Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.37 KB, 10 trang )

Câu 8 – vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử
Lịch sử vận động và phát triển của XH đã chứng minh rằng con người là
chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Tuy nhiên, vấn đề cần làm rõ là vai trò
quyết định sự phát triển của XH là thuộc về ai? quần chúng nhân dân đông đảo
hay những cá nhân có những phẩm chất đặc biệt - vĩ nhân lãnh tụ. Những vấn đề
đó được triết học Mác Lênin giải quyết một cách khoa học.
1. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò quần chúng nhân dân
1.1. Khái niệm quần chúng nhân dân
Chính hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo
của một cá nhân hay một tổ chức nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình
đã làm cho lịch sử vận động và phát triển qua các giai đoạn khác nhau.
Tuỳ vào điều kiện lịch sử xã hội, tuỳ thuộc vào nhiệm vụ đặt ra cho mỗi
thời đại mà quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, những tầng lớp và
những giai cấp khác nhau.
Như vậy, quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản,
bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành
tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải
quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, XH của một thời đại nhất định.
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi các đặc trưng sau:
Thứ nhất, những người lao động ra của cải vật chất và các giá trị tinh
thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân. Như vậy, quần
chúng nhân dân có số lượng đông đảo.
Thứ hai, quần chúng nhân dân - những bộ phận dân cư chống lại giai cấp
thống trị, áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.
Thứ ba, những giai cấp những tầng lớp XH thúc đẩy sự tiến bộ XH thông
qua các hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Rõ ràng, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động, biến đổi
theo sự phát triển của lịch sử xã hội.
1.2. Vai trò của quần chúng nhân dân
Các trường phái triết học trước Mác đều chưa nhận thức được vai trò của


quần chúng nhân dân: Họ phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò của quần chúng nhân
dân hoặc cho rằng lịch sử phát triển của XH loài người là do lực lượng siêu
nhiên quyết định: tôn giáo cho rằng mọi sự thay đổi trong lịch sử là do ý chí của
đấng tối cao, do mệnh trời tạo nên và trao quyền cho các cá nhân thực hiện. Chủ
nghĩa duy tâm trong triết học đề cao, tuyệt đối hoá vai trò của các cá nhân lãnh
tụ, còn quần chúng nhân dân chỉ là công cụ, là phương tiện để sai khiến. Chủ
nghĩa duy vật trước Mác vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm về XH khi cho
rằng: nhân tố quyết định sự phát triển của XH là tư tưởng, đạo đức của các vĩ
nhân, và chỉ có họ mới sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu, dẫn dắt quần
chúng. Có nhà tư tưởng lại đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, phủ nhận
vai trò của các vĩ nhân, hoặc không lý giải một cách khoa học vai trò của quần
chúng nhân dân.
Đối lập với quan điểm trên, triết học Mác Lênin khẳng định, quần chúng
nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, giữ vai trò quyết định đối với
tiến trình lịch sử. Bởi vì: một lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người
chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng nhân
dân. Hơn nữa tư tưởng, tự bản thân nó không làm biến đổi XH mà phải thông
qua hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân, để
biến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Vai trò sáng tạo chân chính ra lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu
hiện ở ba nội dung sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân giữ vai trò quyết định trong sản xuất ra
của cải vật chất, đảm bảo cho XH tồn tại, phát triển.
Vì sản xuất vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của XH
loài người, mà quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản để tiến hành sản xuất
vật chất, làm cho lực lượng sản xuất phát triển.
Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà
những sản phẩm vật chất đó chỉ có thể được đáp ứng thông qua sản xuất. Lực
lượng sản xuất đông đảo là lao động trí óc và lao động chân tay: họ là người
sáng tạo, cải tạo và trực tiếp sử dụng công cụ sản xuất tác động vào đối tượng

