Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo Bộ Luật Dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐÌNH THẮNG

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ
GÂY RA THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. DƯƠNG QUỲNH HOA

Hà Nội, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực. Các kết luận khoa học trong luận văn chưa
từng được ai công bố trong các công trình khác
Tác giả luận văn

Lê Đình Thắng


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA....... 8
1.1. Khái quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng . Error! Bookmark not defined.
1.2. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra ....................................... 13
1.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra .................. 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM
CAO ĐỘ GÂY RA Ở VIỆT NAM ............................................................................. 32
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
ở Việt Nam .................................................................................................................... 32
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra ............................................................................................................................. 54
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA Ở VIỆT NAM ............................. 70
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra ở Việt Nam..................................................................................... 70
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 79


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TNBTTH :

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại

BTTH :


Bồi thường thiệt hại

BLDS :

Bộ luật Dân sư


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định ra đời từ rất sớm
trong lịch sử pháp luật thế giới nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng.
Đây là một chế định khá quan trọng trước nhu cầu cấp thiết của cuộc sống khi
các chủ thể xảy ra tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp khi bị xâm hại.
Trải qua một thời gian dài áp dụng cũng như phát triển chế định TNBTTH nói
chung và trong đó có TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nói riêng
đã có nhiều thay đổi và từng bước hoàn thiện.
Với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường và sự đổi mới
từng ngày của khoa học kỹ thuật đã mang lại cho con người những thành tựu
vô cùng to lớn không chỉ trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật mà kéo theo đó đời
sống nhân dân cũng ngày càng phát triển. Trước kia, trong nền kinh tế bao
cấp, người dân chỉ cốt sao “ăn no, mặc ấm”, những thành tựu của khoa học kỹ
thuật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ như ô tô, xe máy chỉ thuộc sở hữu
của một số ít người, chủ yếu thuộc sở hữu nhà nước… Sau một thời gian dài
phát triển không ngừng về mọi mặt của đời sống, xã hội đã làm cho đời sống
nhân dân được nâng cao, các phương tiện giao thông cơ giới, máy móc, thiết
bị, hóa chất áp dụng cho nền sản xuất công nghiệp… đã trở nên phổ biến.
Hiện nay, trong mỗi gia đình từ thành thị cho đến nông thôn, không ít nhiều
trong mỗi gia đình đều có chiếc xe máy, thậm chi ô tô… Tuy vậy, mặt trái của
sự phát triển đó là việc gây thiệt hại của chính những nguồn nguy hiểm cao độ

khi mà bản thân chúng đã tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ. Minh chứng cho điều
này là ngày càng gia tăng những vụ tai nạn giao thông vô cùng thảm khốc,
những vụ rò rỉ điện hay những vụ cháy, vụ nổ gây thiệt hại không chỉ tới tài
sản, sức khỏe mà cả tính mạng của nhừng người xung quanh… Cũng giống
như thiệt hại do hành vi của con người gây ra, khi nguồn nguy hiểm cao độ
gây thiệt hại, việc bảo đảm quyền lợi của người bị thiệt hại cũng như của
1


người chịu trách nhiệm bồi thường là một đòi hỏi khách quan và pháp luật trở
thành công cụ hữu hiệu đáp ứng đòi hỏi khách quan đó. Tính khách quan của
đòi hỏi này thể hiện ở chỗ việc quy định và áp dụng quy định về trách nhiệm
bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là tất yếu mà không phụ thuộc
vào ý chí của chủ tài sản, người chiếm hữu, sử dụng tài sản cũng như người bị
thiệt hại. Chỉ khi giải quyết tốt các vấn đề có liên quan đến TNBTTH do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị
thiệt hại cũng như người chịu TNBTTH mới được bảo đảm.
Mặc dù trải qua một thời gian dài phát triển cũng như áp dụng các quy
định của pháp luật về TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Không
thể phủ nhận sự hoàn thiện của pháp luật về TNBTTH ngoài hợp đồng nói
chung và TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ nói riêng nhưng trên thực tế
một số quy đinh liên quan tới TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
vẫn còn một số hạn chế, bất cập không chỉ trong các quy định mà ngay trong
thực tiễn áp dụng xét xử như nhầm lẫn giữa TNBTTH do hành vi con người
gây ra với TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra…chính điều này đã
gây không ít khó khăn cho Thẩm phán trong công tác xét xử, thiếu sự thống
nhất trong việc áp dụng các quy định của pháp luật liên quan đến TNBTTH
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra ở mỗi Tòa án làm cho việc giải quyết tranh
chấp thường kéo dài, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị thiệt hại…

Trước khi BLDS 2015 có hiệu lực, văn bản pháp luật quy định về
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là BLDS 2005, trong đó có những
quy định được hướng dẫn bởi Nghị quyết 03/2006-NQ-HĐTP. Về cơ bản,
TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đã được quy định tại điều 623
BLDS 2005 nhưng chưa bao quát được tất cả các trường hợp xảy ra trên thực
tiễn. Các quy định trong hai văn bản này chưa rõ ràng, tản mát, việc hướng
dẫn áp dụng pháp luật cũng chưa phù hợp với bản chất của TNBTTH do
2


nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Cụ thể, có thể thấy Điều 623 chưa chỉ rõ khi
nào được coi là nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, khi nào là việc sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, đồng thời việc hướng dẫn thi hành
Điều 623 cũng chưa thực sự phù hợp; Hiện nay, TNBTTH do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra được quy định khá đầy đủ trong BLDS năm 2015. Tuy
nhiên, những quy định này vẫn còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, vướng mắc. Một
số quy định còn thiếu cụ thể, rõ ràng nên đã gây nên nhiều bất cập khi áp
dụng pháp luật, làm cho các Tòa án gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết
tranh chấp khi có nhiều quan điểm không thống nhất về việc áp dụng. Từ thực
tế trên cho thấy, việc nghiên cứu để làm rõ các vấn đề lý luận, các vấn đề
pháp lý về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bảo đảm việc hiểu và áp
dụng thống nhất các quy định pháp luật vào thực tiễn là yêu cầu bức thiết. Do
đó, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra theo Bộ Luật Dân sự 2015” sẽ có giá trị cả về măt lý
luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quá trình tìm hiểu và sưu tầm tài liệu cho thấy trước đây đã có một số
công trình nghiên cứu về TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Có
thể kể đến các công trình nghiên cứu như: luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn
Thanh Hồng “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao

thông đường bộ” hay luận văn tốt nghiệp của Đào Thị Thu An “Một số vấn
đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường
bộ” đề cập đến trách nhiệm bồi thường do phương tiện giao thông vận tải gây
ra – một loại nguồn nguy hiểm cao độ.
Một số công trình khoa học như: chuyên đề “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” của TS Vũ Thị Hải Yến trong
đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường đại học Luật Hà Nội; “Trách nhiệm
dân sự do tài sản gây thiệt hại – vấn đề lý luận và thực tiễn “ năm 2009 do
3


PGS TS Trần Thị Huệ làm chủ nhiệm đề tài; Luận văn thạc sỹ luật học của
Trần Trà Giang: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”; Khóa luận tốt nghiệp
của Nguyễn Thị Trang “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra” hay “Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra – bình luận bản án”
của PGS TS Đỗ Văn Đại.
Ngoài ra, nội dung này cũng được đề cập trong các bài viết đăng trên
các tạp chí khoa học, và trang thông tin điện tử như “Bàn về Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” của TS Lê Đình Nghị
(tạp chí Nghề luật số 6/2008); “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra” của Th.S Mai Bộ (tạp chí Tòa án nhân dân số 2/2003); “Bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” của Lê Phước Ngưỡng
(tạp chí Kiểm sát số 7/2005); “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra- Những vướng mắc từ thực tiễn” của Phạm Thị Hồng Đào (Cổng
thông tin điện tử Bộ tư pháp ngày 06/07/2017).
Tuy nhiên, phần lớn các công trình trên chỉ đề cập đến những khía cạnh
khác nhau của TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hoặc có nghiên
cứu chung về TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây do vậy vẫn chưa bao
quát được các nội dung. Đặc biệt, từ khi BLDS 2015 được thông qua vào

ngày 24 tháng 11 năm 2015, rất ít công trình nghiên cứu dưới góc độ luận văn
về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được thực hiện. Do đó, việc
nghiên cứu đề tài trên cơ sở các quy định của BLDS 2015 là hoàn toàn cần
thiết và có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Luận văn “Bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo BLDS 2015”- là luận văn đầu tiên
tập trung nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề TNBTTH do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận về BTTH
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra ở Việt Nam để thấy được những điểm
chưa phù hợp cần sửa đồi bổ sung từ đó đưa ra những giải pháp và hướng
hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này. Để đạt được mục đích
trên, luận văn tốt nghiệp phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về TNBTTH do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra.
- Phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
- Đưa ra những giải pháp, kiến nghị và hướng hoàn thiện các quy định
của pháp luật về TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu
về TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra – một trong những trường
hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Với mong
muốn đưa ra được cái nhìn khái quát, toàn diện về vấn đề nghiên cứu tác giải

triển khai nội dung của luận văn qua cách tiếp cận sự phát triển của chế định
qua những quy định của BLDS 2005 và BLDS 2015, để so sánh sự phát triển
các quy định của pháp luật qua các thời kỳ. Bên cạnh những vấn đề lý luận về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra, tác giả cũng tìm hiểu thực trạng những bất cập của vấn đề này trên
thực tế thông qua tìm hiểu các bản án, vụ việc cụ thể để từ đó đưa ra một số
giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao
tính hiệu quả của việc giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra trong thực tiễn.
5


