Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Nghiên cứu đánh giá thực trạng, xây dựng bản đồ thổ nhưỡng nông hóa và đề xuất giải pháp cải tạo đất tại Trung tâm sản xuất giống Trảng Bàng - Tây Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.4 MB, 109 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU DẦU VÀ CÂY CÓ DẦU








BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI

NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG, XÂY DỰNG
BẢN ĐỒ THỔ NHƯỠNG NÔNG HÓA VÀ ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP CