PHẦN I: MỞ ĐẦU.
1.1. Sự cần thiết của đề tài:
Ngân hàng thương mại(NHTM) là một trong những trung gian tài
chính quan trọng của nền kinh tế đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát
triển như Việt Nam. Thông qua hoạt động của mình, NHTM đã góp phần huy
động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sản xuất và
lưu thông hàng hóa phát triển, là công cụ để điều hòa vốn từ nơi thừa đến nơi
thiếu của nền kinh tế một cách hữu hiệu. Bên cạnh đó, hệ thống NHTM đã
trở thành cầu nối trung gian của ngân hàng Trung ương trong việc thực hiện
các chính sách kinh tế quốc gia để góp phần phát triển kinh tế xã hội. Với thị
phần chiếm hơn 70% cả về huy động vốn và cho vay các ngân hàng thương
mại đang giữ vị trí thống lĩnh trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng của nước
ta.
Trong những năm qua, hệ thống NHTM đã có những bước phát triển
mạnh mẽ.Với chức năng và vai trò là kênh huy động vốn và cung ứng vốn
chủ yếu cho nền kinh tế, các NHTM đã không ngừng mở rộng quy mô hoạt
động và đối tượng khách hàng thông qua các quan hệ tín dụng tiền tệ và phát
triển các dịch vụ ngân hàng khác cụ thể như thiết lập các ngân hàng chi
nhánh, đại lí từ trung ương đến địa phương … phát triển các dịch vụ như bảo
lãnh, thanh toán, kinh doanh kiều hối, chứng khoán…Tuy nhiên hoạt động tín
dụng vẫn là hoạt động bao trùm, là dịch vụ sinh lời chủ yếu đồng thời là lĩnh
vực chứa đựng nhiều rủi ro nhất.
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng rất nhạy cảm liên quan đến
nhiều lĩnh vực kinh tế, chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan như kinh tế chính trị , xã hội... đồng thời lại chịu sự cạnh tranh khốc liệt
với các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác nên chứa đựng nhiều rủi ro.
Chính vì vậy môi quan tâm hàng đầu của các ngân hàng chính là chất lượng
1
hoạt động của mình. Chất lượng hoạt động là yếu tố quyết định sự phát triển
bền vững, lành mạnh của ngân hàng.
Việc gia nhập WTO đã mở ra những cơ hội phát triển mới cho thị
trường tài chính Việt Nam. Trong một hai năm trở lại đây, hoạt động kinh
doanh tiền tệ của ngân hàng Việt Nam rất phát triển. Tính hấp dẫn của kinh
doanh tiền tệ ngân hàng được đánh giá là cao hơn các ngành kinh tế khác.
Bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều thách thức và rủi ro đối với ngành ngân hàng
nói chung và NHTM nói riêng. Cụ thể là sự tăng trưởng quá nóng của tín
dụng, lạm phát gia tăng, nội lực của ngân hàng còn yếu, cơ cấu hệ thống tài
chính còn mất cân đối, năng lực cạnh tranh còn kém, trình độ nguồn nhân lực
còn hạn chế, trình độ công nghệ còn chậm so với khu vực. Trong thời gian tới
khi Việt Nam hội nhập sâu rộng thì sẽ phải đối mặt với các đối thủ nặng kí có
tiềm lực tài chính mạnh, với các dịch vụ đa dạng, hiện đại và thông dụng. Cho
nên cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường tự do hóa tài chính để
từng bước hội nhập với khu vực và thế giới; hoàn thiện và hiện đại hóa hệ
thống ngân hàng và hệ thống thanh toán là xu thế tất yếu đảm bảo cho sự phát
triển của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng của nước ta.
Ngân hàng NN và PTNT Việt Nam là ngân hàng thương mại hàng đầu
giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trong đầu tư vốn và phát triển nông nghiệp,
nông thôn cũng như các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Là doanh nghiệp nhà
nước đặc biệt ngoài chức năng của 1 ngân hàng thương mại, ngân hàng NN
và PTNT được xác định thêm nhiệm vụ đầu tư phát triển đối với khu vực
nông thôn thông qua việc mở rộng đầu tư vốn trung và dài hạn để xây dựng
cơ sở vật chất kĩ thuật cho sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy hải sản góp phần
thực hiện thành công sự nghiệp CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn.
Ngân hàng NN và PTNT huyện Thanh Trì là 1 chi nhánh của ngân
hàng NN và PTNT Việt Nam. Với sự nỗ lực của ban lãnh đạo và toàn thể
2
nhân viên trong ngân hàng đã không ngừng hoàn thiện các hoạt động, không
ngừng nâng cao chất lượng các dịch vụ cung cấp. Tuy nhiên, ngân hàng cũng
không nằm ngoài những khó khăn như hệ thống ngân hàng nước ta đang gặp
phải.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng tại các ngân
hàng vì vậy tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Thực trạng và 1 số giải
pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng NN và PTNT
huyện Thanh Trì”. Qua đó nâng cao hiểu biết về hoạt động tín dụng và đưa
ra được 1 số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng NN
và PTNT huyện Thanh Trì.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
+ Hệ thống hóa một số cơ sở lí luận về tín dụng và chất lượng tín dụng
tại các ngân hàng thương mại.
+ Tìm hiểu tổng quan tình hình tín dụng của ngân hàng Việt Nam nói
chung và thực trạng hoạt động tín dụng tại ngân hàng NN và PTNT huyện
Thanh Trì nói riêng.
+ Qua dó đưa ra được những đánh giá và 1 số giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng tại ngân hàng.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu:
+ Thực trạng và 1 số chính sách về tín dụng của hệ thống ngân hàng
thương mại.
+ Ngân hàng NN và PTNT huyện Thanh Trì.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung: Thực trạng và 1 số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
tại ngân hàng NN và PTNT tại huyện Thanh Trì.
+ Thời gian:
3
Tài liệu được thu thập từ năm 2005 đến năm 2008.
Thời gian thực hiện đề tài:
+Không gian: huyện Thanh Trì
4
PHẦN II: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và các loại hình tín dụng ngân hàng:
2.1.1.1. Khái niệm:
Tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi
giữa người có vốn ( Ngân hàng, TCTD) và người thiếu vốn ( tổ chức, cá
nhân).Theo nghĩa nguyên thủy của khái niệm tín dụng (credit) là tin mà đưa
tiền cho sử dụng. Như vậy tín dụng phụ thuôc rất nhiều chữ tin hay chữ tín ở
người vay tiền. Theo nghĩa rộng, chữ tín này bao hàm cả năng lực tài chính và
sự sẵn sàng trả tiền của người đi vay hay không.
Theo các nhà kinh tế, tín dụng là một phạm trù kinh tế đã tồn tại qua
nhiều hình thái kinh tế xã hội. Tín dung hình thành và phát triển cùng với quá
trình hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, dưới
những góc độ khác nhau, các nhà kinh tế đưa ra những định nghĩa khác nhua
về tín dụng.
Khi nghiên cứu về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền sản xuất
TBCN, C.Mác đã chỉ rõ: “Tín dụng là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ đã
khiến 1 người này giao cho 1 người khác 1 số tư bản nào đó, dưới hình thái
tiền hoặc dưới hình thái hàng hóa đáng giá 1 số tiền nhất định nào đó. Số tiền
này được trả lại trong thời gian nhất định. Từ đó theo C.Mác điểm tất yếu của
sự luân chuyển ( trở về) điểm xuất phát của đồng tiền không chỉ giữ được
nguyên vẹn giá trị mà nó lại đồng thời lớn lên trong quá trình vận động.
Theo tác giả Lê Văn Tề, trong quyển Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng
cho rằng: “ Tín dụng là quan hệ kinh tế vay mượn trên cơ sở lòng tin của cả
người cho vay và người đi vay”.
5
Dù được định nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng bản chất của
tín dụng được thể hiện là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn và
người có vốn dựa trên cơ sở lòng tin. Biểu hiện bề mặt của quan hệ tín dụng
là sự vận động lượng giá trị vốn tín dụng qua các giai đoạn: phân phối vốn tín
dụng, sử dụng vốn tín dụng và hoàn trả vốn tín dụng. Sự vận động của lượng
giá trị vốn tín dụng khi quay về điểm xuất phát luôn phải đảm bảo giá trị và
giá trị tăng thêm dưới hình thức lợi tức thông qua cơ chế điều tiết lãi suất.
Như vậy, ta có thể khái quát như sau: “Tín dụng là quan hệ kinh tế gắn
với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng theo nguyên tắc hoàn trả nhằm
thỏa mãn nhu cầu vốn phát triển kinh tế xã hội”.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng được coi là hình thức
tín dụng phát triển, giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tín dụng. Đối với ngân
hàng nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chính yếu, quyết định sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng được định nghĩa là các quan hệ vay mượn vốn tiền
tệ phát sinh giữa các ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế
theo nguyên tắc tín dụng. Trong đó, đối tượng của tín dụng ngân hàng là vốn
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ đi vay
vốn của những người có vốn để cho vay những người cần vốn, được hưởng
lợi nhuận, theo sự điều tiết của cơ chế thị trường và được pháp luật bảo vệ.
2.1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng huy động vốn và cho vay đều thực hiện dưới hình
thức tiền tệ.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng bao gồm hai quá trình tạo lập và sử
dụng quỹ tín dụng hay còn gọi là hoạt động huy động vốn và cho vay. Trong
quan hệ tín dụng, các ngân hàng bằng cơ chế thích hợp huy động các nguồn
tài chính tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tạo ra quỹ tiền tệ của mình. Đồng
6
thời với quỹ tiền tệ này , ngân hàng sẽ đáp ứng cho nhu cầu về vốn cho quá
trình phát triển kinh tế. Như vậy tiền chính là đối tượng kinh doanh của mỗi
ngân hàng đây chính là điểm dặc biệt phân biệt giữa ngành ngân hàng và các
ngành sản xuất kinh doanh khác.
Trong tín dụng ngân hàng, các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung
gian tài chính trong quá trình huy động vốn và cho vay vốn.
Đăc trưng quan trọng nhất là tín dụng ngân hàng chỉ thay đổi quyền sử
dụng mà không thay đổi quyền sở hữu vốn tín dụng. Những người thừa vốn
không biết đầu tư vào đâu nên đã nhượng quyền sử dụng vốn cho ngân hàng.
Ngân hàng tuy là người mắc nợ nhưng các ngân hàng lại là người chủ động ra
điều kiện vay. Hàng kì ngân hàng phải thanh toán 1 phần phí sử dụng nguồn
vốn gọi đó là lãi và có trách nhiệm hoàn trả đủ gốc khi đến hạn. Sau khi đã
huy động được vốn ngân hàng sẽ tiến hành đưa nguồn tiền đó vào lưu thông
bằng cách cho những người có nhu cầu về vốn vay để thu về 1 phần lãi gọi là
phí cho vay. Khoản phí cho vay này bao gồm phần phí phải chi trả cho nguồn
vốn mà ngân hàng đã huy động và khoản lãi theo quy định của từng ngân
hàng. Khi ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn cho những người có nhu
cầu về vốn, ngân hàng sẽ là người chủ động ra điều kiện cho vay. Người đi
vay cũng phải có trách nhiệm trả cả vốn và lãi theo hợp đồng đã kí với ngân
hàng.
