Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

tìm hiểu về chuyển giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.22 KB, 16 trang )

Chuyển giá là gì?
Posted on January 20, 2011 by investor68
Chuyển giá là thủ thuật của công ty mẹ ở nước ngoài. Công ty mẹ này sẽ thành lập một công
ty con ở nước khác. Sau đó, công ty con sẽ mua nguyên vật liệu với giá cao ngất ngưỡng.
Điều này sẽ làm các nhà cung cấp nguyên vật liệu sẽ sẵn sàng bán cho các công ty con này.
Các công ty con sau khi sản xuất ra sản phẩm lại bán với giá thấp ra thị trường để cạnh tranh,
một phần sản phẩm thì bán về cho công ty mẹ với giá thấp này. Kết quả là công ty con sẽ bị
lỗ dẫn đến không đóng thuế thu nhập doanh nghiệp cho nhà nước. Còn công ty mẹ thì mua
được hàng giá rẻ và bán với giá bằng giá thị trường nước ngoài.
Trường hợp khác là nước công ty mẹ chịu thuế cao còn nước công ty con chịu thuế thấp. Khi
bán hàng ở nước của công ty con và chuyển lợi nhuận cho công ty mẹ. Công ty mẹ sẽ không
đóng thuế do đã nộp thuế ở nước của công ty con.
Kết quả, thất thoát thuế nước của công ty con. Giá nguyên vật liệu tăng cao, giá hàng hóa
giảm gây ra cuộc chiến giá cả. Còn công ty mẹ thì tìm được một lợi nhuận lớn.
Thực trạng
Tình trạng “chuyển giá” của các doanh nghiệp FDI đang tạo ra sự cạnh tranh không lành
mạnh đối với các doanh nghiệp Việt.
Nói nôm na, “chuyển giá” là việc dùng một số phương thức khác nhau để trốn tránh được các
khoản thuế, phí thông qua việc báo lỗ trong hoạt động kinh doanh, để rồi chuyển lợi nhuận về
công ty mẹ ở nước ngoài.
Trước thực tế đó, gần đây cơ quan chức năng của Việt Nam đã đẩy mạnh việc xử lý hành vi
“chuyển giá” của một số doanh nghiệp FDI tại Tp.HCM. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà pháp
luật chưa thể triệt tiêu được tình trạng này, điều mà giới doanh nghiệp Việt lo lắng hơn cả là
sự ngộ nhận của người tiêu dùng đối với thực tế đó.
Trong câu chuyện với VnEconomy, ông Lê Tuyên, Giám đốc Tiếp thị Công ty Cổ phần
Trung Nguyên, cho rằng về lâu dài, tình trạng “chuyển giá” có thể gây hậu quả nghiêm trọng
đối với nền sản xuất trong nước cũng như vị thế quốc gia trên thị trường thế giới.
Ông Tuyên nói:
- Ở góc độ vĩ mô, vấn đề “chuyển giá” của các doanh nghiệp FDI có thể gây thất thoát cho
nguồn thu ngân sách quốc gia và ảnh hưởng đến nền sản xuất hàng hóa nội địa.
Còn xét ở cấp độ vi mô, thủ đoạn này sẽ tạo ra bất công trong cạnh tranh giữa doanh nghiệp


FDI với doanh nghiệp nội địa. Chẳng hạn, một doanh nghiệp FDI sử dụng công cụ “chuyển
giá” để tối ưu hóa lợi nhuận về công ty mẹ ở nước ngoài trong khi đó báo cáo thua lỗ tại quốc
gia đang kinh doanh để khỏi đóng thuế và nhiều trường hợp được hoàn thuế, như vậy công ty
FDI đó sẽ có nhiều nguồn lực về tài chính hơn để đầu tư vào các hoạt động tiếp thị, quảng bá.
Trong khi đó, doanh nghiệp nội địa phải thực hiện nghĩa vụ thuế nghiêm túc hơn nên ít nhiều
sẽ thua thiệt với các công ty FDI. Hiện tượng này đang có xu hướng gia tăng đối với các
doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, thực phẩm, chẳng hạn như sữa, cà phê…
Nhưng thưa ông, có ý kiến cho rằng, “chuyển giá” của doanh nghiệp FDI chỉ khiến ngân sách
nhà nước bị thất thu, còn với người tiêu dùng thì đôi khi lại là một điều tốt vì họ sẽ mua được
hàng với giá rẻ?
Trong ngắn hạn đúng là như vậy. Các doanh nghiệp FDI trong giai đoạn đầu có thể hạ giá để
giành thị phần và bóp chết các doanh nghiệp nội địa cạnh tranh với mình. Nhưng về lâu dài,
khi họ thành công và chiếm lĩnh thị trường và thị phần, người tiêu dùng sẽ buộc phải tuân
theo luật chơi, mà chính xác hơn là sẽ phụ thuộc vào sản phẩm, vào giá cả mà các doanh
nghiệp FDI này đưa ra.
Kinh nghiệm này trong những năm đầu mở cửa và đến hiện nay vẫn là những bài học vô
cùng giá trị đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Bản thân các ông đã phải đối đầu với tình trạng “chuyển giá” hay chưa và đã ứng xử như thế
nào với tình trạng đó?
Đứng trước tình trạng này, Trung Nguyên nói riêng và các doanh nghiệp nội địa khác nói
chung, ngoài những chiến lược cụ thể riêng cho mình thì đều phải có chung một nỗ lực là
nâng cao chất lượng sản phẩm, tối ưu hóa các hoạt động quảng bá, tuyên truyền và đặc biệt là
động viên người Việt sử dụng hàng Việt.
Tôi tin rằng, một khi người dân Việt Nam hiểu rõ cuộc chiến giữa hàng Việt Nam chất lượng
cao với các sản phẩm ngoại quốc khác không chỉ đơn giản về sản phẩm mà còn vì sự phồn
thịnh của quốc gia thì họ sẽ ủng hộ hàng Việt Nam nhiều hơn.
Nhưng nói một cách sòng phẳng, muốn cạnh tranh, doanh nghiệp phải khẳng định bằng chất
lượng, giá cả chứ không thể trông chờ vào tinh thần “bầu ơi thương lấy bí cùng” của người
tiêu dùng trong nước…
Tôi đồng ý với cách đặt vấn đề này. Người tiêu dùng trong và ngoài nước chỉ thực sự thỏa

