Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng VPBank chi nhánh Chương Dương ”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.95 KB, 74 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài.
Hơn bốn năm qua kể từ khi VIỆT NAM là thành viên chính thức của tổ chức
thương mại thế giới WTO, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ, thì vẫn còn rất nhiều
khó khăn và thách thức đang chờ đợi VIÊT NAM vượt qua để có thể sánh ngang với
các nước thế giới. Trong môi trường kinh tế toàn cầu hóa như vậy, thì nâng cao năng
lực cạnh tranh kinh tế của mình là yêu cầu khách quan và rất cấp thiết để được hội
nhập sâu rộng và ngày càng có hiệu quả hơn. Một trong những biện pháp để nâng cao
chất lượng cạnh tranh kinh tế là lành mạnh hóa hệ thống Tài Chính – Ngân Hàng. Ở
nước ta, hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của hệ thống NHTM, nó mang lại
60-70% thu nhập của mỗi ngân hàng. Do đó nếu hoạt động tín dụng được đảm bảo an
toàn, hiệu quả thì sẽ có những đóng góp tích cực cho sự ổn định của nền kinh tế, cải
thiện môi trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, duy trì sự tăng trưởng của nền kinh
tế, giải quyết vấn đề thất nghiệp…
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế của
chúng ta, ngân hàng là kênh huy động vốn, cung cấp vốn cũng như giữ vốn nhàn rỗi
cho các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Hoạt động tín dụng là hoạt động quan
trọng và cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Do đó để có hoạt động và cạnh tranh một cách
hiệu quả thì các ngân hàng cần phải quan tâm đặc biệt tới hoạt động tín dụng, đặc biệt
là chất lượng tín dụng ngắn hạn.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu, từ thực tiễn đặt ra đặc biệt là trong thời
gian em thực tập tại ngân hàng VP Bank Chương Dương, được sự giúp đỡ của các anh
chị, cô chú trong ngân hàng , em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài : “ Giải pháp
nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng VPBank chi
nhánh Chương Dương ”
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Đề tài đề cập đến những vấn đề cơ bản lý luận về hoạt động tín dụng nói chung
và hoạt động tín dụng ngắn hạn nói riêng, làm rõ vai trò của tín dụng ngân hàng
1
thương mại từ đó thấy rõ tầm quan trọng của chất lượng tín dụng trọng hoạt động kinh
doanh của ngân hàng và ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng tín dụng.


Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng đặc biệt là tín dụng ngắn hạn
tại ngân hàng VP Bank chi nhanh Chương Dương để từ đó chỉ ra kết quả đạt được,
những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó đồng thời kiến nghị
nhằm củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn nhằm đảm bảo an toàn cho
hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng là phạm trù rất rộng, bao gồm nhiều
hoạt động như các hoạt động huy động vốn, cho vay, bảo lãnh Trong bài chuyên đề
này chỉ đề cập chủ yếu tới chất lượng tín dụng ngắn hạn ở góc độ cho vay.
Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề lý luận, thực tiễn có liên quan trực tiếp đến hoạt
động tín dụng của Ngân hàng thương mại và chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Ngân
hàng VP Bank chi nhánh Chương Dương.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Chuyên đề sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng trong mối
quan hệ với duy vật lịch sử đồng thời kết hợp sử dụng phương pháp so sánh, phân tích,
tổng hợp và sử dụng các bảng số liệu để minh họa từ đó rút ra kết luận.
5. Kết cấu của chuyên đề.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Khái niệm về tín dụng ngắn hạn và chất lượng tín dụng ngắn
hạn của NHTM.
Chương II: Thực trạng chất lượng tại ngân hàng VPBank chi nhanh
Chương Dương.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại ngân
hàng VP bank chi nhánh Chương Dương.
2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG
NGẮN HẠN VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN
HẠN CỦA NHTM
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG.
1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng và đặc trưng của tín dụng

ngân hàng.
Bản chất của tín dụng là quan hệ phân phối vốn dựa trên nguyên tắc
hoàn trả vốn. Sự hoàn trả của tín dụng là đặc trưng thuộc về bản chất của quá
trình vận động tín dụng. Quan hệ tín dụng gắn liền với quan hệ kinh tế giữa
người đi vay và người cho vay. Nó thể hiện quy trình vận động của vốn vay
thông qua việc sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất và điểm cuối
của quá trình là sự hoàn trả (cả gốc lẫn lãi) của tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là
ngân hàng, một bên là các cá nhân và các tổ chức trong xã hội, trong đó
ngân hàng giữ vai trò là người đi vay, vừa là người cho vay.
Từ khái niệm trên ta có 3 đặc trưng của tín dụng ngân hàng là:
- Một là, tín dụng là sự cung cấp một lượng giá tị dựa trên cơ sở lòng
tin. Ở đây người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu qủa
sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ. Từ đặc trưng
này cho thấy quan hệ tín dụng chỉ xảy ra khi các bên có sự tin tưởng lẫn nhau.
Để có lòng tin đối với khách hàng, ngân hàng luôn thẩm định đánh giá khách
hàng trước khi cho vay. Nên khâu này được thực hiện một cách khách quan,
chính xác thì việc cho vay của ngân hàng gặp ít rủi ro và ngược lại.
- Hai là, tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn.
Đặc trưng này của tín dụng xuất phát từ tính chuyển nhượng tạm thời. Để
đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, người cho vay xác định thời hạn cho vay phụ
thuộc vào quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay và tính chất vốn của
3
ngân hàng. Như vậy, nếu ngân hàng định kỳ hạn nợ một cách phù hợp với đối
tượng vay thì khả năng trả nợ rất cao và ngược lại.
- Ba là, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên
nguyên tắc hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Đây là thuộc tính riêng có của tín dụng vì
vốn cho vay của ngân hàng là vốn huy động của những người tạm thời thừa
vốn nên sau một thời gian nhất định ngân hàng phải có nguồn bù đắp chi phí
hoạt động như khấu hao tài sản cố định, trả lương cán bộ công nhân viên, chi

