Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

mô hình ngân hàng hồi giáo - hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.51 KB, 84 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Từ tháng 9 năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính – tín dụng ở Mỹ diễn
biến ngày càng phức tạp, khó lường và đã lan rộng trở thành cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Tình hình đó cùng với những khó khăn, yếu
kém nội tại của nền kinh tế trong nước và thiên tai liên tiếp…đã tác động tiêu cực
đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế nước ta. Trong lĩnh vực tài chính, điều may mắn
của nền kinh tế Việt Nam là thị trường tài chính của chúng ta chưa hoàn toàn hội
nhập với thị trường tài chính quốc tế. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
vẫn hoạt động với hiệu quả cao, cụ thể là kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm rất
khả quan, nợ xấu vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Tiêu dùng nội địa vẫn tăng trưởng
trên 20%. Đây là những tiền đề cơ bản để Việt Nam nhanh chóng vượt qua suy
thoái kinh tế. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO và
từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, các nguồn vốn nước ngoài
đang tiến tới chảy vào Việt Nam. Điều này vừa có thuận lợi là cung cấp nguồn vốn
cho đầu tư phát triển của đất nước nhưng cũng có khả năng gây ảnh hưởng mạnh
đến thị trường tài chính của chúng ta khi khủng hoảng tài chính toàn cầu tương tự
như cuộc khủng hoảng tài chính tín dụng nhà ở Mỹ xuất hiện. Hơn nữa việc hội
nhập vào nền kinh tế quốc tế đã đặt ra những thách thức cho các Ngân hàng
Thương mại, đó là sự tham gia của các tập đoàn tài chính đa quốc gia có thế mạnh
về tài chính, kỹ thuật và công nghệ. Trước tình hình đó bắt buộc các ngân hàng
thương mại có những bước cải cách trong định hướng phát triển chiến lược kinh
doanh của mình. Khi nền kinh tế đã được hội nhập, nhất là việc Việt Nam cam kết
mở cửa thị trường tài chính trong nước theo các cam kết đối với các đối tác nước
ngoài thì việc các ngân hàng thương mại nước ngoài có đủ nội lực, đó là vốn và
công nghệ sẽ thao túng thị trường tài chính Việt Nam. “Làm thế nào để có đủ sức
đứng vững khi có sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại nước ngoài”, câu
hỏi này luôn là những thách thức đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam, và
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
1


phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ đã được các Ngân hàng thương mại lựa chọn là
xu hướng phát triển lâu dài và bền vững.
Trong khi các tổ chức tài chính trên thế giới ở đa số các nước đang điêu
đứng với khủng hoảng tài chính toàn cầu thì các ngân hàng và quỹ đầu tư tuân thủ
luật Hồi Giáo lại hầu như tránh được những rắc rối từ các khoản nợ xấu . Các
chuyên gia trong lĩnh vực tài chính Hồi Giáo cho rằng , cách thức kinh doanh của
họ đã che chắn người áp dụng khỏi những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng
hiện nay. Những ngân hàng lớn như HSBC của Anh hay Citibank của Mỹ đều đã
thiết lập các chi nhánh ngân hàng Hồi giáo và những chi nhánh này đều ăn nên làm
ra. Một số ngân hàng đã thành công với tài chính Hồi giáo còn muốn mở rộng
phương thức kinh doanh này vượt xa khỏi thị trường tự nhiên ở những nước theo
đạo Hồi. Họ tin rằng, hơn khi nào hết, lúc này đang có một thị trường cho những
người thuộc các tôn giáo khác chia sẻ những giá trị mà kinh tế học Hồi giáo đem
lại. Điều này gợi ra cho tôi một suy nghĩ, với tình hình nội tại của Việt Nam như
thế , liệu chúng ta có thể áp dụng mô hình tài chính Hồi Giáo nhằm tạo ra loại hình
dịch vụ bổ sung, một cách thức cung cấp dịch vụ mới nhằm đa dạng hoá sản phẩm
tài chính hay không?Việc nghiên cứu tìm hiểu mô hình tài chính Hồi giáo cùng
với điều kiện để áp dụng được mô hình này ở Việt Nam là một vấn đề đáng quan
tâm. Tuy nhiên, xét thấy đây là một vấn đề hoàn toàn mới ở Việt Nam, việc ứng
dụng mô hình này cũng cần có một lộ trình rõ ràng, cụ thể. Do đó trong phạm vi
nghiên cứu này, tôi chỉ xin đề cập đến một mảng nhỏ đối với hệ thống ngân hàng
thương mại, đó là mảng dịch vụ bán lẻ vì đây là dịch vụ có khả năng tăng trưởng
nhanh nhất trong hệ thống tài chính tại Việt Nam. Nếu như mô hình này có thể áp
dụng được, việc nhân rộng nó là vấn đề tương đối dễ dàng hơn. Xuất phát từ
nguyên nhân này, tôi đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài :
MÔ HÌNH NGÂN HÀNG HỒI GIÁO - HƯỚNG ĐI MỚI ĐỂ PHÁT
TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN LẺ TẠI VIỆT NAM
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
2

2.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu là tìm hiểu mô hình ngân hàng Hồi Giáo, ưu điểm và
nhược điểm của mô hình này cùng với thực trạng hoạt động của các ngân hàng
thương mại Việt Nam, đặc biệt là mảng dịch vụ ngân hàng bán lẻ, để từ đó xây
dựng một hệ thống sản phẩm ngân hàng bán lẻ mới bổ sung vào hệ thống sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống đang được áp dụng hiện tại. Hệ thống sản
phẩm mới này được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc riêng của ngân hàng
Hồi giáo. Mục đích cuối cùng của tôi là giới thiệu cách thức xây dựng sản phẩm
ngân hàng bán lẻ theo mô hình ngân hàng Hồi giáo nhằm đa dạng hóa sản phẩm
ngân hàng truyền thống chứ không tham vọng đưa ra mô hình sản phẩm mới thay
thế hệ thống sản phẩm truyền thống hiện tại.
3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mô hình ngân hàng Hồi Giáo cùng các
sản phẩm đi kèm. Phạm vi ứng dụng của mô hình này rất rộng, tuy nhiên trong
nghiên cứu này, tôi chỉ giới hạn trong việc ứng dụng mô hình ngân hàng Hồi giáo
vào mảng dịch vụ bán lẻ của ngân hàng thương mại nhằm đa dạng hoá dịch vụ do
ngân hàng cung cấp.
Tài liệu nghiên cứu tổng hợp trong và ngoài nước từ năm 2000 đến nay.
4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Về phương pháp nghiên cứu, có rất nhiều cách tiếp cận nhưng tôi sử dụng
phương pháp thống kê - mô tả, phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh - đối
chiếu, diễn dịch – qui nạp và phương pháp quan sát từ thực tiễn để khái quát bản
chất của các vấn đề mà đề tài nghiên cứu.
Bên cạnh trình bày lý thuyết tôi cũng kết hợp lồng ghép thực tiễn vào trong
đó để cho thấy sự hài hoà của đề tài và làm cho những vấn đề mang tính chất lý
thuyết trở nên sống động và hấp dẫn hơn. Với phương pháp trình bày này, tôi hi
vọng sẽ mang đến cho người đọc sự thoải mái cũng như dễ dàng cảm nhận những
nội dung đang được trình bày.
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam

3
Nguồn tài liệu phục vụ cho nghiên cứu : bao gồm nguồn tài liệu tham khảo
trong nước và nước ngoài ( sách vở, báo chí, internet )
Đề tài được trình bày theo kết cấu sau:
Phần mở đầu nói về sự cần thiết của đề tài, mục đích nghiên cứu, đối tượng và
phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, tiếp theo là phần nội dung chính với
các chương được trình bày cụ thể như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về ngân hàng Hồi giáo và dịch vụ ngân hàng bán lẻ
- Chương 2 : Nghiên cứu mô hình ngân hàng Hồi giáo của một số nước trên thế
giới cùng tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu– Bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam
- Chương 3 : Thực trạng hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam cùng
dịch vụ ngân hàng bán lẻ Việt Nam.
- Chương 4 : Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ Việt Nam theo mô hình
ngân hàng Hồi giáo. .
Kế đến là phần kết luận và kiến nghị .Kết thúc đề tài là phần danh mục tài liệu
tham khảo nhằm giúp người đọc cần nghiên cứu sâu hơn có thể tham khảo thêm,
thêm vào đó các phụ lục giúp người đọc dễ dàng tra cứu.
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
4
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG HỒI GIÁO VÀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN
LẺ
1.1.Tổng quan về ngân hàng Hồi giáo
1.1.1.Khái niệm về ngân hàng Hồi giáo
Ngân hàng Hồi giáo là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của
ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn, tuy nhiên khác với các ngân hàng
truyền thống, hoạt động của ngân hàng Hồi giáo lại chịu sự chi phối của hệ thống
quy tắc Shariah (quy tắc đạo Hồi).