mãn khi được hưởng những sản phẩm có chất lượng tốt. Sản phẩm, thương hiệu nào xứng
đáng sẽ được người tiêu dùng ưu tiên.
Cũng chính vì thế mà Trung Nguyên không chỉ tự tin mà còn tự hào với những dòng sản
phẩm mà mình đang cung cấp. Nếu bạn đi khảo sát một vòng tại các quán cà phê hiện nay, rất
nhiều người dân dùng cà phê cho rằng chất lượng, hương vị của nhiều sản phẩm cà phê ngoại
không tốt hơn cà phê Trung Nguyên.
Điều đó khẳng định chẳng có lý do gì mà chúng tôi không tự hào về sản phẩm của chúng tôi
và càng không có lý gì để “ngoại” lấn lướt “nội”, ít nhất là với mặt hàng cà phê.
Tất nhiên là có nhiều lý do để các thương hiệu trong nước đang phải cạnh tranh rất vất vả với
thương hiệu nước ngoài, vì cuộc chiến trải rộng trên nhiều mặt trận… Trung Nguyên đang
tiếp tục đầu tư cho tất cả những khâu trọng yếu khác như tiếp tục đầu tư cho sản phẩm, mở
rộng phân phối, đẩy mạnh tiếp thị, quảng bá và kêu gọi tinh thần dân tộc, ủng hộ chủ trương
“Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt”.
Xin hỏi ngoài lề một chút. Khi đầu tư ra nước ngoài, có bao giờ các ông nghĩ sẽ áp dụng
chiêu “chuyển giá” không? Nếu không thì “vũ khí” chủ yếu của Trung Nguyên tại thị trường
nước ngoài là gì?
Tất nhiên là không rồi vì ở nước ngoài họ quản lý rất chặt chẽ.
Còn “vũ khí” mà chúng tôi mang ra nước ngoài là một câu chuyện rất dài, đó là cả một chiến
lược mà Trung Nguyên sẽ dần hiện thực hóa trong những bước đi kế tiếp.
Nhưng tôi có thể khẳng định, để thương hiệu của một nước đang phát triển có thể vươn ra và
“sống khỏe” được ở thị trưởng thế giới cần phải có 3 điều kiện: thương hiệu đó phải là số 1
tại quốc gia đó; thương hiệu đó phải nằm trong ngành có lợi thế với thế giới và cuối cùng là
doanh nghiệp đó phải có khát vọng đưa thương hiệu ra ngoài thế giới.
Rất may mắn là Trung Nguyên đang có cả ba yếu tố này và chúng tôi đã, đang và không
ngừng khai thác tất cả tiềm năng, tiềm lực của mình cho mục tiêu đó.
* Năm 2003, Trung Nguyên đã một cuộc “thử mù” (blind test) tại Việt Nam với hơn 3.500
người tiêu dùng giữa hai nhãn cà phê hòa tan G7 của Trung Nguyên và Nescafe (Nestle), với
kết quả là đa số nghiêng về sản phẩm G7. Đáng chú ý, sau hàng loạt chiến lược của G7 được
tung ra, Nescafe buộc phải thay đổi chiến thuật marketing, khi chuyển thông điệp từ “Khởi
đầu một ngày mới” sang “Hương vị Việt Nam hơn” để khẳng định tinh thần Việt của mình so

với G7. Mới đây, Nescafe cũng tung ra loại bao bì mới với hình ảnh và những câu chuyện
lịch sử vốn gắn liền với niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, nhân sự kiện 1.000 năm Thăng
Long – Hà Nội.
Nhận diện thủ thuật tạo doanh thu ảo
Posted on January 20, 2011 by investor68
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) và Cơ quan An ninh Điều tra đã cung cấp thông tin
ban đầu về sai phạm của các cá nhân tại CTCP Dược Viễn Đông (DVD). Theo đó, DVD bị
cáo buộc đã có thời kỳ tạo doanh thu ảo bằng cách kinh doanh lòng vòng. Đây không phải là
trường hợp duy nhất. Dựa vào các kẽ hở của chuẩn mực kế toán, một số nhà quản trị doanh
nghiệp vẫn “đánh bóng” các chỉ số tài chính nhằm phục vụ cho mục đích phát hành hay
thoái vốn…
Giang Thanh
Chuyển giá
X là công ty đang niêm yết trên HOSE, lĩnh vực kinh doanh chính là phân phối khí đốt thiên
nhiên. Tháng 7 vừa qua, Công ty tiến hành triệu tập ĐHCĐ bất thường thông qua kế hoạch
tăng vốn từ 80 tỷ đồng lên 160 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong lĩnh vực kinh doanh chính, tỷ suất
lợi nhuận biên của Công ty khá thấp, chỉ từ 1 – 2%. Lợi nhuận không cao, kế hoạch phát
hành của X khó thành công. Để tăng sức hấp dẫn cho phương án tăng vốn, trong ĐHCĐ,
Công ty X xin điều chỉnh chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế tăng 133%. Con số ấn tượng này được
phù phép từ việc “chuyển giao” lợi nhuận từ các công ty bên ngoài. Cụ thể, X sẽ mua một dự
án bất động sản của Công ty A và bán lại ngay cho Công ty B – cả hai thực chất đều là các
công ty bất động sản đang thuộc quyền kiểm soát của lãnh đạo Công ty X. Qua thủ thuật
chuyển giá, lợi nhuận của X đã tăng lên đáng kể (xem bảng 1).
Bảng 1: KẾT QUẢ CỦA NGHỆ THUẬN “CHUYỂN GIÁ”
Chỉ tiêu Công ty A Công ty X Công ty B
Thực tế
Doanh thu 35 tỷ đồng 44 tỷ đồng 50 tỷ đồng
Giá vốn 30 tỷ đồng 35 tỷ đồng 44 tỷ đồng
LN gộp 5 tỷ đồng 9 tỷ đồng 6 tỷ đồng
“Chuyển giá”

Doanh thu 30 tỷ đồng 50 tỷ đồng 50 tỷ đồng
Giá vốn 30 tỷ đồng 30 tỷ đồng 50 tỷ đồng
LN gộp 0 20 tỷ đồng 0
Đây là bài toán kinh doanh khôn ngoan. Nếu “để lại” lợi
nhuận tại các công ty A và B thì 1 đồng lợi nhuận vẫn chỉ
là 1 đồng. Tuy nhiên, nếu rót vào CTCP X, thì người chủ
DN có thể sinh lời gấp 5 lần (giả định giá bán cổ phần X
trên thị trường với mức P/E là 5).
Bằng hình thức chuyển giá này, một DN có thể lập ra một
số công ty bên ngoài phụ trách việc mua nguyên vật liệu
và phân phối sản phẩm. Ở vị trí trung gian, DN này sẽ
mua được nguyên liệu với giá thấp và bán được sản phẩm
giá cao hơn so với thực tế thị trường. Vị thế này giúp DN
có thể tạo ra con số lợi nhuận… tùy biến, đẩy thua lỗ về
cho các công ty kia.
Một số DN có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam lại làm theo cách ngược lại:
mua nguyên vật liệu với giá cao và bán sản phẩm giá thấp để chuyển lợi nhuận về cho tập
đoàn mẹ bên chính quốc, gây thua lỗ cho công ty con hoạt động tại Việt Nam, nhằm tránh
không phải đóng thuế.
Trở lại trường hợp của công ty X. Nếu các công ty A, X, B cùng thuộc một chủ sở hữu và có
quan hệ kinh doanh mật thiết thì X có thể chủ động “xào nấu” sổ sách tạo ra lợi nhuận ảo
bằng cách ghi nhận doanh thu thông qua việc ghi tăng các khoản phải thu của khách hàng A.
Đồng thời, X giảm chi phí đầu vào bằng cách tăng khoản trả trước cho nhà cung cấp B (thực
Thạc sĩ Lê Đạt Chí
Trưởng bộ môn Đầu tư tài chính,
Đại học Kinh tế TP. HCM
“Doanh thu ảo của một công ty có
thể tạo ra bằng cách ghi nhận giá
trị các hợp đồng tương lai về thời
điểm hiện tại. Khi doanh thu tăng

lên nhưng các khoản phải thu cũng
tăng theo hay dòng tiền từ hoạt
động kinh doanh lại giảm, thì có
thể có vấn đề, NĐT hãy thận trọng.
Dòng tiền ít khi nói dối”.
tế hàng đã bán nhưng chưa hạch toán giá gốc vào chi phí). Các nghiệp vụ ảo này dẫn đến
nghịch lý: dù trên sổ sách X có lợi nhuận lớn, nhưng có thể dòng tiền vẫn bị âm!
Thay đổi phương pháp ghi nhận
Thay đổi chính sách bán hàng sẽ giúp DN tăng doanh thu nhanh chóng trong một thời gian
ngắn. Chẳng hạn, DN đang có chính sách bán hàng trả chậm 15 ngày, sắp hết năm tài chính,
để hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch doanh thu, DN cho phép người mua thanh toán chậm tới 30
ngày. Được trả chậm, các bạn hàng sẵn lòng đón nhận ưu đãi này, nhập hàng số lượng lớn.
Kết quả, doanh thu của DN tăng vọt. Tuy nhiên, hệ quả là số dư nợ phải thu tăng lên và DN
có thể gặp rủi ro với nợ khó đòi. Có thể thấy điều không bình thường này tại một DN đầu tư
và thương mại niêm yết trên HNX: vào quý II/2010, doanh thu của Công ty tăng vọt, nhưng
đi kèm là các khoản phải thu ngắn hạn cũng tăng theo (xem bảng 2).
Bảng 2: CHẤP NHẬN BÁN CHỊU ĐỂ TĂNG DOANH THU
Quý II/2010 Quý I/2010 Quý IV/2009
Doanh thu 177,112 tỷ
đồng
70,564 tỷ
đồng
82,493 tỷ đồng
Khoản phải thu ngắn
hạn
118,533 tỷ
đồng
77,744 tỷ
đồng
57,157 tỷ đồng

Với các mặt hàng khan hiếm hay thiết yếu, DN có thể tác động một cách khéo léo như thông
báo sẽ tăng giá bán trong tương lai gần. Kết quả, khách hàng sẽ tích trữ sản phẩm với mục
đích đầu cơ, doanh số công ty tăng. Thực chất, phần doanh số và lợi nhuận tăng thêm trong
kỳ tài chính này chỉ là phần doanh số và lợi nhuận của kỳ sau chuyển sang, nhằm phục vụ
cho các mục đích ngắn hạn nào đó.
Ước tính kế toán
Đối với các DN xây dựng, có lẽ phải mất nhiều năm thì một công trình mới hoàn thành. Vào
các kỳ lập báo cáo tài chính, DN đó thực hiện ước tiến độ hoàn thành công việc để ghi nhận
doanh thu và lợi nhuận. Dù việc ước tính này luôn dựa trên các cơ sở hợp lý) như biên bản
nghiệm thu công trình), nhưng vẫn mang tính chủ quan, có thể điều chỉnh. Giả sử, một công
trình xây lắp có giá trị 100 tỷ đồng, bằng việc phóng đại hay chủ động làm giảm con số phần
trăm ước hoàn thành công trình, doanh thu của DN có thể thay đổi đáng kể so với thực
tế (xem bảng 3).
Bảng 3: ƯỚC TỶ LỆ HOÀN THÀNH ĐỂ GHI NHẬN
DOANH THU
Thực tế % Hoàn thành Doanh thu ghi nhận
Thực tế 50% 50 tỷ
Phóng đại 70% 70 tỷ
Làm giảm 30% 30 tỷ
Qua việc điều chỉnh này, doanh thu và lợi nhuận của DN tăng lên hay giảm đi là do các
khoản mục tương đương từ kỳ sau chuyển về hiện tại và ngược lại./.
Nhận diện thủ thuật tạo doanh thu ảo
Posted on January 20, 2011 by investor68
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) và Cơ quan An ninh Điều tra đã cung cấp thông tin
ban đầu về sai phạm của các cá nhân tại CTCP Dược Viễn Đông (DVD). Theo đó, DVD bị
cáo buộc đã có thời kỳ tạo doanh thu ảo bằng cách kinh doanh lòng vòng. Đây không phải là
trường hợp duy nhất. Dựa vào các kẽ hở của chuẩn mực kế toán, một số nhà quản trị doanh
nghiệp vẫn “đánh bóng” các chỉ số tài chính nhằm phục vụ cho mục đích phát hành hay
thoái vốn…
Giang Thanh

Chuyển giá
X là công ty đang niêm yết trên HOSE, lĩnh vực kinh doanh chính là phân phối khí đốt thiên
nhiên. Tháng 7 vừa qua, Công ty tiến hành triệu tập ĐHCĐ bất thường thông qua kế hoạch
tăng vốn từ 80 tỷ đồng lên 160 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong lĩnh vực kinh doanh chính, tỷ suất
lợi nhuận biên của Công ty khá thấp, chỉ từ 1 – 2%. Lợi nhuận không cao, kế hoạch phát
hành của X khó thành công. Để tăng sức hấp dẫn cho phương án tăng vốn, trong ĐHCĐ,
Công ty X xin điều chỉnh chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế tăng 133%. Con số ấn tượng này được
phù phép từ việc “chuyển giao” lợi nhuận từ các công ty bên ngoài. Cụ thể, X sẽ mua một dự
án bất động sản của Công ty A và bán lại ngay cho Công ty B – cả hai thực chất đều là các
công ty bất động sản đang thuộc quyền kiểm soát của lãnh đạo Công ty X. Qua thủ thuật
chuyển giá, lợi nhuận của X đã tăng lên đáng kể (xem bảng 1).
Bảng 1: KẾT QUẢ CỦA NGHỆ THUẬN “CHUYỂN GIÁ”
Chỉ tiêu Công ty A Công ty X Công ty B
Thực tế
Doanh thu 35 tỷ đồng 44 tỷ đồng 50 tỷ đồng
Giá vốn 30 tỷ đồng 35 tỷ đồng 44 tỷ đồng
LN gộp 5 tỷ đồng 9 tỷ đồng 6 tỷ đồng
“Chuyển giá” Doanh thu 30 tỷ đồng 50 tỷ đồng 50 tỷ đồng
Giá vốn 30 tỷ đồng 30 tỷ đồng 50 tỷ đồng
LN gộp 0 20 tỷ đồng 0
Đây là bài toán kinh doanh khôn ngoan. Nếu “để lại” lợi
nhuận tại các công ty A và B thì 1 đồng lợi nhuận vẫn chỉ
là 1 đồng. Tuy nhiên, nếu rót vào CTCP X, thì người chủ
DN có thể sinh lời gấp 5 lần (giả định giá bán cổ phần X
trên thị trường với mức P/E là 5).
Bằng hình thức chuyển giá này, một DN có thể lập ra một
số công ty bên ngoài phụ trách việc mua nguyên vật liệu
và phân phối sản phẩm. Ở vị trí trung gian, DN này sẽ
mua được nguyên liệu với giá thấp và bán được sản phẩm
giá cao hơn so với thực tế thị trường. Vị thế này giúp DN

có thể tạo ra con số lợi nhuận… tùy biến, đẩy thua lỗ về
cho các công ty kia.
Một số DN có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam lại làm theo cách ngược lại:
mua nguyên vật liệu với giá cao và bán sản phẩm giá thấp để chuyển lợi nhuận về cho tập
đoàn mẹ bên chính quốc, gây thua lỗ cho công ty con hoạt động tại Việt Nam, nhằm tránh
không phải đóng thuế.
Trở lại trường hợp của công ty X. Nếu các công ty A, X, B cùng thuộc một chủ sở hữu và có
quan hệ kinh doanh mật thiết thì X có thể chủ động “xào nấu” sổ sách tạo ra lợi nhuận ảo
bằng cách ghi nhận doanh thu thông qua việc ghi tăng các khoản phải thu của khách hàng A.
Đồng thời, X giảm chi phí đầu vào bằng cách tăng khoản trả trước cho nhà cung cấp B (thực
tế hàng đã bán nhưng chưa hạch toán giá gốc vào chi phí). Các nghiệp vụ ảo này dẫn đến
nghịch lý: dù trên sổ sách X có lợi nhuận lớn, nhưng có thể dòng tiền vẫn bị âm!
Thay đổi phương pháp ghi nhận
Thay đổi chính sách bán hàng sẽ giúp DN tăng doanh thu nhanh chóng trong một thời gian
ngắn. Chẳng hạn, DN đang có chính sách bán hàng trả chậm 15 ngày, sắp hết năm tài chính,
để hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch doanh thu, DN cho phép người mua thanh toán chậm tới 30
ngày. Được trả chậm, các bạn hàng sẵn lòng đón nhận ưu đãi này, nhập hàng số lượng lớn.
Kết quả, doanh thu của DN tăng vọt. Tuy nhiên, hệ quả là số dư nợ phải thu tăng lên và DN
có thể gặp rủi ro với nợ khó đòi. Có thể thấy điều không bình thường này tại một DN đầu tư
và thương mại niêm yết trên HNX: vào quý II/2010, doanh thu của Công ty tăng vọt, nhưng
đi kèm là các khoản phải thu ngắn hạn cũng tăng theo (xem bảng 2).
Bảng 2: CHẤP NHẬN BÁN CHỊU ĐỂ TĂNG DOANH THU
Quý II/2010 Quý I/2010 Quý IV/2009
Doanh thu 177,112 tỷ
đồng
70,564 tỷ
đồng
82,493 tỷ đồng
Thạc sĩ Lê Đạt Chí
Trưởng bộ môn Đầu tư tài chính,

Đại học Kinh tế TP. HCM
“Doanh thu ảo của một công ty có
thể tạo ra bằng cách ghi nhận giá
trị các hợp đồng tương lai về thời
điểm hiện tại. Khi doanh thu tăng
lên nhưng các khoản phải thu cũng
tăng theo hay dòng tiền từ hoạt
động kinh doanh lại giảm, thì có
thể có vấn đề, NĐT hãy thận trọng.
Dòng tiền ít khi nói dối”.
Khoản phải thu ngắn
hạn
118,533 tỷ
đồng
77,744 tỷ
đồng
57,157 tỷ đồng
Với các mặt hàng khan hiếm hay thiết yếu, DN có thể tác động một cách khéo léo như thông
báo sẽ tăng giá bán trong tương lai gần. Kết quả, khách hàng sẽ tích trữ sản phẩm với mục
đích đầu cơ, doanh số công ty tăng. Thực chất, phần doanh số và lợi nhuận tăng thêm trong
kỳ tài chính này chỉ là phần doanh số và lợi nhuận của kỳ sau chuyển sang, nhằm phục vụ
cho các mục đích ngắn hạn nào đó.
Ước tính kế toán
Đối với các DN xây dựng, có lẽ phải mất nhiều năm thì một công trình mới hoàn thành. Vào
các kỳ lập báo cáo tài chính, DN đó thực hiện ước tiến độ hoàn thành công việc để ghi nhận
doanh thu và lợi nhuận. Dù việc ước tính này luôn dựa trên các cơ sở hợp lý) như biên bản
nghiệm thu công trình), nhưng vẫn mang tính chủ quan, có thể điều chỉnh. Giả sử, một công
trình xây lắp có giá trị 100 tỷ đồng, bằng việc phóng đại hay chủ động làm giảm con số phần
trăm ước hoàn thành công trình, doanh thu của DN có thể thay đổi đáng kể so với thực
tế (xem bảng 3).

Bảng 3: ƯỚC TỶ LỆ HOÀN THÀNH ĐỂ GHI NHẬN
DOANH THU
Thực tế % Hoàn thành Doanh thu ghi nhận
Thực tế 50% 50 tỷ
Phóng đại 70% 70 tỷ
Làm giảm 30% 30 tỷ
Qua việc điều chỉnh này, doanh thu và lợi nhuận của DN tăng lên hay giảm đi là do các
khoản mục tương đương từ kỳ sau chuyển về hiện tại và ngược lại./.
CHỐNG CHUYỂN GIÁ Ở VIỆT NAM
PHAN THỊ THÀNH DƯƠNG *
* ThS. Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
1. Đặt vấn đề
Khi các quan hệ kinh tế được thiết lập đa dạng, có sự liên kết, phối hợp giữa các chủ thể kinh
doanh, thì việc xác định lợi ích kinh tế đã vượt ra ngoài phạm vi của một chủ thể riêng lẻ, mà
được tính trong lợi ích chung của cả tập đoàn hay nhóm liên kết. Với môi trường cạnh tranh
ngày càng gay gắt, câu hỏi làm sao để lợi ích tổng thể đạt tối ưu luôn được đặt ra với các chủ
thể kinh doanh. Chuyển giá được xem là một lời giải cho bài toán lợi ích mà ở đó nhà đầu tư
không cần thêm vốn hay mở rộng sản xuất. Đơn giản vì phương cách này giúp họ giảm tổng
nghĩa vụ thuế. Từ đó lợi nhuận sau thuế sẽ gia tăng.
Tuy nhiên vấn đề chuyển giá ở Việt Nam còn hết sức mới mẻ. Trong xu thế mở rộng cửa
chào đón các tập đoàn kinh tế quốc tế, phát huy nội lực với các công ty cha - mẹ - anh - chị -
em , thì chuyển giá sẽ là công cụ dễ được các chủ thể kinh doanh sử dụng nhằm thay đổi
những nghĩa vụ thuế phải thực hiện với nhà nước. Sự mới mẻ và chứa đựng những hấp dẫn
về lợi ích kinh tế của chuyển giá là điều được các nhà quản lý lưu tâm, được các chủ thể kinh
doanh, người hoạch định chiến lược tài chính của doanh nghiệp lên chương trình hành động
cho mình.
2. Chuyển giá là gì?
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản
được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị trường
nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia (Multi Nations Company) trên toàn

cầu.
[1]
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị
trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết. Hành vi ấy có đối tượng tác
động chính là giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những giao dịch như thế xuất phát
từ ba lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có
quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng
hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn.
Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết nên sự khác
biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có cùng lợi ích không làm
thay đổi lợi ích toàn cục.
Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong nhóm liên kết
không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ.
Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều
tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác nhau về chính sách thuế của các quốc gia là điều
không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã hội của họ không thể đồng nhất, cũng như sự hiện
hữu của các quy định ưu đãi thuế là điều tất yếu. Chênh lệch mức độ điều tiết thuế vì thế
hoàn toàn có thể xảy ra.
Cho nên, chuyển giá chỉ có ý nghĩa đối với các giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể có
mối quan hệ liên kết. Để làm điều này họ phải thiết lập một chính sách về giá mà ở đó giá
chuyển giao có thể được định ở mức cao hay thấp tùy vào lợi ích đạt được từ những giao dịch
như thế. Chúng ta cần phân biệt điều này với trường hợp khai giá giao dịch thấp đối với cơ
quan quản lý để trốn thuế nhưng đằng sau đó họ vẫn thực hiện thanh toán đầy đủ theo giá
thỏa thuận. Trong khi đó nếu giao dịch bị chuyển giá, họ sẽ không phải thực hiện vế sau của
việc thanh toán trên và thậm chí họ có thể định giá giao dịch cao. Các đối tượng này nắm bắt
và vận dụng được những quy định khác biệt về thuế giữa các quốc gia, các ưu đãi trong quy
định thuế để hưởng lợi có vẻ như hoàn toàn hợp pháp. Như thế, vô hình trung, chuyển giá đã
gây ra sự bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế do xác định không chính xác nghĩa
vụ thuế, dẫn đến bất bình đẳng về lợi ích, tạo ra sự cách biệt trong ưu thế cạnh tranh.

Tuy vậy, thật không đơn giản để xác định một chủ thể đã thực hiện chuyển giá. Vấn đề ở chỗ,
nếu định giá cao hoặc thấp mà làm tăng số thu thuế một cách cục bộ cho một nhà nước thì cơ
quan có thẩm quyền nên định lại giá chuyển giao. Chẳng hạn, giá mua đầu vào nếu được xác
định thấp, điều đó có thể hình thành chi phí thấp và hệ quả là thu nhập trước thuế sẽ cao, kéo
theo thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế TNDN) tăng; hoặc giả như giá xuất khẩu định cao
cũng làm doanh thu tăng và kết quả là cũng làm tăng số thuế mà nhà nước thu được. Nhưng
cần hiểu rằng điều đó cũng có nghĩa rằng nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp liên kết ở đầu kia
có khả năng đã giảm xuống do chuyển một phần nghĩa vụ của mình qua giá sang doanh
nghiệp liên kết này.
Hành vi này chỉ có thể được thực hiện thông qua giao dịch của các chủ thể có quan hệ liên
kết. Biểu hiện cụ thể của hành vi là giao kết về giá. Nhưng giao kết về giá chưa đủ để kết
luận rằng chủ thể đã thực hiện hành vi chuyển giá. Bởi lẽ nếu giao kết đó chưa thực hiện trên
thực tế hoặc chưa có sự chuyển dịch quyền đối với đối tượng giao dịch thì không có cơ sở để
xác định sự chuyển dịch về mặt lợi ích. Như vậy, ta có thể xem chuyển giá hoàn thành khi có
sự chuyển giao đối tượng giao dịch cho dù đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán hay chưa.
Giá giao kết là cơ sở để xem xét hành vi chuyển giá. Chúng ta cũng chỉ có thể đánh giá một
giao dịch có chuyển giá hay không khi so sánh giá giao kết với giá thị trường. Nếu giá giao
kết không tương ứng với giá thị trường thì có nhiều khả năng để kết luận rằng giao dịch này
có biểu hiện chuyển giá.
3. Phạm vi chuyển giá
Chuyển giá với ý nghĩa chuyển giao giá trị trong quan hệ nội bộ nên hành vi phải được xem
xét trong phạm vi giao dịch của các chủ thể liên kết. Điều 9 Công ước mẫu của OECD về
định giá chuyển giao ghi nhận “Hai doanh nghiệp được xem là liên kết (associated
enterprises) khi:
i. Một doanh nghiệp tham gia vào quản lý, điều hành hay góp vốn vào doanh nghiệp kia một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc qua trung gian;
ii. Hai doanh nghiệp có cùng một hoặc nhiều người hay những thực thể (entities) khác tham
gia quản lý, điều hành hay góp vốn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc thông qua trung
gian”.
Yếu tố quản lý, điều hành hay góp vốn chính là điều kiện quyết định sự ảnh hưởng, sự giao

hòa về mặt lợi ích của các chủ thể này nên cũng là cơ sở để xác định mối quan hệ liên kết.
Tính chất của những biểu hiện này không mang tính quyết định. Như thế các doanh nghiệp
liên kết có thể được hình thành trong cùng một quốc gia hoặc có thể ở nhiều quốc gia khác
nhau. Từ đó, chuyển giá không chỉ diễn ra trong các giao dịch quốc tế mà có thể cả trong
những giao dịch quốc nội.
Trên thực tế, chuyển giá thường được quan tâm đánh giá đối với các giao dịch quốc tế hơn do
sự khác biệt về chính sách thuế giữa các quốc gia được thể hiện rõ hơn. Trong khi đó, do phải
tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia nên các nghĩa vụ thuế hình thành từ các giao dịch trong
nước ít có sự cách biệt. Vì thế, phần lớn các quốc gia hiện nay thường chỉ quy định về chuyển
giá đối với giao dịch quốc tế.
[2]
Theo đó, giao dịch quốc tế được xác định là giao dịch giữa hai
hay nhiều doanh nghiệp liên kết mà trong số đó có đối tượng tham gia là chủ thể không cư trú
(non-residents).
[3]
Sự khác biệt chính yếu nằm ở sự cách biệt về mức thuế suất thuế TNDN
của các quốc gia. Một giá trị lợi nhuận chuyển qua giá từ doanh nghiệp liên kết cư trú tại
quốc gia có thuế suất cao sang doanh nghiệp liên kết ở quốc gia có thuế suất thấp. Ngược lại
một lượng chi phí tăng lên qua giá mua sẽ làm giảm thu nhập cục bộ ở quốc gia có thuế suất
thuế thu nhập cao. Trong hai trường hợp đều cho ra những kết quả tương tự là làm tổng thu
nhập sau thuế của toàn bộ nhóm liên kết tăng lên.
Khía cạnh khác, các giao dịch trong nước có thể hưởng lợi từ chế độ ưu đãi, miễn giảm thuế.
Thu nhập sẽ lại dịch chuyển từ doanh nghiệp liên kết không được hưởng ưu đãi hoặc ưu đãi
với tỉ lệ thấp hơn sang doanh nghiệp liên kết có lợi thế hơn về điều này.
4. Biện pháp chống chuyển giá ở Việt Nam
4.1. Chuyển giá đã được các nhà hoạch định chính sách tài chính Việt Nam xác định là một
vấn đề cần được quan tâm quản lý khi mà ngày càng xuất hiện nhiều dấu hiệu chuyển giá
trong giao dịch có yếu tố nước ngoài.
[4]
Văn bản pháp lý đầu tiên đề cập đến chuyển giá là