phí văn phòng phẩm… cho nên người vay ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả
cho ngân hàng một khoản lãi. Đây là nguồn thu nhập chính của ngân hàng, là
cơ sở để ngân hàng tồn tại và phát triển.
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
Trong điều kiện đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, có sự
điều tiết vĩ mô của nhà nước, tín dụng nói chung và tín dụng ngân hàng nói
riêng có vai trò hết sức quan trọng, nó huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong
dân cư, trong toàn bộ xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh, từ đó thúc đẩy
quá trình tập trung vốn, phát triển sản xuất, kích thích sự tăng trưởng kinh tế.
- Một là, tín dụng ngân hàng phục vụ sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và các đơn vị kinh tế nói riêng. Thực hiện chức năng phân phối lại (cho
vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho các
đơn vị kinh tế dự trữ vật tư, hàng hoá, thoả mãn những chi phí trong quá trình
sản xuất cũng như lưu thông, tăng thêm giá trị tscđ, tslđ mà đơn vị đã sử
dụng, do vậy, tín dụng góp phần tăng nhanh tốc độ chu chuyển vật tư, hàng
hoá trong nền kinh tế, rút ngắn thời gian lưu thông, giảm bởt chi phí, tạo điều
kiện nâng cao lợi nhuận. Qua các chức năng của mình, tín dụng ngân hàng tác
động mạnh mẽ đến sự phát triển của các ngành kinh tế: Công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông vận tải, văn hoá nghệ thuật Bởi hoạt động tín dụng thoả
mãn nhu cầu về vốn nhằm giúp đỡ các ngành nghề thực hiện thuận lợi nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh, tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả lao động,
4
vật tư, tiền vốn, cơ sở vật chất, kỹ thuật sẵn có, qua đó củng cố chế độ hạch
toán kinh tế.
- Hai là, tín dụng ngân hàng là công cụ để nhà nước tài trợ cho các
ngành kinh tế mũi nhọn hoặc các ngành kinh tế kém phát triển thông qua
chính sách ưu đãi, từ đó thúc đẩy các ngành kinh tế cùng phát triển, đẩy
nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Ba là, tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc tổ chức
điều hoà lưu thông tiền tệ. Trong nền kinh tế hàng hoá, quy luật giá trị và quy

luật lưu thông tiền tệ đòi hỏi sự cân đối giữa hàng hoá và tiền tệ, đảm bảo sự
ổn định tiền tệ, ổn định đời sống nhân dân, là một tiền đề quan trọng để vận
dụng có hiệu quả các quy luật trong hệ thống quản lí kinh tế. Việc sử dụng tín
dụng như một đòn bẩy kinh tế góp phần xác lập quan hệ cân đối hàng tiền
không những là cần thiết mà còn là một khả năng hiện thực. trước hết, trong
quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng huy động và tập trung thực
những vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, đồng thời khi thu nợ cũng rút khỏi lưu
thông một bộ phận tiền tệ. mặt khác, trong quá trình cân đối nguồn vốn tín
dụng, ngân hàng phát hành thêm tiền tệ cho vay phát triển sản xuất, tăng
nhanh tốc độ chu chuyển tiền mặt qua ngân hàng. Sau nữa, để thực hiện mối
quan hệ kinh tế giữa các tổ chức kinh tế với nhau, cũng như mối quan hệ tín
dụng giữa ngân hàng với các tổ chức kinh tế thì các tổ chức kinh tế phải mở
tài khoản tại ngân hàng. Việc mở tài khoản tại ngân hàng tạo khả năng củng
cố và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Như vậy, việc tăng thêm
hoặc rút bớt một lượng tiền trong lưu thông, việc mở thanh toán không dùng
tiền mặt, việc cho vay phát triển sản xuất, tổ chức lưu thông hàng hoá là
những biểu hiện của vai trò tín dụng ngân hàng trong lĩnh vực điều hoà lưu
thông tiền tệ, góp phần xác lập quan hệ cân đối hàng tiền.
- Bốn là, tín dụng ngân hàng có vai trò là công cụ kiểm soát hoạt động
kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội. Trước hết, tất cả các thành
phần kinh tế đều có mối quan hệ tín dụng thường xuyên với ngân hàng và
5
chính mối quan hệ tín dụng này vừa tạo khả năng, vừa yêu cầu ngân hàng tiến
hành kiểm soát bằng tín dụng các mặt hoạt động kinh tế. Hơn nữa, quan hệ tín
dụng là một quan hệ kinh tế dựa trên nguyên tắc hoàn trả nên ngân hàng phải
thực hiện kiểm soát đối với hoạt động kinh tế của đơn vị vay để nguyên tắc
hoàn trả được đảm bảo, ngân hàng không bị mất vốn ban đầu. Không những
thế, hiệu quả kinh tế xã hội chỉ đạt được yêu cầu khi ngân hàng thực hiện
kiểm soát bằng tín dụng các hoạt động kinh tế một cách thường xuyên, toàn
diện và chặt chẽ thông qua cơ chế kiểm soát bằng tín dụng khi cho vay, khi

xét duyệt cho vay và suất quá trình đơn vị kinh tế sử dụng vốn vay. Mục đích
của kiểm soát bằng tín dụng là phản ánh tổng hợp và nhạy bén quá trình thực
hiện các kế hoạch kinh tế, qua đó phát hiện những hiện tượng đầu tư tín dụng
không đúng đối tượng, không có trọng điểm, gây lãng phí vốn. Do vậy, việc
kiểm soát có chất lượng tạo điều kiện để việc cấp vốn tín dụng cho nền kinh
tế đúng hướng và đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Năm là, đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, tín dụng ngân hàng tạo
điều kiện phát triển kinh tế giữa các nước. Hiện nay sự phát triển của mỗi
nước đều gắn với thị trường quốc tế, do đó tín dụng trở thành phương tiện để
nối các nước với nhau. Nó có vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu
hoặc nhờ vốn tín dụng bên ngoài mà phát triển kinh tế trong nước.
- Sáu là, tín dụng ngân hàng là động lực đối với việc hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Để thực hiện thành công quá trình này thì cần phải có vốn. Nguồn vốn
dùng để tài trợ có thể là vốn trong nước hay vay nước ngoài trong đó ngân
hàng chính là trung gian tài chính huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế
để cho vay.
1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng.
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản cho vay theo nhóm dựa
trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại tin dụng có cơ sở khoa học là
tiền để để thiết lập quy trình tín dụng thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị
6
rủi ro tín dụng. Trong qúa trình phân loại có thể sử dụng nhiều tiêu thức để
phân loại tín dụng song thực tế cấc nhà kinh tế học thường phân loại tín dụng
theo các tiêu thức sau đây:
1.1.3.1. Thời hạn tín dụng.
Căn cứ vào tiêu thức này có thể chia tín dụng ra làm ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và
được sử dụng để bổ sung sự thiếu hút tạm thời về vốn lưu động của các doanh
nghiệp và phục vụ các nhu cầu về sinh hoạt cá nhân. đây là tín dụng ít rủi ro

