Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiến trình thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.68 KB, 22 trang )

Chơng II
tiến trình thực trạng hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam
1. Tiến trình hội nhập trong thời gian vừa qua của Việt Nam
Nghiên cứu vấn đề này ta mới nhận thấy rằng: chính sách mở cửa hội nhập
kinh tế quốc tế để phát triển đất nớc không phải là một điều hoàn toàn mới mẻ đối
với Đảng và Nhà nớc ta. Nó chính là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo và
từng hoàn cảnh, từng giai đoạn của đất nớc những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu lên ngay từ khi nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời. Trong bài
trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 nă, 1945, Ngời đã nói: "Chúng ta
hoan nghênh những ngời Pháp muốn đem t bản xứ ta khai thác những nguồn nguyên
liệu cha có ai khai thác.... Chúng ta sẽ mời những nàh chuyên môn Pháp, cũng nh
Mỹ, Nga hay Tàu đến đây giúp việc cho chúng ta trong việc kiến thiết quốc gia..."
cuối năm 1946 trong "Lời kêu gọi Liên hiệp quốc" Ngời lại viết "Trong chính sách
đối ngoại của mình, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những nguyên tắc dới đây":
1) Đối với Lào và Miên (Campuchia), nớc Việt Nam luôn tôn trọng nền độc
lập của hai nớc đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối
giữa các nớc có chủ quyền.
2) Đối với các nớc dân chủ, nớc Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở
cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
Một là nớc Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu t của nhà t bản, nhà
kỹ thuật nớc ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
Hai là, nớc Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đờng xá giao
thông cho việc buôn bán quá cảnh quốc tế.
Ba là, nớc Việt Nam tham gia một tổ chức hợp tác quốc tế dới sự lãnh đạo của
Liên hiệp quốc.
Tuy nhiên trong thời gian đó, do hoàn cảnh lịch sử, quan hệ quốc tế của nớc ta
chỉ giới hạn trong Hội đồng tơng trợ kinh tế (SEV) khối liên kết kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Có nghĩa là Việt Nam chỉ có quan hệ kinh tế với các nớc xã hội chủ nghĩa, mà
chủ yếu là nớc ta dựa vào sự giúp đỡ của họ, đặc biệt là Liên Bang Xô Viết.
Tiếp theo đó là hai cuộc kháng chiến trờng kỳ thần thánh chống Pháp và


chống Mỹ của dân ta. Mọi nguồn lực, sức ngời, sức của đểu đợc tập trung tối đa cho
chiến tranh, các vấn đề khác tạm thời gác lại.
Đến khi đất nớc hoàn toàn giải phóng, nớc ta lại tập trung khôi phục nền kinh
tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung có sự giúp đỡ to lớn của xã hội chủ nghĩa trong
Hợp đồng tơng trợ kinh tế (SEV)?
Đồng thời nhận thấy xu thế toàn cầu hoá đang ngày càng tăng lên, các quốc
gia ở mức độ này hay mức độ khác đều tuỳ thuộc vào nhau, do đó nếu nớc nào đóng
cửa với thế giới là đi ngợc xu thế của thời đại mà mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế
là yêu cầu tất yếu hớng tới sự phát triển. Đại hội VI của Đảng (12 - 1986), trong khi
quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang
mô hình kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, thì cũng đồng thời chủ trơng:
Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế, tích
cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nớc, các tổ chức quốc tế
và t nhân nớc ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Tuy nhiên trong tình hình cuộc chiến tranh lạnh lúc đó tiếp diễn, Mỹ vẫn
ngoan cố kéo dàu việc bao vây, cấm vận chống lại nớc ta thì việc thực hiện chính
sách mở cửa và hội nhậ kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm tiếp theo đó chủ
yếu nghiêng về một phía - Liên Xô và các nớc chủ nghĩa xã hội trong Hội đồng tơng
trợ kinh tế (SEU).
Phải trải qua gần 5 năm đổi mới, nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa ở nớc ta bắt đầu vận hành có kết quả, đồng thời đứng trớc thực tế của các nớc
xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, Liên Xô cũng đang trợt dài tới bờ vực của sự
tan rã, đại hội VII của Đảng (6 - 1991) mới đề ra các luận điểm có ý nghĩa phơng
châm chỉ đạo, tổng quát cho việc thị trờng chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế rộng rãi ở nớc ta. "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nớc trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển"; "Đa dạng hoá, đa phơng
hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi".
Đại hội Đảng lần thứ VIII ( 6- 1996) tiếp tục cụ thể hoá các luận điểm trên và
quyết định "đẩy nhanh quá trình hội nhậ kinh tế khu vực và thế giới" Nghị quyết hội