Thông tư 74/1997/TT-BTC hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài, sau đó là
Thông tư 89/1999/TT-BTC và Thông tư 13/2001/TT-BTC. Đến Thông tư 05/2005/TT-BTC
hướng dẫn về thuế nhà thầu thì vấn đề này được bỏ ra khỏi nội dung điều chỉnh. Cho đến
19/12/2005, chuyển giá đã được nhắc lại tại Thông tư 117/2005/TT-BTC do Bộ Tài chính
ban hành hướng dẫn việc thực hiện xác định giá thị trường trong các giao dịch kinh doanh
giữa các bên có quan hệ liên kết. Tính đến nay, Thông tư 117/2005/TT-BTC có thể được xem
là văn bản pháp lý điều chỉnh một cách khá chi tiết về biện pháp chống chuyển giá bằng
phương pháp định giá chuyển giao. Ý nghĩa của việc định giá chuyển giao là xác định lại giá
giao dịch giữa các doanh nghiệp liên kết nhằm đưa giá giao dịch liên kết về đúng với giá thị
trường.
4.2. Đối tượng áp dụng phương pháp định giá chuyển giao là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh tại Việt Nam
có giao dịch kinh doanh với các bên có quan hệ liên kết có nghĩa vụ kê khai, xác định nghĩa
vụ thuế TNDN ở Việt nam. Phạm vi áp dụng bao gồm các giao dịch mua, bán, trao đổi, thuê,
cho thuê, chuyển giao hoặc chuyển nhượng hàng hóa, dịch vụ trong quá trình kinh doanh
giữa các bên có quan hệ liên kết.
[5]
Nội hàm tác động của những quy định này dường như
cũng không giới hạn điều chỉnh trong các giao dịch chuyển giá quốc tế. Các giao dịch liên kết
bị điều chỉnh cũng tương tự quy định của các nước hoặc theo Công ước mẫu của OEDC về
định giá chuyển giao
[6]
. Nhưng phạm vi giao dịch chuyển giá mà Việt Nam điều chỉnh có
phần hẹp hơn vì không đề cập đến những giao dịch như vay hoặc cho vay, hay như giao dịch
được đề cập mở rộng mang tính dự báo mà có thể gây tác động đến lợi ích của doanh nghiệp
liên kết.
4.3. Để xác định giá thị trường phải tuân thủ nguyên tắc dựa trên cơ sở so sánh tính tương
đương giữa giao dịch liên kết với giao dịch độc lập
[7]
từ đó lựa chọn ra phương pháp xác định

giá phù hợp. Theo đó, dù là sử dụng phương pháp nào thì việc so sánh cũng phải đưa giao
dịch độc lập làm cơ sở quy chiếu về điều kiện tương đương với giao dịch liên kết. Do đó các
giao dịch tương đối dùng để so sánh có thể không hoàn toàn giống giao dịch liên kết nhưng
phải đảm bảo là không có các khác biệt trọng yếu. Trường hợp có khác biệt trọng yếu, việc so
sánh phải dùng biện pháp phân tích và đánh giá các tiêu thức ảnh hưởng dẫn đến khác biệt
nhằm loại trừ sự khác biệt mang lại sự tương đồng.
[8]
Có 4 tiêu thức được xem là những yếu
tố có thể gây ra sự khác biệt, đó là đặc tính của sản phẩm, chức năng hoạt động của cơ sở
kinh doanh, điều kiện của hợp đồng giao dịch và điều kiện kinh tế khi diễn ra giao dịch.
4.4. Quá trình phân tính, đánh giá sẽ chỉ ra phương thức xác định giá thị trường nào là phù
hợp nhất. Khác với các quy định trước đây, chỉ có 3 phương pháp được áp dụng, không đủ để
bao quát hết các khả năng phải xác định giá, trong lần quy định này, thông tư 117/2005/TT-
BTC đã đưa ra 5 phương pháp định giá chuyển giao. Đó là:
- Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập: dựa vào đơn giá sản phẩm được vận dụng
trong trường hợp giao dịch độc lập có điều kiện tương đương với giao dịch liên kết.
- Phương pháp giá bán lại: áp dụng trong trường hợp không có giao dịch mua tương đương,
thuộc khâu cung ứng hoặc có thêm giai đoạn gia công, chế biến, lắp ráp làm gia tăng giá trị
hàng hóa, nên phải sử dụng giá bán lại của sản phẩm do cơ sở kinh doanh bán cho bên độc
lập để xác định giá mua vào của giao dịch liên kết.
- Phương pháp giá vốn cộng lãi: được lựa chọn khi giao dịch liên kết thuộc khâu sản xuất
khép kín để bán cho bên liên kết hoặc cung ứng đầu vào và bao tiêu đầu ra cho bên liên kết.
Phương pháp này xác định giá dựa vào giá vốn hay giá thành của sản phẩm để xác định giá
bán ra của sản phẩm đó cho bên liên kết.
- Phương pháp so sánh lợi nhuận: để thực hiện phương pháp này phải dựa trên tỷ suất sinh
lời của sản phẩm trong giao dịch độc lập được chọn. Phương pháp này không cho ra kết quả
về giá mà tính ra được thu nhập thuần trước thuế là cơ sở tính thuế TNDN. Đây được xem là
phương pháp mở rộng của phương pháp giá bán lại và giá vốn cộng lãi, nên có thể áp dụng
đối chiếu trong trường hợp có những điều kiện tương tự.
- Phương pháp tách lợi nhuận: được áp dụng trong trường hợp nhiều bên liên kết cùng thực

hiện một giao dịch liên kết tổng hợp
[9]
, chẳng hạn như cùng tham gia nghiên cứu phát triển
sản phẩm mới, hoặc sản phẩm là tài sản vô hình độc quyền, kinh doanh chuyển tiếp từ khâu
đầu đến khâu cuối gắn với quyền sở hữu trí tuệ. Việc tách lợi nhuận của từng bên liên kết
trong giao dịch dựa trên cách mà các bên độc lập thực hiện phân chia lợi nhuận trong các
giao dịch độc lập tương đương. Trường hợp do tính đặc thù hoặc duy nhất của giao dịch liên
kết mà không có có giao dịch độc lập tương đương để chọn một trong các phương pháp trên
so sánh thì có thể sử dụng biện pháp tổng hợp (như mở rộng phạm vi lựa chọn sang phân
ngành khác, xác định biên độ giá thị trường thích hợp bằng các phương pháp tổng hợp )
hoặc vận dụng các số liệu giữa kỳ (để tính mức giá sản phẩm, tỷ suất lợi nhuận ).
4.5. Mục đích của định giá chuyển giao là tìm sự khác biệt trong việc hình thành nghĩa vụ
thuế giữa giá giao dịch liên kết và giao dịch độc lập. Do đó, quá trình so sánh cho phép chủ
thể có giao dịch liên kếtlựa chọn giá trị phù hợp nhất
[10]
trong các giá trị tương ứng của biên
độ giá thị trường chuẩn
[11]
để làm căn cứ điều chỉnh giá của giao dịch liên kết. Theo quy định
tại đoạn 1.1 điểm 1, Mục 2, phần B, TT117/2005/TT-BTC, trường hợp giá sản phẩm trong
giao dịch liên kết không thấp hơn giá trị phù hợp nhất thì chủ thể kinh doanh không cần điều
chỉnh. Điều này đồng nghĩa với việc cho ra kết quả giá của giao dịch liên kết nằm ở đầu vào
hay đầu ra trong quá trình kinh doanh của bên liên kết có nghĩa vụ thuế nếu đã được định cao
hơn giá trị phù hợp là được chấp thuận. Như thế định giá chuyển giao sẽ không còn ý nghĩa
nếu xác định giá đầu vào cao hơn so với giá thị trường, bởi thu nhập chịu thuế sẽ bị giảm do
chi phí đầu vào định giá tăng lên. Ngược lại nếu giá trị đầu ra được xác định là cao hơn giá
thị trường và không cần điều chỉnh, thì như đã phân tích ở trên nếu xét một cách cục bộ,
nghĩa vụ thuế TNDN ở bên liên kết này có thể tăng lên nhưng nghĩa vụ thuế của bên cùng
giao dịch sẽ giảm đi đáng kể. Đó là chưa kể đến những ảnh hưởng khác như vấn đề quản lý
về chuyển tiền khi thanh toán, chuyển vốn, chia lãi qua chuyển giá. Vậy nên chăng, một khi

