Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

đề tài nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng vietinbank chi nhánh tây hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.61 KB, 75 trang )

Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng sâu
rộng đến thị trường, tỷ giá, đầu tư và thương mại của nước ta. Tổng kết kinh tế năm
2009, ngoài những thành tích đáng trân trọng, tốc độ tăng trưởng là 5,2%, lạm phát
duy trì ở mức dưới hai con số, thì một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô tiếp tục xấu đi như nợ
chính phủ và nợ nước ngoài tăng cao, bội chi ngân sách tăng lên cả về con số tuyệt đối
lẫn theo tỷ lệ GDP, nhập siêu và cán cân thanh toán tài khoản vãng lai bị thâm hụt. Để
ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, trong năm 2009 Chính phủ đã tập
trung thực hiện cỏc gúi kích cầu đầu tư và tiêu dùng, chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực
hiện các dự án, công trình trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Nhờ vậy, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá thực
tế ước tính đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP.
Để tiếp tục theo đúng định hướng đã chọn và đuổi kịp các nước trong khu vực, nước ta
cần huy động một lượng vốn lớn hơn để đầu tư phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn
của đất nước cũng như các lĩnh vực xã hội. Có thể có nhiều phương thức để huy động
vốn trong đó hệ thống ngân hàng là một trong những kênh huy động vốn hiệu quả của
đất nước. Thông qua các ngân hàng với nghiệp vụ huy động và cho vay, nguồn vốn
huy động từ tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế - xã hội để
chuyển tới những ngành, những lĩnh vực đang cần vốn đầu tư. Có thể nói, hệ thống
ngân hàng đã và đang làm rất tốt vai trò trung gian của nền kinh tế, góp phần huy động
và trung chuyển vốn nhàn rỗi trong xã hội cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Ngoài ra, huy động vốn là hoạt động quan trọng hàng đầu của ngân hàng.
Nhưng điều đáng quan tâm là làm thế nào để có thể huy động vốn một cách hiệu quả,
tạo nguồn vốn dồi dào phục vụ quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước,
đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng ?
Nhận thức được tầm quan trọng cũng như khó khăn của ngân hàng trong hoạt
động huy động vốn, em đã chọn đề tài : ô Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam chi nhánh Tây Hà Nội ằ cho
chuyên đề thực tập của mình.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề này gồm ba phần :


Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
1
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về hiệu quả huy động vốn của ngân hàng
thương mại
Chương 2 : Thực trạng hiệu quả huy động vón tại Ngân hàng Công thương Việt
Nam chi nhánh Tây Hà Nội
Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Công
thương Việt Nam chi nhánh Tây Hà Nội
Để hoàn thành được chuyên đề này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em còn nhận
được nhiều sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Tiến sĩ Phan Hữu Nghị, sự quan tâm
giúp đỡ của cụ chỳ, anh chị trong phòng Kế hoạch tổng hợp chi nhánh Tây Hà Nội.
Tuy nhiên, do thời gian thực tập cũng như trình độ có hạn nên chuyên đề chắc chắn
không tránh khỏi khiếm khuyết, hạn chế. Vì thế em rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của thầy cô, anh chị trong chi nhánh và bạn bè.
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
2
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn cũng như đưa nguồn
vốn đến người vay có cơ hội đầu tư sinh lời, đồng thời ngân hàng cũng giữ vai trò giúp
cho nền kinh tế vận động nhịp nhàng, hiệu quả. Có nhiều cách định nghĩa về ngân hàng
phụ thuộc vào từng giác độ nghiên cứu khác nhau.
Nếu đứng trờn quan điểm cho rằng ngân hàng cung cấp các loại hình dịch vụ thì:
“Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Ngày
nay các tổ chức tài chính khác cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng, và ngược lại
ngân hàng ngày càng mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ của mình về bất động sản, môi

giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện
các dịch vụ mới khác.
Còn nếu xem xét ngân hàng trên phương diện các hoạt động của ngân hàng thì
theo Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam quy định: “Ngõn hàng là loại hình tổ chức
tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân
hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân
hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng
số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toỏn”. Như vậy, ngân hàng là
tổ chức nhận tiền gửi để cho vay, không phải là tổ chức đi vay để cho vay.
Tóm lại, ngân hàng là tổ chức kinh tế đặc biệt với hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Hoạt động của nó có sự ảnh hưởng lớn đến các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội, cá nhân
thông qua các hoạt động huy động tiền gửi, cho vay hay cung cấp các dịch vụ tài chính
khác. Để hoạt động trơ tru, công cụ duy nhất của ngân hàng chính là vốn.
1.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
NHTM hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên vốn của NHTM chủ yếu
là vốn bằng tiền. Vốn là điều kiện quyết định cho sự tồn tại và phát triển trong hoạt động
kinh doanh của các tổ chức kinh tế nói chung và của NHTM nói riêng. Vốn ngân hàng là
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
3
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
giá trị tiền tệ mà ngân hàng có được để thực hiện các hoạt động kinh doanh như cho vay,
đầu tư hoặc các dịch vụ kinh doanh khác nhằm đạt mục tiêu đã định .
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm: nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn tiền gửi, vốn đi
vay và các nguồn khác.
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn ngân
hàng, còn lại được huy động từ nguồn bên ngoài. Với số vốn huy động được, NHTM sử
dụng nó để sinh lời ở những mức độ rủi ro khác nhau, để trang trải cho chi phí huy động
vốn, tích lũy cũng như phục vụ sự phát triển lâu dài.

Với chức năng trung tài chính như trên, NHTM đã tích tụ, tập trung vốn, chuyển
từ tiết kiệm thành đầu tư. Như vậy NHTM làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, làm
giảm chi phí tín dụng cho người đi vay (ngân hàng có khả năng tập hợp và thẩm định
thông tin làm giảm rủi ro thông tin không cân xứng), do đó đã khuyến khích tiết kiệm và
đầu tư, đóng vai trò lớn trong phát triển kinh tế.
1.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Đối với mỗi một ngân hàng, để thực hiện kinh doanh đều phải có một số vốn nhất
định – vốn chủ sử hữu. Tuy vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ (thường khoảng 10%
tổng nguồn vốn) song lại giữ vai trò quan trọng. Vốn chủ sở hữu là “tấm đệm” chống lại
rủi ro phá sản, là sự đảm bảo an toàn cho người gửi tiền, là tiềm lực để ngân hàng xác
định quy mô cho vay và đầu tư, cũng như phát triển các dịch vụ mới, mua sắm trang thiết
bị, công nghệ ngân hàng hiện đại.
• Nguồn vốn hình thành ban đầu
Tùy theo tính chất sở hữu mà vốn hình thành ban đầu của mỗi ngân hàng khác
nhau. Đối với ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, vốn hình thành ban đầu được ngân sách
nhà nước cấp. Còn đối với ngân hàng tư nhân thì đó là vốn riêng của cá nhân, tổ chức
kinh tế tự bỏ ra. Ngân hàng cổ phần do các cổ đông đóng góp bằng việc mua cổ phiếu
thường, cổ phiếu ưu đãi vĩnh viễn. Nếu là ngân hàng liên doanh, các bên trong nước và
nước ngoài cùng đóng góp tạo nên vốn hình thành ban đầu.
Vốn hình thành ban đầu phải đạt những yêu cầu tối thiểu theo quy định của Chính
phủ, vốn tối thiểu đáp ứng điều kiện pháp luật quy định được gọi là vốn pháp định. Đây
là số vốn cần thiết mà ngân hàng phải có để nhận được giấy phép hoạt động. Theo Nghị
định số 141/2006/NĐ-CP về danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng được
Chính phủ ban hành ngày 22/11/2006, chậm nhất vào ngày 31/12/2008 và 31/12/2010, tổ
chức tín dụng được cấp giấy phép thành lập và hoạt động phải có biện pháp bảo đảm có
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
4
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương mức vốn pháp định theo
danh mục cụ thể. Với các ngân hàng thương mại, mức vốn pháp định áp dụng cho đến