Qúa trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn
toàn phù hợp với quy mô phát triển sản xuất hàng hóa.
Vốn tín dụng ngân hàng tham gia vào quá trình sản xuất hàng hóa.
Nhưng trong nhiều trường hợp vốn tín dụng ngân hàng không tham gia vào
quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa mà chỉ tham gia vào những hoạt
động phi sản xuất vật chất như: cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay tái cầm
cố các loại công trái quốc gia, các loại trái khoán của chính phủ. Những
7
trường hợp trên tín dụng ngân hàng có gia tăng nhưng quy mô sản xuất hàng
hóa không tăng. Trường hợp khác sản xuất hàng hóa tăng nhưng vốn tín dụng
không đáp ứng kịp, mâu thuẫn này diễn ra thường xuyên trong nền kinh tế thị
trường. Những trường hợp trên chứng tỏ vận động tín dụng ngân hàng có sự
độc lập tương đối với sự vận động của quá trình tái sản xuất xã hội.
2.1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng có nhiều loại hay nhiều hình thức khác nhau. Nền
kinh tế càng phát triển các hình thức tín dụng càng phong phú. Việc phân loại
tín dụng nhằm hiểu rõ thêm sự khác biệt của từng loại tín dụng và qua đó ta
có thể sử dụng hoặc hiểu được tín dụng trong từng hoàn cảnh cụ thể. Tùy theo
đối tượng và mục đích ngiên cứu ta có thể phân loại tín dụng theo các hình
thức như sau:
Phân loại theo mục đích:
+Cho vay bất động sản.
+Cho vay công nghiệp.
+Cho vay nông nghiệp.
+Cho vay các định chế tài chính.
+Cho vay cá nhân.
+Cho thuê.
Phân loại theo thời hạn cho vay:
+Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn đến 12 tháng được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn
của cá nhân.
+Cho vay trung hạn: là là khoản vay có thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm
được dung vào đầu tư TSCĐ và còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường
xuyên của các doanh nghiệp đặc biệt là ngững doanh nghiệp mới thành lập.
8
+Cho vay dài hạn: Là các khoản vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn
tối đa có thể lên đến 20 đến 30 năm. Được dùng đáp ứng cá nhu cầu dài hạn.
Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
+Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
câm cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy
tín của khách hàng.
+Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên các cơ sở đảm bảo như
thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
Phân loại theo phương pháp hoàn trả:
+Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ
thể theo hợp đồng.
+Cho vay không có thời hạn cụ thể: với hình thức này ngân hàng có thể
yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ vào bất kì lúc nào, nhưng phải
báo trước 1 thời hạn hợp lí, thời gian này có thể được thỏa thuận trong hợp
đồng.
Phân loại theo xuất xứ tín dụng:
+Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu,
đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho ngân hàng.
+Cho vay gián tiếp: là các khoản cho vay được thực hiện thông qua
việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn
thanh toán.
Các NHTM cho vay gián tiếp theo các loại sau:
- Chiết khấu thương phiếu: người hưởng thụ hối phiếu hoặc lệnh phiếu
còn trong hạn thanh toán có thể nhượng lại cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cấp
cho khách hàng 1 khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng.
Khi chứng từ đến hạn thanh toán người thụ lệnh hối phiếu hoặc người phát
hành lệnh phiếu có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng.
9
- Mua các phiếu bán hàng trả góp: Trong điều kiện hiện nay nhiều
doanh nghiệp thực hiện bán hàng hóa theo hình thức trả góp. Tuy nhiên
nguồn vốn có hạn nên cần có nguồn tài trợ của ngân hàng thông qua việc
nhượng lại các phiếu bán hàng trả góp. Định kì người mua sẽ thanh toán tiền
cho ngân hàng.
- Nghiệp vụ thanh tín( nghiệp cụ factoring) là nghiệp vụ mua các khoản
nợ thương mại(các khoản phải thu), trong đó bên mua( factor) nhận việc thu
nợ và chấp nhận rủi ro tín dụng.
2.1.1.4. Ưu , nhược điểm của tín dụng ngân hàng:
+ Ưu điểm:
- Về khối lượng tín dụng: tín dụng ngân hàng có khả năng cung ứng
những khoản vốn lớn đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay của khách hàng.
- Về thời hạn tín dụng: thông thường người có vốn muốn cho vay ngằn
hạn hơn là cho vay dài hạn bởi vì thời hạn ngắn thì đồng tiền ít rủi ro hơn và
ít tổn thất về khả năng thanh khoản, nhưng người đi vay thường có nhu cầu
vay dài hạn. Còn ngân hàng có thể “đi vay ngắn hạn để cho vay dài hạn”.
Chính nhờ, khả năng chuyển hóa thời hạn này mà ngân hàng có thể tạo điều
kiện cho nhu cầu người tích lũy và người đầu tư được đáp ứng phù hợp.
- Về phạm vi tín dụng: Tín dụng ngân hàng có phạm vi huy động vốn
cũng như cho vay rất lớn, liên quan đến rất nhiều chủ thể và các lĩnh vực khác
nhau trong nền kinh tế. Bởi vậy, nó thích hợp với nhiều đối tượng xin vay
cũng như cho vay.
+ Nhược điểm:
Hạn chế cơ bản của TDNH là có độ rủi ro cao. Hạn chế này gắn liền
với chính những ưu điểm của TDNH, do việc ngân hàng có thể cho vay số
tiền lớn hơn nhiều so với số vốn tự có hoặc sự chuyển hóa thời hạn và phạm
vi tín dụng rất rộng. Những rủi ro về khả năng thu hồi vốn vay hoặc đầu tư
10
vào dự án lợi nhuận thấp … có nguyên nhân cơ bản là sự lựa chọn đối nghịch,
hay rủi ro đạo đức.