nghị Trung ơng lần thứ IV khoá VIII (12 - 1997) cũng đã đa ra nguyên tắc hội nhập
kinh tế quốc tế của nớc ta.
Một là, trên vấn đề phát huy nội lực, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách
thu hút nguồn lực bên ngoài.
Hai là, tiến hành khẩn trơng, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thơng mại
Việt - Mỹ, gia nhập APEC và WTO.
Ba là, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khu vực
AFTA.
Gần đây nhất, Đại hội IX của Đảng (4 - 2001) tiếp tục vạch ra phơng châm
cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian 10 năm tới 2001 - 2010: "...
nâng lên một bớc mới gắn với việc thực hiện các cam keets quốc tế đòi hỏi chúng ta
phải ra sức nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền
kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế". Nghị quyết Đại hội
Đảng lần này lại nhấn mạnh thêm: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
theo tinh thần tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự
chủ và định hớng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trờng".
Quán triệt t tởng Hồ Chí Minh và những luận điểm có ý nghĩa phơng châm chỉ
đạo hành động của Đảng, 15b năm qua cùng với việc đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nớc, Nhà nớc ta lần lợt thi hành một loạt biện pháp để thúc đẩy tiến
trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tháng 12 - 1987, Quốc hội nớc ta thông qua Luật đầu t nớc ngoài Việt Nam
và cho đến nay vẫn liên tục đợc bổ sung, sửa đổi để phù hợp với tình hình trong nớc
và quốc tế từng giai đoạn.
Năm 1989, Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại quan hệ quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) và đến tháng 10 - 1993 đã bình thờng
hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính, tiền tệ lớn nhất thế giới này.
Tháng 7/1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, và từ ngày 01/01/1999
bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN tức
AFTA, cũng tháng 7 này, Việt Nam đã ký kết Hiệp định chung về hợp tác kinh tế,

khoa học, kỹ thuật, và một số lĩnh vực khác với cộng đồng Châu Âu (nay là Liên
minh Châu Âu EU), đồng thời bình thờng hoá quan hệ với Mỹ.
Tháng 3/1996 Việt Nam tham gia với t cách thành viên sáng lập diễn đàn hợp
tác kinh tế á - Âu (ASEM).
Tháng 11/1998, Hiệp định Thơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã đợc ký kết và
sau bao nhiêu nỗ lực, Hiệp định chính thức có hiệu lực vào ngày 10/12/2001 mà
không kèm theo cái gọi là Đạo luật nhân quyền nghị viện và tổng thống Mỹ đa ra.
Đây là bớc tiến thuận lợi trong quá trình gia nhập WTO của nớc ta. Mà trớc đó, cuối
năm 1994, Nhà nớc ta đã gửi đơn xin gia nhập vào tổ chức này, hiện đang trong quá
trình đàm phán để đợc kết nạp.
Tháng 9 /2001, tại Hà Nội đã diễn ra hội nghị Bộ trởng kinh tế các nớc á - Âu
lần thứ 3 (EMM - 3) và Hội nghị Bộ trởng kinh tế ASEAN lần thứ 33 và điều phối
viện Châu á của EMM - 3 và đã hoàn thành một cách tốt đẹp bạn bè đã biết đến một
Việt Nam đang cố gắng bứt lên, một Việt Nam có tiềm năng và nội lực dồi dào, đón
nhận đầu t của các nớc trong khu vực và quốc tế, một Việt Nam sẵn sàng hội nhập
kinh tế quốc tế.
2. Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam hiện nay.
Cho đến thời điểm hiện nay thì không thể nói rằng Việt Nam mới bắt đầu hội
nhập kinh tế quốc tế. Thực tế Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các hình thức hội
nhập, đặc biệt là ba hình thức cơ bản đã trình bày ở đây chỉ có thể xem nh là một lát
cắt ngang thực trạng quan hệ Việt Nam với các tổ chức các nớc mà có tác động lớn
tới nền kinh tế nớc ta.
2.1. Việt Nam trong lộ trình AFTA.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đợc ký hiệp định thành lập năm
1992 giữa các nớc ASEAN nhằm tạo ra bớc ngoặt phát triển kinh tế của các nớc 6
thành viên. Mục tiêu của AFTA là giảm dẫn thuế quan hầu hết các mặt hàng, trớc hết
là giảm dần hàng công nghiệp chế biến.
Theo sự điều chỉnh đợc cam kết gần đây nhất, Việt Nam sẽ thực hiện đầy đủ
các quy định AFTA vào năm 2006, trong khi đối với các thành viên khác, thời hạn
đó là 2003. Ví dụ, đối với danh mục hàng hoá cắt giảm bình thờng thì: các loại sản