năm 2010 là 3.000 tỷ đồng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD; với ngân
hàng chính sách, ngân hàng phát triển là 5.000 tỷ đồng; ngân hàng đầu tư, ngân hàng hợp
tác và quỹ tín dụng nhân dân Trung ương là 3.000 tỷ đồng; với công ty tài chính là 500 tỷ
đồng; công ty cho thuê tài chính là 150 tỷ đồng.
Các ngân hàng sử dụng nguồn vốn hình thành ban đầu này để xây dựng cơ sở hạ
tầng, mua sắm trang thiết bị, đầu tư công nghệ ngân hàng hiện đại…
• Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động của mỡnh, cỏc ngân hàng không ngừng gia tăng quy
mô vốn chủ sở hữu theo nhiều phương thức khác nhau. Quy mô vốn chủ gia tăng giúp
ngân hàng có thể mở rộng cho vay và đầu tư, củng cố niềm tin với khách hàng, hơn nữa
là đủ sức chống đỡ lại tổn thất, thua lỗ cuối cùng. Có nhiều cách tăng vốn chủ sở hữu, có
thể là do lợi nhuận tăng thêm, do nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, cấp
thờm, gúp thờm…
- Lợi nhuận bổ sung vốn chủ sở hữu: khi làm ăn có lãi, ngân hàng thường có
xu hướng trích một phần lợi nhuận sau thuế bổ sung vào vốn chủ sở hữu. Đối với NHTM
hoạt động lâu năm, nguồn vốn bổ sung này có thể rất lớn.
- Cổ phần phát hành thêm, ngân sách cấp thờm, gúp thêm: ngân hàng cổ
phần có thể tăng vốn bằng phát hành thêm cổ phiếu (cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi),
các ngân hàng nhà nước thì có thể xin cấp thêm vốn, các ngân hàng liên doanh hay tư
nhân có thể gúp thờm. Bằng việc gia tăng vốn, ngân hàng có thể mở rộng quy mô hoạt
động, đổi mới trang thiết bị, hoặc đáp ứng yêu cầu tăng vốn chủ của Ngân hàng Nhà
nước.
• Các quỹ
Ngân hàng thường có nhiều loại quỹ với mục đích sử dụng khác nhau. Quỹ dự
phòng tổn thất được trích lập từ lợi nhuận hàng năm để bù đắp tổn thất xảy ra trong quá
trình kinh doanh. Quỹ bảo toàn vốn được trích lập nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới
tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư vốn có được khi thị giá của cổ phiếu lớn hơn mệnh
giá cổ phiếu đú thỡ phần chênh lệch này được đưa vào quỹ này. Ngoài ra thỡ cỏc ngân
hàng còn có thể trích lập các quỹ như quỹ khen thưởng, quỹ đầu tư phát triển…
• Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần

Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
5
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
Nguồn vốn này khá đặc biệt trong nguồn vốn chủ sở hữu. Nó được hình thành từ
các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng. Một số ngân hàng phát hành các trái
phiếu có thời hạn lâu năm nhằm huy động vốn, những người nắm giữ trái phiếu này sau
một khoảng thời gian nào đó sẽ trở thành cổ đông của ngân hàng và được hưởng lợi tức
thay vì tiền lãi. Nguồn vốn này thường xuất hiện ở các ngân hàng sắp cổ phần hoỏ, nó có
tác dụng làm tăng vốn lượng vốn dài hạn trong thời điểm hiện tại và tăng vốn chủ sở hữu
trong tương lai. Những trái phiếu này rất hấp dẫn các nhà đầu tư vì họ có cơ hội trở thành
đồng sở hữu một ngân hàng rất mạnh trong tương lai.
Để tiến hành kinh doanh, mỗi ngân hàng đều phải có số vốn ban đầu – vốn chủ sở
hữu. Với số vốn này, ngân hàng sử dụng nó để mua sắm đất đai, xây dựng trụ sở văn
phòng, đầu tư trang thiết bị. Đây cũng là cơ sở để xác định quy mô và cơ cấu của ngân
hàng, tạo niềm tin cho khách hàng. Ngân hàng cần đảm bảo với người gửi tiền rằng mình
có đủ năng lực tài chính để chống đỡ lại những rủi ro do quá trình kinh doanh mang lại,
đảm bảo với người cho vay có thể đáp ứng nhu cầu tín dụng ngay cả khi nền kinh tế đang
gặp khó khăn. Trong quá trình hoạt động, vốn chủ sở hữu của ngân hàng không ngừng
được gia tăng tuy vẫn chiếm phần nhỏ trong tổng nguồn vốn, điều này giúp ngân hàng có
thể tăng khả năng cho vay cũng như quy mô huy động vốn , phát triển các dịch vụ mới…
Không những thế ngân hàng còn đáp ứng được các quy định chặt chẽ về đảm bảo an toàn
vốn. Ví dụ theo Hiệp định Basel II, tỷ lệ VCSH/TS điều chỉnh rủi ro phải được duy trì ở
mức 8%. Việc quy định về vốn pháp định, an toàn vốn tối thiểu là rất cần thiết bởi sự phá
sản của một ngân hàng rất có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng. Vốn chủ
sở hữu vững mạnh là cơ sở cho những cơ hội phát triển của NHTM.
1.1.2. Nguồn tiền gửi
Tiền gửi là tiền đề hình thành nờn cỏc khoản cho vay do vậy mà nó là gốc rễ tạo
ra lợi nhuận cho ngân hàng. Tiền gửi là khoản mục giúp chúng ta phân biệt ngân hàng
với loại hình doanh nghiệp khác. “Tiền gửi là số tiền các tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức
tín dụng hoặc tổ chức khỏc cú hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kỳ

hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng
lói, khụng hưởng lãi và được hoàn trả cho người gửi tiền.”
Ngay khi đi vào hoạt động, ngân hàng sẽ mở những tài khoản tiền gửi để giữ hộ,
thanh toán hộ cho khách hàng, như vậy ngân hàng đã huy động tiền từ dân cư và tổ chức
doanh nghiệp. Khi huy động vốn, ngân hàng phải trích một phần để dự trữ bắt buộc và dự
trữ đảm bảo thanh toán, số còn lại mới được sử dụng kinh doanh.
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
6
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
Trong bối cảnh thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay với sự xuất hiện rất
nhiều của các ngân hàng, các tổ chức phi ngân hàng, các ngân hàng phải đối mặt với
nguồn tiền gửi ngày càng khan hiếm. Để thu hút khách hàng, họ đã đưa ra mức lãi suất
cạnh tranh cùng với việc đa dạng hóa loại hình tiền gửi.
• Tiền gửi thanh toán
Với loại tiền gửi này, khách hàng được hưởng lãi suất rất thấp (thậm chí bằng
không) nhưng bù lại được hưởng các dịch vụ của ngân hàng như thanh toán tiền hàng
hóa, dịch vụ, rút tiền, chuyển tiền với chi phí thấp. Khách hàng mở loại tài khoản này với
mục đích thanh toán, giao dịch là chủ yếu. Tiền thu được có thể nhập vào tài khoản tiền
gửi thanh toán của khách hàng. Khi có nhu cầu rút tiền, ngân hàng phải thanh toán ngay
cho người thụ hưởng. Điều này có nghĩa là ngân hàng tuy phải trả vốn phí thấp song phải
đối mặt với nguồn vốn dễ biến động, nhạy cảm. Trước đây, chủ loại tài khoản tiền gửi
thanh toán chỉ được chi tiêu trong phạm vi số dư. Nhưng hiện nay, một số ngân hàng đã
kết hợp với tài khoản cho vay (thấu chi – chi trội trên số dư của tài khoản tiền gửi thanh
toán) để gia tăng tính cạnh tranh với các ngân hàng khác. Để thu hút tiền gửi thanh toán,
ngân hàng phát triển rất nhiều sản phẩm tiện ớch giỳp khách hàng có nhiều sự lựa chọn.
Riêng sản phẩm thẻ đã có rất nhiều loại, phù hợp với nhiều đối tượng. Trong tương lai,
tiền gửi thanh toán có thể thay thế cho tiền mặt nhờ vào ưu điểm có thẻ sinh lãi, và đẩy
nhanh tốc độ lưu thông tiền tệ. Khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ tiện ích, còn ngân
hàng cú thờm vốn.
• Tiền gửi có kỳ hạn

Đây là khoản tiền mà các doanh nhiệp, tổ chức xã hội gửi vào để đảm bảo an toàn
và hưởng lãi với lãi suất phụ thuộc vào kỳ hạn gửi tiền. Chủ tài khoản chỉ được rút tiền
sau một khoản thời gian nhất định. Một số doanh nghiờp, tổ chức xã hội rất ưu thích loại
tài khoản này do họ chỉ phải thanh toán với người thụ hưởng trong thời gian đã định. Chi
phí cho loại vốn này cao hơn tiền gửi thanh toán nhưng ngân hàng có thể dễ dàng kiểm
soát để có kế hoạch sử dụng nó thích hợp, đảm bảo khả năng thanh toán. Một điểm khác
nữa của tài khoản tiền gửi có kỳ hạn là khách hàng vẫn có thể yêu cầu ngân hàng cho rút
tiền trước thời điểm đáo hạn, nhưng khách hàng có thể không được hưởng lãi hoặc chỉ
được hưởng lãi với lãi suất khuyến khích.
• Tiền gửi tiết kiệm
Đây là loại tài khoản tiền gửi mà các tầng lớp dân cư ưu thích, nhất là khi họ có
những khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng tới. Mục đích của khách hàng khi khởi tạo
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
7
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
loại tài khoản này nhằm bảo đảm an toàn và sinh lợi đối với khoản tiết kiệm. Do đó, loại
tiền gửi này không được phỏt séc, thực hiện thanh toán như tài khoản tiền gửi thanh toán.
Nhưng khách hàng có thể rút vốn hay gửi tiền vào bất kỳ thời điểm nào. Nếu khách hàng
rút vốn trước hạn thì chỉ được hưởng lãi suất thấp hơn nhiều so với lãi suất thỏa thuận
ban đầu. Đối với ngân hàng tuy phải trả chi phí cao cho loại tiền gửi này nhưng bù lại chi
phí quản lý và duy trì lại thấp. Khoản tiền gửi tiết kiệm bao gồm tiết kiệm có kỳ hạn và
không kỳ hạn. Nhằm thu hút nguồn tiền nhàn rỗi, ổn định, các ngân hàng đã triển khai rất
nhiều hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm với nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau,
thậm chí chấp nhận cả khách hạng gửi tiết kiệm bằng vàng, ngoại tệ…
• Tiền gửi khác
Đây là khoản tiền gửi các ngân hàng nắm giữ hộ nhau để phục vụ cho việc thanh
toán liên ngân hàng, hoặc vay để đáp ứng nhu cầu thanh khoản… Ngoài ra cũn cú cỏc tài
khoản tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã
hội. Quy mô của nguồn tiền không lớn song lại có chi phí huy động thấp.
Nhìn chung, tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn

của ngân hàng, là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng. Các khoản tiền gửi
phải dự trữ bắt buộc.
1.1.3. Nguồn đi vay
Có rất nhiều thời điểm mà ngân hàng tạm thời thừa hoặc thiếu vốn. Đó là khi ngân
hàng huy động được mà chưa cho vay hết, hay khi khách hàng cần vay vốn mà ngân
hàng không có đủ vốn, hoặc ngân hàng phải đi vay để đáp ứng nhu cầu chi trả. Khi đó,
ngân hàng có thể gửi tiền vào các tổ chức tín dụng khác khi thừa vốn, ngược lại đi vay
khi thiếu vốn. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng ngân hàng hoàn toàn chủ
động huy động về quy mô cũng như thời điểm vay. Ngân hàng có thể vay vốn từ Ngân
hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng khác, hoặc vay trên thị trường vốn.
• Vay Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng thương mại thường vay NHNN trong những những trường hợp cần
thiết như thiếu hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán. Trong trường hợp cấp bách, NHNN
còn đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với NHTM mất khả năng chi trả để đảm
bảo an toàn cho toàn hệ thống ngân hàng. Những khoản vay này phụ thuộc rất nhiều vào
chính sách của NHNN khi muốn thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ. Tùy theo hình
thức và mục đích vay vốn, vốn vay NHNN có thể được chia thành các loại như sau:
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
8
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
Theo hình thức có
- Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá: NHTM đem
thương phiếu, giấy tờ có giá xin tái chiết khấu. Chúng thường là các loại giấy tờ mà chủ
thể phát hành có uy tín cao, thời gian đáo hạn ngắn…Việc tái chiết khấu đối với NHTM
đã được giới hạn trong định mức.
- Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu, giấy tờ có giá: NHTM
đem thương phiếu, giấy tờ có giá đến NHNN để đảm bao xin vay vốn.
Theo mục đích có
- Cho vay bổ sung nguồn vốn ngắn hạn : là hình thức tài trợ vốn theo kế
hoạch, chỉ phân phối đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh.

- Chiết khấu và tái chiết khấu kho bạc, khế ước mà các ngân hàng đã cho
khách hàng vay nhưng chưa đáo hạn và các thương phiếu.
- Cho vay bổ sung thanh toán bù trừ của các tổ chức tín dụng.
• Vay tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn vốn mà các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức
tín dụng khỏc trờn thị trường liên ngân hàng. Mục đích của khoản vay này để đáp ứng
nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế
cho nguồn vay từ NHNN. Do tính chất này nờn cỏc khoản vay này thường rất ngắn: một
tuần hoặc vài ngày.
• Vay điều hòa vốn
Các NHTM hiện nay hình thành hệ thống ngân hàng bao gồm nhiều chi nhánh tại
nhiều địa bàn khách nhau. Trên mỗi địa bàn hoạt động có nhiều yếu tố kinh tế, xã hội tác
động đến việc huy động vốn cũng như sử dụng vốn của chi nhánh. Điều này đã dẫn đến
tình trạng thừa thiếu vốn của các chi nhánh thuộc cùng một hệ thống ngân hàng. Các
NHTM thực hiện điều hòa chuyển vốn giữa các chi nhánh qua hội sở chính. Nguồn vốn
điều hòa trong hệ thống cũng là nguồn vốn có ích, giúp cho ngân hàng mở rộng hoạt
động cũng như làm tăng lợi nhuận của ngân hàng.
• Vay trên thị trường vốn
Ngoài cách huy động vốn trên, NHTM còn vay trên thị trường vốn bằng cách phát
hành giấy tờ có giá như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu. Kỳ phiếu và tín phiếu là các giấy
tờ có giá ngắn hạn, trái phiếu là các phiếu nợ trung và dài hạn. NHTM vay trên thị trường
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
9
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
vốn cùng với huy động nguồn tiền gửi để tài trợ cho nhu cầu vay và đầu tư trung và dài
hạn. Việc huy động trên thị trường vốn chịu ảnh hưởng của rất nhiếu yếu tố như: mức độ
uy tín và biểu lãi suất của ngân hàng, sự chấp nhận của người dân, tổ chức kinh tế xã hội,
trình độ phát triển của thị trường tài chớnh…
• Hợp đồng mua lại
Trên thế giới, các hợp đồng mua lại (repo) gần như thay thế các khoản cho vay

của NHNN. Hợp đồng mua lại (repo) và mua lại đảo ngược (reverse repo) bản chất là
giao dịch đi vay và cho vay có kỳ hạn được sử dụng phổ biến trên thị trường tiền tệ. Các
thành viên sở hữu chứng khoán có thể thiếu tiền ở thời điểm nhất định, để đáp ứng nhu
cầu huy động vốn, có thể được hỗ trợ vốn ngày lập tức nếu đó cú thỏa thuận bán một
lượng chứng khoán cho thành viên khác và cam kết sẽ mua lại lượng chứng khoán đó sau
khoảng thời gian nhất định và với giá cao hơn giá bán ban đầu. Người bán chứng khoán
và cam kết mua lại số chứng khoán đó gọi là hợp đồng mua lại, còn người mua chứng
khoán rồi sau đó bán lại gọi là hợp đồng mua lại đảo ngược.
1.1.4. Các nguồn vốn khác
Nguồn vốn của ngân hàng còn bao gồm: nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và
nguồn khác.
• Nguồn ủy thác
Đây là nguồn vốn mà ngân hàng với tư cách ngân hàng đại lý nhận ủy thác cho
các tổ chức trong và ngoài nước thực hiện đầu tư cho các chương trình, dự án. Các dịch
vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu
hộ… Trong thời gian thực hiện ủy thác, ngân hàng có thể tạm thời sử dụng vốn chưa giải
ngân hết theo kế hoạch hoặc vốn đã thu hồi chưa phải trả cho chủ đầu tư. Ngoài ra, thực
hiện các hợp đồng ủy thác, ngân hàng sẽ nhận được phí hoa hồng.
• Nguồn trong thanh toán
Ngân hàng có được nguồn vốn trong thanh toán khi làm trung gian thanh toán
trong nền kinh tế như séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ mở L/C… Đó là lượng tiền
đã được trích từ tài khoản của người trả nhưng chưa chuyển vào tài khoản người thụ
hưởng, hay số tiền trong thời gian chờ thanh toán.
• Nguồn khác
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
10
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
Ngoài ra ngân hàng cũn cú một số loại tiền như thuế chưa nộp, lương chưa trả,
thậm chí ngân hàng còn đứng ra làm đại lý bán cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh nghiệp
hưởng phí hoa hồng… Nó đều làm tăng vốn cho ngân hàng.

1.2. Hoạt động huy động vốn
1.2.1. Khái niệm huy động vốn của NHTM
Vốn ngân hàng là những giá trị tiền tệ do doanh nghiệp tạo lập hoặc huy động
được để cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Nó được biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ tài sản hữu hình, vô hình, tài sản tài chính được đầu tư vào các hoạt động
kinh doanh nhằm tạo ra lợi nhuận. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm: vốn
chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay và một số loại vốn khác. Vốn chủ sở hữu thường
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn ngân hàng nhưng cũng có vai trò quan trọng.
Nó quyết định vị trí, quy mô cũng như khả năng cho vay, đầu tư của ngân hàng, mặt khác
nó còn là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác và giữ vai trò chống đỡ rủi ro phá sản cho
ngân hàng. Tuy vậy, nguồn vốn huy động được mới là nguồn tài nguyên quan trọng tạo
nên sự thịnh vượng cho ngân hàng.
Nguồn vốn huy động được là đầu vào sống còn đối với ngân hàng. Đây là nguồn
vốn chính để tài trợ cho các khoản cho vay, đầu tư, cung cấp dịch vụ… tạo lợi nhuận
nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM, là số tiền mà NHTM có
được từ các nghiệp vụ nhận tiền gửi, đi vay và các nghiệp vụ khác. Nguồn vốn huy động
được biểu hiện trên bảng cân đối kế toàn là các tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết
kiệm, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá, vay NHNN và tổ chức tín dụng khỏc,
cỏc nguồn khỏc…
1.2.2. Sự cần thiết của huy động vốn
Các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, cung cấp dịch vụ mới đem lại thu nhập cho ngân
hàng còn nghiệp vụ huy động vốn lại liên quan đến chi phí chủ yếu của ngân hàng.
Nhưng quy mô huy động vốn càng tăng thì khả năng tạo lợi nhuận càng lớn và ngược lại.
Do đó, huy động vốn là nghiệp vụ có ý nghĩa to lớn với NHTM.
• Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Khi thành lập một ngân hàng phải có một số vốn nhất định, tối thiểu do pháp luật
quy định. Với số vốn này NHTM sử dụng để mua đất đai, xây dựng trụ sở, chi nhánh,
đầu tư thiết bị, máy móc, thậm chí trả lương cụng nhõn… Vốn chủ sử hữu rất quan trọng,
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C

11
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
nó quyết định quy mô nhận tiền gửi, vốn vay của ngân hàng. Nhưng nó lại không đủ để
để thực hiện các hoạt động tạo thu nhập cho ngân hàng như cho vay, đầu tư, cung cấp
dịch vụ ngân hàng. Vì vậy NHTM phải huy động vốn từ các nguồn bên ngoài. NHTM là
doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn vay mượn. Do đó vốn vừa là
phương tiện hoạt động vừa là đối tượng kinh doanh của NHTM. NHTM sử dụng vốn để
tiến hành hoạt động kinh doanh tạo lợi nhuận cho mình, tạo đà cho sự phát triển lâu dài.
• Vốn quyết định quy mô của ngân hàng trong hoạt động tín dụng và hoạt
động khác
Quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn.
Ngân hàng có vốn lớn sẽ dễ dàng đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu của khách hàng
đồng thời có khả năng tiếp cận với những dự án đầu tư lớn. Như vậy so với ngân hàng
nhỏ, ngân hàng trường vốn có khả năng đa dạng hóa các khoản mục đầu tư và cho vay
với nhiều đối tượng, kỳ hạn khác nhau trong phạm vi rộng lớn hơn. Ngân hàng có vốn
lớn có thể mở rộng phạm vi hoạt động của mình ra các địa bàn lân cận cũng như thị
trường quốc tế. Nó giỳp cho ngân hàng không những tiếp tục mở rộng cho vay và đầu tư
mà còn gia tăng lượng tiền huy động được. Do đó, ngân hàng có vốn lớn lại càng có khả
năng cạnh tranh cao hơn hẳn so với ngân hàng nhỏ. Một điểm bất lợi nữa của ngân hàng
nhỏ là phản ứng chậm hơn trước những tình huống bất ngờ. Khi lãi suất biến động, để gia
tăng cạnh tranh với ngân hàng khác nhằm huy động được nhiều hơn, ngân hàng lớn sẽ
tăng lãi suất. Nhưng đối với ngân hàng nhỏ, họ phải tính toán kỹ càng vì nếu chạy đua lãi
suất với ngân hàng lớn thì nguy cơ thu lỗ là rất lớn. Vì vậy ngân hàng nhỏ thường bị ảnh
hưởng mạnh hơn khi có biến động bất thường.
• Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín ngân hàng
Vì nguồn vốn của ngân hàng bao gồm chủ yếu là nguồn tiền gửi. Mà đặc điểm của
nguồn tiền này là phải hoàn trả khi được yêu cầu. Nếu ngân hàng không thực hiện ngay
sẽ làm mất lòng tin của khách hàng, nếu nghiêm trọng sẽ dẫn đến ngân hàng mất khả
năng thanh khoản, có thể có phản ứng dây chuyền đến các ngân hàng khác trong hệ
thống, gây ra phá sản thậm chí là khủng hoảng tài chính. Do đó năng lực thanh toán là

vấn đề được ngân hàng rất quan tâm. Năng lực thanh toán cao khi mà vốn khả dụng của
ngân hàng cao. Với các yếu tố khác không đổi thì năng lực thanh toán tỷ lệ thuận với
nguồn vốn của ngân hàng và vốn khả dụng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao
càng làm tăng uy tín cho ngân hàng. Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp khác đều rất
cần có uy tín. Uy tín không chỉ mang lại cho ngân hàng cơ hội đầu tư kinh doanh mà nó
cũn giỳp ngân hàng có thể huy động được tiền với quy mô, thời hạn ổn định. Uy tín đó
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
12
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
được thể hiện ở khả năng sẵn sàng cho vay, đầu tư kể cả những dự án lớn, thời hạn dài và
đáp ứng kịp thời yêu cầu thanh toán của khách hàng…
• Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Như một sự tác động qua lại với nhau, ngân hàng có vốn lớn sẽ uy tín hơn những
ngân hàng khác trong điều kiện tương đồng của yếu tố khác. Trong môi trường kinh
doanh như hiện nay, việc cạnh tranh giữa các ngân hàng càng trở nên gay gắt hơn. Nó trở
thành vấn đề đau đầu cho các nhà quản lý ngân hàng muốn nâng cao cạnh tranh với ngân
hàng khác. Vốn lớn cũng là một lợi thế đối với ngân hàng ngoài trừ sự khác biệt sản
phẩm, chất lượng và dịch vụ đi kèm. Ngân hàng trường vốn sẽ có cơ hội đầu tư, cho vay
với nhiều đối tượng trong nền kinh tế, mở rộng mối quan hệ kinh doanh, tăng thu nhập,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường.
Như đã nói ở trên, vốn có vai trò quan trọng giúp ngân hàng thực hiện kinh doanh
hiệu quả nhất. Do vậy mà ngân hàng cần ngày càng nâng cao huy động vốn, đảm bảo ổn
định về quy mô cũng như chất lượng.
1.2.3. Các hình thức huy động vốn
1.2.3.1. Theo thời gian huy động vốn
Cũng giống như nghiệp vụ tín dụng, người ta cũng phân loại nguồn vốn theo thời
gian thành ngắn, trung và dài hạn.
• Nguồn ngắn hạn
Đây là các khoản huy động có thời gian dưới 12 thỏng. Nó thường bao gồm các
tài khoản tiền gửi thanh toán, hay tiền gửi tiết kiệm khụng kỡ hạn, tiền gửi kì hạn dưới

một năm, kỳ phiếu ngân hàng… Lãi suất trả cho nguồn tiền này thường thấp hơn so với
nguồn trung và dài hạn nhưng nó có tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng như dự trữ thanh toán cao
nên lãi suất hiệu quả thường lớn.
• Nguồn trung và dài hạn
Đây là khoản tiền có kỳ hạn từ 1 năm đến 5 năm – nguồn trung hạn, từ 5 năm trở
lên – nguồn dài hạn. Đây là nguồn tiền mà ngân hàng phải trả lãi suất cao nhưng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc lại thấp hơn nguồn ngắn hạn. Nguồn tiền này được ngân hàng sử dụng cho
vay, đầu tư vào những dự án lớn, có tính sinh lợi cao.
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
13
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
1.2.3.2. Theo đối tượng huy động
Phân chia theo đối tượng thì nguồn vốn được chia thành: vốn từ dân cư, từ các tổ
chức kinh tế, tổ chức tín dụng, từ ngân hàng nhà nước.
• Huy động vốn từ dân cư
Những khoản thu nhập tạm thời nhàn rỗi của dân cư có thể được sử dụng để đầu
tư vào chứng khoán, bất động sản, vàng hay ngoại tệ. Các loại hình đầu tư này mặc dù có
thể đem lại lợi nhuận cao nhưng đồng thời tiềm ẩn rủi ro lớn. Cho nên để đảm bảo tính an
toàn và sinh lợi, người dân thường gửi tiền vào ngân hàng bằng các hình thức như tài
khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, hay mua
kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng… Các hình thức này vừa đảm bảo tính an toàn mà còn
đem lại một phần thu nhập cho người dân. Các tầng lớp dân cư lựa chọn các hình thức
gửi tiền khác nhau tùy thuộc vào mục đích sử dụng của mình. Để phục vụ cho mục đích
giao dịch, thanh toán của chủ tài khoản, ngân hàng đưa ra các sản phẩm tiền gửi thanh
toán, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Các tài khoản tiền gửi này gần với tiền mặt nhất
trong các loại tiền của NHTM. Đó là do khả năng chuyển đổi từ nó sang tiền mặt là
nhanh nhất, bất cứ lúc nào. Chủ tài khoản thường không quan tâm lắm đến tiền lãi mà chỉ
chú trọng đến khả năng chuyển nhượng, chuyển thành tiền mặt khi cần. Ngược lại, khi
người dân gửi tiền vào ngân hàng dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn thì họ quan tâm hơn
đến lãi suất. Người gửi tiền chỉ có thể rút tiền sau một kự hạn gửi tiền nhất định. Hiện