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận: việc nghiên cứu luận văn sẽ dưa trên cơ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lênin. Đây được coi là kim chỉ nam cho việc định hướng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể của tác giả trong quá trình thực hiện luận văn. Phương pháp
này được tác giả sử dụng để nghiên cứu các vấn đề lý luận trong luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể: trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sẽ sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích và bình luận để làm rõ những vấn đề lý luận
và quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra;
- Phương pháp tổng hợp nhằm khái quát hoá thực trạng pháp luật và
thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra, nhằm đưa ra những kiến nghị phù hợp;
- Phương pháp so sánh để nhằm chỉ ra những điểm tương đồng và khác
biệt giữa quy định của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ và giữa quy định
của pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số nước trên thế giới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học có tính hệ thống những
vấn đề liên quan đến TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra với những
điểm mới so với các công trình nghiên cứu khoa học trước đây như sau:
- Phân tích một cách hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về
TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đồng thời so sánh với các quy
định trong lịch sử về cùng nội dung.
- Chỉ ra nhưng hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện
hành về TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chưa được đề cập đến
một cách cụ thể và chi tiết trong các công nghiên cứu khoa học trước đây.
6


- Xác định một cách cụ thể những hạn chế, vướng mắc, bất cập của quy
định pháp luật hiện hành về TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trên
cơ sở đó chỉ ra nguyên nhân và đề xuất hướng hoàn thiện các quy định này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, cụ thể như sau:
 Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
 Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra ở Việt Nam
 Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra ở Việt Nam
Kết luận

7


CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA
1.1.

Khái quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đông
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là

một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo đó, chủ sở
hữu hoặc người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng hợp pháp
nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe
cũng như bù đắp tổn thất về tinh thần cho những những người bị thiệt hại do
tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, ngay cả trong trường hợp không có
lỗi của họ. Để làm rõ hơn về TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, tác
giả đi vào khái quát lại một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng.
Trước bối cảnh hội nhập toàn cầu, thúc đẩy phát triển kinh tế phát triển
quá nhanh đã làm gia tăng các tranh chấp trong các lĩnh vực khác nhau của
đời sống hằng ngày, đặc biệt là các tranh chấp trong lĩnh vực dân sự. Các
tranh chấp phát sinh khi quyền và lợi ích của các bên bị xâm phạm và lúc đó
vấn đề thiệt hại và BTTH tất yếu được đặt ra. Tức là khi một người xâm phạm
tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và gây thiệt hại thì sẽ phải chịu
TNBTTH mình đã gây ra. Dưới góc độ pháp lý, trách nhiệm đó được hiểu là
trách nhiệm dân sự được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự
nhằm bù đắp tổn thất vật chất và tinh thần cho người bị thiệt hại.
Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý. Do đó nó mang
đầy đủ các đặc điểm giống với các trách nhiệm pháp lý khác đó là: [i] là sự
cưỡng chế của Nhà nước và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng; [ii]
chỉ áp dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật và chỉ áp dụng đối với người có
hành vi vi phạm; [iii] luôn mang lại hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi
phạm. Ngoài ra, trách nhiệm dân sự còn có những đặc điểm riêng như sau: [i]

8


luôn liên quan tới tài sản; [ii] được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm
nhưng cũng có thể áp dụng với những người khác (cha, mẹ, người giám
hộ…); [iii] hậu quả bất lợi mà người vi phạm gánh chịu là phải tiếp tục thực
hiện nghĩa vụ hoặc phải BTTH cho người bị thiệt hại. Có thể hiểu, trách
nhiệm dân sự là sự cưỡng chế của Nhà nước buộc người có hành vi vi phạm
phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc phải BTTH do hành vi vi phạm nghĩa vụ
của mình gây ra.
Điều kiện phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng bao gồm bốn điều
kiện sau:
- Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền do việc xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân tổ chức
[32, Tr.183].
Theo Luật La Mã, có hai thành phần tạo nên khái niệm thiệt hại:
(i)danun engens, tức là thiệt hại thực, sự mất đi của một bộ phận tài sản cụ thể.
Đây có thể hiểu là những thiệt hại nhìn thấy được, cân, đong, đo, đếm, xác định
được; (ii)lucum cesams, tức là mất lợi tức, là sự mất mát tài sản có thể nếu
hoàn cảnh diễn ra bình thường. Đây có thể hiểu là thiệt hại phái sinh. Vì thiệt
hại chính xảy ra dẫn tới những thiệt hại liên quan khác tới thiệt hại chính.
Còn theo quy định của pháp luật Việt Nam thiệt hại được xác định bao
gồm: (i) thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản,
những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền
với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại về vật
chất của người bị thiệt hại; (ii) thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh
thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi
chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng
sức khỏe; (iii) thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại bao gồm chi