2.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung, tích tụ và điều hòa
vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề hiệu quả tài chính được đặt lên
hàng đầu và việc tính toán sử dụng vốn bao giờ cũng gắn liền với cả chi phí,
kể cả chi phí cơ hội. Một khi vốn tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng thì sẽ
lãng phí và tốn kém chi phi cơ hội do vốn chưa được sử dụng vào mục tiêu
sinh lợi. Khi ấy, vốn cần được đem cho vay hay phân phối lại từ nơi tạm thời
nhàn rỗi sang nơi thiếu hụt vốn. Ngược lại, khi thiếu hụt vốn cần có sự bổ
sung kịp thời nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra
liên tục hoặc tăng trưởng như hoạch định. Nhờ có tín dụng ngân hàng, việc
điều hòa hay phân phối lại nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu có thể được
thực hiện 1 cách dễ dàng và nhanh chóng.
Việc tập trung và tích lũy vốn có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh
tế đang phát triển như nước ta. Đứng trước các yêu cầu cấp bách cho sự phát
triển kinh tế đòi hỏi 1 lượng vốn lớn tập trung cho việc phát triển các ngành
và các vùng kinh tế. Hiện nay, nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi được nắm giữ ở
các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế là rất lớn. Nhưng nhiều người tích lũy
không muốn đầu tư bởi vì họ bị hạn chế về khả năng và kiến thức tài chính.
Trong khi đó, hệ thống tín dụng ngân hàng có đủ độ tin cậy do tính chuyên
môn hóa cao và làm giảm bớt rủi ro các cá nhân của những người tích lũy. Do
đó, tín dụng làm cho quá trình tập trung vốn được thực hiện nhanh chóng và
có hiệu quả, tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, dặc biệt là nguồn
vốn dài hạn.
11
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kích thích sản xuất và lưu thông hàng
hóa phát triển.
Bất kì 1 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào cũng có nhu cầu về vốn
đầu tư cho quá trình sản xuất và tái sản xuất phát triển. Chính vì vậy hiện
tượng thừa thiếu vốn tạm thời là hiện tượng diễn ra thường xuyên tại các
doanh nghiệp. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sản xuất liên tục và
nếu không chủ động được nguồn vốn kịp thời sẽ gây mất khả năng thanh toán
có thể dẫn tới phá sản đối với từng doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng với
việc cấp tín dụng thông qua cho vay kịp thời, đã giúp các doanh nghiệp thỏa
mãn nhu cầu về vốn luôn thay đổi, tạo khả năng đảm bảo tính liên tục của quá
trình sản xuất kinh doanh, không để tồn đọng vốn trong quá trình luân
chuyển. Bên cạnh đó, vốn tín dụng tạo điều kiện những người muốn đầu tư có
được khả năng vay vốn để đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo thêm
sản phẩm, hàng hóa cho nền kinh tế quốc dân.
Ngày nay. các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường cạnh tranh rất
cao đòi hỏi các doanh nghiệp phải cải tiến cơ sở vật chất, mở rộng sản xuất,
ứng dụng công nghệ mới và hiện đại nâng cao năng lực của máy móc, giảm
giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tín dụng ngân hàng góp phần tạo
điều kiện cho doanh nghiệp có thể thực hiện được các dự án đầu tư lớn, tạo ra
những bước nhảy vọt về năng lực do được tiếp cận với máy móc thiết bị hiện
đại, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tín dụng ngân hàng góp phần điều chỉnh, ổn định và tăng trưởng kinh
tế.
Xu hướng của các nhà đầu tư hiện nay là đầu tư vào những ngành, lĩnh
vực thu lại lợi nhuận cao đặc biệt là 1 số ngành như công nghệ thông tin, hay
chứng khoán… trong khi đó nền kinh tế đòi hỏi phải có sự phát triển cân đối,
đồng bộ giữa các ngành và các vùng, cần phải có những ngành then chốt, mũi
12
nhọn để tạo đà cho nền kinh tế phát triển. Tín dụng ngân hàng góp phần đảm
bảo đầu tư vốn cho cơ sở hạ tầng, hình thành các ngành then chốt và các
ngành kinh tế trọng điểm, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu.
Tín dụng còn là phương tiện để nhà nước thực hiện các chính sách tiền
tệ thích hợp để ổn định nền kinh tế khi nền kinh tế có những dấu hiệu bất ổn.
Với các công cụ trực tiếp như: hạn mức tín dụng, lãi suất, tỷ giá đồng thời
thiết lâp và bước đàu sử dụng các công cụ gián tiếp như dự trữ bắt buộc, tái
cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở… đã góp phần giúp nhà nước tăng cường
phạm vi và hiệu quả điều tiết kiểm soát tiền tệ. góp phần quan trọng trong ổn
định hệ thống tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo vốn cho quá trình tăng
trưởng kinh tế và tạo điều kiện phát triển thị trường tiền tệ.
Tín dụng góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và thực hiện các
chính sách xã hội của nhà nước.
Với hệ thống ngân hàng rộng khắp, tín dụng ngân hàng giúp cho mọi
người dân có thể tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng từ đó có điều kiện
nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống. Gắn trách nhiệm của người dân
đối với nguồn vốn vay tạo sức ép buộc chủ thể kinh doanh phải thiết lập và
phát triển các dự án kinh doanh có hiệu quả để vừa có thể trả lãi ngân hàng
đồng thời kinh doanh có lãi, tái sản xuất sức lao động, làm giàu cho mình và
cho xã hội.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng, các ngành nghề
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ đặc biệt là ở khu vực nông thôn.
Thông qua đó góp phần giải quyết vần đề việc làm, hạn chế các tiêu cực xã
hội và các luồng dân cư di chuyển từ khu vực nông thôn vào thành thị.
Nhà nước sử dụng tín dụng ngân hàng không chỉ là 1 công cụ thực hiện
các chính sách điều tiết kinh tế mà còn hướng tới các mục tiêu xã hội nhằm
giải quyết các vấn đề cấp bách đang diễn ra hiện nay là xóa đói giảm nghèo,
13
dân số, việc làm…Với việc áp dụng các ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và
thời hạn vay cho các đối tượng chính sách và các hộ nghèo, tín dụng đã đóng
vai trò rất quan trọng trong thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí,
giải quyết công ăn việc làm, xây dựng đội ngũ cán bộ cho địa phương giảm
dần khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị.
Tín dụng góp phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Trong nền kinh tế mở, nhu cầù vay vốn nước ngoài trở thành nhu cầu
bức thiết đặc biệt là đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam còn
nhiều hạn chế về điều kiện và nguồn lực. Nguồn vốn vay từ nước ngoài đóng
vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực sản xuất, tiếp cận trình độ
công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lí của các nước trên thế giới.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy việc giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa các
nước trên thế giới mở rộng quan hệ ngoại thương tạo điều kiện nâng cao thu
nhập cho ngân sách nhà nước đồng thời thu hút được nguồn vốn đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài cho phép khai thác tối đa nguồn lực hiện có cho quá trình
phát triển kinh tế.
2.1.3. Lãi suất tín dụng:
2.1.3.1. Khái niệm:
Hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với lợi tức thu được từ hoạt
động tín dụng hay còn gọi là lợi tức tín dụng bởi vì lợi tức tín dụng là thước
đo hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Khi ngân hàng thực hiện
quyền cho vay, lợi tức được hiểu là thu nhập có được do chuyển nhượng
quyền sử dụng vốn vay hay là thu nhập nhằm bù dắp cho chi phí cơ hội của
vốn vay. Ngược lại, khi ngân hàng thực hiện quyền vay, lợi tức chính là chi
phí mà người đi vay phải trả cho người cho vay để có được quyền sử dụng
vốn vay.
14
Lợi tức tín dụng thu được nhiều hay ít phụ thuộc vào doanh số cho vay
và lãi suất tín dụng của mỗi ngân hàng. Trong đó, Lãi suất tín dụng là 1 yếu tố
quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Lãi suất tín dụng là sự cụ thể hóa
lợi tức tín dụng dưới hình thức giá trị tương đối ( tỷ lệ %) bao gồm 2 loại lãi
suât đó là : lãi suất huy động tiết kiệm và lãi suất cho vay. LS hiểu theo nghĩa
chung nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá của một quyền vay trong một
khoảng thời gian nhất định được biểu hiện bằng tỷ lệ so sánh tổng lợi tức thu
được so với tổng vốn cho vay trong 1 khoản thời gian xác định.. Việc quyết
định lãi suất cho vay sẽ phải dựa trên các thông số về mức kỳ vọng sinh lời
của ngân hàng, rủi ro tín dụng của khoản vay và tỷ lệ an toàn vốn.
. Công thức:
Lãi suất tín dụng trong kì =
Tổng lợi tức thu được trong kì
Tổng doanh số cho vay trong kì
2.1.3.2. Ý nghĩa của lãi suất tín dụng:
Lãi suất tín dụng là công cụ quản lí vĩ mô nền kinh tế.
Trong điều kiện thị trường tiền tệ có nhiều biến động bất thường,
LSTD được NHTƯ sử dụng như là một công cụ để điều hành chính sách
kinh tế. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái và trì trệ NHTƯ có thể hạ
lãi suất nhằm tăng cung tiền và kích cầu để thúc đẩy kinh tế phát triển vượt
qua tình trạng suy thoái. Ngược lai khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát
cao NHTƯ có thể nâng lãi suất huy động vốn và cho vay, điều chỉnh lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu; tăng mạnh tỷ lệ giữ trữ bắt buộc bằng VND và
ngoại tệ … qua đó hạn chế khả năng tạo tiền và mở rộng tín dụng của các
TCTD, góp phần ổn định tiền tệ, bình ổn giá và thực hiện mục tiêu tăng
trưởng kinh tế.
15
LSTD tác động ở một mức độ nhất định đến hoạt động kinh doanh của
từng doanh nghiệp và đến đời sống của dân cư. Khi lãi suất cho vay giảm,
làm cho cầu về vốn của các doanh nghiệp tăng, các doanh nghiệp có xu
hướng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, giải quyết được tình trạng thất
nghiệp trong nền kinh tế và ngược lại. Chính vì vậy lãi suất là công cụ giúp
Nhà Nước điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu vùng nhằm phát triển cân đối nền
kinh tế.
LSTD là công cụ điều tiết kinh tế vi mô.
LSTD là 1 công cụ thực hiện hoạt động của các trung gian tài chính
trong diều kiện cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo tính tự chủ tài chính của các
tổ chức này để có thể tồn tại và phát triển. Dựa trên lãi suất cơ bản và biên độ
giao động cho phép để tăng khối lượng nguồn vốn huy động, đồng thời mở
rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, các tổ chức tài chính trung gian có thể
nâng lãi suất tiền gửi và hạ lãi suất cho vay. Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các
tổ chức này sẽ tạo ra lợi ích kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế.
2.1.3.3. Các loại lãi suất tín dụng:
Nếu căn cứ vào tính chất chỉ đạo của Nhà Nước, lãi suất tín dụng được
chia thành:
+ Lãi suất chỉ đạo: là lãi suất do ngân hàng nhà nươc trung ương công
bố dưới các dạng như lãi suất chiết khấu, lãi suất trần, lãi suất sàn, lãi suất cơ
bản…làm cơ sở để ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng ấn định lãi
suất cho vay.
- Lãi suất sàn, lãi suất trần là mức lãi suất thấp nhất hoặc cao nhất trong
1 khung lãi suất nào đó, mà ngân hàng trung ương quy định để can thiệp vào
hoạt động tín dụng nhằm bảo vệ quyền lợi của người cho vay hoặc người đi
vay.
16
- Lãi suất cơ bản bao gồm lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất
lien ngân hàng.
.Lãi suất tiền gửi là lãi suất mà ngân hàng thương mại trả cho người gửi
trên số tiền ở tài khoản tiền gửi tiết kiệm.
.Lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở lãi suất tiền gửi theo tính
chất của khoản vay và thời gian vay vốn.
.Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng
cho nhau vay nhằm giải quyết nhu cầu vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ.
+ Lãi suất kinh doanh: là lãi suất do từng hệ thống nâng hàng thương
mại và các tổ chức tín dụng xác định trên cơ sở lãi suất chỉ đạo của ngân hàng
nhà nước.
Nêu căn cứ vào thời gian vay mượn:
+ Lãi suất ngắn hạn.
+ Lãi suất trung hạn.
+ Lãi suất dài hạn.
Nếu căn cứ vào giá trị của tiền tệ:
+ Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được xác định cho 1 kì hạn gửi hoặc
vay chưa tính đén sự giảm giá trị của tiền khi có lạm phát.
+ Lãi suất thực là lãi suất được xác định giá trị thực của khoản lãi có
tính đén sự giảm giá trị của tiền.
Nếu phân loại theo tiền vay:
+ Lãi suất nội tệ là lãi suất để huy động vốn hoặc cho vay bằng đồng
nội tệ trên thị trường vốn trong nước.
+ Lãi suất ngoại tệ là lãi suất dung để huy động vốn hoặc cho vay bằng
dồng ngoại tệ trên thị trường vốn trong nước.
2.1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng:
+Quan hệ cung cầu vốn tín dụng trên thị trường vốn:
17
Lãi suất tín dụng ngân hàng( LSTDNH) là 1 loại giá của tiền tệ. Đã là
giá thì LSTDNH phải được hình thành từ nhiều yếu tố kinh tế thậm chí cả các
yếu tố phi kinh tế. Cũng như giá của các loại hàng hóa thông thường khác, giá
của loại hàng hóa tiền tệ luôn luôn chịu tác động của quan hệ cung cầu trên
thị trường. Khi nhu cầu vốn của thị trường tăng lên mà khả năng cung cấp
vốn không thể đáp ứng được thì lãi suất cho vay của các NHTM tăng lên;
ngược lại, khi nhu cầu vốn trên thị trường giảm thấp trong khi vốn huy động
được các NHTM tăng lên, không có nơi tiêu thụ thì lãi suất cho vay của các
NHTM có thể giảm thấp. Đây là vấn đề có tính quy luật trong nền kinh tế.
LSTDNH khác với các loại giá cả thông thường khác ở chỗ, giá cả của
các hàng hóa thông thường được hình thành trên cơ sở giá thành là chủ yếu;
các yếu tố về quan hệ cung cầu trên thị trường có ảnh hưởng nhất định đến sự
tăng giảm giá của giá cả trên thị trường nhưng không phải là quyết định;
thường có tính chất tạm thời và phạm vi ảnh hưởng, tác động của nó là không
lớn. Trong khi đó, LSTDNH thường được xác định bằng “giá mua vào” tức là
“giá vốn” trên thị trường và chi phí sử dụng vốn. Gía vốn và chi phí huy
động vốn không những chịu sự chi phối của quan hệ cung cầu trên thị trường
mà còn phụ thuộc rất nhiều vào tình hình thị trường, vào đặc điểm kinh tế - xã
hội nơi các NHTM hoạt động.
+ Thực trạng nền kinh tế:
Vì LSTDNH chịu tác động rất nhiều vào tình hình cung cầu vốn trên
thị trường, nên những nhân tố tác động đến LSTDNH bao giờ cũng là các
nhân tố phản ánh một cách đầy đủ tình hình tăng trưởng của nền kinh tế, tình
hình ổn định của sức mua tiền tệ. Kinh tế tăng trưởng bền vững luôn là yếu tố
quyết định đến sự ổn định của sức mua tiền tệ, của LSTDNH. Sự biến động
tăng giảm của LSTDNH hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào tình hình tăng
trưởng kinh tế trong từng thời kỳ. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng, đầu tư
18
trong xã hội tăng làm cho cầu vốn đàu tư tăng do đó lãi suất có xu hướng
tăng. Ngược lại, khi nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái, đầu tư xã hội
giảm, để kích cầu đầu tư, Nhà nước chủ trương hạ lãi suất cơ bản để hạ lãi
suất cho vay.
+ Tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế:
Lạm phát hay tăng giá có tác động nhất định đến lãi suất trên thị
trường. Bởi lẽ, lãi suất là 1 biến số hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế nói
chung và các hiện tượng của lạm phát nói chung. Khi nền kinh tế có lạm phát
quá cao trong 1 thời kì nào thì lãi suất có xu hướng tăng lên. Khi lạm phát
tăng (đặc biệt là khi lạm phát gia tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế) thì
gửi tiền tiết kiệm có thể phải chịu lãi suất âm tức là gửi tiền tiết kiệm không
những không có lãi mà còn lỗ do đồng tiền mất giá khi đó người có vốn sẽ
dùng nguồn vốn tiết kiệm sang tích trữ hàng hóa hoặc đầu tư sang lĩnh vực
khác làm giảm nguồn cung tiền gây áp lực tăng lãi suất trên thị trường. Bên
cạnh đó để hạn chế lạm phát gia tăng ngân hàng trung ương sẽ thực hiện
chính sách tiền tệ thắt chặt,tức là giảm cung tiền cũng là 1 trong những yếu tố
làm cho LSTDNH gia tăng nhanh chóng.
+ Thời hạn hoàn trả.
Nói chung, thời hạn hoàn trả tiền vay càng dài , ngân hàng sẽ yêu cầu
lãi suất càng cao. Lý do là ngân hàng sẽ gặp tình hình rủi ro lớn hơn trong
những thay đổi thực trạng tài chính củ doanh nghiệp trong tương lai và thời
gian cho vay càng dài, tài sản thế chấp càng có thể bị sụt giá tới mức mà giá
trị của nó sẽ không còn dủ để đảm bảo số dư cho tiền vay.
+ Các chính sách vĩ mô của Nhà Nước.
Mỗi chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước đề ra ảnh hưởng đến toàn
bộ ngành, lĩnh vực và mọi đối tượng trong nền kinh tế chính vì vậy nó cũng
tác động rất lớn tới thị trường tín dụng.
19
Bội chi ngân sách là 1 bộ phận quan trọng trong cầu quỹ cho vay nên
khi bội chi ngân sách tăng làm cho cầu quỹ cho vay tăng kéo theo lãi suất có
xu hướng tăng. Thông thường để bù dắp bội chi ngân sách, Chính phủ thường
phát hành thêm trái phiếu và chứng từ có giá. Lượng cung trái phiếu trên thị
trường tăng làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm, lãi suất thị trường có xu
hướng tăng lên.
Chính sách tiền tệ của Chính phủ nhằm kiểm soát lượng cung tiền,
kiểm soát lạm phát và tác động tới lãi suất nhằm thực hiện các mục tiêu nhất
định nên các chính sách tiền tệ tác động mạnh mẽ đến lãi suất.
2.1.4. Chất lượng tín dụng:
2.1.4.1. Khái niệm:
Trong bất kì một hoạt động kinh doanh nào chất lượng hoạt động, chất
lượng sản phẩm luôn là yếu tố quyết định tới sự thành công của mỗi doanh
nghiệp, đối với ngân hàng cũng như vậy.
Ngân hàng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền
tệ, tín dụng là sản phẩm đặc biệt và chiếm vị trí chủ yếu trong mọi hoạt động
của ngân hàng. Chính vì vậy chất lượng hoạt động ngân hàng được thể hiện rõ
nét nhất qua chất lượng của hoạt động tín dụng.
Khái niệm về chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng bao hàm nhiều
nội dung về khả năng tài chính ngân hàng, mức độ thích nghi với sự thay đổi
môi trường, khả năng thu hút khách hàng, tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ nợ quá hạn,
trình độ quản lí, trình độ cán bộ CNV …Chất lượng tín dụng thể hiện ở khả
năng đáp ứng nhu cầu khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển của ngân hàng
và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể như sau:
Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở mức độ thỏa mãn
của khách hàng qua các hình thức tín dụng và dịch vụ mà ngân hàng cung
cấp. Xét về góc độ huy động vốn và cho vay thì ngân hàng cần phải có quy
20
trình thủ tục hồ sơ đơn giản, thực hiện nhanh chóng, lãi suất đầu vào cao, lãi
suất đầu ra thấp, đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn và không gây phiền hà cho
khách hàng .
Đối với ngân hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở chỗ ngân hàng có
hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch hàng năm. Tỷ lệ nợ quá hạn , tỷ lệ an toàn
vốn có phù hợp với các tiêu chuẩn của nhà nước nước quy định và các chuẩn
mực thông lệ quốc tế. Tốc độ phát triển nguồn vốn và dư nợ có đảm bảo với
khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường tài chính hay không?...
Đối với góc độ kinh tế xã hội: Chất lượng tín dụng thể hiện ở chỗ hoạt
động đó đem lại bao nhiêu lợi ích cho xã hội, có phù hợp với định hướng
chung phát triển kinh tế, có tuân thủ luật pháp và đóng góp bao nhiêu phần
trăm tăng trưởng.
Qua đó có thể rút ra:
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ
tiêu tính toán được như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn) vừa trìu tượng ( thể
hiện khả năng thu hút khách hàng tác động đến nền kinh tế). Chất lượng tín
dụng chịu ảnh hưởng của, nhân tố chủ quan ( khả năng quản lý, trình độ cán
bộ), và các nhân tố khách quan( sự thay đổi của môi trường bên ngoài).
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp. Nó không tự nhiên sinh
ra mà là kết quả của một quy trình kết hợp hoạt động giữa con người trong
một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì mục đích chung. Vì vậy, để có chất
lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng
phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín trong hoạt động. Nói cách
khác chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt
động tín dụng.
Đánh giá đúng chất lượng tín dụng và hiểu được các nguyên nhân tác
động giúp các ngân hàng tìm được biện pháp quản lý thích hợp để hạn chế
21
các tác động khách quan, nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo cho ngân
hàng tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
2.1.4.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng:
Ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, các hoạt động của ngân
hàng có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với khách hàng và nền kinh tế thông
qua quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh, các dịch vụ ngân hàng khác
như: huy động vốn; cho vay vốn; thanh toán và các hoạt động dịch vụ khác.