lao động tạo ra của cải vật chất nuôi sống xã hội. Cách mạng khoa học kỹ thuật
hiện nay có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Song, vai trò của khoa học chỉ có thể được phát huy thông qua thực tiễn
sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại
và trí thức trong nền sản xuất XH của thời đại kinh tế trí thức. Bằng hoạt động
thực tiễn của mình, quần chúng nhân dân trực tiếp biến đường lối chính sách
kinh tế thành hiện thực. Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản xuất của quần
chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến
cách mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ
là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi
cuộc cách mạng.
Nguyên nhân suy đến cùng của cuộc cách mạng XH là giải quyết mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động
sản xuất vật chất của nhân dân. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến XH
từ hình thái kinh tế - XH này sang hình thái kinh tế XH khác, nhân dân lao động
là lực lượng đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng là sự nghiệp của
quần chúng. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế,
chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Thực tế đã chỉ rõ không có cuộc cách mạng XH nào mà chỉ có cá nhân lãnh
tụ, không có quần chúng nhân dân.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh
thần. Vì quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra đời sống vật chất thì cũng
quyết định đời sống tinh thần của xã hội. Triết học Mác không phủ nhận vai trò
của các danh nhân văn hóa, nhưng khẳng định vai trò quyết định của quần chúng
nhân dân. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa
học nghệ thuật, văn học đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào thực tiễn.
Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính

trị, đạo đức…của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự
phát triển của nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt
động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho
mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa chỉ
có thể được trường tôn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận,
truyền bá sâu rộng và gìn giữ để trở thành giá trị phổ biến.
Tóm lại, từ hoạt động sản xuất vật chất đến hoạt động tinh thần, từ lĩnh
vực kinh tế đến chính trị, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định
trong lịch sử. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần
chúng nhân dân cũng biểu hiện khác nhau.
Lịch sử tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò sức
mạnh của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Danh
nhân văn hóa Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền
cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết”. Đảng cộng sản
Việt Nam cũng khẳng định rằng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quan
điểm “lấy dân làm gốc” trở thành tư tưởng thường trực trong mọi hoạt động
sáng tạo của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2. Vai trò của lãnh tụ trong lịch sử
2.1. Khái niệm
Trong sự phát triển của lịch sử, khi phong trào cách mạng của quần chúng
nhân dân hình thành và phát triển dẫn tới sự xuất hiện của lãnh tụ. Đó là những
cá nhân kiệt xuất.
Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất, trưởng thành từ phong trào của quần
chúng, nắm bắt được những vấn đề căn bản nhất trong một lĩnh vực nhất định
của hoạt động thực tiễn và lý luận. Đó là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật.
Như vậy, để trở thành lãnh tụ phải là người có phẩm chất cơ bản sau:
Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của
dân tộc, quốc tế và thời đại.
Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và

hành động của quần chúng nhân dân vào nhiệm vụ dân tộc, quốc tế và thời đại.
Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi ích của
dân tộc, quốc tế thời đại.
Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, dân tộc khác nhau, thời kỳ khác
nhau khi lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết thì tất yếu sẽ xuất hiện
những lãnh tụ từ phong trào quần chúng nhân dân, đáp ứng với yêu cầu của lịch
sử. Lênin viết “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền
thống trị nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ
chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong
trào”.
Lãnh tụ xuất hiện là tất yếu vì: XH loài người vận động phát triển theo
các qui luật khách quan vốn có của nó. Hoạt động của con người chỉ thực sự có
tác dụng thúc đẩy sự phát triển của XH khi họ nắm được và hành động theo qui
luật khách quan đó. Nhưng trình độ nhận thức của con người hoàn toàn khác
nhau. Không phải bất cứ ai cũng nắm được qui luật vận động của lịch sử. Trong
quá trình phát triển lâu dài của phong trào quần chúng, khi lịch sử đòi hỏi, sẽ
xuất hiện những cá nhân đáp ứng được yêu cầu đó. Lãnh tụ XH là tất yếu.
2.2. Vai trò của lãnh tụ
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân ở mỗi giai đoạn cách mạng
xã hội, lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu sau:
Trước hết, nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu
biết những qui luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội.
Trên cơ sở đó mà định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hoạt
động cách mạng.
Từ đó tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý
chí hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết những mục tiêu cách
mạng để ra. Từ nhiệm vụ của lãnh tụ, thấy rõ vai trò của lãnh tụ đối với phong
trào quần chúng như sau:
Một là, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ xã hội: nắm bắt được qui luật