9


phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm
sút do danh dự nhân phẩm uy tín bị xâm hại; (iv) thiệt hại về tinh thần;
Như vậy, dù là thiệt hại thực tế hay lợi tức mất thì Luật La Mã vẫn lấy
cơ sở là những thiệt hại về tài sản khi quy định. Trong khi đó, theo quy định
của pháp luật Việt Nam thì thiệt hại không chỉ có thiệt hại về vật chất mà còn
được phát triển thêm nội dung là thiệt hại về tinh thần. Lý giải cho điều này,
theo quan điểm của tác giả, pháp luật Việt Nam được xây dựng bên cạnh
những cơ sở lý luận thực tiễn còn để cao tinh thần nhân đạo, truyền thống
tương thân, tương ái của dân tộc. Do đó, thiệt hại để xác định trách nhiệm bồi
thường không chỉ bao gồm thiệt hại về vật chất, những thứ có thể nhìn thấy và
xác định cụ thể được thành tiền mà còn bao gồm thiệt hại không thể nhìn thấy
được như sự “đau thương, mất mát, tâm lý, tình cảm…” của người bị thiệt hại
hoặc những người thân thích của người bị thiệt hại phải gánh chịu. Đồng thời,
để đúng với ý nghĩa là BTTH về tinh thần thì pháp luật Việt Nam đưa ra khái
niệm “tiền bù đắp tổn thất tinh thần” bởi đây là những thiệt hại phi vật chất,
không thể tính được cụ thể thành tiền, “tiền bù đắp tổn thất về tinh thần”
mang ý nghĩa đồng cảm, động viên, chia sẽ sự suy sụp, mặc cảm tâm lý của
người bị thiệt hại hay những lo lắng, đau thương, mất mát mà người thân
thích của người bị thiệt hại.
- Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật
Hành vi trái pháp luật là những hành vi đã bị pháp luật cấm do tính chất
nguy hiểm của nó đối với xã hội [32, Tr.179]. Hành vi gây thiệt hại có thể là
hành vi trái pháp luật hình sự, dân sự, hành chính, kể cả những hành vi phạm
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm quy tắc sinh hoạt trong
từng cộng đồng dân cư … Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng
hành động, chủ thể đã thực hiện hành vi mà đúng ra không được thực hiện các

hành vi đó. Hành vi gây thiệt hại có thể là hành vi hợp pháp nếu người thực hiện
hành vi đó theo nghĩa vụ mà pháp luật hoặc nghề nghiệp buộc họ phải thực hiện
10


các hành vi đó. Ví dụ: nhân viên phòng cháy, chữa cháy có thể phá huỷ các nhà
dễ cháy xung quanh đám cháy. Trong trường hợp này thì người gây thiệt hại
không phải bồi thường. Đây là những trường hợp gây thiệt hại trong phòng vệ
chính đáng, tình thế cấp thiết hoặc theo yêu cầu của người bị thiệt hại. Tuy
nhiên, nếu vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng, vượt quá yêu cầu của
tình thế cấp thiết thì người gây ra thiệt hại phải BTTH.
- Có lỗi của người gây thiệt hại
Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi. Lỗi được hiểu
là thái độ tâm lí của người có hành vi gây ra thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới
dạng cố ý hoặc vô ý.
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc
không mong muốn nhưng để cho thiệt hại xảy ra. Còn vô ý gây thiệt hại là một
người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải
biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra
thiệt hại nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Thông thường một người bị coi là có lỗi nếu họ có khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi của mình. Vì vậy, những người không nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình thì được coi là không có lỗi trong việc thực hiện
hành các hành vi đó.
Những người không có năng lực hành vi dân sự, người bị mất năng lực
hành vi dân sự không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình nên họ không
phải chịu trách nhiệm. Trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ, bệnh
viện, trường học là những người theo quy định của pháp luật phải chăm sóc,
quản lý, giáo dục… được suy đoán là có lỗi khi không thực hiện nghĩa vụ nêu

trên và họ phải chịu trách nhiệm do lỗi của họ.

11


Lỗi của pháp nhân, cơ quan, tổ chức là lỗi của nhân viên các cơ quan
đó trong quá trình họ thực hiện nhiệm vụ được giao. Vì vậy, các cơ quan này
phải BTTH do nhân viên cơ quan của họ khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Trong trách nhiệm hình sự thì hình thức và mức độ lỗi có vai trò quan
trọng trong việc xác định tội danh và quyết định hình phạt. Tuy nhiên, trong
TNBTTH, hình thức và mức độ lỗi có ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách
nhiệm. Thậm chí người gây ra thiệt hại phải bồi thường ngay cả khi họ không
có lỗi, cụ thể đối với trường hợp tài sản gây thiệt hại, TNBTTH phát sinh
không phụ thuộc vào yếu tố lỗi (lỗi không phải là một trong các điều kiện
phát sinh TNBTH). Có những trường hợp người gây thiệt hại được giảm mức
bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại hoặc thiệt hại xảy ra quá lớn so với
khả năng kinh tế trước mặt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại xảy ra hoàn toàn do
lỗi của người bị thiệt hại thì không phải bồi thường.
- Có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra
Mối quan hệ nhân quả này biểu hiện, hành vi trái pháp luật phải có
trước và là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại xảy ra, thiệt hại phải xảy ra sau và
chính là kết quả của viêc thực hiện hành vi trái pháp luật trước đó.
Trong thực tế, một kết quả xảy ra có thể do rất nhiều nguyên nhân hoặc
một nguyên nhân có thể dẫn đến rất nhiều kết quả. Do đó, khi xác định kết
quả phải xác định chính xác đâu là nguyên nhân dẫn đến kết quả và đâu là kết
quả của nguyên nhân ban đầu. Tức là, khi xác định mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra phải xác định chính xác hành vi
trái pháp luật có phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại không và ngược lại.
Như vậy, TNBTTH ngoài hợp đồng là một dạng cụ thể của trách nhiệm
dân sự nói chung. Đó là một loại trách nhiệm pháp lý, có tính cưỡng chế của

Nhà nước nhằm buộc người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người
khác phải bồi thường, đồng thời giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại
không có quan hệ hợp đồng hoặc có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây
thiệt hại hoàn toàn không liên quan tới nội dung hợp đồng. Hiểu một cách đơn
12


giản hơn thì TNBTTH hại ngoài hợp đồng là chế tài dân sự do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng nhằm để buộc người có lỗi cố ý hoặc vô ý xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích
hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân
hoặc chủ thể khác phải bồi thường những thiệt hại mà mình đã gây ra.
Theo đó, khái niệm TNBTTH ngoài hợp đồng có thể được hiểu như sau:
“TNBTTH ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự mà trong đó một hoặc
nhiều chủ thể phải bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần mà người bị
thiệt hại phải gánh chịu khi các đối tượng được pháp luật bảo vệ bị xâm phạm”
1.2.

Khái quát về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra

1.2.1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ
Thực tế, mỗi loại tài sản đều tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con
người cũng như môi trường xung quanh. Tuy nhiên, có những loại tài sản
tiềm ẩn nguy cơ ở mức độ cao, nhưng cũng có những loại tài sản tiềm ẩn
nguy cơ ở mức độ thấp hơn. Việc phân loại mức độ nguy hiểm cao hay thấp
của một loại tài sản dựa vào đặc tính của từng loại tài sản đó. Theo đó,
“nguồn nguy hiểm cao độ là những vật mà do đặc tính của nó nên trong quá
trình chiếm hữu, khai thác, quản lý, vận chuyển chúng luôn chứa đựng tiềm
ẩn những nguy hiểm khách quan, dễ xảy ra những thiệt hại ở mức độ lớn cho

những người xung quanh” [26; tr.219]. Những quy định của pháp luật dân sự
trước đây cũng chỉ liệt kê những loại tài sản là nguồn nguy hiểm cao độ, mà
không đưa ra khái mang tính khái quát về nguồn nguy hiểm cao độ. Dựa vào
những liệt kê này có thể thấy tài sản là nguồn nguy hiểm cao độ có thể là
động vật (thú dữ), có thể là công trình xây dựng (nhà máy công nghiệp đang
hoạt động), hoặc các loại tài sản khác (phương tiện cơ giới vận tải, …). Do
đó, khi động vật, công trình xây dựng hoặc các loại tài sản khác thỏa mãn
điều kiện của nguồn nguy hiểm cao độ, thì sẽ áp dụng quy định về BTTH do
13


nguồn nguy hiểm cao độ gây ra để giải quyết khi các loại tài sản đó gây thiệt
hại. Các loại tài sản khác cũng tiềm ẩn nguy cơ gây ra thiệt hại nhưng không
ở mức độ cao thì sẽ không xếp vào nguồn nguy hiểm cao độ, và khi các loại
tài sản này gây thiệt hại sẽ áp dụng các quy định cụ thể về BTTH do tài sản
gây ra (do động vật gây ra, do cây cối gây ra, ...) chứ không áp dụng quy định
về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trong một số công trình khoa học có liên quan đến TNBTTH do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra, một số tác giả cũng đưa ra khái niệm về nguồn nguy
hiểm cao độ, có thể trích dẫn một số khái niệm như sau:
Theo tác giả Lê Mai Anh, “Nguồn nguy hiểm cao độ là vật chất trong
thế giới tự nhiên hay hoạt động máy móc, các phương tiện khoa học kỹ thuật
… trong quá trình hoạt động của chúng dễ gây thiệt hại về tài sản, tính mạng,
sức khoẻ cho người khác mà con người không thể kiểm soát được một cách
tuyệt đối” [1; tr.90].
Còn theo tác giả Nguyễn Thanh Hồng, “Nguồn nguy hiểm cao độ bao
gồm những động vật hoặc bất động vật mà khi trông giữ, vận hành chúng
hoặc cho chúng hoạt động thì có thể gây nguy hiểm cao độ đối với tính mạng,
sức khoẻ của con người, cũng như có thể gây thiệt hại lớn đến tài sản của
Nhà nước, tổ chức và cá nhân …”[24; tr.29].