Chính vì lẽ đó rủi ro đối với hoạt động ngân hàng rất đa dạng, tiềm ẩn và
xuất hiện gắn liền với mỗi hoạt động dịch vụ tác động rất lớn và ảnh hưởng
trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức tín dụng, cao hơn nó tác
động ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng bởi chính đặc thù trong hoạt
động tín dụng, hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Việc nâng cao chất lượng tín dụng góp phần nâng cao lợi nhận cho
chính ngân hàng, đảm bảo cho tăng cường CSVC – KT, đào tạo và nâng cao
trình độ cho cán bộ CNV. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng tín dụng cũng
góp phần nâng cao khả năng đáp ứng cho nhu cầu của khách hàng, thúc đẩy
quá trình phát triển KT –XH của địa phương và đất nước.
2.1.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng:
a. Tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ:
Tỷ lệ nợ quá hạn được tính theo công thức sau:
22
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
x 100%
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng
của NHTM. Bởi vì chỉ tiêu này thể hiện chất lượng của những khoản vay. Khi
tỷ lệ này vượt mức giới hạn cho phép nó thể hiện sự yếu kém của hoạt động
tín dụng. Chính vì vậy, tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng hoạt động tín dụng
của ngân hàng càng cao. Theo chuẩn mực quốc tế chỉ tiêu này nằm trong
khoảng từ 2% - 5% là có thể chấp nhân được.
Theo quy định số 493/QĐ – NHNN ngày 22/4/2005 về việc ban hành
quy định phân loại nợ, trích lập và dử dụng dự phòng để xử lí rủi ro và quyết
định số 18/2007/QĐ- NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN về việc
bổ sung sửa đổi một số điều của Quyết định 493, nợ của các NHTM được
phân thành 5 nhóm bao gồm:
+ Nợ nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn
Các khoản nợ trong hạn được TCTD đánh giá là có khả năng trả đủ cả
gốc và lãi.
+ Nợ nhóm 2: Nợ cần chú ý.
Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn 90 ngày và các khoản cơ cấu lại thời
hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn đã cơ cấu lại.
+ Nợ nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn.
Là các khoản nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày hoặc là cá khoản nợ cơ cấu
lại thời hạn trả nợ quá hạn 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
+ Nợ nhóm 4: Nợ nghi ngờ.
- Các khoản nợ quá hạn từ 180 – 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày theo
thời hạn đã cơ cấu lại.
+ Nợ nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn.
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
23
- Các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lí.
- Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo
thời hạn nợ đã cơ cấu lại.
Việc phân loại các nhóm nợ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng
trong quản lý các khoản nợ đến hạn. Góp phần đánh giá mức độ ảnh hưởng
của nợ quá hạn, các khoản nợ không có khả năng thu hồi dẫn đến suy giảm
vốn tự có để có các biện pháp tích cực trong việc xử lí các khoản nợ trong
từng nhóm cụ thể.
Nợ xấu là các loại nợ thuộc nhóm 3 đến nhóm 5. Nhóm nợ xấu là nhóm
nợ quá hạn có mức độ rủi ro cao cho nên đây cũng là một chỉ tiêu cần xem xét
khi đánh giá chất lượng tín dụng. Công thức:
Đối với các khoản nợ này thể hiện chất lượng tín dụng của khoản vay
kém và năng lực tài chính cũng như khả năng trả nợ của khách hàng thấp.
Chính vì vậy chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng càng cao thể hiện chất lượng
tín dụng của ngân hàng yếu kém. Tình trạng này kéo dài làm gia tăng chi phí
đòi nợ, gia tăng các chi phí khác liên quan đến xử lí các khoản nợ khó đòi,
ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng, khả năng sinh lời của đồng vốn huy
động và tác động tiêu cực tới khả năng thanh toán.
b. Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng:
Chất lượng tín dụng được đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau.
Chỉ tính đến kết quả thu được từ hoạt động tín dụng thì chưa phản ánh đầy đủ
về chất lượng hoạt động tín dụng. Nhưng hiệu quả của hoạt động tín dụng thì
nhất định phải thể hiện ở kết quả thu được từ hoạt động tín dụng mang lại cho
24
Tỷ lệ nợ xấu =
Nợ xấu
Tổng dư nợ
x 100
nên lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng là một chỉ tiêu rất quan trọng
trong đánh giá hiệu quả của hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Công thức tính cụ thể như sau:
- Xét về mặt tuyệt đối:
Lợi nhuận từ
hoạt động tín dụng
=
Doanh thu từ
hoạt động tín dụng
-
Chi phí hoạt động
tín dụng
- Xét về mặt tương đối:
Tỷ suất lợi nhuận
trên doanh thu
=
Lãi thu từ hoạt động tín dụng
Doanh thu từ hoạt động tín dụng
x 100%
Đối với chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng cho ta biết
mức tăng tuyệt đối của doanh thu so với chi phí phát sinh từ hoạt động tín
dụng. Thông qua chỉ tiêu này, ta sẽ tính toán mức được tăng, giảm lợi nhuận
qua các năm, mức tăng giảm lợi nhuận bình quân từ đó thể hiện mức độ phát
triển lợi nhuận mà ngân hàng đạt được.
Đối với chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cho biết một đồng
doanh thu từ hoạt động tín dụng tạo ra được bao nhiều đồng lợi nhuận. Nếu
chỉ tiêu trên cho ta thấy sự tăng giảm về mặt lượng của lợi nhuận thu được từ
hoạt động tín dụng, thì chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thể hiện sự
tăng giảm về chất của lợi tức tín dụng. Từ chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên
doanh thu ta có thể đánh giá chính xác hiệu quả của lợi nhuận tín dụng ngân
hàng. Vì vậy, tỷ lệ này càng cao lợi nhuận đạt được càng cao chứng tỏ chất
lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng càng cao.
c.Vòng quay vốn tín dụng:
25