cho ngân hàng vì trong thời gian ngắn ít có những biến động xảy ra và nếu
xảy ra cũng là những biến động ngân hàng có thể dự tính được.
- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến năm
năm và chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới
kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu
hồi vốn nhanh. hình thức tín dụng này có mức độ rủi ro không cao vì ngân
hàng có khả năng dự đoán được những biến động xảy ra.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, được sử
dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới,
các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, sân bay, bến cảng…) cải tiến và
mở rộng sản xuất với quy mô lớn. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro rất lớn
vì trong thời gian dài thì có những biến động xảy ra không thể lường trước
được.
1.1.3.2. Đối tượng tín dụng.
Nếu căn cứ vào đối tượng tín dụng có thể chia tín dụng thành 2 loại:
- Tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng được sử dụng để hình thành
vốn lưu động của cấc tổ chức kinh tế, có ý nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu
động cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán khoản nợ dưới hình thức
chiết khấu kỳ phiếu. Đây là loại tín dụng có mức độ ro thấp vì vốn lưu động
của doanh nghiệp là vốn luân chuyển trong chu kỳ sản xuất kinh doanh nên
7
ngân hàng có thể theo dõi thường xuyên và nếu có biến động xảy ra thì kịp
thời thu hồi vốn.
- Tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài
sản cố định, có nghĩa là đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng xí nghiệp và công trình mới. hình thức tín
dụng này thường có mức dộ rủi ro cao hơn vì khả năng thu hồi vốn chậm hơn.
1.1.3.3. Mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Căn cứ vào tiêu thức này tín dụng được chia làm 2 loại:
- Tín dụng không có bảo đảm: Là loại tín dụng không có tài sản thế

chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cấp tín dụng thì chỉ
dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung
thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì
ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của khách hàng mà không cần
một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. Như vậy, mặc dù không có tài sản đảm bảo
nhưng đây cũng là loại tín dụng ít rủi ro cho ngân hàng vì khách hàng có uy
tín rất lớn và có khả năng trả nợ ngân hàng rất cao thì mới được cấp tín dụng
mà không có đảm bảo.
- Tín dụng có đảm bảo: Là loại tín dụng dựa trên cơ sở đảm bảo như
thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Hình thức này áp
dụng đối với những khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi
vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm bảo này là cơ sở pháp lý để ngân
hàng có thêm một nguồn thu nợ thứ hai. Mặc dù có sự đảm bảo nhưng hình
thức này vẫn có mức độ rủi ro vì có thể tài sản bị mất giá hay người bảo lãnh
không thực hiện nghĩa vụ của mình.
1.1.3.4. Tính chất của tín dụng.
Dựa vào tiêu thức này tín dụng được chia làm hai loại:
- Tín dụng gián tiếp: Là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua
việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn
thanh toán. Đây là loại tín dụng có mức độ rủi ro lớn vì ngân hàng không có
8
đầy đủ thông tin về con nợ, hơn nữa các doanh nghiệp hầu như không có kinh
nghiệm trong việc cấp tín dụng cho khách hàng của mình.
- Tín dụng trực tiếp: Là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng cấp vốn
trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ
vay cho ngân hàng. Mức độ rủi ro trong trường hợp này thấp hơn vì ngân
hàng có thể trực tiếp gặp khách hàng và nó được thực hiện bởi những cán bộ
có nghiệp vụ và kinh nghiệm trong việc cung cấp tín dụng.
1.2. TÍN DỤNG NGẮN HẠN.
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngắn hạn và đặc trưng của tín dụng

ngắn hạn.
Theo quyết định 324 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam
tín dụng ngắn hạn là hình thức mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay
ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho
sản

xuấ
t, kinh doanh, dịch vụ và
đời sống.
Thời hạn đối với tín dụng ngắn hạn được tổ chức tín dụng khách hàng
thoả thuận tối đa là 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất,
kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hang
Tín dụng ngắn hạn ngoài những đặc trưng của tín dụng ngân hàng còn
có những đặc điểm riêng sau:
- Tín dụng ngắn hạn là nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại
với thời gian cho vay dưới một năm. chính loại vay này giúp cho ngân hàng
giữ được khả năng thanh toán vì nó tương thích với kết cấu nguồn vốn của
ngân hàng thường là tiền gửi tiết kiệm dưới 12 tháng.
- Lãi suất cho vay ngắn hạn thường nhỏ hơn lãi suất cho vay dài hạn vì
mức độ rủi ro của tín dụng ngắn hạn thường thấp hơn so với tín dụng trung và
dài hạn.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngắn hạn.
1.2.2.1. Vai trò của tín dụng ngắn hạn đối với nền kinh tế.
Ngân hàng trong nền kinh tế với tư cách là một doanh nghiệp kinh
9
doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Với tư cách là một trung gian tài chính, nó là
kênh chuyển vốn từ những nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn và hoạt
động hiệu quả trong nền kinh tế. Các kênh truyền dẫn vốn có thể qua thị
trường tài chính đó là các nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn, nhưng nó đã
bị cạnh tranh mạnh mãnh mẽ của các tổ chức tài chính phi ngân hàng tham

gia vào thị trường này như: Công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, công ty tài
chính Hoặc là thị trường tiền tệ là kênh dẫn và huy động những ngồn vốn
và các giấy tờ có giá ngắn hạn. Thị trường này hoạt động rất linh hoạt và
cung cấp một nguồn một nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế. Do đó tín dụng
ngắn hạn ngày càng phát triển mạnh mẽ
1.2.2.2. Đối với các doanh nghiệp.
- Tín dụng ngắn hạn là nguồn bổ sung vốn lưu động để bảo đảm hoạt
động kinh doanh được liên tục.
Không có sự ăn khớp về mặt thời gian giữa các khoản thu và các
khoản chi của một doanh nghiệp nên tại một thời điểm nhất định, trong nền
kinh tế có những thời điểm trong nền kinh tế có những doanh nghiệp thiếu
vốn tạm thời và cần bổ sung ngay để đảm bảo tính sản xuất được liên tục. Đối
với các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ như các doanh nghiệp bán
lẻ, chế biến thực phẩm, các công ty chế biến nông sản, các doanh nghiệp xây
lắp Hoặc các doanh nghiệp có vòng quay vốn lưu động chậm thì các khoản
tín dụng từ ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc giúp cho quá trình sản
xuất không bị gián đoạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn có ý nghĩa lớn đối với
các doanh nghiệp khi xuất hiện cơ hội kinh doanh trên thị trường, giúp doanh
nghiệp tận dụng được thời cơ phát triển sản xuất.
- Tín dụng ngắn hạn tạo áp lực buộc các doanh nghiệp kinh doanh có
hiệu quả.
10
Một trong những nguyên tắc cơ bản là vay có hoàn trả ngốc lẫn lãi sau
một thời gian nhất định. Do vậy có thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và tạo
lập được uy tín trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng, các doanh nghiệp
phải hoạt động có hiệu quả để trả nợ cho ngân hàng.
Như vậy, tín dụng ngắn hạn cũng là một yếu tố kích thích sản xuất
của doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới công nghệ và cải tiến mẫu mã sản phẩm
để có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất, đưa nhanh sản phẩm vào lưu thông, tạo
lập chỗ đứng trên thị trường.