phẩm có thuế suất trên 20% sẽ giảm xuống dới 20% vào ngày 01/11/.2001 (nớc khác
là 1998) và sau đó xuống dới 5% vào ngày 01/01/2006 (với các nớc là 2003) còn các
loại sản phẩm có thuế suất 20% hoặc dới mức 20% sẽ đợc giảm xuống đến 0- 5%
vào 1/1/2002 (nớc khác là 2000). Quả thực nớc ta định hớng vợt u đãi khi áp lực về
thời gian đợc nới ra so với các nớc khác đầu năm 1998, ta đã công bố lịch trình giảm
thuế để thực hiện AFTA vào năm 2006. Tiếp đó, luật thuế xuất nhập khẩu đợc sửa
đổi nhằm tạo điều kiện để xây dựng hệ thống thuế nhập khẩu 3 cột (phổ thông, u đãi
chung theo Quy chế trí tuệ quốc - MFN và u đãi đặc biệt) cũng nh các quy định về
thuế chống phá giá và thuế đối kháng, Việt Nam cũng đã cam kết tăng số dòng thuế
sản phẩm có thuế suất dới 5% vào năm 2006.
Nhìn chung cho đến nay, Việt Nam đã đáp ứng cơ bản những đòi hỏi về lộ
trình của CFPT/AFTA. Hết năm 2001 tiến trình cắt giảm thuế quan CEPT/AFTA đ-
ợc chuẩn bị và bớc đầu đạt đợc những kết quả đáng kích lệ. Tuy nhiên cũng có rất
nhiều vấn đề đặt ra cần quan tâm, xử lý đó là: không ít các kết quả đã có chỉ mang
tính thủ tục, tiến bộ giảm thuế suất xuống 5% và dới 5% thực tế vẫn diễn ra chậm.
Mặc dù đến 2006 Việt Nam mới thực hiện đầy đủ AFTA, song sự chậm chạp đó có
nghĩa là việc cắt giảm thuế sẽ dồn vào những năm sau này. Đó là ngay bây giờ chúng
ta phải xét đến tình hình hiện nay. Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ đã có hiệu lực,
Trung Quốc đã gia nhập WTO.v.v...
Cũng cần nhìn nhận rằng đối với Việt Nam, trong quan hệ so sánh với các
thành viên ASEAN khác thực hiện đầy đủ AFTA chủ yếu có nghĩa là phải chấp
nhạan cạnh tranh sòng phẳng với nhiều đặc điểm bất lợi hơn. Việt Nam có khoảng
thời gian u đãi hơn nhng nó chỉ có giá trị với điều kiện là có sự nố lực rất lớn trong
việc cải thiện sức cạnh tranh. Quãng thời gian 3 năm quả thực là quá ngắn nếu so
quãng thời gian mà các nớc ASEAN khác đã có để đạt tới sức cạnh tranh hiện tại.
Chính vì vậy, Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa, năm 2006 đã gần kề tình
hình kinh tế trong nớc và khu vực luôn biến đổi. Do đó việc học tập rút kinh nghiệm
từ các thành viên ASEAN là không thể bỏ qua.
2.2. Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ.
Quan hệ Việt - Mỹ là một quan hệ đặc biệt so với các quá trình giữa Việt