Hệ thống quy tắc Shariah là hệ thống luật pháp tôn giáo Hồi giáo bao gồm
tất cả mọi thứ trong cuộc sống hàng ngày từ việc ăn và ngủ cho đến chính trị và
chính phủ, nó bao gồm hệ thống pháp luật hình sự và dân sự cũng như qui định về
phẩm chất cá nhân con người bao gồm vấn đề đạo đức và các vấn đề cá nhân. Hệ
thống quy tắc này được xây dựng trên nền tảng kinh Koran và tôn giáo của đạo
Hồi. Vì vậy, theo định nghĩa trên thì các quốc gia Hồi giáo có chế độ chính trị thần
quyền, các văn bản tôn giáo cũng là các văn bản pháp luật.
Theo luật Hồi giáo thì mọi hoạt động kinh tế bị cho là có hại về đạo đức và
xã hội đều bị cấm. Các cá nhân phải sử dụng thận trọng tài sản của mình, không
găm giữ, để nhàn rỗi hay lãng phí tài sản. Luật Shariah của người Hồi giáo cấm áp
dụng lãi suất, buôn bán rượu và thịt lợn, kinh doanh bài bạc và các sản phẩm , dịch
vụ đồi truỵ…Người theo đạo Hồi phải có nghĩa vụ đóng góp một phần tài sản của
họ cho những bộ phận nghèo túng trong xã hội hồi giáo.
1.1.2.Vai trò của ngân hàng Hồi giáo
Giống như ngân hàng truyền thống, ngân hàng Hồi giáo cũng có một số vai
trò nhất định đối với nền kinh tế và các chủ thể tham gia vào ngân hàng.
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế
Thứ nhất, ngân hàng Hồi giáo có vai trò tập trung nguồn vốn của nền kinh
tế. Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử
dụng một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
5
lưu thông) nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và cũng có những chủ
thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết
nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân
hàng Hồi giáo với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay và
sẽ cung cấp dịch vụ hibah ( có tính chất như khoản tiền lãi thu được từ tiền gửi tiết
kiệm của các ngân hàng truyền thống) và đem số tiền ấy cho người muốn vay để
phục vụ sản xuất. Thực hiện điều này, ngân hàng Hồi giáo huy động và tập trung

các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, mặt khác số vốn này sẽ đáp ứng được
nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh doanh.Qua đó thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
Thứ hai, ngân hàng Hồi giáo có thể là một giải pháp đối phó với cuộc
khủng hoảng, tuy nhiên tiềm năng của nó chưa được khai thác đáng kể. Mô hình
ngân hàng Hồi giáo trước đây chỉ áp dụng ở các quốc gia theo đạo Hồi, những
nước hoàn toàn theo đạo Hồi và lấy kinh Koran áp dụng trong nhiều lĩnh vực về
đời sống và luật pháp là: Maroco, Mauretania, Guiné, Mali, Niger, Algeri, Libya,
Liban, Vùng tranh chấp Palestine, Ai Cập, Sudan, Somalia, Jemen, Oman, Saudi
Arabia, Jordania, Kuwait, Bahrain, Pakistan, Apghanistan, Turkey, Serya, Iran,
Iraq,Turmenistan,Usbekistan,Krigisistan, Malaysia, Indonesia. . . Ngoài ra, Tín đồ
Hồi Giáo sống rải rác trong nhiều quốc gia đa tôn giáo như Hoa Kỳ, Nga, Pháp,
Đức, Úc . . . Có thể nói tổng cộng gần hơn tỷ rưỡi tín đồ.Thời gian gần đây, các tập
đoàn tài chính lớn trên thế giới như HSBC hay Citi bank nhận thức được tiềm
năng kinh doanh của mô hình này nên đã triển khai mở các chi nhánh ngân hàng
Hồi giáo, và hiện tại các chi nhánh này đều ăn nên làm ra trong bối cảnh kinh tế
toàn cầu đang bị suy thoái nghiêm trọng. Điều này góp phần hạn chế tác động xấu
của khủng hoảng tài chính.
1.1.2.2. Đối với các chủ thể tham gia vào ngân hàng
Cũng giống ngân hàng truyền thống, ngân hàng Hồi giáo có vai trò là trung
gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán. Khi các khách hàng gửi
tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
6
hiện thu chi một cách nhanh chóng, tiện lợi, nhất là các khoản thanh toán có giá trị
lớn, ở mọi nơi mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém, khó khăn và không an
toàn. Bên cạnh đó, trong nghiệp vụ huy động vốn, ngân hàng Hồi giáo có nhiều
sản phẩm cho khách hàng lựa chọn hơn, nếu khách hàng đơn thuần chỉ muốn cất
giữ tiền thì có sản phẩm amanah, còn nếu khách hàng muốn sử dụng tiền gửi này

để ngân hàng đầu tư và chia sẻ lợi nhuận thì có sản phẩm musarakah sẽ được đề
cập trong các phần tiếp theo.
Ngân hàng Hồi giáo cung cấp cho thị trường tài chính những sản phẩm tài
chính đa dạng hơn, khác biệt so với các sản phẩm tài chính thông thường, phù hợp
với đại đa số người tiêu dùng. Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu của các cư dân
theo đạo Hồi mà còn của đại bộ phận những người dân không theo đạo Hồi hiện
nay. Khách hàng sẽ chủ động được nguồn vốn của mình để phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng cá nhân theo bất cứ phương thức nào mà họ
mong muốn.
Với vai trò là đại lý, ngân hàng Hồi giáo có thể thay mặt khách hàng thực
hiện các nghiệp vụ giao dịch. Hơn nữa, nó có thể tính phí đại lý cho các dịch vụ
sau: thanh toán/nhận tiền cho khách hàng, thanh toán hoá đơn trong và ngoài nước,
mở và chấp nhận LC, bảo lãnh và dịch vụ IPO.
Với vai trò là người bảo lãnh, ngân hàng và các tổ chức tài chính đại diện
thực hiện bảo lãnh khách hàng theo quy tắc Shariah, và không tính phí bảo lãnh .
Tuy nhiên các ngân hàng truyền thống thường tính các loại phí bảo lãnh sau : thư
bảo lãnh, bảo lãnh vận chuyển.
Với vai trò là người tư vấn, hầu hết các dịch vụ tư vấn do các tổ chức tài
chính thực hiện đều dễ dàng tuân thủ quy tắc Shariah, cụ thể là : dịch vụ tư vấn tài
chính, dịch vụ tư vấn cổ phần hoá, chuyển đổi chủ sở hữu, tư vấn mua lại và sáp
nhập doanh nghiệp, liên doanh vốn, mua bán ( hoạt động trên thị trường vốn), tư
vấn và quản lý danh mục đầu tư, dịch vụ môi giới ( mua hay bán cổ phần doanh
nghiệp, trường hợp này có thể tính phí).
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
7
1.1.3.Đặc điểm của ngân hàng Hồi giáo
Ngân hàng Hồi giáo hoạt động dựa trên quy tắc Shariah nên có những đặc
điểm cơ bản khác biệt với ngân hàng thương mại, cụ thể là:
- Các giao dịch được thực hiện thông qua các hợp đồng (aqad) – đây là hợp