Đối với các doanh nghiệp lớn, công việc sản xuất đang phát triển thì
phần lớn vốn lưu động đều vay ngân hàng. nhiều doanh nghiệp còn ký hợp
đồng ứng trước để có thể linh hoạt trong việc vay vốn, đáp ứng các cơ hội
kinh doanh. Do tính chất của tín dụng ứng trước là doanh nghiệp phải trả lãi
kể cả trên phần dư nợ vay chưa sử dụng đến. Do đó bắt buộc các doanh
nghiệp phải quay vốn nhanh và tính toán hoạt động kinh doanh có hiệu quả,
mang lại lợi nhuận cho cả doanh nghiệp và cả cho ngân hàng.
Do đó, tín dụng ngắn hạn không chỉ giúp các doanh nghiệp có được
nguồn bổ sung nguồn vốn lưu động mà còn là động lực giúp các doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả, trước là để trả các khoản nợ vay và sau là để phát
triển doanh nghiệp.
1.2.2.3. Đối với ngân hàng.
Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng đã đảm
bảo nguồn thu chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là công
cụ để tạo nên lợi nhuận và phòng chống rủi ro của ngân hàng. Trong quá trình
hoạt động của các ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng phải quan tâm đến
các vấn đề : Phải tạo được nguồn thu bù đắp được các chi phí. Mặt khác phải
đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tín dụng ngắn hạn có thể giúp
các nhà quản trị giải quyết vấn đề này.
11
1.2.3. Phân loại tín dụng ngắn hạn.
Nếu xét theo cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, thì đây là tín
dụng tài trợ vốn lưu động. Nếu như vốn lưu động thường xuyên của
doanh nghiệp không đủ trang trải về loại vốn này, thì doanh nghiệp đó phải
xin vay tín dụng ngân hàng. Nhu cầu về vốn lưu động cao hay thấp tuỳ thuộc
vào tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng quản lý vốn lưu động của
doanh nghiệp. Nhưng dù nhu cầu cao hay thấp, doanh nghiệp luôn sử dụng
tín dụng vốn lưu động với tư cách là các khoản vay ít hay nhiều thường
xuyên theo cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.
Dưới góc độ kỹ thuật tín dụng, Ngân hàng thương mại thực hiện cho

vay ngắn hạn theo các loại hình phổ biến sau đây:
1.2.3.1 Tín dụng ứng trước.
Các tín dụng ứng trước được gọi bằng các từ ngữ khác nhau. Các tên
gọi của chúng thường thể hiện những thực tế rất gần gũi như: Mở tín dụng
khoản, thấu chi, tín dụng vãng lai(hay còn gọi là cho vay luân
chuyển) Nhìn chung, các khoản tín dụng ứng trước chủ yếu theo nhu cầu
toàn bộ tài sản lưu động, nghĩa là không thực hiện một tài sản xác định
nào. Nói chung không có một đảm bảo riêng.
Tín dụng ứng trước bao gồm các loại sau đây:
a. Tín dụng thế chấp hoặc nghiệp vụ mở tín dụng khoản.
Loại tín dụng này là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở
hợp đồng tín dụng trong đó khách hàng được sử dụng một mức cho vay
trong một thời hạn nhất định.
Trong hình thức này, ngân hàng cho khách hàng vay bằng cách mở
cho họ một tín dụng khoản. Khi mở tài khoản như vậy khách hàng không
phải bỏ tiền vào đấy, mà trái lại có thể lấy tiền ra, tiền đó là tiền ứng trước
của ngân hàng vì vậy nghiệp vụ này còn gọi là nghiệp vụ ứng trước. Khách
hàng có thể sử dụng tài khoản này để phát hành séc chi trả hoặc có thể sử
12
dụng cho nhiều mục đích khác. Khi thực hiện một khoản tín dụng ứng
trước tuỳ vào sự nhìn nhân của ngân hàng đối với khách hàng mà có thể
ngân hang đưa ra một trong hai hình thức sau:
- Tín dụng ứng trước không bảo đảm: Là việc cấp tín dụng không
cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh, mà dựa trên cơ sở uy tín của
khách hàng. Trước khi cho vay ngân hàng phải xem xét, đánh giá, phân
tích. Đánh giá khách hàng dựa vào hang loạt chỉ tiêu như mức vốn, lợi
nhuận hàng năm, uy tín của sản phẩm trên thị trường, khả năng tiêu thụ sản
phẩm, trình độ quản
lý.
- Tín dụng ứng trước có bảo đảm: Là loại tín dụng được cấp phát

trên cơ sở có tài sản thế chấp(do đó có tên gọi là tín dụng thế chấp), cầm
cố hay bảo lãnh của một hay nhiều người khác.
b. Thấu chi.
Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trên cơ sở hợp
đồng tín dụng hay còn gọi là tín dụng hạn mức, được thực hiện bằng cách
cho phép khách hàng được sử dụng kết số thiếu(dư nợ) trong một giới hạn
nhất định. Thấu chi là kỹ thuật cho vay đặc biềt mà trong đó xí nghiệp
được sử dụng vốn một cách linh hoạt, các đảm bảo nếu có chỉ là yếu tố
phụ, vì số nợ thường xuyên biến động không thể thực hiện các đảm bảo
trực tiếp. Thấu chi được xem là loại tín dụng không bảo chứng.
Thấu chi là một khoản tín dụng tổng hợp mà doanh nghiệp vay khi
nhu cầu về vốn lưu động của nó vượt khả năng của vốn lưu động. Khi
cấp tín dụng thấu chi ngân hàng không đòi hỏi việc nghiên cứu một nguyên
nhân rất chính xác về sự phát sinh và tìm sự hợp lý của nó trong cơ cấu tài
chính của doanh nghiệp.
c. Tín dụng vãng lai.
Tín dụng vãng lai chưa được giới thiệu đầy đủ trên sách báo Việt
Nam. Có rất nhiều ý kiến khác nhau và đang còn có nhiều sự nhầm lẫn. Do
vậy việc quy tụ những thông tin, những tri thức về nội dung chủ yếu của tín
13
dụng vãng lai, để hiểu thêm những ưu điểm của nó trong nền kinh tế thị
trường. Từ đó rút ra những thích ứng với điều kiện Việt Nam đang trong
quá trình đổi mới và phát triển đa dạng các loại tín dụng của NHTM.
Tín dụng vãng lai được xem là hình thức tín dụng cổ điển nhất. Tín
dụng vãng lai là tín dụng ngân hàng do cơ quan tín dụng cấp cho khách
hàng của mình : bằng bản tệ hoặc ngoại tệ và theo nhu cầu khách hàng có
thể được sử dụng với số lượng khác nhau nhưng không vượt quá số tiền
quy định trong hợp đồng. Việc tính số dư các khoản nộp vào và rút ra khỏi
tài khoản của khách hàng được tiến hành sau những khoảng thời gian quy
định trong hợp đồng, đồng thời với việc thanh toán các khoản chi trả tín