vận động khách quan của lịch sử thì lãnh tụ sẽ thúc đẩy sự phát triển của XH
thông qua lãnh đạo phong trào quần chúng; ngược lại, nếu không nắm bắt được
những qui luật của lịch sử XH thì lãnh tụ sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội,
thậm chí có thể dẫn lịch sử trải qua những bước quanh co, phức tạp.
Hai là, lãnh tụ với vai trò của mình sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã
hội, là linh hồn của tổ chức đó. Vì vậy, lãnh tụ là người tổ chức điều khiển và
quản lý các tổ chức chính trị, xã hội, có vai trò và ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại,
phát triển và hoạt động của các tổ chức ấy.
Ba là, lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt
ra của thời đại đó. Không có lãnh tụ cho mọi thời đại, chỉ có lãnh tụ gắn với một
thời đại nhất định. Sau khi hoàn thành vai trò của mình, lãnh tụ trở thành biểu
tượng tinh thần mãi mãi tồn tại trong nhân dân.
3. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ
Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ là quan hệ biện chứng,
nó được biểu hiện:
Thứ nhất, là sự thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Không
có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình kinh
tế, chính trị, XH của đông đảo quần chúng nhân dân, thì cũng không thể xuất
hiện lãnh tụ. Những cá nhân kiệt xuất, ưu tú là sản phẩm của thời đại. Vì vậy họ
sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng.
Thứ hai, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi
ích của mình. Sự thống nhất về các mục tiêu cách mạng, hành động cách mạng
giữa quần chúng nhân dân là lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích qui định. Lợi ích
biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau: lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi
ích văn hóa… quan hệ lợi ích là cầu nối, là nội lực để liên kết các cá nhân cũng
như quần chúng nhân dân thành một khối thống nhất về ý chí và hành động. Lợi
ích đó cũng vận động, phát triển tuỳ thuộc vào thời đại, vào địa vị lịch sử của
giai cấp cầm quyền mà lãnh tụ làm đại biểu, phụ thuộc vào khả năng nhận thức
và vận dụng để giải quyết mối quan hệ giữa các cá nhân, giai cấp và tầng lớp xã
hội. Như vậy, mức độ thống nhất về lợi ích là cơ sở qui định sự thống nhất hành

động giữa lãnh tụ và quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Thứ ba, sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong
vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Cùng đóng vai trò thúc đẩy lịch sử
phát triển, nhưng quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển,
còn lãnh tụ là người định hướng dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển của
lịch sử.
Bởi vậy, quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ là quan hệ
biện chứng vừa có sự thống nhất vừa có sự khác biệt.Sự thống nhất biện chứng
và sự khác biệt giữa lãnh tụ và phong trào quần chúng thể hiện:
Phong trào quần chúng quyết định sức mạnh, đặc điểm của lãnh tụ. Bởi
vì: phong trào cách mạng của quần chúng đòi hỏi phải có lãnh tụ để tổ chức lãnh
đạo phong trào đó là yêu cầu khách quan, không có yêu cầu đó không có lãnh tụ
xuất hiện. Chính phong trào cách mạng của quần chúng đã đào luyện lãnh tụ của
mình. Lãnh tụ luôn gắn với phong trào quần chúng.
Ngược lại, khi lãnh tụ xuất hiện với tài năng, đức độ, uy tín lãnh tụ có ảnh
hưởng to lớn đến hướng đi, qui mô, tốc độ và sắc thái của phong trào cách
mạng, qua đó tác động đến sự phát triển của lịch sử. Đặc biệt, những thời điểm
cách mạng gặp khó khăn, khi thời cơ cách mạng xuất hiện… Sự sáng suốt, tài
giỏi, quyết đoán của lãnh tụ giữ vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, vai trò của lãnh tụ có to lớn đến đâu cũng
không quyết định toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử, vai trò đó thuộc về
quần chúng nhân dân. Lãnh tụ có yếu kém, sai lầm đến đâu cũng chỉ kìm hãm
tiến trình phát triển của lịch sử, đến một mức độ nhất định sẽ bị lịch sử đào thải.
Chủ nghĩa Mác Lênin đánh giá rất cao vai trò của cá nhân lãnh tụ trong sự
phát triển của lịch sử, nhưng kiên quyết chống lại tệ sùng bái cá nhân. Tệ sùng
bái cá nhân là thần thánh hóa cá nhân người lãnh đạo đi đến chỗ chỉ thấy vai trò
quyết định tất cả của cá nhân lãnh đạo mà thấy hoặc xem nhẹ vai trò lãnh đạo
tập thể và quần chúng nhân dân.
Tệ sùng bái cá nhân tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực như thái độ xu nịnh,
quan liêu, gia trưởng, hành động tham nhũng, cũng như mọi tệ nạn khác. Nó phá