Có thể thấy các tác giả cũng xây dựng khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ
dưới các góc nhìn khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn đi theo hướng liệt kê các loại
nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu xây dựng khái niệm theo hướng liệt kê như vậy
thì hoặc sẽ không thể liệt kê đầy đủ về các loại nguồn nguy hiểm cao độ, hoặc là
sẽ thể hiện sự cứng nhắc trong cách xây dựng khái niệm. Về nguồn nguy hiểm
cao độ, có thể thấy rằng dù nguồn nguy hiểm cao độ đó gắn với sự hoạt động của
bất cứ loại tài sản nào thì cũng đều có những đặc điểm chung đó là:
Thứ nhất, nguồn nguy hiểm cao độ luôn “tiềm ẩn nguy cơ gây ra thiệt
hại bất ngờ cho con người hoặc gây thiệt hại về tài sản mà không phải bao giờ
14


con người cũng có thể lường được trước và có thể ngăn chặn” [30; tr.254].
Đặc điểm này cho thấy, con người “không thể kiểm soát được một cách tuyệt
đối nguy cơ gây thiệt hại” [26; tr.76]. Hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ
thường gây ra thiệt hại một cách bất ngờ, nhanh chóng. Mặc dù con người có
thể nắm bắt được quy trình hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ (ví dụ sự
vận hành của phương tiện giao thông cơ giới), nhưng hoạt động đó khi nào
gây ra thiệt hại thì dường như con người khó có thể nhận biết, tức là việc gây
thiệt hại thường xảy ra một cách đột ngột, bất ngờ (ví dụ thuốc súng, bom, …
phát nổ sẽ gây thiệt hại ngay chứ không kéo dài một quá trình). Trong khi đó,
hoạt động của các loại tài sản khác thường có quá trình gây thiệt hại kéo dài
chứ không đột ngột như nguồn nguy hiểm cao độ (ví dụ, con trâu phá lúa phải
trong một khoảng thời gian dài chứ không thể bước xuống ruộng là cả ruộng
lúa sẽ bị hư hại)
Thứ hai, tần suất gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ cao hơn các
loại tài sản khác. Các loại tài sản khác thường chỉ gây thiệt hại với tần suất
thấp .Tuy nhiên, hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ thường xảy ra liên
tục (ví dụ các vụ cháy, nổ xăng dầu, ga, thuốc súng, … thường kéo dài liên
tục cho đến khi các loại chất này được đặt cạnh nhau cháy hoặc nổ hết).

Thứ ba, Hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ thường khó hạn chế,
khắc phục. Thường thì các loại tài sản khác gây thiệt hại xong thì dẫn đến hậu
quả ngay nên có thể dễ dàng khắc phục hậu quả, và thường thì việc gây thiệt
hại sẽ không tiếp tục (ví dụ, nhà đổ gây thiệt hại xong thì không còn gây thiệt
hại nữa). Song, nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại thì không những chỉ
xảy ra những hậu quả trước mắt (hậu quả ngay), mà còn có thể gây ra những
hậu quả tiếp theo mà con người khó có thể ngăn chặn (chất phóng xạ đã
nhiễm khó khử sạch, thuốc nổ đã nổ một phần thì khó có thể hạn chế phần
còn lại không nổ, …)

15


Thứ tư, Có thể gây thiệt hại ngay cả khi đang có sử quản lý chặt chẽ
của con người. Do đó, đòi hỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng không
những phải quản lý chặt chẽ mà còn phải ngăn cản những người khác tiếp xúc
với nguồn nguy hiểm cao độ. Trong Bộ luật dân sự quy định TNBT của chủ
sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trong
trường hợp để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
Tức là việc quản lý không cẩn thận mà người khác có thể chiếm hữu, sử dụng
trái pháp luật thì chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng cũng phải chịu TNBT.
Ngoài ra, TNBTTH còn phát sinh ngay cả khi hoàn toàn do lỗi vô ý của người
bị thiệt hại. Hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ thường khó kiểm soát, có
thể vượt khỏi sự quản lý của con người, nên pháp luật quy định trách nhiệm
của chủ sở hữu, của người chiếm hữu, sử dụng tài sản rất nghiêm ngặt. Theo
đó, các chủ thể có trách nhiệm quản lý không những phải quản lý chặt chẽ
nguồn nguy hiểm cao độ, mà còn phải ngăn cản những người xung quanh tiếp
xúc với nguồn nguy hiểm cao độ. Điều này thể hiện ở quy định loại trừ
TNBTTH.
Từ những phân tích trên, có thể tổng kết lại và đưa ra khái niệm nguồn

nguy hiểm cao độ như sau: Nguồn nguy hiểm cao độ là những loại tài sản mà
hoạt động của nó luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại lớn cho con người và
môi trường xung quanh với mức độ cao hơn bình thường, mà chủ sở hữu,
người chiếm hữu, người sử dụng, và những người xung quanh khó có thể
phòng tránh và phản ứng kịp thời.
1.2.2. Khái niệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt bởi vì
thiệt hại xảy ra không phải là do hành vi và do lỗi của con người mà là do hoạt
động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt
hại. Dù người chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể

16


không có lỗi đối với thiệt hại xảy ra nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho
người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường.
Trong BLDS Pháp, vấn đề BTTH được quy định rất khái quát. Hầu hết
các quy định chỉ mang tính nguyên tắc chung về BTTH. Trong đó, TNBTTH
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra gần như không được đề cập. Nhưng điều
đó không có nghĩa rằng khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại thì
TNBTTH không phát sinh, hoặc pháp luật Pháp không điều chỉnh vấn đề
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Tất cả các trường hợp tài sản gây
thiệt hại (bao gồm cả những loại nguồn nguy hiểm cao độ như liệt kê tại
khoản 1 Điều 601 BLDS 2015 của Việt Nam), thì vấn đề BTTH sẽ được điều
chỉnh bởi các quy định chung khác, chi tiết cơ sở pháp lý áp dụng đối với
trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại là Điều 1384. Theo đó “Mỗi
người phải chịu trách nhiệm không những về thiệt hại do mình gây ra mà cả
thiệt hại do những người mà mình phải chịu trách nhiệm hoặc những vật mà
mình coi giữ gây ra” [6; Điều 1384]. Nếu nguồn nguy hiểm cao độ là thú dữ thì
cơ sở pháp lý còn bao gồm cả quy định tại Điều 1385. Theo đó, “Chủ sở hữu

một con vật hoặc người sử dụng con vật ấy phải chịu trách nhiệm về thiệt hại
do con vật gây ra, dù nó đang được coi giữ hoặc bị xổng ra” [6; Điều 1385].
Trong BLDS Nhật Bản cũng không đề cập đến thuật ngữ nguồn nguy
hiểm cao độ, theo đó cũng không có quy định riêng điều chỉnh vấn đề BTTH
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Thậm chí, BLDS Nhật Bản không có quy
định mang tính nguyên tắc chung về BTTH do tài sản gây ra. Khi tài sản gây
thiệt hại, TNBTTH chỉ được giải quyết với hai điều luật cụ thể đó là Điều 717
về BTTH do các cấu trúc trên đất gây ra và Điều 718 về BTTH do động vật
gây ra. Vậy, nếu các tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ (theo quan
điểm của Việt Nam) mà gây thiệt hại thì TNBT sẽ được giải quyết theo quy
định nào? Nếu ở Việt Nam, đây được coi là một bất cập lớn. Tuy nhiên, trong
BLDS Nhật Bản, quy định mang tính nguyên tắc chung về BTTH có thể sẽ áp
17


dụng đối với trường hợp này. Tức là “Nếu một người do cố ý hoặc do cẩu thả
mà vi phạm quyền của người khác, thì phải BTTH phát sinh từ việc vi phạm
ấy” [7; tr.709].
Như vậy, so với pháp luật Pháp và pháp luật Nhật Bản, BTTH do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra trong quy định của pháp luật Việt Nam cũng có cơ
sở pháp lý một cách rõ ràng, cụ thể hơn. Sự cụ thể hóa quy định về BTTH do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hoàn toàn phù hợp với thực trạng áp dụng
pháp luật ở Việt Nam, giúp cho việc giải quyết triệt để các tranh chấp về
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể.
Tóm lại, có thể hiểu một cách khái quát BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, phải BTTH kể cả trong trường
hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ
không có lỗi.