dụng trên tài khoản thống nhất của khách hàng .
d. Tín dụng thời vụ.
Hoạt động thời vụ là hoạt động sản xuất được thực hiện ở một thời
điểm nào đó trong năm trong khi việc tiêu thụ lại được thực hiện tại một
thời điểm khác hoặc ngược lại việc sản xuất được rải đêù trong cả năm để
tránh chi phí đột biến và dàn đều tổng chi phí trong khi việc tiêu thụ lại
được tiến hành trong một thời gian rất ngắn. Trong các trường hợp này
doanh doanh nghiệp có nhu cầu thời vụ về tài trợ vốn lưu động và nó được
thoả mản bằng tín dụng thời vụ.
Doanh nghiệp yêu cầu ngân hàng phục vụ mình giúp đỡ tài chính ở
các thời vụ. Dựa vào điều tra nghiên cứu của mình, ngân hàng sẽ có kế
hoạch tài trợ thời vụ cụ thể của tong tháng, các nhu cầu và nguồn vốn dự
kiến. Nói cách khác, khi có nhu cầu vượt quá nguồn vốn trong một thời kỳ
nào đó người ta đưa ra nhu cầu đặc biệt về thời vụ mà nếu như mọi việc
diễn ra tốt đẹp, sẽ được san bằng ở thời kỳ bán hàng. Vốn lưu động phải
bù đắp một phần nhu cầu này. Một doanh nghiệp có khả năng suốt năm
đương đầu với thời kỳ mùa vụ mà không cần tới tín dụng bên ngoài, thì
chắc chắn là một doanh nghiệp quản lý chưa tốt nguồn vốn, bởi vì nó chứng
tỏ việc không tận dụng số tư bản thường có trong một thời kỳ của năm và
mức sinh lợi của vốn này do đó cũng phải gánh chịu những hậu quả.
14
1.2.3.2. Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền.
Chiết khấu thương phiếu.
Thương phiếu hay kỳ phiếu thương mại là một giấy nợ phát sinh
trong quan hệ thương mại và người hưởng thụ một trái quyền đối với
người thụ trái khi giấy nợ đến hạn. Thương phiếu là công cụ của tín dụng
thương mại.
Từ thời Trung cổ các thương phiếu đã trở thành phương tiện quan
trong trong kinh doanh ngân hàng. Ngày nay, có rất nhiều nghiệp vụ ngân
hàng được thực hiện thông qua việc chiết khấu thương phiếu:

- Ngân hàng tham gia vào việc thanh toán các phiếu khoán khi
các thương phiếu đó được chiết khấu tại ngân hàng của họ.
- Ngân hàng cũng thực hiện việc thu ngân các phiếu khoán giúp
khách hàng.
Ngoài thanh toán và thực hiên thu ngân hộ khách hàng, ngân hàng có
thể giữ các phiếu khoán làm vật bảo đảm. Nhưng thông thường thì ngân
hàng chiết khấu thương các phiếu.
- Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ cổ điển của ngân hàng, ra đời
rất sớm và mãi đến ngày nay vẫn được các ngân hàng áp dụng một cách
phổ biến. Đây là một nghiệp vụ ít rủi ro và không làm đóng băng vốn của
ngân hàng. Thời hạn cho vay ngắn tối đa là 90 ngày, điều này nâng cao tính
thanh khoản trong quản lý tài sản có của ngân hàng. Mặt khác hai hình thức
cơ bản của thương phiếu là hối phiếu và lệnh phiếu được lập trên cơ sở
hàng hoá đã được chuyển giao cho người mua. Đây chính là tiền đề để
người mua thực hiện kinh doanh của mình, để có khả năng hoàn trả cho
ngân hàng. Lại nữa nghiệp vụ chiết khấu lại ở NHNN khi ngân hàng ngặp khó
khăn về thanh khoản. Mặc dù chiết khấu thương phiếu mang lại nhiều lợi ích
cho khách hàng. Tuy nhiên vẫn có rủi ro xảy ra. Vì vậy trước khi chiết khấu
thương phiếu, ngân hàng phải xem xét kỷ khách hàng đến chiết khấu, xem xét
kỷ các hối phiếu và mối quan hệ của những người có liên quan đến hối phiếu.
15
Như vậy: Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn
hạn, được thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển giao quyền sở hữu
thương phiếu để đổi lấy một số tiền bằng mệnh giá trái phiếu trừ đi lãi chiết
khấu và hoa hồng phí.
Ngoài ra tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền còn gồm
các loại: Nghiệp vụ huy động các trái quyền thương mại, bao thanh toán hay
mua uỷ nhiệm thu
1.2.3.3. Tín dụng bằng chữ ký của ngân hàng.
Loại tín dụng này thực chất là một cam kết lãnh nợ do ngân hàng đưa

ra bằng việc phát hành các chứng thư bảo lãnh hoặc bảo chứng, cam kết trả
thay cho người đi vay nếu người đi vay không trả được nợ. Có trường hợp
đó là sự xác nhận khoản tín dụng đã cấp cho một thời hạn nhất định. Khi
thực hiện cho vay qua cam kết bằng chữ ký, ngân hàng không phải xuất
quỹ đễ cho khách hàng sử dụng một khoản tiền nhất định, mà chỉ đưa ra một
cam kết bảo lãnh cho con nợ đối với chủ nợ. Như vậy, chỉ khi nào con nợ
không trả được nợ thì ngân hàng mới trả nợ hộ. Thông thường để thực hiện
nghiệp vụ này thì ngân hàng phải lập một quỹ bảo lãnh theo một tỷ lệ so
với vốn pháp định. Hiện nay ở Việt Nam số tiền bảo lãnh tín theo tỷ lệ phần
trăm trên tổng giá trị bảo lãnh.
1.3. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN VÀ MỘT SỐ CHỈ
TIÊU ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN.
1.3.1. khái niệm chất lượng tín dụng.
Theo quan điểm của các học giả, chất lượng là sự phù hợp với mục
đích hoặc sử dụng hay là một trình độ dự kiến trước về độ đồng đều và độ tin
cậy với chi phí thấp, phù hợp với thị trường. Nâng cao chất lượng trong hoạt
động là yếu tố quan trọng để một đơn vị kinh doanh đứng vững trên thị
trường, đặc biệt là trong nền kinh tế cạnh tranh. Đối với ngân hàng, hoạt động tín
dụng là hoạt động sinh lời thiết yếu , song cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro.
Chính vì vậy đây là điều mà các ngân hàng thương mại quan tâm nhiều nhất.
16
Chất lượng tín dụng là một khái niệm tương đối, một phạm trù rộng
lớn, nó vừa cụ thể vừa mang tính tổng hợp. Vì vậy, không có định nghĩa
chính xác về chất lượng tín dụng. chất lượng tín dụng có thể được hiểu: Là sự
đáp ứng nhu cầu của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và
đảm bảo sự tồn tại. phát triển của ngân hàng. Như vậy xét về tổng thể, ngân
hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế, vừa tạo ra được hiệu quả xã hội. chất
lượng tín dụng được thể hiện:
- Đối với doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, chất lượng tín dụng ngắn hạn thể hiện các khoản

vay được đáp ứng nhu cầu để đảm bảo quá trình luân chuyển vốn trong quá
trình kinh doanh, nâng cao chất lượng, hiện đại hoá và đa dạng hoá sản phẩm,
tăng sức cạnh tranh trên thị trường. những khoản tín dụng này làm tăng quy
mô sản xuất của doanh nghiệp. Từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận, thu nhập
của công nhân, thu hút nhiều lao động kỹ thuật, đảm bảo việc làm thường
xuyên và ổn định, tăng trưởng tốc độ nhanh. hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp sẽ là căn cứ để đánh giá chất lượng tín dụng. Doanh nghiệp làm ăn có
lãi sẽ có tiền để trả lãi cho khoản vay của ngân hàng đông thời ngân hàng
cũng thu được lãi. Như vậy chất lượng của khoản vay đạt hiệu quả và ngược
lại doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không có tiền trả nợ ngân hàng làm cho ngân hàng
gặp rủi ro và do đó tín dụng ngân hàng được đáng giá là không có chất lượng.
Có thể nói đáng giá chất lượng tín dụng ngắn hạn của doanh nghiệp là
cách đáng giá có hiệu quả nhất vì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế.
- Đối với các ngân hàng thương mại.
Các khoản tín dụng đó phải phù hợp với mục tiêu của ngân hàng trong
từng thời kì. mỗi thời kì, trong giai đoạn khác nhau, mục tiêu của ngân hàng
cũng khác nhau. nếu khoản tín dụng không đáp ứng mục tiêu của ngân hàng
thì chất lượng tín dụng đó không được đảm bảo dù nó đem lại lợi nhuận cho
ngân hàng.
17
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải
phù hợp với khả năng thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và
phải đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả
đúng hạn và có lãi.
Các khoản tín dụng phải đảm bảo được thực hiện đúng quy trình tín
dụng. khi ngân hàng cho vay phải thực hiện theo pháp lệnh ngân hàng và các
văn bản chế độ hiện hành của ngành. xác định đối tượng cho vay và thẩm
định kĩ khách hàng trước khi cho vay, nắm bắt thông tin và tình hình sản xuất
kinh doanh, khả năng tài chính, mục đích sử dụng vốn vay, cơ sở hoàn trả

vốn vay để đảm bảo món vay được hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn, hạn
chế mức thấp nhất khả năng rủi ro có thể xảy ra.
Nếu ngân hàng có uy tín tốt thì khả nâng mở rộng tín dụng cao hơn do
thu hút được nhiều khách hàng hơn và như vậy chất lượng tín dụng của ngân
hàng tăng. để làm được điều này, các ngân hàng phải đáp ứng tốt nhất nhu
cầu khách hàng, đồng thời phải thực sự trở thành người bạn của doanh
nghiệp, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khắn với họ. làm được như vậy thì
nguồn vốn tín dụng sẽ thực sự phát huy được vai trò đòn bẩy, giúp doanh
nghiệp cải tiến thiết bị, đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất, tăng khả năng
cạnh tranh. điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng có thể tránh được rủi ro không
thu hồi được vốn, đảm bảo hiệu quả kinh doanh của chính mình.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội
Một khoản tín dụng có chất lượng cao phải kết hợp được hài hoà lợi ích
của khách hàng, ngân hàng và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.
Vì vậy, ngoài việc đánh giá dưới góc độ ngân hàng và khách hàng, chất lượng
tín dụng ngắn hạn còn được đánh giá dưới góc độ kinh tế xã hội thông qua
các chỉ tiêu sau:
+ Giải quyết vấn đề lao động : Tỷ lệ thất nghiệp luôn là mối quan tâm
hàng đầu của bất kỳ một quốc gia nào. Khi tỷ lệ này tăng thì đời sống của
người dân sẽ gặp khó khăn, tệ nạn xã hội gia tăng… Vì vậy với những khoản
18
cho vay dự án nào giải quyết được vấn để thất nghiệp thì được coi là có hiệu
quả, có chất lượng về mặt kinh tế xã hội.
+ Khả năng khai thác tiềm năng trên địa bàn hoạt động : Một dự án
khai thác được tiềm năng của địa bàn hoạt động (tài nguyên, con người …) thì
sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế của địa bàn phát triển, chuyền dịch cơ cấu
kinh tế, tăng thu ngân sách.
+ Giải quyết vấn đề môi trường : Nếu dự án gây ô nhiễm môi trường
sống xung quanh ảnh hưởng tới sức khoẻ của người lao động, năng suất lao
động sẽ giảm sút, ảnh hưởng tới đời sống của người dân xung quanh, ảnh

hưởng xấu tới đời sống xã hội và như vậy dự án không mang lại hiệu quả cho
nền kinh tế xã hội
+ Chất lượng tín dụng còn thể hiện ở tính an toàn cao của hệ thống
ngân hàng. Tín dụng ngắn hạn đảm bảo được chất lượng tín dụng thì khả năng
thanh toán chi trả sẽ cao, tránh được rủi ro tín dụng ngắn hạn không ảnh
hưởng đến nền kinh tế.
+ Phần lớn nguồn huy động vốn tiết kiệm là các loại tiền gửi ngắn hạn,
nên tỷ trọng cho vay ngắn hạn lớn. Do đó tín dụng ngắn hạn cũng có ảnh
hưởng nhất định tới sự phát triển của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng tín
dụng nói chung và chất lượng tín dụng ngắn hạn nói riêng làm cho hệ thống
ngân hàng phát triển lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô thúc đẩy nền
kinh tế phát triển và hội nhập với cộng đồng quôc tế.
Nói tóm lại, việc đánh giá chất lượng tín dụng có ý nghĩa quan trọng vì
nó là cơ sở đẻ tìm ra các giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
nói chung và chất lượng tín dụng ngắn hạn nói riêng .
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn.
Nền kinh tế thị trường đặt ra vấn đề cho các nhà sản xuất kinh doanh là
phải đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, có như vậy mới tồn tại và phát
triển ổn định. Vì vậy đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm là một yêu
cầu khách quan đối với các doanh nghiệp. Ngân hàng là một tổ chức kinh
19
doanh trên lĩnh vực tiền tệ, vì vậy việc nâng cao chất lượng trong hoạt động
ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng là việc làm cần thiết .
Để việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trước hết cần tién hành
đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn một cách chính xác dầt đủ thông qua
các nhóm chỉ tiêu sau:
+ Một là, chỉ tiêu về huy động vốn ngắn hạn
Tỷ trọng vốn huy động ngắn hạn =
Vốn huy động ngắn hạn
Tổng nguồn vốn