đồng được thiết lập giữa ngân hàng và khách hàng nhằm thực hiện một giao dịch
nào đó. Hợp đồng trong giao dịch này khác hẳn với hợp đồng tài chính ký kết giữa
ngân hàng truyền thống và khách hàng. Trong giao dịch Hồi giáo, chủ thể ký hợp
đồng là người bán (ngân hàng), người mua (khách hàng) và đối tượng của hợp
đồng thường là hàng hoá, tài sản hữu hình. Trong khi đó, trong giao dịch tài chính
của các ngân hàng truyền thống thì chủ thể hợp đồng lại là người cho vay (ngân
hàng) và người đi vay (khách hàng), còn đối tượng của hợp đồng lại là tiền và lãi
suất cho vay. Và như vậy, hợp đồng trong giao dịch tài chính Hồi giáo ngoài việc
tuân thủ các quy tắc Hồi giáo còn phải phù hợp với hệ thống luật thương mại và
các văn bản pháp luật liên quan đến tài sản, hàng hoá.
- Các giao dịch không bao gồm yếu tố cho vay (riba), điều này có nghĩa là
các ngân hàng Hồi giáo không cho phép sử dụng lãi suất và như vậy sẽ không có
khái niệm người cho vay và người đi vay trong hệ thống ngân hàng Hồi giáo, mà
thay vào đó sẽ là khái niệm người bán ( ngân hàng ) và người mua (khách hàng).
Đây là một đặc điểm rất đặc trưng của hệ thống ngân hàng Hồi giáo. Lợi nhuận của
ngân hàng Hồi giáo trong các nghiệp vụ huy động và cho vay vốn sẽ được ấn định
trước trong từng hợp đồng với khách hàng và nó sẽ không thay đổi cho đến khi
chấm dứt hợp đồng. Điều này lại trái ngược hẳn trong các nghiệp vụ của ngân hàng
truyền thống bởi lợi nhuận của ngân hàng truyền thống sẽ không cố định do lãi
suất thường thả nổi, định kỳ hàng tháng ngân hàng điều chỉnh lãi suất cho phù hợp
với lãi suất cơ bản và mặt bằng lãi suất chung. Do đó, khách hàng giao dịch với
ngân hàng truyền thống thường rất lo lắng khi lãi suất thay đổi bất thường, gây khó
khăn trong quá trình trả nợ của họ.
- Các giao dịch không hàm chứa yếu tố may rủi ( gharar) và cờ bạc (maisir)
mà trên tinh thần bình đẳng, ngân hàng và khách hàng cùng chia sẻ rủi ro và lợi
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
8
nhuận . Đây cũng là một điểm khác biệt đáng chú ý khi so sánh ngân hàng Hồi
giáo và ngân hàng truyền thống. Trong các nghiệp vụ giao dịch, ngân hàng truyền

thống thường giữ “cái cán”, tức là trong bất cứ trường hợp khách hàng làm ăn có
lãi hay thua lỗ, họ đều nhận được khoản lợi nhuận từ việc cho khách hàng vay.
Trong khi đó, trong giao dịch Hồi giáo thì ngân hàng và khách hàng coi như là một
thực thể chung, cùng nhau kinh doanh phân chia lãi hay lỗ theo tỷ lệ vốn góp của
mỗi bên. Đây là điều hoàn toàn không thấy ở các ngân hàng truyền thống.Hơn thế
nữa, ngân hàng Hồi giáo nghiêm cấm việc kinh doanh liên quan đến các khoản nợ
xấu trong khi đây là một trong các nghiệp vụ được sử dụng thường xuyên trong các
ngân hàng truyền thống.
1.1.4.Nguyên tắc hoạt động của ngân hàng Hồi Giáo
Các ngân hàng Hồi Giáo đều có một mục đích giống như các ngân hàng
truyền thống khác, ngoại trừ nó hoạt động tuân theo quy tắc Shariah, được gọi là
các quy tắc Đạo Hồi trong giao dịch. Những gì mà chúng ta biết tới theo cách
thường dùng ở phương Tây không tồn tại trong thế giới Hồi giáo, và đó là sự khác
biệt lớn giữa hai hệ thống ngân hàng. Xét về điều kiện thực tế và khác biệt đáng kể
nhất là ngân hàng Hồi giáo không cho phép sử dụng công cụ lãi suất trong khi lãi
suất lại là một trong những công cụ tài chính quan trọng của hệ thống ngân hàng
truyền thống. Mô hình ngân hàng Hồi giáo không công nhận khái niệm lãi suất ,
tức là việc kiếm lời dựa vào hoạt động buôn bán tiền tệ.
Một trong những nguyên tắc cơ bản ở trọng tâm của kinh tế học Hồi giáo là
chia sẻ rủi ro. Ngân hàng và người dân gửi tiền trong đó cùng chia sẻ bất kỳ khoản
lợi nhuận nào có được, hay khoản thua lỗ nào phát sinh từ hoạt động đầu tư. Đây là
một hệ thống dựa trên tài sản, với những tài sản hữu hình hoặc hàng hóa là trọng
tâm. Ở đó có người mua và người bán, không phải là người đi vay và người cho
vay. Có thể nói đây là một nét đặc trưng riêng biệt của ngân hàng Hồi giáo so với
hệ thống các ngân hàng truyền thống. Ngoài ra, mô hình ngân hàng Hồi giáo cũng
không cho phép thực hiện phần lớn những hình thức đầu cơ như quỹ đầu cơ hay
nghiệp vụ phái sinh. Theo quan niệm Hồi giáo, tiền chỉ dành cho các mục đích trao
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
9

đổi hoặc lưu giữ giá trị, chứ không phải để giao dịch nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Vậy một ngân hàng Hồi giáo và một khách hàng gửi tiền ở đó có đạt lợi nhuận hay
không? Trong một giao dịch thế chấp theo quy tắc hồi Giáo, thay vì cho người mua
vay tiền để mua vật này, ngân hàng sẽ thực hiện mua chính vật đó từ người bán và
bán lại cho người mua ở một mức giá cao hơn, ngân hàng chấp nhận cho khách
hàng thanh toán lại số tiền mua vật này theo phương thức trả dần định kỳ. Tuy
nhiên, đó thực tế không phải là lợi nhuận được thực hiện rõ ràng nên sẽ không có
bất kỳ hình phạt bổ sung nào đối với việc thanh toán trễ hạn. Vì vậy, để khắc phục
nhược điểm này, các ngân hàng Hồi giáo yêu cầu ký quỹ nghiêm ngặt. Các hàng
hóa, đất đai được đăng ký vào tên của người mua ngay khi bắt đầu giao dịch và
giấy chứng nhận quyền sở hữu sẽ được ngân hàng giữ lại cho đến các khoản nợ
được thanh toán hết.
Kinh tế học Hồi giáo không chỉ tồn tại riêng ở những quốc gia Hồi giáo.
London đang nổi lên là một trung tâm tài chính lớn cho tài chính Hồi giáo. Các sản
phẩm ngân hàng Hồi giáo cũng được sử dụng rộng rãi bởi những người không theo
đạo Hồi tại Malaysia. Đây là một hệ thống thay thế có thể áp dụng cho mọi người.
Ai cũng có thể sử dụng dù tôn giáo của họ là gì. Những ngân hàng lớn như HSBC
của Anh hay Citibank của Mỹ đều đã thiết lập các chi nhánh ngân hàng Hồi giáo
và những chi nhánh này đều ăn nên làm ra. Một số ngân hàng đã thành công với tài
chính Hồi giáo còn muốn mở rộng phương thức kinh doanh này vượt xa khỏi thị
trường tự nhiên ở những nước theo đạo Hồi. Họ tin rằng, hơn khi nào hết, lúc này
đang có một thị trường cho những người thuộc các tôn giáo khác chia sẻ những giá
trị mà kinh tế học Hồi giáo đem lại. Nhưng không ít người lại đang lo ngại sự mở
rộng này sẽ khiến kinh tế học Hồi giáo không còn giữ được bản sắc. Ở một vài góc
độ, tài chính Hồi giáo đang chuyển biến tới chỗ ngày càng giống tài chính thông
thường. Nếu nhìn vào sự phát triển trong mấy năm gần đây, sẽ thấy tài chính Hồi
giáo giống như đang bắt chước phần lớn sản phẩm của tài chính thông thường.
Một phương pháp sáng tạo được một số ngân hàng ứng dụng để cho vay
mua nhà, gọi là Musharaka al-Mutanaqisa, cho phép một lãi suất thả nổi dưới hình
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng

bán lẻ tại Việt Nam
10
thức cho thuê. Ngân hàng và người đi vay là một thực thể hợp tác. Hai bên cùng
góp vốn theo một tỷ lệ được thoả thuận trước để mua nhà. Sau đó, thực thể này sẽ
cho người đi vay thuê lại tài sản đó và tính chi phí thuê nhà. Ngân hàng và người
vay sẽ tiếp tục chia sẻ lợi nhuận có được từ việc cho thuê nhà này. Đồng thời,
người đi vay cũng sẽ mua lại cổ phần của ngân hàng trong thực thể hợp tác này
bằng cách thanh toán định kỳ cho ngân hàng theo thoả thuận cho đến khi toàn bộ
tài sản này được chuyển giao cho người vay và như thế việc hợp tác kết thúc.
Trường hợp người vay bỏ cuộc, tức không thanh toán được nợ, ngân hàng và
người vay sẽ tiến hành bán đấu giá tài sản hiện có. Phương pháp này chấp nhận
một lãi suất thả nổi theo lãi suất thị trường (lãi suất cho vay cơ bản), đặc biệt là
trong hệ thống ngân hàng kép như ở Malaysia.
Có một số phương pháp tiếp cận khác được sử dụng trong hoạt động kinh
doanh. Các ngân hàng Hồi Giáo cho các công ty vay tiền thông qua hình thức phát
hành tỷ lệ lãi suất thả nổi. Tỷ lệ lãi suất thả nổi này phụ thuộc vào tỷ lệ hoàn vốn
riêng biệt của công ty. Do đó, lợi nhuận thu được của ngân hàng dựa trên các
khoản vay bằng với tỷ lệ phần trăm lợi nhuận của công ty. Sau khi khoản nợ gốc
được hoàn trả thì việc chia sẻ lợi nhuận cũng kết thúc. Hành động này gọi là
Musharaka. Việc sắp đặt các bên tham gia như vậy phản ánh quan điểm của Đạo
hồi rằng người đi vay sẽ không phải chịu mọi rủi ro nếu thất bại, điều này dẫn đến
sự phân phối thu nhập công bằng và không cho phép người cho vay độc chiếm nền
kinh tế.
Ngân hàng Hồi Giáo hoạt động theo những quy tắc được chấp nhận của Đạo
hồi, nghiêm cấm các hoạt động liên quan đến rượu, thịt lợn, kinh doanh cơ bạc, các
sản phẩm, dịch vụ đồi trụy…Đạo Hồi cấm mọi dạng hoạt động kinh tế bị cho là có
hại về mặt đạo đức và xã hội. Các cá nhân phải sử dụng thận trọng tài sản của
mình, không găm giữ, để nhàn rỗi hay lãng phí tài sản. Theo lý thuyết ngân hàng
Hồi Giáo là một ví dụ về ngân hàng thuần dự trữ, với tỷ lệ dự trữ đạt được là
100%. Tuy nhiên, trong thực tế thì không có trường hợp này, không có bất kỳ ngân

hàng nào hoạt động với tỷ lệ dự trữ là 100% cả.
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
11
1.1.5.Rủi ro trong hoạt động của ngân hàng Hồi giáo
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng Hồi giáo cần chú tâm vào những rủi
ro có thể xảy ra bao gồm:
- Nguy cơ về rủi ro hàng tồn kho do việc nắm giữ hàng tồn kho để bán lại
theo điều khoản của hợp đồng murabahah hoặc với mục đích cho thuê như hợp
đồng Ijarah. Do vậy, vấn đề quản lý hàng tồn kho là bất động sản hay những tài
sản có giá trị cao đòi hỏi một quy trình chặt chẽ nhằm hạn chế những rủi ro có thể
xảy ra như thất lạc, không kiểm soát hết hay phát sinh thêm công việc liên quan
đến công tác bảo quản, quản lý…
- Rủi ro về việc tuân thủ pháp luật và quy tắc Shariah .Trong trường hợp
xảy ra tranh chấp thì toà án giải quyết có thể sẽ không nắm hết các quy tắc đạo
Hồi, điều này tạo ra mâu thuẫn trong cách giải quyết. Việc này thường gặp ở các
quốc gia không theo đạo Hồi.
- Rủi ro về vốn chủ sở hữu, cụ thể đó là sự phơi bày nguồn vốn trong hợp
đồng tài chính Mudharabah.
- Rủi ro về thặng dư vốn : ngân hàng Hồi giáo sử dụng lãi suất thị trường
trái ngược với lãi suất cơ bản để định giá sản phẩm, kết quả là sẽ xảy ra rủi ro liên
quan đến những thay đổi lãi suất cơ bản.
- Rủi ro chuyển đổi : các rủi ro chuyển đổi thông thường xuất hiện trong các
hợp đồng chuyển nợ . Hầu hết các ngân hàng Trung Đông đều cho không cho rằng
hợp đồng này tuân thủ quy tắc Shariah.
1.1.6.Một số công cụ tài chính của ngân hàng Hồi Giáo
Ngân hàng Hồi giáo thường tạo ra các sản phẩm tài chính thông qua các
công cụ tài chính. Từ một công cụ tài chính có thể tạo ra nhiều sản phẩm khác
nhau, sau đây là các công cụ tài chính thường gặp:
1.1.6.1. Mudarabah (Chia sẻ lợi nhuận)

Chia sẻ lợi nhuận là một hợp đồng hợp tác giữa ngân hàng, người cấp vốn
với một doanh nghiệp cần huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của mình.
Doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm về chuyên môn, nhân công và quản lý. Lợi
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
12
nhuận được chia giữa ngân hàng và doanh nghiệp theo một tỷ lệ tính trước. Trong
trường hợp lỗ, ngân hàng sẽ chịu lỗ về vốn trong khi các doanh nghiệp chịu lỗ về
nhân công. Với rủi ro tài chính này chứng tỏ quyền của ngân hàng đối với phần lợi
nhuận của công ty. Lợi nhuận sẽ được chia cho đến khi khoản vay được hoàn trả.
Các ngân hàng sẽ được đền bù cho giá trị thời gian của khoản tiền cho vay dưới
hình thức lãi suất thả nổi phụ thuộc vào lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trong nghiệp vụ Mudarabah, ngân hàng sẽ không có quyền tham gia quản
lý doanh nghiệp, và như vậy khoản đầu tư của họ vào doanh nghiệp sẽ là hữu hạn.
trừ phi họ cho phép doanh nghiệp mắc nợ.
Nghiệp vụ Mudarabah sẽ chấm dứt khi hết hạn hợp đồng. Nó cũng sẽ chấm
dứt nếu như một trong hai bên yêu cầu chấm dứt do bên kia vi phạm hợp đồng.
Nếu tất cả tài sản của Mudarabah đều là tiền mặt vào thời điểm chấm dứt hợp đồng
thì lợi nhuận hai bên sẽ được chia theo một tỷ lệ xác định trước. Ngược lại, nếu tài
sản của Mudarabah là tài sản hữu hình thì nó sẽ được đem bán và thanh lý, sau đó
sẽ đem chia theo nguyên tắc trên.
1.1.6.2.Murabahah (Chi phí cộng thêm)
Khái niệm này đề cập đến việc bán hàng hoá tại một mức giá cao hơn bao
gồm lợi nhuận biên được thoả thuận bởi hai bên.Giá mua, giá bán, chi phí khác, và
lợi nhuận biên phải được thoả thuận tại thời điểm mua bán. Cụ thể hơn là thay vì
cho vay tiền, bên cung cấp vốn sẽ mua hàng hoá từ bên thứ ba và bán lại cho người
đi vay vốn với mức giá cao hơn. Như vậy, lợi nhuận của ngân hàng chính là phần
chênh lệch giữa giá mua và giá bán hàng hóa. Đây là khoản tiền vay cố định khi
mua tài sản ( địa ốc, xe cộ…) với tỷ suất lợi nhuận tính trên lợi nhuận biên.Bằng
cách này, các ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận từ hoạt động tín dụng mà không