chúng ta đã thực hiện biện pháp định giá chuyển giao, thì mọi giao dịch liên kết có giá cao
hay thấp hơn giá thị trường đều được đưa về mức chuẩn là giá thị trường phù hợp đã được
định ra trong quá trình sử dụng phương pháp so sánh.
4.6. Áp dụng các biện pháp so sánh giá thị trường được xem là nghĩa vụ bắt buộc của đối
tượng nộp thuế TNDN khi thực hiện các giao dịch liên kết. Chủ thể này có nghĩa vụ kê khai
các giao dịch liên kết đã thực hiện và phương pháp so sánh giá đã áp dụng khi khai báo thuế
TNDN. Cơ chế này được thực hiện sẽ làm giảm khả năng không kiểm soát được các giao
dịch liên kết gây khó khăn cho chủ thể quản lý. Như các quy định trước đây, định giá chuyển
giao chỉ có thể được áp dụng khi cán bộ chuyên quản thuế kiểm tra phát hiện có hiện tượng
chuyển giá. Nhưng để phát hiện có chuyển giá hay không lại phụ thuộc hoàn toàn vào khả
năng và yếu tố chủ quan của chính người quản lý. Trao nghĩa vụ kê khai các giao dịch liên
kết cho đối tượng nộp thuế vừa giảm thiểu chi phí quản lý, vừa tăng quyền tự quyết định, tự
chịu trách nhiệm với những thông tin mà đối tượng nộp thuế cung cấp. Điều này được xem là
phù hợp với xu thế quản lý thuế hiện đại (tự kê khai, tự nộp). Bởi lẽ khi ấy, đối tượng nộp
thuế sẽ phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý nếu không đảm bảo thực hiện đúng nghĩa vụ này.
Bên cạnh đó, họ cũng có quyền được bảo vệ bí mật về thông tin đã cung cấp trong quá trình
xác định giá. Tuy vậy cơ chế bảo mật thông tin trong trường hợp này chưa được nhà nước
quan tâm điều chỉnh cụ thể, vì thế sẽ không thể biết rằng một khi thông tin nội bộ của họ (như
bí mật công nghệ, giải pháp kỹ thuật ) bị rò rỉ gây thiệt hại cho đối tượng nộp thuế thì trách
nhiệm của cơ quan quản lý sẽ ra sao, mức bồi thường như thế nào? Câu hỏi này chưa có lời
đáp rõ ràng.
4.7. Các biện pháp cưỡng chế cũng được áp dụng nhằm đảm bảo tuân thủ kê khai đúng đắn
các giao dịch liên kết. Trước hết, đó là quy định về quyền của cơ quan thuế được ấn
định mức giá sử dụng để kê khai tính thuế hoặc ấn định thu nhập chịu thuế hay số thuế thu
nhập phải nộp. Việc ấn định dựa trên cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế phù hợp quy định về ấn
định thuế hoặc theo giá trị không thấp hơn giá trị trung bình của biên độ giá thị trường chuẩn
được cơ quan thuế ấn định. Cơ chế ấn định giá trong trường hợp này chưa được quy định rõ
vì tiêu chuẩn lựa chọn để định giá nào sẽ được xem là phù hợp một khi những thông tin mà
đối tượng nộp thuế cung cấp được xem là giả mạo, hoặc không có giao dịch độc lập tương tự
để so sánh. Từ đây có thể xảy ra việc cơ quan quản lý có thể tùy nghi vận dụng. Chẳng hạn

quy định tại đoạn 2.2 điểm 2, Mục 2, Phần C, TT117/2005/TT-BTC đề cập về sự “nghi ngờ”
của cơ quan thuế liên quan đến tính trung thực của đối tượng nộp thuế dẫn đến việc chủ thể
này phải có nghĩa vụ chứng minh. Nhưng cơ sở của sự nghi ngờ này là gì thì không rõ. Vì thế
đối tượng nộp thuế sẽ rất khó chứng minh nghĩa vụ của mình, nhưng lại rất dễ để cơ quan
quản lý làm khó đối tượng nộp thuế vì tự thân sự nghi ngờ hoàn toàn có thể xuất phát cảm
tính của chủ thể quản lý. Ngoài điều này ra, pháp luật còn cho phép áp dụng các trách nhiệm
pháp lý khác để xử lý vi phạm đối với hoạt động xác định giá thị trường. Những hành vi vi
phạm này có lẽ phù hợp nhất nếu được xem là vi phạm pháp luật thuế vì mục đích cuối cùng
là thay đổi nghĩa vụ thuế, nhưng cũng sẽ không đơn giản để phân tách thời điểm vi phạm để
xếp hành vi vi phạm chuyển giá vào nhóm vi phạm nào?
4.8. Biện pháp định giá chuyển giao theo cách thức điều chỉnh hiện nay chỉ có ý nghĩa trong
việc xác định thu nhập chịu thuế, chính xác hơn là xác định đúng nghĩa vụ thuế TNDN. Thế
nhưng điều đó cũng có nghĩa là đưa giao dịch liên kết về giao dịch thị trường, nên kết quả
này cũng có những ý nghĩa pháp lý nhất định trong việc xác định các nghĩa vụ thuế khác như
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt nếu có. Kết quả
này là biểu thị giá của giao dịch bán ra hoặc giao dịch mua vào cho nên giá tính thuế của các
loại thuế gián thu nếu căn cứ vào đây có thể sẽ khác đi vì được định giá lại.
5. Lời kết
Việc ban hành TT117/2005/TT-BTC cho thấy những động thái tích cực của Nhà nước trong
việc nhận biết, điều phối những hiện tượng mới mẻ phát sinh trong nền kinh tế đang không
ngừng biến chuyển với sự du nhập của trào lưu kinh doanh mang tính phối hợp, cộng tác,
phương thức hạch toán, quản lý ngày càng đa dạng và phức tạp. Chuyển giá cũng xuất hiện từ
những làn sóng lợi ích ấy. Thế nhưng TT117/2005/TT-BTC mới chỉ có thể là những viên
gạch đầu tiên vỡ vạc một cơ sở pháp lý điều chỉnh về một quan hệ xã hội - ở đó có những
giằng kéo về mặt lợi ích giữa Nhà nước và đối tượng nộp thuế, xa hơn là lợi ích của cả một
cộng đồng. Thật đơn giản để thấy rằng lồng ghép trong những quan hệ kinh tế chằng chịt ấy
cũng là vấn đề lợi ích, nhưng bóc gỡ nó ra để tìm thấy sự bình đẳng về quyền lợi thì lại không
đơn giản chút nào. Bước đầu, nội dung các quy định này không thể tránh khỏi sự phức tạp,
khó hiểu, các vấn đề pháp lý được đặt ra còn nhiều điều phải bàn cãi - như tính cưỡng chế
chưa cao, căn cứ để cơ quan thuế áp giá chưa rõ ràng. Các chủ thể nằm trong đối tượng bị

