồng trọt, sản xuất ra lương thưc, thực phẩm cho con người.

Theo định nghĩa của Từ điển luật học của Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư
pháp) thì: “Đất nơng nghiệp là tổng thể các loại đất được xác định là TLSX chủ yếu
phục vụ cho việc trồng trọt và chăn ni, nghiên cứu thí nghiệm về trồng trọt và
chăn nuôi, bảo vệ môi trường sinh thái, cung ứng sản phẩm cho các ngành công
5


nghiệp và dịch vụ” [43, tr. 237-238].
Dưới góc độ pháp lý, trải qua các giai đoạn khác nhau đất nông nghiệp được
pháp luật quy định khác nhau.
Theo quy định tại Luật Đất đai 1993 thì giai đoạn này chúng ta có sáu loại
đất. Đó là đất nơng nghiệp, đất lâm nghiệp, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất
chuyên dùng, đất chưa sử dụng. Theo quy định tại LĐĐ 1993 thì đất nơng nghiệp là
đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nơng nghiệp. Như
vậy, giai đoạn này đất lâm nghiệp được tách ra khỏi đất nông nghiệp.
Theo quy định tại Điều 13 LĐĐ 2003 thì căn cứ vào mục đích sử dụng đất
đai được phân loại thành nhóm đất nơng nghiệp và nhóm đất phi nơng nghiệp và
nhóm đất chưa sử dụng. Theo đó, đất nơng nghiệp gồm các loại sau đây: đất trồng
cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây
hàng năm khác; đất trồng cây lâu năm; đất rừng sản xuất; đất rừng phòng hộ; đất
rừng đặc dụng; đất nuôi trồng thuỷ sản; đất làm muối; đất nơng nghiệp khác theo
quy định của Chính phủ. Như vậy, bằng cách liệt kê các loại đất được sử dụng vào
mục đích nơng nghiệp thành nhóm đất nơng nghiệp, LĐĐ 2003 đã có cái nhìn khái
qt hơn về đất nơng nghiệp.
Kế thừa những quy định của LĐĐ 2003, LĐĐ 2013 cũng căn cứ vào mục
đích sử dụng vào mục đích nông nghiệp để liệt kê một số loại đất vào nhóm đất
nơng nghiệp. Trên thực tế, người nơng dân vừa có thể là người nơng dân, vừa là
ngư dân, vừa là diêm dân vì họ đồng thời sở hữu các loại đất khác nhau. Việc quy
định các loại đất được sử dụng vào mục đích nơng nghiệp thành nhóm đất nơng

nghiệp là hồn tồn hợp lý. Quy định này phù hợp với nhu cầu sở hữu đất đai của
người nông dân, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất trong quản lý đất đai của
cơ quan Nhà nước, giúp cho các cơ quan quản lý đất đai ở địa phương thuận lợi
trong việc theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình khai thác sử dụng đất của người sử
dụng đất.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về đất nông nghiệp như sau:

6


Đất nông nghiệp là tổng thể các loại đất được xác định là TLSX chủ yếu phục vụ
cho việc trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp, diêm nghiệp, nghiên
cứu thí nghiệm về nơng nghiệp, lâm nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái.
Khái niệm thứ hai chúng ta cần tìm hiểu là THĐ nơng nghiệp. Nếu như giao
đất, cho thuê đất làm phát sinh quan hệ pháp luật đất đai thì THĐ là căn cứ làm
chấm dứt quan hệ pháp luật về đất đai.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, THĐ được hiểu là: Cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm quy định của
pháp luật về đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử
dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm, trường hợp thật cần thiết Nhà nước THĐ đang sử
dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phịng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng [36].
Khái niệm này mặc dù đã liệt kê đầy đủ các trường hợp THĐ như THĐ do vi
phạm pháp luật đất đai, THĐ sử dụng vào mục đích quốc phịng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng. Tuy nhiên, khái niệm niệm này vẫn chưa đưa ra một
định nghĩa rõ ràng về THĐ.
Dưới góc độ pháp lý LĐĐ 1987 và LĐĐ 1993 chỉ liệt kê các trường hợp
THĐ chứ không đưa ra khái niệm về THĐ.
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 4 LĐĐ năm 2003 thì THĐ là việc Nhà nước
ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ

chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này. Khái niệm
này chỉ đề cập đến hai chủ thể đó là tổ chức và UBND xã, phường, thị trấn và đã bỏ
qua hai chủ thể phổ biến khi bị THĐ đó là hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất.
Dựa trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước tuy là chủ sở hữu toàn bộ đất đai nhưng không
trực tiếp khai thác, sử dụng toàn bộ đất đai mà chuyển giao từng thửa đất cho người
sử dụng đất để trực tiếp sử dụng. Việc chuyển giao này được thực hiện thơng qua
các hình thức phân phối đất đai theo quy định của pháp luật. Mỗi một giai đoạn
kinh tế - xã hội nhất định, Nhà nước có thể điều chỉnh về mục đích, về chủ thể sử

7


dụng đất để đảm bảo đất đai được sử dụng có hiệu quả nhất, phục vụ lợi ích chung
của tồn xã hội thông qua hoạt động điều phối đất đai. THĐ là một trong những
hoạt động điều phối đất đai của cơ quan Nhà nước. LĐĐ 2013 quy định: Nhà nước
THĐ là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà
nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp
luật về đất đai. Như vậy, bằng quyết định hành chính Nhà nước có thể giao đất, cho
th đất thì bằng quyết định hành chính Nhà nước cũng có thể THĐ.
Với những nghiên cứu trên có thể rút ra khái niệm THĐ như sau: THĐ là
việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại đất và quyền sử dụng đất đã giao
cho chủ thể sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai. Như vậy, THĐ nông
nghiệp là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại đất nơng nghiệp và
quyền sử dụng đất nông nghiệp đã giao cho chủ thể sử dụng đất theo quy định của
pháp luật đất đai.
Nhà nước THĐ để sử dụng vào mục đích quốc phịng, an ninh; lợi ích quốc
gia; lợi ích cơng cộng…Sở dĩ, Nhà nước THĐ nơng nghiệp là vì:
Thứ nhất, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định:
Phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng

hiện đại [11, tr.31]. Theo đó, để trở thành một nước cơng nghiệp thì nước ta phải
tiến hành công cuộc CNH – HĐH đất nước. Tiến trình này địi hỏi một diện tích lớn
đất để phát triển cơ sở hạ tầng và phục vụ cho ngành cơng nghiệp. Vì vậy, việc
THĐ nơng nghiệp tất yếu phải diễn ra.
Thứ hai, cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách nhanh chóng
như hiện nay thì đơ thị hóa là một q trình tất yếu. Q trình này làm cho đất đai
nói chung và đất nơng nghiệp nói riêng bị thu hẹp lại. Bởi vì quỹ đất thì hữu hạn,
việc tăng loại đất này đồng nghĩa phải giảm loại đất khác.
Thứ ba, việc THĐ nông nghiệp do nhu cầu chuyển mục đích đất nơng nghiệp
sang đất phi nơng nghiệp nhằm mục đích sử dụng đất hiệu quả hơn. Trên thực tế, có
những mảnh đất bị hoang hóa, khơng có khả năng để canh tác nơng nghiệp như đất
bị nhiễm phèn, khơng có khả năng tưới tiêu…cần được thu hồi để chuyển sang mục

8


đích khác để nâng cao hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất, đáp ứng các nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Đối với huyện Bắc Trà My, để phục vụ nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng tại
địa phương như xây dựng Trung tâm hành chính huyện, Chợ Bắc Trà My, làm
đường, trường học… và phát triển đô thị để mở rộng thị trấn mà trong nhiều năm
qua nhiều diện tích đất nơng nghiệp đã bị thu hồi.
Trong pháp luật tài sản, pháp luật đất đai ln có vị trí quan trọng. Vì đất đai
là tài sản vật chất và tinh thần quý báu của quốc gia, nước ta lại “đất chật người
đông”, đất đai càng được sử dụng có hiệu quả [18, tr.27]. Đặc biệt, đất nông nghiệp
là TLSX chủ yếu của người nơng dân. Vì vậy, việc THĐ khơng chỉ ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất và cuộc sống của người nơng dân mà cịn ảnh hưởng đến an ninh
lương thực của quốc gia. Chính vì vậy, việc THĐ phải đúng mục đích và giải quyết
hài hịa lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và chủ đầu tư.
Khi THĐ vì mục đích quốc phịng, an ninh; để phát triển kinh tế - xã hội vì