nay để nâng cao tính cạnh tranh trong huy động tiền gửi, các NHTM đã đưa ra nhiều kỳ
hạn khác nhau như 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng… thậm chí là tuần, tháng. Đây là
nguồn tiền ổn định nên lãi suất thường cao hơn lãi suất không kỳ hạn, kỳ hạn càng dài thì
lãi suất càng cao.
• Huy động vốn từ tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
Hiện nay hầu như các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội đều có tài khoản tiền gửi
thanh toán tại các ngân hàng. Đó là các khoản tiền chưa phải chi trả ngay như tiền lương,
các loại quỹ, tiền mua hàng chưa trả Điều này rất thuận tiện cho họ trong việc thanh
toán kịp thời nếu đối tác yêu cầu, cho dù có sự khác biệt địa lý. Ngân hàng thực hiện
thanh toán trên tài khoản có của khách hàng đó giỳp cỏc tổ chức này tiết kiệm chi phí
cũng như thời gian. Với loại tài khoản thanh toán này, các tổ chức kinh tế xã hội có thể
không được hưởng lãi suất hoặc được hưởng lãi suất rất thấp. Nhưng bù lại họ được
hưởng dịch vụ thanh toán trọng phạm vi số dư tài khoản nhanh chóng, chính xác. Ngoài
ra, ngân hàng còn phát triển cả loại tài khoản tiền gửi có kỳ hạn. Các tổ chức kinh tế, xã
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
14
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
hội đang có nguồn tiền tạm thời nhãn rỗi trong khoảng thời gian xác định, có thể gửi vào
ngân hàng dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Chủ tài khoản chỉ có thể rút tiền sau một kỳ
hạn nhất định. Nếu rút tiền trước hạn thì khách hàng không được hưởng lãi, hoặc chỉ
được hưởng lãi như tiền gửi không kỳ hạn. Mục đích của loại tiền gửi này là để hưởng lãi
với mức lãi suất tùy theo độ dài của kỳ hạn gửi tiền nên khách hàng không được hưởng
các dịch vụ thanh toán hay thấu chi trên tài khoản như tài khoản thanh toán.
• Huy động vốn từ các tổ chức tín dụng khác
Hiện nay các ngân hàng cũng thường mở các tài khoản tiền gửi tại ngân hàng
khỏc. Nó chủ yếu được sử dụng để phục vụ thanh toán liên ngân hàng. Và cũng hỗ trợ
ngân hàng vay tiền trong trường hợp tạm thời thiếu vốn. Để đảm bảo khả năng thanh
khoản, các ngân hàng có thể vay mượn lẫn nhau. Thời hạn của khoản vay thường rất
ngắn, có thể qua đêm, một hai tuần… Nhưng ngân hàng đi vay phải chịu lãi suất rất cao
và có thể phải có tài sản đảm bảo hoặc xin bảo lãnh của NHNN.

1.2.3.3. Theo phương thức huy động
• Vốn tiền gửi
- Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là nguồn tiền có thời gian không xác định, nghĩa là khách hàng có thể rút tiền
vào bất cứ lúc nào và ngân hàng phải đáp ứng ngay. Đây là khoản tiền mà khách hàng
không có mục đích tiết kiệm mà chỉ chú trọng đến khả năng tiện lợi trong thanh toán.
Đặc điểm chung khác của loại tiền gửi này là lãi suất thường không đáng kể, thậm chí
không được trả lãi. Ở Việt Nam, tiền gửi không kỳ hạn bao gồm:
Thứ nhất tiền gửi thanh toán, đây là khoản tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh
tế xã hội gửi vào ngân hàng nhằm mục định thanh toán như tiền nguyên vật liệu, tiền
lương, tiền dịch vụ… Khách hàng gửi tiền dưới hình thức tài khoản thanh toán không
nhằm mục đích sinh lời mà đơn thuần là để chi trả, chuyển nhượng khi cần. Đối với ngân
hàng, tiền gửi thanh toán là khoản tiền mà phải thanh toán ngay khi có yêu cầu, nếu đáp
ứng chậm hoặc không có khả năng đáp ứng gây mất lòng tin với khách hàng, rất có thể
gây ra phản ứng dây chuyền gây nên mất khả năng thanh khoản… Tuy nhiên, ngân hàng
có thể sử dụng loại tiền này để cho vay trong giới hạn cho phép.
Tiền gửi thanh toán tồn tại dưới dạng tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản
vãng lai. Với tài khoản tiền gửi thanh toán, khách hàng chỉ có sử dụng trong phạm vi số
dư của mình. Tài khoản tiền gửi thanh toán còn được gọi là tài khoản giao dịch hay tài
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
15
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
khoản tiền gửi có thể phỏt séc. Cũn với tài khoản vãng lai, khách hàng có thể được dùng
khoản tiền do ngân hàng cho vay theo thỏa thuận cho trước.
Thứ hai là tiền gửi không kỳ hạn thuần túy, là khoản tiền mà khách hàng gửi vào
ngân hàng không phải để nhờ thanh toán hộ mà nhằm mục đích an toàn, khi cần khách
hàng đến ngân hàng rút tiền để sử dụng.
Nhìn chung tiền gửi không kỳ hạn có chí phí thấp nhất lại mang lại thu nhập dịch
vụ thanh toán cho ngân hàng. Nhưng hiện nay, các ngân hàng đều phải gia tăng chi phí
duy trì nguồn tiền này do có sự cạnh tranh gay gắt của ngân hàng khác.

- Tiền gửi có kỳ hạn
Đây là khoản tiền mà giữa ngân hàng và khách hàng có sự thỏa thuận về thời gian
rút tiền trước. Khi khách hàng đến gửi tiền sẽ được ngân hàng cấp cho giấy chứng nhận
gửi tiền. Khách hàng chỉ có thể rút tiền vào ngày đáo hạn. Nhưng nếu có vì lý do nào đó
mà phải rút tiền trước hạn thì NHTM sẽ trả tiền cho khách hàng nhưng với lãi suất thấp
hơn nhiều, thường bằng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Khác với tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn là khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng, được gửi vào ngân hàng
nhằm mục đích sinh lời. Thời hạn gửi càng dài thì lãi suất càng cao và tài khoản này
không thể phỏt séc. Do vậy mà khách hàng thường tìm kiếm ngân hàng trả lãi cao, uy tín.
Ngược lại, ngân hàng cũng có một lượng tiền gửi với thời gian ổn định phục vụ kế hoạch
cho vay, đầu tư của mình.
- Tiền gửi tiết kiệm
Đây là khoản tiền tạm thời chưa dùng đến mà các cá nhân gửi vào ngân hàng để
hưởng lãi và bảo đảm an toàn. Cùng giống như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm
không thể phỏt séc, thực hiện các dịch vụ thanh toán. Người dân đến gửi tiền tại ngân
hàng dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm sẽ được nhận sổ tiết kiệm từ phớa ngân hàng. Tiền
gửi tiết kiệm gồm 2 hình thức: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn. Tiền gửi tiết kiệm là một nguồn tiền quan trọng, các ngân hàng thường đưa ra nhiều
hình thức để giành được nguồn tiền này. Họ đưa ra biểu lãi suất hấp dẫn với nhiều kỳ hạn
khác nhau, tiết kiệm bằng nội tệ, ngoại tệ, vàng
• Phát hành giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá là công cụ nợ của ngân hàng để huy động vốn trên thị trường. Với
nguồn vốn huy động này, ngân hàng có thể chủ động về số lượng, thời hạn huy động
nhưng lãi suất huy động thường cao hơn so với khi huy động vốn tiền gửi. Các giấy tờ có
giá của ngân hàng là trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi… Ngân hàng thường tiến
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
16
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
hành nghiệp vụ huy động bằng giấy tờ có giá khi vốn chủ sở hữu và vốn tiền gửi không
đủ.