tính lãi trên khoản tiền cho vay. Các ngân hàng sẽ không được hưởng các khoản
phạt ngoài hợp đồng như thanh toán trễ hạn, tuy nhiên tài sản vẫn còn là món hàng
thế chấp cho ngân hàng cho đến khi khoản vay được thanh toán đủ.
Sự khác nhau giữa Murabahah và sale (bán): người bán hàng đơn giản trong
tiếng Ả Rập là Musawamah- là thoả ước bán hàng mà không cần tiết lộ hoặc đề
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
13
cập đến những gì là chi phí giá cả. Tuy nhiên khi giá chi phí được tiết lộ cho khách
hàng thì gọi là Murabahah.
Nguyên tắc cơ bản của nghiệp vụ Murabahah:
- Chủ thể mua bán phải tồn tại tại thời điểm mua bán. Vì vậy, bất cứ cái gì không
tồn tại vào thời điểm mua bán sẽ không thể bán được và sự không tồn tại này làm
cho hợp đồng vô hiệu.
- Chủ thể mua bán phải thuộc quyền sở hữu của người bán tại thời điểm bán. Nếu
bán những vật không do mình sở hữu thì hợp đồng trở nên vô hiệu.
- Việc mua bán phải diễn ra ngay tức thì. Điều này có nghĩa là nếu giao hàng vào
một ngày trong tương lai thì murabahah sẽ vô hiệu.
- Chủ thể mua bán phải là tài sản có giá trị. Vì vậy, hàng hoá không có giá trị thì
không thể mua bán.
- Các chủ thể mua bán không phải là những thứ sử dụng cho mục đích phi Hồi
giáo.
- Chủ thể mua bán phải được biết đến và xác định một cách cụ thể bởi người mua.
- Việc giao hàng cho người mua phải thực hiện ngay lập tức.
- Việc đưa ra giá chắc chắn là một trong những điều kiện để hợp đồng có hiệu lực.
Việc sử dụng công cụ Murabahah trên thực tế gặp phải một số nhược điểm
sau:
Thứ nhất, sai lầm phổ biến nhất là giả định Murabahah có thể sử dụng ở tất
cả giao dịch tài chính. Phương thức này chỉ được sử dụng khi hàng hoá được khách
hàng chấp nhận mua.

Thứ hai, hợp đồng ký kết để mua một hàng hoá cụ thể, do đó điều quan
trọng là phải tìm hiểu chủ thể của nghiệp vụ Murabahah.
Thứ ba, trong một số trường hợp, hàng bán cho khách hàng sẽ bị ảnh hưởng
bởi các nhà cung cấp. Điều này xảy ra khi các giai đoạn của Murabahah bị bỏ qua
và các hợp đồng được ký kết cùng một lúc. Cần nhớ rằng Murabahah là một gói
các hợp đồng khác nhau và chúng xảy ra một cách lần lượt ở mỗi giai đoạn tương
ứng.
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
14
1.1.6.3.Ijarah (thuê)
Ijarah có nghĩa là cho thuê, thuê. Theo khái niệm này, các ngân hàng Hồi
giáo sẵn sàng cho khách hàng sử dụng các dịch vụ về tài sản, trang thiết bị như nhà
máy, thiết bị văn phòng, phương tiện vận tài trong khoảng thời gian cố định với
mức giá cố định.
Những thuận lợi:
Ijarah bảo tồn nguồn vốn của bên đi thuê do nó cho phép vốn đầu tư lên đến
100%.
Ijarah cho phép bên đi thuê truy cập sử dụng thiết bị ngay sau khi việc thanh
toán định kỳ đầu tiên được thực hiện. Điều này rất quan trọng vì việc truy cập và
sử dụng thiết bị tạo ra thu nhập cho người cho thuê.
Ijarah hỗ trợ doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch và ngân sách bằng cách
cho phép thương lượng về các điều khoản một cách linh hoạt.
Ijarah không phải là món nợ tài chính do nó không xuất hiện trên bảng cân
đối kế toán của bên thuê như khoản nợ phải trả. Với cách thể hiện nằm ngoài bảng
cân đối như thế, khoản tiền thuê này sẽ không được các ngân hàng tính trong hệ số
nợ khi tính toán giới hạn tài chính.Điều này cho phép các bên đi thuê tham gia vào
nhiều hợp đồng thuê tài chính khác mà không tác động đến việc đánh giá tổng thể
nợ.
Tất cả các khoản thanh toán cho hợp đồng Ijarah được coi là chi phí hoạt

động nên hoàn toàn được khấu trừ thuế. Việc đi thuê đem đến một khoản lợi về
thuế và do đó tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nhiều loại máy móc thiết bị đã lỗi thời trước khi kết thúc chu kỳ sử dụng.
Hợp đồng Ijarah cho phép chuyển những rủi ro từ bên đi thuê sang bên cho thuê bù
lại việc chịu tỷ lệ thuê cao. Tỷ lệ này cao được xem như là khoản bảo hiểm cho sự
lạc hậu của máy móc thiết bị cho thuê.
Nếu như chỉ cần máy móc thiết bị trong thơi gian ngắn thì việc thuê sẽ
thuận lợi hơn mua khi tạo ra lợi nhuận.
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
15
1.1.6.4.Ijarah Thumma Al bái (thuê mua)
Các bên tham gia trong hợp đồng theo từng giai đoạn, tạo nên giao dịch cho
thuê và mua lại. Hợp đồng đầu tiên là hợp đồng thuê, phác thảo những điều khoản
thuê và cho thuê trong khoản thời gian nhất định, hợp đồng thứ hai là hợp đồng
mua hay bán khi hợp đồng thuê chấm dứt. Ví dụ trong trường hợp thuê tài chính
một chiếc xe, khách hàng phải lập một hợp đồng thuê xe từ chủ sở hữu trong một
khoảng thời gian cụ thể. Khi hợp đồng thuê hết hạn, hợp đồng thứ hai sẽ có hiệu
lực, nó cho phép khách hàng mua lại chiếc xe với mức giá thương lượng.Các ngân
hàng tạo ra lợi nhuận bằng cách họ sẽ xác định trước chi phí của món hàng, giá trị
còn lại cuối kỳ, giá trị thời gian hay lợi nhuận biên của món tiền dùng đầu tư mua
sản phẩm để cho thuê. Sự kết hợp ba yếu tố này là cơ sở cho hợp đồng giữa ngân
hàng và các khách hàng trong hợp đồng thuê ban đầu.
1.1.6.5.Musharakah (liên doanh)
Musharakah là mối quan hệ giữa hai bên hoặc nhiều hơn trong việc góp vốn
vào một doanh nghiệp, cùng chia sẻ lợi nhuận hay các khoản lỗ có thể tính được.
Nghiệp vụ này thường được sử dụng trong các dự án đầu tư, thư tín dụng , mua tài
sản hay bất động sản. Tất cả các bên đều được quyền tham gia quản lý nhưng
không bắt buộc. Lợi nhuận phân phối cho các bên theo tỷ lệ ấn định trước trong
khi các khoản lỗ phát sinh được phân phối cho các bên theo tỷ lệ vốn góp.