Chỉ tiêu này cho biết trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì vốn ngắn
hạn huy động được bao nhiêu, đồng thời cho biết khả năng huy động vốn
ngắn hạn của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao thì ngân hàng càng có cơ hội
nở rộng đầu tư cho vay ngắn hạn, nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn. Tuy
nhiên, chỉ tiêu này cao cũng đồng nghĩa với viêc chi phí tạo nguồn vốn lớn,
nếu ngân hàng không sử dụng tốt nguồn vốn này thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
lợi nhuận của ngân hàng.
+ Hai là, khả năng cấp tín dụng
Khả năng cấp tín dụng =
Vốn huy động ngắn hạn
Dư nợ tín dụng ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết vốn huy động ngắn hạn đảm bảo bao nhiêu phần
trăm nhu cầu tín dụng ngắn hạn, từ đó cho thấy khả năng tự chủ của ngân
hàng trong việc cấp tín dụng cho nền kinh tế. Ngoài ra,chỉ tiêu này còn ảnh
hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Tỷ lệ này cao chứng tỏ ngân
hàng cho vay ngắn hạn nhiều và đã sử dụng tốt nguồn vốn huy động ngắn
hạn. Nếu tỷ lệ này thấp kết hợp với khả năng huy động vốn ngắn hạn cao thì
có thể kết luận ngân hàng đã sử dụng vốn lãng phí, không hiệu quả, ảnh
hưởng tới lợi nhuận và an toàn trong hoạt động ngân hàng.
+ Ba là, chỉ tiêu về cho vay ngắn hạn
- Chỉ tiêu dư nợ :
Tỷ lệ dư nợ =
Dư nợ ngắn hạn
20
Tổng dư nợ tín
dụng
Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ dư nợ ngắn hạn trong tổng dư nợ tín dụng
của ngân hang. Nếu tỷ lệ dư nợ tăng liên tục qua nhiều thời kỳ có thể nói chất
lượng tín dụng tăng. Tuy nhiên khi đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn qua
chỉ tiêu này cần phải xem xét cả số tương đối và số tuyệt đối. Bởi không phải

tỷ lệ này tăng có nghĩalà cho vay ngắn hạn tăng, nó còn phụ thuộc vào việc
tổng dư nợ tín dụng có tăng hay không.
- Chỉ tiêu vòng quay vốn đầu tư:
Vòng quay vốn đầu tư =
Doanh số thu nợ trong năm
Dư nợ bình quân trong năm
Vòng quay vốn đầu tư cho biết trong một thời gian nhất định vốn ngắn
hạn quay được bao nhiêu vòng. Để đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn
thông qua chỉ tiêu này. Số vòng quay càng cao càng tốt vì điều đó chứng tỏ ngân
hàng thu được nhiều nợ và chứng tỏ ngân hàng đã đầu tư vốn có hiệu quả.
- Chỉ tiêu nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn ngắn hạn
Tổng dư nợ tín dụng ngắn hạn
Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng tín dụng ngắn hạn. Đến
kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên đi vay không trả được nợ hoặc không trả
được lãi một kỳ và không được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển khoản vay
đó sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn là điều mà các ngân hàng không hề mong
muốn và tìm mọi biện pháp để hạ tỷ lệ nợ quá hạn tới mức thấp nhất có thể
được. Cũng như chỉ tiêu dư nợ tín dụng ngắn hạn, cần đánh giá chỉ tiêu này cả
về mặt tương đối và tuyệt đối thì mới có thể kết luận chính xác về chất lượng
tín dụng ngắn hạn. Nếu nợ quá hạn tăng nhưng tỷ lệ này vẫn không tăng thì
có thể kết luận chất lượng tín dụng vẫn được đảm bảo.
- Chỉ tiêu nợ không có khả năng thu hồi :
Tỷ lệ nợ không có khả năng thu hồi =
Nợ không có khả năng thu hồi
Dư nợ tín dụng ngắn hạn
21
Nếu tỷ kệ nợ không có khả năng thu hồi cao thì chất lượng tín dụng
ngắn hạn được đánh giá là thâp, hoạt động của ngân hàng không có hiệu quả

và các chỉ tiêu khác đánh giá chất lương tín dụng ngắn hạn không có giá trị.
+ Bốn là, thu nhập từ hoạt động cho vay
Thu nhập từ hoạt động cho vay =
Lợi nhuận từ tín dụng ngắn hạn
Tổng dư nợ tín dụng ngắn hạn
Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động cho vay cho biết khả năng sinh lời của
tín dụng ngắn hạn. bất kỳ một khoản tín dụng nào, dù ngắn hay dài hạn,
không thể coi đó là có chất lượng cao nếu không đem lại lợi nhuận cho ngân
hàng. ngoài ra còn có thể thấy được vị trí của tín dụng ngắn hạn trong hoạt
động của ngân hàng thông qua chỉ tiêu:
Khả năng sinh lời =
Lãi từ hoạt động cho vay
Tổng thu nhập
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay ngắn hạn.
1.3.3.1. Những nhân tố khách quan.
Hoạt động của mỗi NHTM chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường
kinh tế - xã hội. Một ngân hàng dù có cố gắng đến mấy trong hoạt động kinh
doanh của mình nhưng nếu môi trường kinh tế -xã hội không ổn định thì cũng
khó mà thành công. Ta có thể xem xét ảnh hưởng của môi trường kinh tế - xã
hội đến chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM từ các yếu tố sau:
- Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế phát triển có thể tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Một môi trường kinh tế phát triển lành
mạnh, các chủ thể tham gia nền kinh tế đang hoạt động có hiệu quả sẽ thúc
đẩy mở rộng quy mô tín dụng, chất lượng hoạt động tín dụng cũng sẽ được
nâng lên. Nhưng môi trường kinh tế cũng có thể có những thay đổi bất ngờ.
Chẳng hạn khi lạm phát cao, lãi suất thực tế sẽ giảm xuống và nếu như ngân
hàng không cân đối giữa các khoản mục bên nguồn vốn và tài sản nhạy cảm
với lãi suất thì có thể các khoản tín dụng đó có thể không mang lại hiệu quả
như mong đợi. Cũng có thể có những biến động về tỷ giá hoặc biến động về
22