lợi ích quốc gia, cơng cộng thì Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường. Trách
nhiệm bồi thường này phát sinh không phải do lỗi của Nhà nước hay người sử dụng
đất mà phát sinh do nhu cầu sử dụng vào các mục đích do pháp luật đất đai quy
định.
Theo Từ điển Tiếng việt: Bồi thường là đền bù những tổn hại đã gây ra [45,
tr.79].
Trong lĩnh vực pháp lý, trách nhiệm bồi thường được đề cập khi một chủ thể
có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Theo đó,
đây là một dạng trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (Sự
trừng phạt) đối với chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa
Nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật xác lập và
điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi,
những biện pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật [33,
tr.508]. Trách nhiệm pháp lý được đề cập ở đây có thể là trách nhiệm bồi thường
Nhà nước, trách nhiệm vật chất do hành vi của người lao động gây ra trong lĩnh vực

9


pháp luật lao động, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong lĩnh vực
pháp luật dân sự.
Trong lĩnh vực đất đai, thuật ngữ bồi thường hay đền bù khi Nhà nước THĐ
được đặt ra từ rất sớm. Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội đồng Chính
phủ quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất, tại chương II đã đề cập việc
“Bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng”. Thơng tư số 1792/TTg ngày
11/01/1970 của Thủ tướng Chính phủ về quy định một số điểm tạm thời về bồi
thường nhà cửa, đất đai, cây cối lâu niên, các hoa mầu cho nhân dân ở vùng xây
dựng kinh tế mở rộng thành phố cũng đề cập đến vấn đề bồi thường khi Nhà nước
THĐ. Đặc biệt, sau khi LĐĐ 1987 được ban hành, Hội đồng bộ trưởng đã ban hành
Quyết định số 186/ HĐBT ngày 31/5/1990 quy định về đền bù thiệt hại đất nơng

nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác, thuật ngữ “Bồi
thường được thay thế bằng thuật ngữ “Đền bù” [37, tr.37]. Trong đời sống hằng
ngày, “Bồi thường” là thuật ngữ được sử dụng trong trường hợp có một người có
hành vi gây thiệt hại cho người khác và họ phải có trách nhiệm bồi thường cho
người bị thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Theo Từ điển Tiếng Việt thì đền bù
được hiểu là trả lại trả lại tương xứng với giá trị hoặc công lao [37, tr.38]. Thuật
ngữ này tiếp tục được sử dụng trong LĐĐ 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của LĐĐ năm 1998. Tuy nhiên khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của LĐĐ năm
2001 được ban hành nhà làm luật đã sử dụng lại thuật ngữ bồi thường. LĐĐ năm
2003 và các nghị định hướng dẫn về vấn đề bồi thường như Nghị đinh số
197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước THĐ, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007
quy định bổ sung về việc cấp giấy CNQSDĐ, THĐ, thực hiện quyền sử dụng đất,
trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước THĐ và giải quyết
khiếu nại về đất cũng sử dụng thuật ngữ bồi thường. Kế thừa những quy định của
LĐĐ 2003, LĐĐ 2013 và nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ; tái định cư khi Nhà nước THĐ cũng sử dụng
thuật ngữ bồi thường khi Nhà nước THĐ thay vì thuật ngữ đền bù thiệt hại như

10


trước đây. Vậy tại sao có giai đoạn nhà làm luật lại sử dụng thuật ngữ đền bù khi
Nhà nước THĐ, có giai đoạn lại sử dụng thuật ngữ bồi thường khi Nhà nước THĐ,
giữa hai khái niệm này có gì khác nhau. Để trả lời câu hỏi này chúng ta hãy đi so
sánh sự giống nhau và khác nhau giữa bồi thường khi Nhà nước THĐ và đền bù
khi Nhà nước THĐ.
Về sự giống nhau giữa THĐ và đền bù thiệt hại khi Nhà nước THĐ.
Theo quy định tại Khoản 6 Điều 3 LĐĐ 2013 thì bồi thường về đất là việc
Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử

dụng. Đối với khái niệm đền bù thiệt hại dưới góc độ pháp lý, khái niệm đền bù
thiệt hại khi Nhà nước THĐ chưa được giải thích rõ ràng tại văn bản nào. Tuy nhiên
theo Từ điển Tiếng việt thì đền bù là trả lại tương xứng với giá trị hoặc cơng lao
[45, tr.261]. Như vậy, chúng ta có thể hiểu đền bù khi Nhà nước THĐ là trả lại
những thiệt hại do việc THĐ gây ra tương xứng với giá trị và công lao mà người sử
dụng đã đầu tư vào trong quá trình sử dụng. Giữa hai khái niệm này có những điểm
giống nhau sau đây:
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường hay đền bù khi Nhà nước THĐ phát sinh
do hành vi THĐ Nhà nước gây ra.
Thứ hai, bồi thường hoặc đền bù khi Nhà nước THĐ đều là trách nhiệm của
Nhà nước nhằm bù đắp về tổn thất về quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
Thứ ba, chủ thể của quan hệ pháp luật về bồi thường hoặc đền bù khi Nhà
nước THĐ một bên là Nhà nước (Chủ thể có hành vi THĐ) và một bên là người sử
dụng đất bị thu hồi (Người chịu tổn hại về quyền và lợi ích hợp pháp do hành vi
THĐ gây ra).
Thứ tư, căn cứ để xác định bồi thường hoặc đền bù thiệt hại là diện tích đất
thực tế bị thu hồi và thiệt hại về tài sản, cây cối, hoa màu trên đất và khung giá đất
do Nhà nước quy định tại thời điểm bồi thường.
Thứ năm, người sử dụng đất khi bị Nhà nước THĐ muốn được bồi thường
hoặc đền bù phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định.
Sự khác nhau giữa khái niệm bồi thường khi Nhà nước THĐ và đền bù thiệt

11


hại khi Nhà nước THĐ.
Thứ nhất, thuật ngữ đền bù thiệt hại khi Nhà nước THĐ khiến người ta nghĩ
ngay đến việc đền bù 100% giá trị của mảnh đất bị thu hồi trong khi giá trị ban đầu
của đất đai không do con người tạo ra mà họ chỉ tạo ra giá trị tăng thêm của đất đai
(Do người sử dụng đất đầu tư vào đất). Trong khi đó, thuật ngữ bồi thường khi Nhà

nước THĐ cho thấy rằng Nhà nước chỉ bồi thường những giá trị, thiệt hại hợp lý về
đất và tài sản trên đất cho người có đất bị thu hồi.
Thứ hai, khi nói đến bồi thường khi Nhà nước THĐ chúng ta đề cập đến hai
nội dung. Bồi thường về đất và bồi thường tài sản trên đất. Sở dĩ, Nhà nước quy
định như vậy là vì khi Nhà nước THĐ người sử dụng đất phải chuyển giao quyền sử
dụng đất cho Nhà nước còn bản thân mảnh đất đó khơng bị mất đi, nó vẫn tồn tại
dưới hình thái vật chất và nằm cố định ở vị trí địa lý xác định, cịn tài sản trên đất
sau khi bị thu hồi phải tháo dỡ, di chuyển đi nơi khác. Như vậy, tài sản vẫn được
tồn tại ở dạng vật chất và được chuyển đến vị trí địa lý khác. Hơn nữa, đất đai
khơng do con người tạo ra mà họ chỉ tạo ra giá trị tăng thêm của đất đai (do người
sử dụng đất đầu tư vào đất) còn tài sản trên đất bị thu hồi do con người tạo ra hoặc
được tặng cho, thừa kế, chuyển nhượng quyền sở hữu. Khi THĐ bên cạnh việc bồi
thường người sử dụng đất bị thu hồi cịn được hưởng các chính sách hỗ trợ, tái định
cư của Nhà nước.
Đối với thuật ngữ đền bù thiệt hại khi Nhà nước THĐ, nội hàm của thuật ngữ
này chỉ việc Nhà nước chỉ trả lại những giá trị hoặc công lao mà người sử dụng đất
đã đầu tư vào đất mà khơng đi liền với đó là các chính sách hỗ trợ, tái định cư của
Nhà nước.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Bồi thường khi Nhà nước THĐ là việc
Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng
vào mục đích quốc phịng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng, phát triển
kinh tế phải bù đắp những tổn hại về đất và tài sản trên đất do hành vi THĐ gây ra
cho người sử dụng đất tuân theo những quy định của pháp luật đất đai.