hoại nghiêm trọng mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ,
phá hoại thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Người mắc căn bệnh về sùng bái cá nhân thường đặt mình cao hơn tập
thể, đứng ngoài đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước. Họ
không thực hiện đúng nguyên tắc sinh hoạt Đảng, gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn
kết.
Vì vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin luôn luôn coi sùng bái
cá nhân là một hiện tượng hoàn toàn xa lạ với bản chất, mục đích, lý tưởng của
giai cấp công nhân. Những lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân như Mác, Ăng
ghen và Lênin trong cả cuộc đời mình luôn khiêm tốn, chân thành, không hề
tách ra khỏi quần chúng nhân dân, mặc dù họ là những lãnh tụ kiệt xuất được
quần chúng tin yêu, tôn kính.
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã suốt đời gắn bó với quần
chúng nhân dân, khơi dậy, đề cao và tập hợp sức mạnh quần chúng làm nên
những thành tựu kỳ diệu của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX.
Vượt lên các trào lưu triết học trước đó, Các Mác và Ăng ghen đã đưa ra
cách lý giải khoa học về con người, về bản chất con người. Từ chỗ khẳng định
con người là một thực thế thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội, là chủ thể
và là sản phẩm của lịch sử. Triết học Mác giải quyết khoa học mối quan hệ giữa
cá nhân và xã hội, chỉ rõ sự thống nhất, sự mâu thuẫn cũng như cách giải quyết
quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Triết học Mác khẳng định lịch sử phát triển của
nhân loại là do con người sáng tạo nên, nhưng sự quyết định ra lịch sử thúc đẩy
lịch sử phát triển là do quần chúng nhân dân tạo nên. Cá nhân lãnh tụ có vai trò
rất quan trọng nhưng không quyết định được sự phát triển của lịch sử. Nghiên
cứu vấn đề này giúp ta hiểu hơn về đường lối của Đảng ta trong quá trình phát
huy sức mạnh của tất cả các nguồn lực phục vụ cho quá trình xây dựng và bảo
vệ tổ quốc
4. Phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi mới
Phát huy truyền thống coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân, trong
lịch sử dân tộc, đồng thời lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và tự

thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã rút ra bài học lấy lấy dân làm gốc. Từ
thực tế khó khăn của thời kỳ chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không
quân của đế quốc Mỹ, nhân dân Quảng Bình đã đưa một tổng kết quý giá :”Dễ
mười lần không dân cũng chịu; Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Hồ Chí Minh
hết sức tâm đắc với sự tổng kết đó, và đã không ít lần sử dụng lại trong các bài
viết, bài nói của mình. Ngày nay, bài học đó vẫn giữ nguyên giá trị.
Tuy vậy, những năm qua, đặc biệt là thời kỳ trước đổi mới (năm 1986)
bệnh quan liêu, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng ở một số cán bộ Đảng
viên là người lãnh đạo đã làm xói mòn mối liên hệ mật thiết vốn có giữa Đảng và
quần chúng. Hậu quả của tình trạng đó không những làm tính tích cực XH của
quần chúng nhân dân bị hạn chế hoặc tước bỏ quyền làm chủ của quần chúng,
làm cho quần chúng thiếu tin tưởng vào lực lượng của bản thân mình, làm cho họ
có thái độ phục tùng tiêu cực mù quáng, thiếu suy nghĩ phán đoán, thiếu độc lập
tự chủ, không phát huy được tính tích cực sáng tạo của đông đảo quần chúng
trong sự nghiệp cách mạng, mà còn làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng. Từ
thực tiễn nước ta trước 1986, Văn kiện Đại hội Đảng lần VI đã rút ra một trong
những bài học kinh nghiệm là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải
quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH
cũng khẳng định “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không
lường được đối với vận mệnh đất nước”
Quán triệt bài học này, trong quá trình đổi mới chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn. Vì vậy, Đại hội IX của Đảng đã tổng kết 15 năm đổi mới và rút
ra bài học “Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp
với thực tiễn luôn luôn sáng tạo”.
Đánh giá về những thành tựu về kinh tế -XH sau 20 năm đổi mới Đảng ta
đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó bài học kinh nghiệm thứ ba
của Đảng có nêu:”Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân , phát
huy vai trò chủ động ,sáng tạo của nhân dân,xuất phát từ thực tiễn,nhạy bén với

cái mới.”(- Văn kiện Đại hội X.)
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đổi mới cũng là sự nghiệp của
dân, do dân, vì dân. Để đưa công cuộc đổi mới tới thắng lợi, phải phát huy được
tính chủ động, sáng tạo, tham gia một cách tích cực, tự giác của nhân dân. Đổi
mới là một sự nghiệp mới mẻ, chưa có tiền lệ. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều
khó khăn xuất hiện cần có nhận thức mới, giải pháp mới. Chính ở đây, việc dựa
vào dân, qua thực tiễn phong phú của nhân dân tiến hành tổng kết, từng bước tìm
ra quy luật các mặt của cuộc sống để đi lên, đó là chìa khóa của thành công.
Từ khi bắt đầu khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước năm
1986 đến nay, cùng với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XH chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, thực hiện việc quản lý XH bằng pháp quyền, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, thực hiện phương châm “ dân biết, dân làm, dân kiểm
tra”, Đảng thực sự dựa vào dân, huy động sức mạnh của nhân dân trong việc giải
quyết những vấn đề bức xúc của cuộc sống đặt ra. tại Đại hội Đảng lần VII, Đảng
đã khẳng định “Tăng cường hơn nữa khối đoàn kết toàn dân, động viên được lực
lượng của mọi tầng lớp nhân dân vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Giữ vững đoàn kết trong Đảng và thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng và nhân dân”. Bên cạnh đó, trong công cuộc đổi mới Đảng đã chú trọng
đến việc phát huy phong trào quần chúng và việc tăng cường công tác dân vận
giữ vai trò quan trọng. Đó là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị. Trong công tác
dân vận, Đảng ta đã khẳng định 5 quan điểm xuyên suốt trong quá trình hoạt
động.
Một là mọi đường lối, chủ trương của Đảng, luật pháp chính sách của Nhà
nước phải xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân và phù hợp
với khả năng của quần chúng.
Hai là phải biến quan điểm, đường lối của Đảng thành phong trào cách
mạng của quần chúng.
Ba là phải chăm lo lợi ích thiết thân của quần chúng và thực hiện các
chính sách XH để đảm bảo công bằng xã hội.
Bốn là các hình thức tập họp quần chúng phải đa dạng và phù hợp với

trình độ của từng đối tượng.
Năm là phải phát huy cả hệ thống chính trị trong công tác dân vận. Mỗi
cán bộ, Đảng viên công chức nhà nước đều liên hệ tốt đều liên hê tốt với nhân
dân và làm tốt công tác dân vận, lấy các tổ chức chính trị XH làm nòng cốt trong
công tác dân vận.

×