1.2.3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng là một trường hợp cụ
thể của TNBTTH ngoài hợp đồng. Do vậy mà các nguyên tắc trong TNBTTH
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng xuất phát từ những nguyên tắc chung
đó. Do vậy việc BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải tuân theo các
nguyên tắc sau:
Thứ nhất, thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Việc bồi
thường xuất phát từ nguyên tắc công bằng, thiệt hại bao nhiêu thì mức bồi
thường sẽ là bấy nhiêu. Và việc bồi thường phải kịp thời cho người bị thiệt
hại nhằm khắc phục tình trạng về tài sản gây ra bao gồm những chi phí hợp lý
để hạn chế, khắc phục thiệt hại.của người bị thiệt hại, tạo điều kiện cho họ
khắc phục tài sản khi bị thiệt hại. Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ

18


Thứ hai, người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không
có lỗi hoặc do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của
mình. Điều này nhằm tạo ra tính khả thi trong việc thực hiện BTTH trên thực
tế. Vì có rất nhiều trường hợp mà khi mức thiệt hại quá lớn so với khả năng
kinh tế của người liên quan đến TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra,
thì họ không thể thực hiện việc bồi thường cho chủ thể kia do không đủ tài
chính để chi trả. Vấn đề xác định lỗi vô ý hay không có lỗi của người gây
thiệt hại để làm căn cứ giảm mức bồi thường tác giả sẽ đi sâu phân tích ở
phần sau.
Thứ ba, khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị
thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. Việc thay đổi mức bồi
thường sẽ căn cứ vào yêu cầu của các bên và thực tế cần phải sự thay đổi mức
bồi thường và do Tòa án xác định. Mức bồi thường có thể tăng hoặc giảm tùy

theo việc xác định đó.
Thứ tư, khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được
bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. Tức là pháp luật đã có sự
phân biệt rạch ròi về phần trách nhiệm chịu BTTH của cả người gây thiệt hại
và người bị thiệt hại, tuy nhiên trong một số trường hợp cụ thể việc xác định
phần lỗi và trách nhiệm của các bên còn gặp nhiều khó khăn và bất cập.
Thứ năm, bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu
thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn
chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
1.2.4. Năng lực chịu TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Người gây thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ
quan nhà nước… Tuy nhiên, chủ thể BTTH phải có “khả năng” bồi thường và
chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù thiệt hại xảy ra có thể
không phải do hành vi trái pháp luật có lỗi của họ. Để xác định chủ thể chịu
19


TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong các trường hợp BTTH nói
chung và thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ nói riêng thì phải xác định xem
họ có năng lực chịu TNBTTH không, Năng lực chịu TNBTTH của chủ thể
được hiểu là khả năng chủ thể đó phải gánh chịu hậu quả bất lợi đối với mình
do gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, theo quy định của BLDS năm 2005 cũng như
BLDS năm 2015, cụ thể tại Điều 606 BLDS 2005 và Điều 586 BLDS 2015
chỉ quy định về năng lực chịu TNBTTH của cá nhân mà không quy định về
năng lực bồi thường của các chủ thể khác. Có thể hiểu một cách chủ quan
rằng điều này có nghĩa là mặc nhiên các chủ thể khác gây thiệt sẽ đương
nhiên được coi là có năng lực chịu TNBTTH.
Cụ thể như sau:
Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt hại phải tự bồi thường vì người từ đủ
18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có khả năng bằng chính

hành vi của mình tự tạo ra các quyền và thực hiện nghĩa vụ
Người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha,
mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi
thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó
để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp thiệt hại do người dưới 15 tuổi
gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý
theo quy định của pháp luật.
Người từ 15 tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ
phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình;
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà
có người giám hộ thì người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản
của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài
sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường

20


bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi
trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
1.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1.3.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra
TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại TNBTTH ngoài
hợp đồng. Theo đó, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, người được giao quản
lý, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải BTTH về tính mạng, sức
khỏe cũng như bù đắp tổn thất về tinh thần cho những những người bị thiệt
hại do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, ngay cả trong trường hợp
không có lỗi của họ.
TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ đặt ra đối với trường hợp tự

thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại [30, Tr.57]. Bản thân nguồn
nguy hiểm cao độ khi hoạt động luôn tiềm ẩn trong nó khả năng gây ra những
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho những người xung quanh. Đây là
những thiệt hại do chính sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra,
thiệt hại hoàn toàn do “tự thân” sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ,
độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người như ô tô, xe máy
đang chạy trên đường thì mất phanh, nổ lốp… thì khi đó trách nhiệm bồi
thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mới phát sinh. Còn nếu những
thiệt hại xảy ra do hành vi trái pháp luật của con người tác động thông qua
nguồn nguy hiểm cao độ mà gây thiệt hại như điều khiển phương tiện vượt
qua tốc độ, không tuân thủ các quy tắc an toàn giao thông gây tai nạn, vi
phạm quy tắc an toàn của hệ thống tải điện gây chết người thì sẽ áp dụng
TNBTTH do hành vi của con người được quy định tại Khoản 1 Điều 584
BLDS 2015 (cơ sở pháp lý của TNBTTH do hành vi gây ra nói chung).
Để đảm bảo việc xác định chính xác cơ sở pháp lý cũng như chủ thể phải
chịu TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng như do hành vi sử
21


×