Trong trường hợp Musharakah là thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng,
ngân hàng có quyền nhận sự đảm bảo tương xứng để bảo toàn phần vốn góp của
mình cũng như phần lợi nhuận có thể có được từ nghiệp vụ này. Khoản đầu tư của
ngân hàng thông thường sẽ được mua bảo hiểm .Mục đích của việc này là hạn chế
những rủi ro, những khoản lỗ do sơ suất từ khách hàng.
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
16
Bảng 1.1:Tóm tắt điểm khác nhau cơ bản giữa sản phẩm cho vay truyền thống và
Musarakah
1.1.6.6.Salam
Phương thức tài chính này có thể được sử dụng bởi các ngân hàng và các tổ
chức tài chính để tài trợ trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong Salam, người bán cam
kết cung cấp hàng hoá cho người mua vào một thời điểm trong tương lai tại một
mức giá ấn định trước. Tiền bán thì nhận ngay nhưng hàng hoá thì giao sau.
Mục đích sử dụng:
- Để đáp ứng nhu cầu của một số nông dân cần tiền để trồng trọt và chăn nuôi cho
đến lúc thu hoạch, thánh tiên tri cho phép họ bán những sản phẩm nông nghiệp của
họ trước.
- Để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, công cụ salam cho
phép họ bán hàng hoá của họ trước để sau khi nhận được tiền, họ có thể thực hiện
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
Cho vay của ngân hàng truyền
thống
Nghiệp vụ musarakah của ngân hàng
Hồi giáo
1 Tỷ lệ vốn hoàn trả được xác định
trước bất kể con nợ lời hay lỗ.
Musarakah không thể tính trước

được khoản vốn thu hồi cố
định.Khoản tiền hoàn trả phụ thuộc
vào lợi nhuận thực tế của liên doanh.
2 Bên cho vay/ đầu tư tài chính sẽ
không chịu bất kỳ khoản lỗ nào.
Bên đầu tư tài chính sẽ chịu khoản lỗ
phát sinh nếu liên doanh thất bại.
3 Kết quả bất công cho con nợ nếu
như họ thua lỗ, họ sẽ vẫn trả cho
người đầu tư tỷ lệ lợi nhuận cố
định. Ngược lại, sẽ bất công cho
người đầu tư nếu như con nợ làm
ăn với tỷ lệ lãi cao, họ sẽ chỉ nhận
một phần nhỏ trong lợi nhuận, phần
lớn kia sẽ thuộc về con nợ.
Lợi nhuận hay các khoản lỗ thực tế
sẽ được chia đều cho các bên liên
doanh. Nếu như lợi nhuận lớn, tỷ lệ
hoàn vốn càng cao. Tiền gửi tại ngân
hàng là một ví dụ.
17
việc kinh doanh trên. Salam có lợi cho người bán vì họ sẽ nhận được tiền bán hàng
trước và cũng có lợi cho người mua vì giá trong Salam thấp hơn giá giao ngay.
Việc chấp nhận Salam là một ngoại lệ, do đó nó phải tuân theo những điều
kiện nghiêm ngặt sau :
- Điều kiện cần thiết cho hiệu lực của Salam là người mua phải thanh toán tiền đầy
đủ cho người bán tại thời điểm bán hàng có hiệu lực. Trong trường hợp không
thanh toán đầy đủ, điều này sẽ tương tự như việc bán một món nợ lấy một món nợ,
điều này rõ ràng bị đấng tiên tri cấm.
- Hàng hoá trong hợp đồng Salam phải có số lượng, chất lượng chính xác như chỉ

định. Đá quý không thể bán trên cơ sở Salam vì mỗi viên đá có chất lượng, kích
thước, trọng lượng và đặc điểm kỹ thuật không thể xác định một cách chính xác.
- Salam không thể thực hiện trên một hàng hoá cụ thể hay sản phẩm cụ thể. Cung
cấp lúa mì trên 1 cánh đồng cụ thể, hay trái cây trên 1 cây cụ thể sẽ khó thực hiện
nếu như tất cả bị phá huỷ trước khi giao hàng hay vì những lý do tương tự, việc
giao hàng vẫn chưa chắc chắn.
- Mọi chi tiết liên quan đến chất lượng hàng hoá cần phải qui định rõ ràng, tránh
mơ hồ có thể gây ra tranh chấp không đáng có.
- Số lượng hàng hoá phải được thoả thuận trong điều khoản tuyệt đối.
- Thời gian và địa điểm giao hàng phải được xác định trong hợp đồng.
- Thời gian giao hàng tối thiểu là 15 ngày hay 1 tháng kể từ ngày ký hợp đồng. Giá
cả trong hợp đồng Salam nhìn chung là thấp hơn giá bán giao ngay. Thời gian nên
đủ lâu để có thể ảnh hưởng tới giá.
- Giá bán trong Salam thấp hơn giá bán giao ngay, sự chênh lệch này có thể tạo ra
lợi nhuận cho ngân hàng.
- Bảo hiểm dưới hình thức bảo lãnh hay thế chấp sẽ được yêu cầu trong hợp đồng
Salam để đảm bảo rằng người bán sẽ cung cấp hàng hoá.
Công cụ tài chính Salam có hai ưu điểm nổi bật sau đây: thứ nhất, sau khi
mua hàng hoá bằng công cụ Salam, tổ chức tài chính có thể bán nó trong một hợp
đồng Salam song song có cùng ngày giao hàng. Thời gian giao hàng trong hợp
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
18
đồng thứ hai ngắn hơn và giá cả cũng cao hơn so với hợp đồng đầu tiên.Sự khác
nhau về mức giá tạo nên lợi nhuận cho tổ chức tài chính.Thời gian càng ngắn, mức
giá càng cao tạo ra mức lợi nhuận càng lớn.Bằng cách này, các tổ chức tài chính có
thể quản lý danh mục đầu tư ngắn hạn của họ. Thứ hai, tổ chức tài chính có thể
nhận lời hứa mua hàng từ bên thứ ba, sau khi nhận hàng, tổ chức tài chính có thể
bán lại cho bên thứ ba ở mức giá xác định trước trong điều khoản mua bán với bên
thứ ba này.

1.1.6.7.Amanah (Tiền gửi):
Amanah là khoản tiền gửi và có đặc tính riêng biệt của nó, nghĩa là: amanah
không thể được ngân hàng sử dụng để kinh doanh hay tìm kiếm lợi nhuận, ngân
hàng sẽ không chịu trách nhiệm nào liên quan đến bất kỳ thiệt hại hay tổn thất nào
của amanah do tác động ngoài tầm kiểm soát.
Trong khi đó tại các ngân hàng truyền thống, tiền gửi là một công cụ chính
để tạo ra lợi nhuận bằng cách dùng số tiền này để đầu tư vào hoạt động kinh doanh
khác, ngân hàng phải chịu 100% trách nhiệm đối với các khoản tiền gửi trong mọi
trường hợp, ngay cả trong trường hợp mất mát hay thiệt hại cho ngân hàng. Đặc
tính này cho thấy sự khác biệt giữa tiền gửi trong ngân hàng truyền thống với
amanah – nơi mà tài sản sẽ không được trả lại trong trường hợp có thiệt hại và tổn
thất do tác động ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng.
Hầu hết những người gửi tiền đều không quan tâm đến tên gọi của công cụ
tài chính mà chỉ quan tâm đến kết quả của việc giữ tiền. Do vậy, nếu ngân hàng
không đảm bảo tài sản của họ, trong điều kiện bình thường, khách hàng sẽ không
bao giờ gửi tiền tại ngân hàng. Tương tự như vậy, nếu ngân hàng thông báo khoản
tiền gửi của khách hàng là amanah, tức là trong trường hợp xảy ra bất kỳ tổn thất
nào nhưng không phải lỗi của ngân hàng thì tài sản đó đều không được trả lại, thì
không một khách hàng nào sẽ gửi tiền vào ngân hàng. Do đó, ngân hàng phải có
chính sách đảm bảo cho món tiền gửi của khách hàng.
1.2.Sơ lược về dịch vụ bán lẻ của ngân hàng thương mại
1.2.1.Khái niệm dịch vụ ngân hàng bán lẻ:
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
19
Hiện nay ở nước ta vẫn chưa có khái niệm về dịch vụ ngân hàng. Trong
Luật các Tổ chức tín dụng, lĩnh vực dịch vụ ngân hàng được quy định nhưng
không có định nghĩa và giải thích rõ ràng. Tại khoản 1 và khoản 7 điều 20 Luật các
Tổ chức tín dụng có ghi “hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng” được
bao hàm cả 3 nội dung : nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh

toán. Như vậy, dịch vụ ngân hàng bán lẻ là dịch vụ ngân hàng cung cấp các sản
phẩm dịch vụ chủ yếu cho khách hàng là các cá nhân, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
1.2.2.Đặc điểm của dịch vụ ngân hàng bán lẻ
- Phục vụ chủ yếu cho các khách hàng là cá nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Giá trị từng khoản giao dịch không cao (từ vài trăm VND đến vài chục triệu
VND)
- Sản phẩm của dịch vụ ngân hàng bán lẻ vừa có sản phẩm thuộc tài sản nợ như tiết
kiệm dân cư, vừa có sản phẩm thuộc tài sản có như cho vay cá nhân.
- Chính sách, phương thức quản lý, cách thức tiếp thị, yêu cầu về nguồn nhân lực
khác với các ngân hàng bán buôn khi khách hàng là các công ty lớn.
1.2.3.Vai trò của dịch vụ ngân hàng bán lẻ trong nền kinh tế
1.2.3.1.Đối với khách hàng và nền kinh tế
- Thông qua hoạt động dịch vụ ngân hàng bán lẻ, tăng quá trình chu chuyển tiền tệ
trong nền kinh tế, khai thác và sử dụng các nguồn vốn trong nền kinh tế thêm hiệu
quả, làm tăng luân chuyển tiền tệ trong không gian và thời gian. Khối lượng tiền tệ
di chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ khách hàng này sang khách hàng khác, đáp
ứng các nhu cầu cho hoạt động kinh tế xã hội. Góp phần thúc đẩy sản xuất kinh
doanh, tiêu dùng, góp phần vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Góp phần tích cực trong việc mang lại lợi ích chung cho nền kinh tế, cho khách
hàng và ngân hàng thông qua việc giảm chi phí nhờ sự tiện ích và chuyên môn hoá
của từng loại dịch vụ: giảm chi phí in ấn, kiểm đếm, bảo quản, vận chuyển tiền,
cũng như tiết kiệm nhân lực để thực hiện, giảm chi phí dịch vụ, giúp khách hàng
có nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm dịch vụ.
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
20
- Tạo nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia từ các nguồn kiều hối từ nước ngoài chuyển
về.
- Đối với khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ: tạo điều kiện cho quá trình sản

xuất kinh doanh được tiến hành trôi chảy, nhịp nhàng, thúc đẩy đồng vốn luân
chuyển nhanh, góp phần đẩy nhanh tốc độ sản xuất, luân chuyển hàng hoá.
- Góp phần chống tham nhũng, gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế. : Thanh
toán không dùng tiền mặt được là hình thức thanh toán được Nhà nước khuyến
khích trong giao dịch sản xuất kinh doanh. Việc thanh toán bằng tiền mặt dẫn đến
tình trạng tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế vì luồng tiền khi thanh toán qua tài
khoản ngân hàng được thể hiện đầy đủ trên sổ sách, chứng từ kế toán, thể hiện đầy
đủ các khoản thu của doanh nghiệp nhất là những doanh nghiệp nhỏ, các doanh
nghiệp bắt buộc phải hạch toán đầy đủ doanh thu phát sinh và thuế giá trị gia tăng
đầu ra, thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
- Việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng bán lẻ trên nền tảng công nghệ
tiên tiến, hiện đại giúp người dân làm quen và không còn cảm thấy xa lạ với những
khái niệm ngân hàng tự động, ngân hàng không người, ngân hàng ảo.
1.2.3.2.Đối với ngân hàng
- Đem lại cho ngân hàng khoản thu nhập lớn về phí dịch vụ. Phát triển dịch vụ đa
dạng, nhiều tiện ích theo hướng cải tiến phương thức thanh toán, đơn giản hoá thủ
tục, mở rộng mạng lưới hoạt động. Bên cạnh đó ngân hàng có thể phát triển những
dịch vụ hỗ trợ như dịch vụ chi trả lương cho những người có tài khoản tại nhiều
ngân hàng khác nhau, chuyển tiền mặt giao dịch tận tay người nhận…sẽ thu hút
ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng, từ đó làm tăng nguồn thu dịch vụ
của ngân hàng.
- Tận dụng được nguồn vốn trong thanh toán của khách hàng đang lưu ký trên tài
khoản thanh toán, ký quỹ. Những tài khoản này ngân hàng không phải trả lãi hoặc
trả lãi thấp làm cho chi phí đầu vào của nguồn vốn huy động giảm xuống tạo ra sự
chênh lệch lớn giữa lãi suất bình quân cho vay và lãi suất bình quân tiền gửi.
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
21
- Xây dựng được mạng lưới khách hàng đa dạng, rộng khắp làm nền tảng để phát
triển các dịch vụ ngân hàng.

- Tăng khả năng hoạt động đáp ứng các nhu cầu khách hàng của các ngân hàng
thương mại, từ đó tăng dần khả năng thích ứng, cạnh tranh của các ngân hàng
thương mại góp phần làm vững mạnh thêm nền tài chính nước nhà.
1.2.4.Các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng bán lẻ
1.2.4.1.Nghiệp vụ huy động vốn đối với khách hàng cá nhân
Đây là một nghiệp vụ tài sản nợ, là một nguồn huy động truyền thống của
ngân hàng thương mại, góp phần hình thành nên nguồn vốn hoạt động của các
ngân hàng
Đặc điểm của nguồn vốn huy động từ cá nhân:
- Khả năng huy động vốn tập trung tại một số địa bàn và một số khách hàng: huy
động vốn thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, giấy tờ có giá,
tập trung chủ yếu tại những đô thị phát triển về kinh tế xã hội, công nghiệp, dịch
vụ và phát triển công nghệ.
- Giá vốn không đồng nhất giữa các địa bàn, thời điểm: căn cứ vào điều kiện về
kinh tế, xã hội, mặt bằng lãi suất tại địa bàn, nhu cầu của ngân hàng mà từng ngân
hàng sẽ có những đề xuất lãi suất huy động từ cá nhân thích hợp.
- Giá vốn tương đối cao so với các nguồn huy động khác như từ các tổ chức kinh
tế, từ tổ chức tín dụng khác.
Nguyên nhân của các đặc điểm trên là do cơ cấu huy động vốn khác nhau,
do mức độ cạnh tranh giữa các địa bàn. Từ sự khác nhau giữa khả năng huy động
vốn và chi phí huy động vốn của các địa bàn khác nhau nên phải xác định: tạo
nguồn vốn không chỉ tập trung vào một số địa bàn mà phải mở rộng ra các địa bàn
nơi có giá vốn thấp, cân nhắc giữa mục tiêu tối thiểu hoá chi phí huy động vốn và
mục tiêu tối đa hoá tăng trưởng, tăng tính ổn định cho nguồn vốn vì những ngân
hàng có khả năng huy động nhiều nhất nguồn vốn có chi phí rẻ nhất cũng có điều
kiện hoạt động cạnh tranh nhất trên địa bàn.
Vai trò của nguồn huy động từ khách hàng cá nhân đối với ngân hàng:
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
22