Nam và các nớc khác không chỉ bởi vì Mỹ là cờng quốc trên thế giới. Trớc đây
Mỹ là kẻ thù của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh. Mỹ cũng đã từng cấm vận Việt
Nam gây ra một thời kỳ khó khăn vất vả cho cả nớc. Bây giờ Mỹ là một bạn hàng to
lớn, một thị trờng rộng mở và càng đặc biệt khi Hiệp định - Thơng mại Việt - Mỹ
chính thức có hiệu lực từ 10/12/2001.
Đây là Hiệp định đợc đánh giá đồ sộ và có quy mô lớn nhất trong lịch sử đàm
phán Việt Nam. Nó bao gồm các thoả thuận bao trùm tất cả lĩnh vực kinh tế - thơng
mại thế giới WTO. Tính đến ngày đợc ký kết (13/7/2001) Hiệp định đã trải qua 11
vòng đàm phán (vòng 1 bắt đầu vào 9/1996 tại Hà Nội). Nh vậy để thấy rằng Hiệp
định thơng mại Việt - Mỹ có ý nghĩa to lớn nh thế nào đối với nớc ta. Đến nay tuy
thời gian hiệp định có hiệu lực cha dài song có ngời cũng đã nhận thấy sự khác nhau
trong quan hệ hai nớc so với trớc đây. và quan trọng hơn đó là tác động của Hiệp
định đối với kinh tế Việt Nam. Những số liệu sau đây có thể xem là những ví dụ cụ
thể và những tác động đó là:
Đối với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, theo các chuyên gia kinh tế Việt Nam, xuất
khẩu nớc ta có thể tăng ngày 4% - 5% trong năm 2002, chủ yếu tập trung ngành dệt,
may mặc, dày dép, gốm sữ, sơn mài, chế biến nông sản thực phẩn. Việc cắt giảm
thuế quan song song với việc đợc hởng mức thuế suất thơng mại bình thờng làm GDP
tăng lên 0,23% trong ngắn hạn và 0,26% trong dài hạn. có thể thấy là việc mở rộng
thị trờng xuất khẩu sang Hoa Kỳ làm cho GDP nớc ta tăng một cách bền vững trong
tơng quan dài hạn. tổng tiêu dùng xã hội cùng tăng 0,44% trong khi đó các ngành
công nghiệp bị ảnh hởng lớn, ví dụ, ngành dầu thô giảm 0,34%, ngành thép giảm
0,29%...
Đối với sổ thu ngân sách Nhà nớc, qua các chỉ số cụ thể của từng ngành,
trong ngắn hạn tăng khoảng 0,05% và 0,11% trong dài hạn. Trong đó chơng trình
cắt giảm thuế quan mở rộng xuất khẩu, về lâu dài số thu ngân sách tăng 0,1%. Nếu
phân tích sâu sắc và rộng rài hơn, có khả năng kinh tế Việt Nam thu đợc lợi ích cao
hơn và số thu ngân sách đợc đảm bảo ổn định.
Việc ký kết hiệp định thơng mại Việt - Mỹ là chủ trơng lớn trong đờng lối đổi
mới kinh tế của Đảng và Nhà nớc ta. Hiệp định không nớc đáp ứng đợc lợi ích của