1.2.3.4. Theo loại tiền huy động
• Huy động bằng nội tệ
Ngân hàng huy động vốn bằng nội tệ bằng rất nhiều hình thức khác nhau đáp ứng
nhu cầu sử dụng vốn khác nhau của ngân hàng. Thông thường, nguồn vốn huy động bằng
nội tệ thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn huy động được.
• Huy động bằng ngoại tệ
Ngoài huy động vốn bằng nội tệ, ngân hàng còn huy động vốn bằng ngoại tệ.
Ngân hàng huy động vốn bằng ngoại tể để đáp ứng nhu cầu thanh toán trong xuất nhập
khẩu, nhu cầu đầu tư và tiết kiệm quy đổi ngoại tệ của khách hàng. Lãi suất huy động vốn
ngoại tệ thường thấp hơn so với huy động vốn nội tệ do sự biến động về tỷ giá.
1.3. Hoạt động sử dụng vốn và cung cấp dịch vụ
Ngân hàng chủ yếu sử dụng nguồn vốn mà mình huy động được để cho vay, đầu
tư nhằm sinh lãi, một phần trả lãi cho các khoản đã vay, bù đắp chi phí hoạt động, còn
lại là lợi nhuận của ngân hàng. Cỏc cỏch đầu tư, cho vay hình thành nên tài sản có của
NHTM. Tài sản có của NHTM bao gồm:
1.3.1. Hoạt động sử dụng vốn
• Ngân quỹ
Đây là nghiệp vụ nhằm đáp ứng khả năng thanh toán của ngân hàng, nó bao gồm
các khoản tiền của dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán. Ngân hàng luụn phải dự trữ một
lượng tiền nhất định để có thể hoàn trả cho khách hàng đến rút tiền, phục vụ nhu cầu
thanh toán của họ. Ngân quỹ là khoản tiền không sinh lãi hoặc sinh lời rất thấp nhưng
NHTM vẫn phải dự trữ do quy định của NHNN và để đảm bảo an toàn cho chính mình.
Do đó mỗi ngân hàng cần đưa ra phương án quản lý ngân quỹ cho từng thời điểm vừa để
đảm bảo tính an toàn và sinh lợi cho ngân hàng. Các NHTM thường phân loại ngân quỹ
thành:
- Tiền mặt trong két
Các NHTM thường dự trữ một lượng tiền mặt nhất định tại két của mình hàng
ngày để chi trả cho các khoản tiền rút bất ngờ của khách hàng. Các khoản tiền dự trữ này
bao gồm nội tệ, ngoại tệ thậm chí kim loại quý. Tiền mặt tại két không mang lại thu nhập
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C

17
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
cho ngân hàng, chỉ mang tính đảm bảo an toàn, thậm chí còn phải đi kèm các chi phí bảo
quản, thu đếm
- Tiền gửi tại ngân hàng khác
Ngoài tiền mặt tại két, NHTM còn phải gửi tiền tại NHNN theo quy định và các tổ
chức tín dụng khác theo nhu cầu. NHTM ký gửi tại NHNN để đảm bảo yêu cầu an toàn
theo quy định của luật Ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng có thể gửi thêm để phục vụ thanh
toán toán bù trừ liên ngân hàng. Tiền gửi dự trữ bắt buộc tại NHNN không phải lúc nào
cũng phải bằng với lượng tiền yêu cầu, có thể thấp hơn mức bắt buộc. Tuy vậy, NHTM
cần nhanh chóng bù đắp lượng thiếu hụt này trong thời gian sớm nhất, trong trường hợp
khẩn thiết có thể phải vay các ngân hàng khỏc, bỏn bớt chứng khoán đang nắm giữ, vay
chính NHNN… để bự đỏp thiếu hụt.
• Chứng khoán
Đầu tư vào chứng khoán rất phổ biến ở các nước đã phát triển, hiện nay các
NHTM ở Việt Nam cũng đang đa dạng hóa tài sản bằng việc nắm giữ các loại chứng
khoán khác nhau. Các loại chứng khoán có thể phân ra làm hai mục lớn. Một là các
chứng khoán mang lại thu nhập chính cho NHTM, nó chỉ xếp sau các khoản cho vay.
Hai là các chứng khoán mang tính thanh khoản cao. Các loại chứng khoán thanh khoản
thường an toàn, dễ bán, ít giảm giá nhưng lại có tỷ lệ sinh lời thấp. trong khi đó những
chứng khoán đầu tư lại khó bán, rủi ro cao nhưng mang lại thu nhập tương đối cho ngõn
hàng. Thông thường các NHTM nắm giữ chứng khoán thanh khoản vì mục tiêu an toàn.
Điều này có nghĩa là các NHTM bỏn cỏc chứng khoán này để bổ sung ngân quỹ trước
khi đến hạn đảm bảo tính thanh khoản cho ngân hàng. Các chứng khoán thanh khoản như
chứng khoán ngắn hạn của chính phủ, giấy nợ ngắn hạn của ngân hàng uy tín, hoặc các
công ty tài chính nổi tiếng. Cũn cỏc loại chứng khoán trung và dài hạn được các NHTM
nắm giữ đến ngày đáo hạn để tìm kiếm lợi nhuận.
Ngoài việc đầu tư vào chứng khoán trên, NHTM còn đầu tư vào các cổ phiếu, trái
phiếu công ty, thậm chí nếu được cho phép có thể thành lập công ty và tham gia vào hội
đồng quản trị. Mục đích của NHTM tham dự vốn vào các công ty sẽ giúp ngân hàng nắm

được tình hình hoạt động và thực hiện các nghiệp vụ tín dụng một cách an toàn.
• Tín dụng
Đây được coi là hoạt động kinh doanh chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho NHTM, phản
ánh hoạt động đặc thù của ngân hàng. Kinh tế tài chính ngày càng phát triển khiến quy
mô và các hình thức tín dụng trở nên đa dạng, phong phú. Tín dụng được hiểu là hành vi
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
18
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
của một người trao vốn cho người khác với cam kết sẽ hoàn lại số tiền cho vay và lãi
trong một thời gian nhất định. Có thể có nhiều cách định nghĩa về tín dụng khác nhau
nữa, như theo Luật tổ chức tổ tín dụng Việt Nam định nghĩa: “Hoạt động tín dụng bao
gồm cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, bảo lãnh và một số hoạt động khác do Ngân
hàng Nhà nước quy định”. Từ đó hình thành nên khái niệm quan hệ tín dụng, đó là quan
hệ hình thành trên cơ sở giữa nơi thừa và nơi thiếu vốn được xây dựng trên ba nguyên
tắc: có thời hạn, có hoàn trả và có đền bù. Hoạt động tín dụng chiếm một tỷ trọng lớn
trong tài sản của ngân hàng, trong đó tín dụng ngắn hạn có tỷ lệ cao hơn cả.
Có nhiều cách phân loại tín dụng. Nếu phân loại theo thời hạn thì tín dụng chia
làm tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn có thời
hạn cho vay dưới 12 thỏng, nó thường tài trợ cho tài sản lưu động. Các khoản tín dụng
trung hạn có thời hạn từ 1 đến 5 năm, tín dụng dài hạn có thời hạn trên 5 năm, chúng
thường tài trợ cho tài sản cố định. Tín dụng còn được phân loại theo hình thức tài trợ bao
gồm: cho vay, chiết khấu, cho thuê, bảo lónh… Trong đó, cho vay là ngân hàng đưa tiền
cho khách hàng với cam kết được hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Chiết khấu thương phiếu là việc
khách hàng mang thương phiếu chưa đáo hạn đến ngân hàng xin ứng trước tiền. Ngân
hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê được gọi là nghiệp vụ cho thuê
(leasing). Còn bảo lãnh là khi ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ tài chớnh hộ khách
hàng của mình. Ngoài ra, người ta có thể phân loại tín dụng theo hình thức đảm bảo. Khi
đó, tín dụng được chia thành tín dụng có tài sản đảm bảo và tín dụng không có tài sản
đảm bảo. Tín dụng có đảm bảo là những khoản tín dụng được đảm bảo bằng uy tín của
khách hàng, của người thứ ba hoặc cầm cố, thế chấp của người xin vay. Tín dụng không

có tài sản đảm bảo là khoản tín dụng cấp cho khách hàng mà không yêu cầu có tài sản
đảm bảo hay cam kết đảm bảo. Bên cạnh đó, người ta còn có thể phân loại tín dụng theo
các cách khác nhau như độ rủi ro, đối tượng, mục đích.
• Hùn vốn kinh doanh
Là việc NHTM dùng tiền của mình tham gia thành lập, làm ăn với các công ty, tổ
chức tín dụng khác. Đây là hình thức đầu tư dễ mang lại lợi nhuận lớn đồng thời cũng dễ
dẫn đến thua lỗ. Ở các nước đang phát triển như nước ta, tỷ lệ của phần hùn vốn kinh
doanh trên tổng tài sản rất thấp, thậm chí bằng không.
Ngoài ra, vốn của ngân hàng còn được sử dụng để mua sắm thiết bị, xây dựng chi
nhánh, phòng ban…
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
19
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
1.3.2. Các dịch vụ của ngân hàng
Ngân hàng được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước, tại các tổ chức tín
dụng khác. NHTM có nhận tiền gửi phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước
và duy trì tại đó số dư bình quân không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà
nước quy định. Ngân hàng thương mại được mở tài khoản cho khách hàng trong nước và
ngoài nước. Khách hàng được chọn một ngân hàng để mở tài khoản giao dịch chính.
Về Dịch vụ thanh toán, Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch vụ thanh
toán như: Cung ứng các phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước
cho khách hàng; thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép; thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ; thực hiện các dịch vụ thanh toán khác do
Ngân hàng Nhà nước quy định. Dịch vụ ngân quỹ NHTM được thực hiện dịch vụ thu và
phát tiền mặt cho khách hàng. NHTM tham gia các hệ thống thanh toán, ngân hàng được
tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong
nước. Việc tham gia các hệ thống thanh toán quốc tế phải được Ngân hàng Nhà nước cho
phép.
1.4. Hiệu quả huy động vốn
1.4.1. Khái niệm về hiệu quả huy động vốn