12


1.1.2. Đặc điểm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Thứ nhất, quan hệ bồi thường khi Nhà nước THĐ phát sinh khi Nhà nước
THĐ nông nghiệp. Hay nói cách khác sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ bồi

thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp là hành vi THĐ nơng nghiệp của Nhà nước
vì mục đích quốc phịng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng hay vì mục tiêu
phát triển kinh tế. Hành vi này không mang yếu tố lỗi của Nhà nước mà nó là kết
quả của một trong những hoạt động điều phối đất đai của Nhà nước.
Thứ hai, đối tượng được bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp. Đối
tượng được bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp là người sử dụng đất nông
nghiệp bị thu hồi đáp ứng được các điều kiện bồi thường do pháp luật quy định.
Điều kiện được bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp: quyền sử dụng đất
phải được công nhận là tài sản của người sử dụng đất và thuộc loại được phép giao
dịch; có căn cứ chứng minh quyền sử dụng đất; việc THĐ không phải do vi phạm
pháp luật đất đai.
Thứ ba, về phạm vi bồi thường khi Nhà nước THĐ nông nghiệp. Đất nông
nghiệp là TLSX quan trọng của người nông dân. Con người đã dùng đất nông
nghiệp kết hợp với sức lao động đã tạo ra nhiều sản phẩm cho ngành chăn nuôi,
trồng trọt, lâm nghiệp… Người nông dân qua q trình sản xuất đã gắn bó với đất
đai vì vậy đất đai khơng chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà cịn có ý nghĩa tinh thần đối
với họ. Vì vậy, việc bồi thường khi Nhà nước THĐ nơng nghiệp khơng chỉ bồi
thường về đất, chi phí đầu tư vào đất mà còn bao gồm các chi phí về hỗ trợ đào tạo,
chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước THĐ.
Thực hiện tốt công tác bồi thường sẽ giúp người dân thích nghi nhanh với việc bị
THĐ, ổn định sản xuất và cuộc sống.
1.1.3. Lý do Nhà nước bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Việc THĐ nơng nghiệp vì mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng là một trong những xu thế tất yếu khách quan.
Đi liền với công tác THĐ là công tác bồi thường khi Nhà nước THĐ. Sở dĩ, Nhà
nước phải bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi vì những lí do sau đây:

13


Thứ nhất, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một Nhà nước

pháp quyền. Trong Nhà nước pháp quyền pháp luật luôn được thượng tôn, các cơ
quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân đều phải tôn trọng pháp luật. Mọi quyền và nghĩa
vụ của mỗi người đều được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền sở hữu tư nhân về
tài sản là một trong những quyền đó và được ghi nhận qua các thời kỳ. Hiến pháp
năm 1946 quy định: “Quyền sở hữu về tài sản của cơng dân Việt Nam được bảo
đảm”. Tiếp đó Hiến pháp 1992 cũng quy định: “Cơng dân có quyền sở hữu về thu
nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, TLSX…Hiến pháp năm
2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, TLSX, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ
chức kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”.
Như vậy, quyền sở tư nhân về tài sản của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo
vệ. Chính vì vậy, khi Nhà nước THĐ nơng nghiệp vì mục đích quốc phịng, an ninh;
phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng Nhà nước phải có nghĩa vụ
bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi.
Thứ hai, trong Hiến pháp, các văn bản luật và các văn kiện của Đảng đã ghi
nhận Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do nhân dân lao
động thiết lập nên, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Như
vậy, lợi ích mà Nhà nước hướng đến đó chính là lợi ích của nhân dân. Do đó, khi
Nhà nước THĐ mà gây thiệt hại về quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của người
bị thu hồi thì Nhà nước phải có nghĩa vụ bồi thường. Mặt khác, chủ thể hưởng lợi từ
hành vi THĐ chính là các thành viên trong xã hội. Vì vậy, các thành viên này phải
có nghĩa vụ bù đắp thiệt hại cho người bị THĐ thông qua Nhà nước.
Thứ ba, thiệt hại về lợi ích của người sử dụng đất là hậu quả phát sinh từ
hành vi THĐ của Nhà nước gây ra. Trong một Nhà nước pháp quyền, mọi chủ thể
bao gồm: Nhà nước, cá nhân, tổ chức…đều bình đẳng trước pháp luật, quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ thể ln được pháp luật bảo vệ. Để phục vụ cho mục đích an
ninh – quốc phòng, xây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án quan trọng của địa phương,
của quốc gia nhằm phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội thì Nhà

14




×