- Đóng góp quan trọng vào việc tăng trưởng nguồn vốn cho các ngân hàng. Huy
động vốn cá nhân là một trong hai bộ phận chính trong huy động vốn của ngân
hàng thương mại bên cạnh huy động vốn từ các thành phần kinh tế. Tốc độ huy
động vốn cá nhân tăng nhanh góp phần đẩy nhanh sự gia tăng của nguồn vốn, đồng
thời cũng là một tín hiệu đáng mừng cho thấy nguồn lực nội tại trong dân cư được
khơi thông.
- Tạo nguồn vốn trung dài hạn chủ yếu cho ngân hàng. Khả năng huy động vốn
trung dài hạn chủ yếu từ khu vực dân cư, các khu vực còn lại như các tổ chức kinh
tế ít huy động được nguồn này, trong khi đây là khu vực có nhu cầu chủ yếu từ
nguồn vốn trung dài hạn. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, đời sống dân cư
ngày càng được cải thiện và nâng cao, tương ứng với nó là sẽ là sự gia tăng tỷ lệ
tiết kiệm, chắc chắn nguồn lực trong dân cư sẽ không ngừng tăng lên. Tỷ trọng vốn
trung dài hạn huy động từ dân cư trong cơ cấu vốn trung dài hạn của các ngân hàng
thương mại vẫn có khả năng duy trì ổn định trong tương lai, tuy mức độ cạnh tranh
trong thị trường sẽ gay gắt hơn nhiều.
- Tăng tính ổn định, bền vững tương đối cho nguồn vốn. Tính ổn định của nguồn
vốn từ cá nhân thể hiện trên một số khía cạnh sau:
+ Luồng tiền chu chuyển thấp: nguồn tiền của các cá nhân khi được gửi vào ngân
hàng thường có tính chất nhàn rỗi, mục đích chủ yếu là để hưởng lãi, dự phòng cho
những nhu cầu chi tiêu trong tương lai. Vì thế khả năng chu chuyển của luồng tiền
này khá thấp trong một khoảng thời gian nhất định.
+ Ít chịu tác động bởi yếu tố thời vụ: yếu tố thời vụ thường ít xảy ra ở đại bộ phận
do tính chất của luồng tiền cũng như nhu cầu chi tiêu không đồng nhất.
+ Thói quen giao dịch: phương thức thanh toán phổ biến của người dân Việt Nam
là tiền mặt, thanh toán bằng chuyển khoản chưa phổ biến. Số dư tài khoản tiền gửi
giao dịch vì thế cũng ổn định hơn.
Tuy nhiên tính ổn định của luồng tiền này cũng chỉ ở mức độ tương đối do
các nguyên nhân sau đây có thể ảnh hưởng :
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam

23
+ Thiếu thông tin: Khả năng tiếp cận luồng thông tin về tình hình hoạt động của
các ngân hàng thường không đồng nhất giữa các khách hàng, thậm chí còn trái
ngược nhau. Vấn đề bất cân xứng thông tin giữa ngân hàng và khách hàng thường
gây ra những khuynh hướng bất lợi cho hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt là
thông tin sai sự thật, nhằm mục đích phá hoại.
+ Khả năng phân tích yếu: thông tin mà các khách hàng có được nhiều khi chủ là
thông tin truyền miệng, rỉ tai, không dựa trên cơ sở một sự phân tích khoa học nào
cả. Khả năng phân tích yếu cũng góp phần làm vấn đề bất cân xứng thông tin trở
nên trầm trọng hơn.
+ Việc ra quyết định chỉ phụ thuộc vào một người: quyết định của khách hàng vì
thế còn mang tính chất cảm tính, chủ quan. Công tác kế hoạch của ngân hàng cho
mục đích sử dụng nguồn vốn này do vậy trở nên khó khăn hơn.
+ Việc bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền chưa rõ ràng: nếu xuất hiện một yếu tố
có khả năng gây bất lợi cho người gửi tiền thì tâm lý lo sợ về việc quyền lợi không
được đảm bảo sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyết định rút tiền của khách hàng. Tính
chu chuyển thấp của luồng tiền vì thế chỉ mang tính tương đối.
- Giúp xây dựng mạng lưới khách hàng đa dạng, rộng khắp làm nền tảng để phát
triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
1.2.4.2. Cho vay cá nhân
Đây là một nghiệp vụ tài sản có, là sản phẩm truyền thống của ngân hàng
thương mại, góp phần tăng thu nhập của các ngân hàng. Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế xã hội, tỷ trọng cho vay cá nhân trong dư nợ vay của các ngân hàng
thương mại ngày càng cao. Cho vay cá nhân chiếm tỷ trọng quan trọng trong danh
mục đầu tư của các ngân hàng thương mại trên thế giới.
Đặc điểm của sản phẩm cho vay cá nhân:
- Thị trường rộng và không ngừng tăng trưởng: Sự phát triển của xã hội và quy mô
dân số ngày càng tăng, nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư thúc đẩy
sự gia tăng nhu cầu cho loại sản phẩm này.
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng

bán lẻ tại Việt Nam
24
- Khách hàng của loại sản phẩm cho vay cá nhân thường quan tâm đến số tiền trả
nợ hơn là lãi suất vay. Do đó ngân hàng có thể cho vay với lãi suất cao.
- Khả năng trả nợ thay đổi nhanh chóng khi khách hàng thay đổi điều kiện làm việc
hoặc sức khoẻ. Khả năng bù đắp từ các nguồn khác trong trường hợp có thể xảy ra
hầu như không có. Ngân hàng cần có các giải pháp phòng ngừa cho chính ngân
hàng .
- Giá trị từng món vay thường nhỏ lẻ phân tán. Do đó dẫn đến tăng chi phí quản lý
của ngân hàng cho từng món vay này.
- Kỹ thuật cho vay khá đơn giản, không đòi hỏi cán bộ được đào tạo cao.
- Luôn tồn tại nhóm khách hàng chay ì, lừa đảo vì vậy đòi hỏi thẩm định cho vay
có kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp.
Vai trò của cho vay cá nhân đối với ngân hàng:
- Đóng góp quan trọng vào việc tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng. Cho vay
cá nhân là một trong hai bộ phận trong nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương
mại bên cạnh cho vay tổ chức kinh tế. Tốc độ cho vay cá ngân tăng nhanh góp
phần đẩy nhanh dư nợ, đồng nghĩa với tăng nguồn thu nhập cho ngân hàng.
- Giúp xây dựng mạng lưới khách hàng đa dạng, rộng khắp làm nền tảng để phát
triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
1.2.4.3. Dịch vụ thẻ
Thẻ ngân hàng là một sản phẩm tài chính cá nhân đa chức năng đem lại
nhiều tiện ích cho khách hàng. Thẻ có thể sử dụng để rút tiền, gửi tiền, cấp tín
dụng, thanh toán hoá đơn dịch vụ hay để chuyển khoản. Thẻ cũng được sử dụng
cho nhiều dịch vụ phi tài chính như tra vấn thông tin tài khoản, thông tin các khoản
chi phí sinh hoạt…
Vai trò của sản phẩm thẻ đối với ngân hàng:
- Dịch vụ thẻ là một nguồn thu của ngân hàng, bên cạnh đó thực tiễn triển khai
dịch vụ thẻ của các nước trên thế giới và khu vực đã chứng minh vai trò của dịch
vụ thẻ ngân hàng như là một mũi nhọn chiến lược trong hiện đại hoá, đa dạng hoá

các loại hình dịch vụ ngân hàng, đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng. Hiện nay
Mô hình ngân hàng Hồi giáo - Hướng đi mới để phát triển dịch vụ ngân hàng
bán lẻ tại Việt Nam
25

×