Hoạt động đầu tư của các nước đang phát triển cũng như đã phát triển vẫn luôn
tình trạng “khỏt vốn”. Các nhà đầu tư ở nước phát triển tìm vốn để đầu tư ở thị trường
mới, cũn cỏc nước đang phát triển thực sự thiếu vốn đầu tư cho “những miền đất hứa”.
Một trong những kênh dẫn vốn của họ là đi vay các NHTM. Khi tìm đến ngân hàng, họ
luôn mong muốn được đáp ứng kịp thời, đầy đủ với chi phí hấp dẫn. Tuy nhiên trong môi
trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, các ngân hàng thường xuyên phải
đối mặt với nguồn tiền ngày càng khan hiếm. Vì vậy mà các NHTM luôn phải tìm kiếm
các nguồn tiền mới để bổ sung vào nguồn vốn của mình. Điều này có nghĩa là một mặt
các ngân hàng phải duy trì và phát triển các sản phẩm truyền thống, mặt khác NHTM
phải tìm tới thị trường tiền tệ và thị trường vốn để tăng cường khả năng huy động vốn.
Ngược lại, khi khách hàng tìm đến ngân hàng gửi tiền, họ trông đợi ở ngân hàng là sản
phẩm đa dạng, lãi suất tốt nhất, uy tín và chất lượng phục vụ cao… Có thể nói ngân hàng
hiện nay luôn phải đưa ra các kế hoạch để huy động được vốn nhanh nhất, tốt nhất đáp
ứng cho các khoản cho vay, đầu tư hiệu quả. Tất cả đều để đạt mục đích tạo lợi nhuận
cao nhất cho ngân hàng, nâng cao giá trị ngân hàng. Một ngân hàng năng động, phát triển
vững mạnh là ngân hàng làm tốt những hoạt động trờn, nó thể hiện rõ nét nhất qua hiệu
quả huy động vốn.
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
20
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
“Hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu sử
dụng vốn của ngân hàng, đú chớnh là đáp ứng một cách đầy đù, kịp thời và chính xác nhu
cầu sử dụng vốn với một chi phí hợp lý”.
Bao giờ cũng vậy, khi nhắc đến hiệu quả, chúng ta luôn phải so sánh giữa kết quả
đạt được và chi phí bỏ ra. Khi so sánh kết quả và chi phí, ta thường so sánh dưới dạng
thương số, chi phớ/kết quả hoặc kết quả/chi phí. Ta không thể đánh giá chỉ tiêu hiệu quả
qua hiệu số của kết quả và chi phí. Bởi chênh lệch giữa thu nhập và chi phí chỉ cho ta biết
lợi nhuận gộp của ngân hàng, từ lợi nhuận gộp có thể xác định được lợi nhuận ròng của
ngân hàng. Đây là chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động của ngân hàng trong một thời kỳ.
1.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn

1.4.2.1. Quy mô vốn
Các ngân hàng luôn tiến tới một quy mô vốn hợp lý. Đây là chỉ tiêu quan trọng
phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng nói chung và hiệu quả huy động vốn nói
riêng. Một quy mô vốn phù hợp có nghĩa là phải đáp ứng đủ nhu cầu tín dụng, đầu tư, chi
trả cho các tổ chức và cá nhân. Nếu như quy mô nguồn vốn quá nhỏ, nhưng hoạt động sử
dụng vốn lại lớn, ngân hàng có nhiều cơ hội đầu tư, cho vay và thanh toán lớn. Điều này
cho thấy tốc độ gia tăng nguồn vốn đã không phù hợp với tốc độ gia tăng hoạt động sử
dụng vốn. Ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu vốn, phải đi vay thêm với chi phí cao hơn
nếu muốn mở rộng đầu tư, cho vay. Ngược lại, nếu huy động quá nhiều mà quy mô cho
vay, đầu tư và chi trả thấp thì dẫn đến ứ động vốn. Tất cả đều dẫn đến khả năng làm cho
thu nhập của ngân hàng thấp, có thể có nguy cơ thua lỗ. Bởi mỗi một đồng vốn huy động
đều phát sinh chi phí, nếu không được sử dụng hợp lý sẽ ảnh hưởng đến thu nhập cũng
như uy tín của ngân hàng.
Sự gia tăng của quy mô vốn được thể hiện thông qua sự gia tăng về số lượng tuyệt
đối và tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn. Về sự gia tăng tuyệt đối của quy mô vốn được
đo bằng hiệu số tổng nguồn vốn huy động được năm sau và năm trước. Nếu hiệu số này
lớn hơn không có nghĩa là quy mô nguồn vốn năm nay cao hơn quy mô vốn năm trước,
và đạt được bao nhiêu so với mục tiêu, kế hoạch đề ra. Còn tốc độ tăng trưởng của nguồn
vốn được thể hiện qua công thức:
Quy mô vốn năm i
Quy mô vốn năm i-1
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
21
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
Nếu tốc độ tăng trưởng vốn lớn hơn khụng thỡ số vốn huy động năm thứ i tăng,
ngược lại thì tốc độ tăng trưởng nhỏ hơn không, quy mô vốn giảm. Sự gia tăng tuyệt đối
và tốc độ tăng trưởng vốn đều cho chúng ta biết được khả năng huy động vốn của ngân
hàng, nó cho biết quy mô vốn của ngân hàng tăng lên hay giảm đi. Với chỉ tiêu tốc độ
tăng trưởng của vốn còn cho ta biết mức biến động của nguồn vốn. Nếu tốc độ tăng đều
qua các năm, ban đầu có thể khẳng định nguồn vốn huy động gia tăng ổn định. Ngoài ra,

chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng vốn còn được tính cho quy mô của từng loại vốn. Quy mô vốn
có tốc độ tăng trưởng ổn định giúp ngân hàng có thể dự báo tương đối chính xác lượng
vốn có thể huy động được để có kế hoạch đầu tư, cho vay cho kỳ tiếp theo. Đồng thời,
tốc độ gia tăng của từng loại vốn ở mỗi thời điểm sẽ cho ngân hàng dự đoán sự thay đổi
về quy mô và kết cấu của nguồn vốn, từ đó đưa ra phương thức huy động vốn hiệu quả
trong giai đoạn tới.
Trong từng hoàn cảnh cụ thể, quy mô và tốc độ tăng trưởng vốn huy động cũng
như từng loại vốn của mỗi một ngân hàng khác nhau. Các ngân hàng lớn thường có quy
mô nguồn vốn lớn nhưng tốc đọ tăng trưởng thường không cao như các ngân hàng nhỏ.
1.4.2.2. Cơ cấu vốn
Cơ cấu của nguồn vốn huy động ảnh hưởng đến cơ cấu tài sản và quyết định chi
phí của ngân hàng. Cơ cấu của nguồn vốn được phân chia theo nhiều tiêu chí khác nhau
phụ thuộc vào từng mục đích của ngân hàng. Cơ cấu của nguồn vốn có thể được phân
loại theo đối tượng huy động, theo kỳ hạn, theo đồng tiền huy động… Cơ cấu của nguồn
vốn được phản ánh thông qua tỉ trọng từng loại vốn trong tổng nguồn vốn huy động của
ngân hàng.
Tỷ trọng của loại vốn i =
Quy mô loại vốn i
Tổng vốn huy động được
Kết hợp giữa tỷ trọng của từng loại vốn với quy mô tăng trưởng của chúng cho ta
cái nhìn tổng quát hơn về cơ cấu vốn huy động của ngân hàng. Cơ cấu vốn huy động của
ngân hàng cho ta biết ưu thế của ngân hàng đối với từng loại vốn. Các ngân hàng nhỏ
thường có tỷ trọng tiền gửi lớn hơn tỷ trọng tiền vay trong tổng nguồn vốn huy động. Tuy
cả ngân hàng nhỏ và ngân hàng lớn thường có tỷ trọng nguồn trung và dài hạn thấp hơn
nguồn ngắn hạn trong tổng số nguồn vốn huy động nhưng tỷ trọng nguồn ngắn hạn trong
tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng nhỏ lại lớn hơn so với ngân hàng có quy mô
lớn. Đi vào cơ cấu từng loại nguồn vốn, ngân hàng rất quan tâm đến kỳ hạn của nguồn
vốn. Cấu thành tổng nguồn vốn huy động bao gồm nhiều loại kỳ hạn khác nhau từ nhiều
đối tượng trong nền kinh tế chứng tỏ tính đa dạng trong huy động vốn của ngân hàng.
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C