thị trường làm cho chủ đầu tư bị bất ngờ, dẫn đến tình trạng dòng tiền vào
không như kế hoạch làm giảm khả năng trả nợ cho ngân hàng. Như vậy chất
lượng hoạt động tín dụng của nh chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế mà
nó hoạt động, vấn đề đối với các nh là phải làm tốt công tác dự báo và khả
năng thích ứng nhanh khi có sự biến động nhằm đảm bảo chất lượng của hoạt
động tín dụng.
- Môi trường pháp lý: Một NHTM khi hoạt động phải tuân thủ đầy đủ
các quy định về luật pháp của nhà nước, cũng như của NHNN như vậy môi
trường pháp lý có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng của
ngân hàng. Một hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ giúp các nh
dễ dàng hơn trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của mình, góp phần
vào việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
- Môi trường chính trị -xã hội: Môi trường chính trị xã hội ổn định sẽ
là một nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư và mạnh dạn mở rộng
hoạt động tín dụng. Điều này giúp cho nh có thể thu được nhiều lợi nhuận
hơn. Tác động của môi trường chính trị - xã hội tới chất lượng hoạt động tín
dụng là không thường xuyên, nhưng khi có những biến động về chính trị, tác
động của nó tới các ngân hàng là vô cùng lớn. Một sự thay đổi hệ thống chính
trị bạo động có thể làm cho các ngân hàng mất toàn bộ các khoản tín dụng
của mình, điều này sẽ đẩy nó đến bờ vực phá sản.
1.3.3.2. Những nhân tố chủ quan.
- Chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng là định hướng cơ bản cho
hoạt động tín dụng của nh. Vì thế nó có quyết định to lớn đến sự thành công
hay thất bại của nh. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ kích thích được việc
tiết kiệm và đầu tư thu hút được nhiều khách hàng đảm bảo khả năng sinh lời
của nh, đồng thời tuân thủ theo pháp luật và đường lối chính sách của đảng và
nhà nước đề ra. Bất cứ một nh nào muốn có tín dụng tốt đều phải có một
chính sách tín dụng rõ ràng phù hợp với ngân hàng của mình.
23
- Chất lượng của công tác thẩm định dự án. Thẩm định dự án giúp

ngân hàng xem xét một cách toàn diện các mặt của dự án để xác định tính khả
thi của dự án trên cơ sở đó sẽ quyết định khách hàng này có đủ điều kiện để
được cấp tín dụng hay không. Cũng thông qua công tác thẩm định, nh với
những kinh nghiệm vốn có của mình có thể tư vấn, giúp đỡ cho chủ đầu tư
sửa đổi những điểm không hợp lý trong dự án để dự án có tính khả thi hơn tạo
mối quan hệ tốt với khách hàng.
Thẩm định là công việc đòi hỏi nhiều thời gian và kỹ thuật tính toán
phức tạp. Do công việc này là cơ sở để quyết định có cấp tín dụng hay không
cho nên chất lượng của công tác này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hoạt
động tín dụng. Nếu chất lượng của công tác thẩm định không cao tức là nhân
viên tín dụng không xác định thực chất dự án có hiệu quả hay không thì
những khoản tín dụng mà ngân hàng đã cấp sẽ gặp những rắc rối trong việc
thu hồi các món nợ của mình. Chính vì vậy công tác thẩm định đòi hỏi các
nhân viên thẩm định có trình độ cao và sự kết hợp một cách có hiệu quả giữa
các phòng ban trong ngân hàng.
- Công tác tổ chức hoạt động tín dụng của ngân hàng. Phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như quy mô của ngân hàng, chính sách tín dụng của ngân hàng,
quy mô và loại hình tín dụng, quy trình tín dụng tại ngân hàng đó. Trong quy
trình hoạt động tín dụng, các cán bộ tín dụng sẽ tiếp xúc trực tiếp với người
vay, nhận đơn xin vay, phỏng vấn khách hàng, thu nhập thông tin về khách
hàng và dự án trước khi có quyết định chính thức trình cán bộ cấp cao hơn.
Những thông tin về khách hàng và dự án sau khi được các phòng ban chức
năng của ngân hàng xem xét nếu thấy đủ điều kiện thì sẽ quyết định cụ thể
giải ngân và thu nợ sau này. Trong quá trình này nếu các khâu được thực hiện
tốt nó sẽ giúp cho ngân hàng lựa chọn được các dự án tốt để cấp tín dụng,
cũng như tạo uy tín trong lòng khách hàng.
24
Như vậy, công tác tổ chức thực hiện hoạt động tín dụng có thể hỗ trợ
đắc lực cho nhân viên tín dụng thực hiện công việc của mình và nó có ảnh
hưởng quan trọng đến chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM.

- Chất lượng của đội ngũ nhân sự. Yếu tố mang tính quyết định đến
việc nâng cao hay suy giảm chất lượng tín dụng lại chính là nguồn nhân lực
của ngân hàng vì suy cho cùng quyết định cung cấp tín dụng của ngân hàng là
những quyết định mang tính chất chủ quan. Một ngân hàng với một đội ngũ
lãnh đạo tốt sẽ đưa ra được những chính sách hợp lý và phương thức phát
triển phù hợp với khuynh hướng phát triển của nền kinh tế. Một đội ngũ cán
bộ tín dụng giỏi sẽ giúp ngân hàng có được những khoản cho vay với chất
lượng cao nhất. Các cán bộ của các phòng ban, các bộ phận chức năng khác
sẽ giúp cho ngân hàng mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình, tạo dấu
ấn trong lòng thị trường.
Ngoài ra, chất lượng nguồn thông tin khách hàng, thông tin thương
mại khác cũng góp phần rất lớn vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín
dụng ngân hàng. Điểm yếu của NHTM nước ta là thiếu hệ thống thông tin
khách hàng một cách đầy đủ, kịp thời. Điều này đã phần nào giảm hiệu quả
hoạt động tín dụng ngân hàng.
1.3.3.3. các yếu tố từ khách hàng.
- Do khách hàng kinh doanh thua lỗ. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến nợ quá hạn của ngân hàng. Đối với những khoản vay phục vụ mục đích
kinh doanh thì nguồn vốn vay được sử dụng có hiệu quả không chỉ đem lại
lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn là tiền đề cho sự hoàn trả nợ ngân hàng
cả gốc và lãi. Ngược lại, thua lỗ trong kinh doanh của doanh nghiệp xảy ra
gây tác động xấu và sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ với các mức độ khác
nhau.
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp không lành mạnh, sử dụng vốn
sai mục đích. Nhiều doanh nghiệp dùng vốn vay ngân hàng không đúng
phương án, mục đích xin vay vốn. Các nguồn thu của doanh nghiệp rất hạn
25

×