cả hai nớc, mà còn có tác động tích cực đến quan hệ đối ngoại khác của Việt Nam
và Hoa Kỳ đối với ASEAN, khu vực và thế giới. Chính vì vậy tiếp tục nghiên cứu ảnh
hởng đối với toàn bộ nền kinh tế nớc ta của các chơng trình điều chỉnh chính sách
thơng mại trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cần đợc u tiên và đầu t thích đáng.
2.3. Quan hệ kinh tế thơng mại Việt - Trung.
Trung Quốc là ngời bạn láng giềng "khổng lồ" của nớc ta, không chỉ là một
đất nớc rộng lớn với 1,3 tỷ dân mà còn là một cờng quốc về kinh tế. là hai nớc láng
giềng quá trình giao lu buôn bán đã có từ rất lâu và rất sâu sắc.
Thực tệ, ngời tiêu dùng Việt Nam đã quen thuộc với hàng hoá Trung Quốc
với các đặc tính: rẻ, mẫu mã phong phú đa dạng nhng chất lợng cha cao lắm (thực
ra, đây không phải là do công nghệ kém mà là "chiến thuật" của Trung Quốc). Ngày
10/11/2001, Trung Quốc chính thc là thành viên của WTO. Sự kiện này càng làm cho
nền kinh tế Trung Quốc có cơ hội tăng mạnh tính cạnh tranh đồng thời có tác động
mạnh mẽ đến thị trờng hàng hoá thế giới, trong đó Việt Nam là một trong những nớc
chịu ảnh hởng nhiều nhất, đặc biệt là phải đối mặt với những thách thức về khả năng
giảm kim ngạch xuất khẩu và thu hút vốn đầu t nớc ngoài.
Thách thức về xuất khẩu đối với Việt Nam xuất phát từ khả năng cạnh tranh
của hàng hoá Trung Quốc đợc tăng cờng do đợc hởng những điều kiện thơng mại
bình đẳng và u đãi của WTO. Trớc hết là cơ cấu hàng xuất khẩu hai nớc có tính tơng
đồng trùng lặp khá cao nh: dệt may, giày dép, điện tử, linh kiện máy tính, thủ công
mỹ nghệ... mà chi phí lao động và chi phí sản xuất của họ thấp hơn nên sẽ ảnh hởng
đến khả năng tăng xuất khẩu của hàng hoá nớc ta. Việt Nam và Trung Quốc lại có
chung các đối tác lớn nh Nhật, Mỹ, EU, Hàn Quốc, ASEAN... Hơn nữa, gia nhập
WTO, khả năng giảm giá của hàng hoá Trung Quốc hoàn toàn có thể xảy ra khi họ
từng bớc điều chỉnh tỷ giá đồng nhân dân tệ theo hớng giảm giá so với đô la Mỹ.
Nh vậy, có nghĩa là, trên thị trờng thế giới sức cạnh tranh của hàng Trung Quốc sẽ
mạnh hơn.
Một thách thức lớn nữa là về thu hút vốn đầu t nớc ngoài (ĐTNN) dù 10 năm
qua tỷ lệ thu hút DTNN so với GDP của Việt Nam cao hơn Trung Quốc nhng theo
Ngân hàng Thế giới, thu hút đầu t nớc ngoài của Việt Nam còn thiếu yếu tố bền

vững, hiệu quả và thực chất mới chỉ thể hiện về số lợng. Ngợc lại thu hút đầu t nớc
ngoài của Trung Quốc hớng đợc vào xuất khẩu, tạo nhiều việc làm trực tiếp và gián
tiếp. Tuy còn có một số trở ngại: lạm phát cao, nạn quan liêu tham nhũng nhng
Trung Quốc cũng đã tiến hành hàng loạt biện pháp tạo môi trờng ổn định, thuận lợi
cho các nhà đầu t nớc ngoài nh: thực hiện chính sách miễn thuế nhập khẩu thiết bị,
giảm tiền thuê đất, đơn giản hoá thủ tục đầu t, xúc tiến mạnh mẽ hợp tác song phơng
và đa phơng. Trong khi đó Việt Nam còn có rất nhiều hạn chế, đặc biệt là tình trạng
thanh tra, kiểm tra hoạt động doanh nghiệp còn tuỳ tiện, chồng chéo, ít sức thuyết
phục...
Nh vậy có thể thấy việc Trung Quốc gia nhập WTO đa đến những nguy cơ và
thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam. Việc đa ra các giải pháp tính
thuế cũng nh lâu dài là hết sức cấp thiết.

×