điều chỉnh của văn bản này, cũng như bộ phận chuyên quản thuế sẽ không dễ để thực hiện
đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Điều này dự báo khả năng áp dụng biện pháp định giá
chuyển giao của Việt Nam trên thực tiễn sẽ khó khăn.
Tất cả đang cần có một cái nhìn đầy đủ hơn về chuyển giá, về phạm vi tác động của giá thị
trường được định ra trong các phương pháp xác định giá để từ đó chuyển các giao dịch liên
kết về đúng với bản chất tự nhiên của nó là một giao dịch bình đẳng. Ở đây là một sự bình
đẳng theo đúng nghĩa thị trường không vì lợi ích cục bộ của riêng một chủ thể nào. Làm được
điều này không chỉ bảo vệ lợi ích của Nhà nước mà tính đến lợi ích của những chủ thể khác
nhằm duy trì một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong xã hội có nhiều quan hệ
đa chiều như hiện nay.
Kiểm soát giao dịch liên kết, biện pháp chống chuyển giá
Theo vietstock.vn - 8 tháng trước
Khi các DN áp đặt giá giao dịch nội bộ không theo giá thị trường, không theo quy luật cung
cầu thì các giao dịch nội bộ này là phương tiện để DN thực hiện hành vi chuyển giá nhằm
hưởng lợi và tối thiểu hoá số thuế phải nộp gây ra sự bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa
vụ thuế giữa các DN và tác động xấu đến môi trường kinh doanh.
Để tăng cường công tác kiểm soát đối với hoạt động chuyển giá, Bộ Tài chính đã ban hành
Thông tư số 66/2010/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong giao
dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Thông tư 66 nêu trên có phạm vi áp dụng
đối với tất cả các giao dịch mua, bán, trao đổi, thuê, cho thuê, chuyển giao hoặc chuyển
nhượng hàng hoá dịch vụ trong quá trình kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Thông
thường, hai DN trong một kỳ tính thuế có quan hệ giao dịch kinh doanh thuộc một trong 13
trường hợp sau thì xác định là các bên liên kết, cụ thể:
1- Một DN nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp ít nhất 20% vốn đầu tư chủ sở hữu của DN kia;
2- Cả hai DN đều có ít nhất 20% vốn đầu tư của chủ sở hữu do một bên thứ ba nắm giữ trực
tiếp hoặc gián tiếp;
3- Cả hai DN đều nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp ít nhất 20% vốn đầu tư của chủ sở hữu của
một bên thứ ba;
4- Một DN là cổ đông lớn nhất về vốn đầu tư của chủ sở hữu của DN kia, nắm giữ trực tiếp
hoặc gián tiếp ít nhất 10% vốn đầu tư của chủ sở hữu của DN kia;

5- Một DN bảo lãnh hoặc cho một DN khác vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào với điều kiện
khoản vốn vay ít nhất bằng 20% vốn đầu tư của chủ sở hữu của DN đi vay và chiếm trên 50%
tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của DN đi vay;
6- Một DN chỉ định thành viên ban lãnh đạo điều hành hoặc kiểm soát của một DN khác với
điều kiện số lượng các thành viên được DN thứ nhất chỉ định chiếm trên 50% tổng số thành
viên ban lãnh đạo điều hành hoặc kiểm soát của DN thứ hai; hoặc một thành viên được DN
thứ nhất chỉ định có quyền quyết định các chính sách tài chính hoặc hoạt động kinh doanh
của DN thứ hai;
7- Hai DN cùng có trên 50% thành viên ban lãnh đạo hoặc cùng có một thành viên ban lãnh
đạo có quyền quyết định các chính sách tài chính hoặc hoạt động kinh doanh được chỉ định
bởi một bên thứ ba;
8- Hai DN được điều hành hoặc chịu sự kiểm soát về nhân sự, tài chính và hoạt động kinh
doanh bởi các cá nhân thuộc một trong các mối quan hệ sau: vợ và chồng; bố, mẹ và con
(không phân biệt con đẻ, con nuôi hoặc con dâu, con rể); anh, chị, em có cùng cha, mẹ
(không phân biệt cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi); ông nội, bà nội và cháu nội; ông ngoại,
bà ngoại và cháu ngoại; cô, chú, bác, cậu, dì ruột và cháu ruột;
9- Hai DN có mối quan hệ trụ sở chính và cơ sở thường trú hoặc cùng là cơ sở thường trú của
tổ chức, cá nhân nước ngoài;
10- Một DN sản xuất, kinh doanh sản phẩm sử dụng tài sản vô hình hoặc quyền sở hữu trí tuệ
của một DN khác với điều kiện chi phí phải trả cho việc sử dụng tài sản vô hình, quyền sở
hữu trí tuệ đó chiếm trên 50% giá vốn sản phẩm;
11- Một DN cung ứng trực tiếp hoặc gián tiếp trên 50% tổng giá trị nguyên vật liệu, vật tư
hoặc sản phẩm đầu vào để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm đầu ra của
một DN khác;
12- Một DN kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp trên 50% sản lượng sản phẩm tiêu thụ của một
DN khác;
13- Hai DN có thoả thuận hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng.
Trong Thông tư còn quy định các DN có quan hệ giao dịch liên kết phải có trách nhiệm kê
khai các thông tin về giao dịch liên kết theo mẫu quy định. Thời hạn nộp hồ sơ kê khai
“Thông tin về giao dịch liên kết” cùng với thời hạn nộp tờ khai quyết toán thuế thu nhập DN.

Ý kiến cá nhân
- Phải điều chỉnh luật đầu tư nước ngoài,để phù hợp với tình hình hiện tại,bởi vì sau hơn 10 năm thực hiện luật đầu tư nước
ngoài tại Việt nam tình hình kinh tế đã thay đổi, Việt nam đã được công nhận thuộc nhóm nước đang phát triển, các DN FDI đã
phát triển cả về quy mô vốn và lĩnh vực kinh doanh.
- Nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động FDI (không loại trừ việc học tập,tìm hiểu luật pháp quốc
tế),nhất là đội ngũ cán bộ thuế trực tiếp quản lý thuế của các DN FDI.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×