22
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
Nếu nguồn vốn mà ngân hàng huy động được chủ yếu là nguồn vốn có kỳ hạn lớn chứng
tỏ tính ổn định của nguồn vốn. Song chi phí bỏ ra để có nguồn vốn này thường cao hơn
nguồn vốn ngắn hạn. Do đó ngân hàng phải thiết lập một cơ cấu vốn hợp lý sao cho đạt
được sự ổn định cũng như chi phí thấp nhất có thể để cho vay hoặc đầu tư nhằm tìm kiếm
lợi nhuận cao. Với cơ cấu nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn trung và dài hạn thích hợp
sẽ hạn chế rủi ro thanh khoản cho ngân hàng, đồng thời ngân hàng vẫn có thể dùng một
phần vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn trong hạn mức NHNN cho phép.
1.4.2.3. Chi phí huy động vốn
Chi phí huy động vốn là chỉ tiêu quan trọng, nó quyết định trực tiếp tới hiệu quả
hoạt động kinh doanh cũng như lợi nhuận của ngân hàng. Chi phí huy động vốn được
tính bằng công thức :
Chi phí huy động = Lãi phải trả cho nguồn huy động + Chi phí huy động khác
Lãi phải trả cho nguồn huy động, hay được gọi là chi phí trả lãi chiếm phần lớn
trong chi phí huy động. Trong đó, chi phí trả lãi được xác định thông qua lãi suất huy
động. Xác định lãi suất huy động là công việc phức tạp, nó quyết định tới chất lượng của
nguồn huy động, từ đó ảnh hưởng tới chất lượng của tài sản. Ngân hàng luôn phải cân
nhắc giữa việc tăng lãi suất để gia tăng quy mô vốn huy động hay chịu tổn thất về quy
mô vốn để duy trì lãi suất thấp. Trả lãi suất cao hơn mức bình quân trên thị trường có thể
giúp ngân hàng nhanh chóng huy động được vốn nhưng nó lại khiến lợi nhuận của ngân
hàng có nguy cơ sụt giảm. Còn duy trì lãi suất thấp hơn mức bình quân trên thị trường
giúp ngân hàng đảm bảo khả năng sinh lời song lại bó hẹp quy mô vốn, giảm khả năng
tăng trưởng của ngân hàng. Chi phí trả lãi của ngân hàng bao gồm chi phí trả lãi cho các
nguồn tiền gửi và nguồn tiền vay.
Lãi phải trả cho nguồn huy động = Quy mô huy động x Lãi suất huy động
Lãi suất huy động là phần quan trọng ảnh hưởng đến quy mô và hiệu quả huy
động. Lãi suất huy động được xác định dựa vào quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ.
Với mỗi nguồn cụ thể, ngân hàng có phương pháp riêng để tính toán lãi suất huy động.
Lãi suất

huy động
=
Tỷ lệ lạm phát
bình quân
+
Tỷ lệ thu nhập kỳ vọng
của người gửi tiền
Tỷ lệ thu nhập kỳ vọng của người gửi tiền phụ thuộc vào độ rủi ro của mỗi ngân
hàng, tỷ lệ sinh lời của các hoạt động đầu tư khác, và những tiện ích mà người gửi tiền hy
vọng nhân được từ ngân hàng. Những loại tiền gửi mà tiện ích thu được từ ngân hàng
càng cao thỡ lói suất mà ngân hàng phải trả cho nguồn tiền đó càng thấp.
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
23
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
Nguồn tiền gửi là rất quan trọng đối với ngân hàng, nhưng đôi khi ngân hàng vẫn
phải vay thêm để bổ sung nguồn vốn, phục vụ các khoản cho vay, đầu tư có khả năng
sinh lời cao. Với các khoản tiền gửi, khi huy động ngân hàng không thể quyết định được
quy mô cũng như kỳ hạn. Trong khi đó, ngân hàng lại có thể chủ động số vốn cần thiết
khi đi vay là bao nhiêu và trong khoảng thời gian bao lâu. Vì vậy việc đi vay từ Ngân
hàng trung ương và tổ chức tín dụng khác có ý nghĩa với ngân hàng giúp ngân hàng
thường xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất gốc.
Lãi suất
huy động
=
Lãi suất gốc (lãi suất tái chiết khấu,
lãi suất liên ngân hàng, lãi suất trái
phiếu ngắn hạn Chính phủ)
+
Tỷ lệ thu nhập kỳ vọng
của người gửi tiền

Từ lãi suất gốc, ngân hàng xác định lãi suất trả cho nguồn tiền gửi ngắn hạn, đồng
thời ngân hàng đa dạng các tỷ lệ lãi suất khác nhau theo nguyên tắc:
- Lãi suất bình quan thực dương, tương quan về an toàn và sinh lợi với hoạt
động đầu tư khác nhau như mua vàng, bất động sản và chứng khoán
- Lói suất tiền gửi nhỏ hơn lãi suất cho vay cùng với kỳ hạn
- Lãi suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn
- Lãi suất tỷ lệ thuận với quy mô
- Lãi suất tỷ lệ thuận với khả năng sử dụng của tiền gửi
- Lãi suất tỷ lệ nghịch với tính thanh khoản
- Lãi suất tỷ lệ nghịch với độ an toàn của ngân hàng và các tiện ích mà ngân
hàng cung cấp.
Tuy nhiên trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, để gia tăng quy mô huy động,
nhiều khi ngân hàng phải chấp nhận tỷ lệ thu nhập thấp đồng thời phải tự cắt giảm chi phí
khác để gia tăng lói suất huy động. Ngân hàng xác định lãi suất huy động tối đa trong
mối tương quan với lãi suất sinh lời của các tài sản.
Lãi suất nguồn
(nhóm nguồn)
=
Tỷ lệ sinh lời dự
tính từ tài sản
được tài trợ bằng
nguồn (nhóm
nguồn)
-
Tỷ lệ chi phí
khác ròng phân
bổ bổ cho
nguồn (nhóm
nguồn)
-

Tỷ lệ thuế thu
nhập và thu nhập
ròng tính trên
nguồn (nhóm
nguồn)
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
24
Chuyên đề thực tập GVHD:TS. Phan Hữu Nghị
Từ đó, ngân hàng có thể xác định lãi suất ngắn hạn khác nhau như lãi suất tiết
kiệm 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 thỏng… Cùng với việc điều chỉnh lãi suất
bình quân phù hợp với kỳ hạn, ngân hàng còn phải điều chỉnh sao cho hợp lý với môi
trường cạnh tranh và chiến lược huy động vốn, và trong mối tương quan với lãi suất khác
trong ngân hàng.
Bên cạnh đó, một số ngân hàng nhỏ thường đặt giá dựa trên cơ sở lãi suất của
ngân hàng lớn. Do yếu thế hơn các ngân hàng lớn về uy tín, quy mô, ngân hàng này dựa
vào lãi suất huy động của ngân hàng lớn và cộng thêm phần bù rủi ro của mình.
Việc xác định lãi suất là công việc phức tạp, đòi hỏi nhà quản lý ngân hàng phải
nhạy bén. Ngân hàng phải phân tích các yếu tố ảnh hưởng để xác định lãi suất sao cho
vừa có thể huy động nguồn vốn với chi phí và khối lượng hợp lý vừa đảm bảo thu nhập
cho ngân hàng.
Bộ phận thứ hai cấu thành chi phí huy động là chi phí ngoài lãi. Khoản mục chi
phí ngoài lãi quan trọng nhất đối với hầu hết ngân hàng là tiền lương và các chi phí nhân
sự khác, chi phí khấu hao nhà cửa và thiết bị ngân hàng…Chi phí ngoài lãi thường khó
xác định, thường khó phân chia rõ ràng vỡ nó không chỉ phục vụ cho huy động vốn mà
cũn cỏc hoạt động khác của ngân hàng.
1.4.2.4. Tính ổn định
Có thể núi, tớnh ổn định được coi là chỉ tiêu quan trọng nhất khi đánh giá hiệu quả
huy động vốn. Ví như quy mô vốn có tăng trưởng nhưng với tốc độ luôn thay đổi, biến
động khó dự báo thì ngân hàng cũng rất khó lên kế hoạch sử dụng nguồn an toàn, hiệu
quả. Do vậy tính ổn định của nguồn vốn không chỉ biểu hiệu ở mặt số lượng mà cũn cú

sự ổn định về thời gian. Vốn huy động phải có sự tăng trưởng ổn định về quy mô để đáp
ứng nhu cầu cho vay, đầu tư cùng hoạt động khác ngày càng tăng lên, đảm bảo sự tăng
trưởng của ngân hàng. Tính ổn định về thời gian giúp ngân hàng có thể chủ động trong
việc sử dụng vốn hợp lý, đạt lợi nhuận cao, đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Vì nếu ngân
hàng có những những yêu cầu cho vay, đầu tư mang lại lợi nhuận hấp dẫn nhưng không
tính được khả năng ổn định của nguồn vốn, ngân hàng rất có thể bỏ lỡ cơ hội kiếm lời
hoặc sẽ rơi và tình trạng mất tính thanh khoản nếu chấp nhận cho vay, đầu tư…
Tính ổn định của nguồn vốn còn được biểu hiện qua quản lý kỳ hạn của nguồn
tiền. Quản lý kỳ hạn là xác định nguồn phù hợp với yêu cầu về kỳ hạn của sử dụng và
đáp ứng yêu cầu ổn định của nguồn. Các ngân hàng thường dùng những nguồn ngắn hạn
để cho vay trung và dài hạn trong giới hạn cho phộp.Vỡ vậy quản lý kỳ hạn danh nghĩa
Hoàng Anh Quyên Lớp: TCDN 48C
25

×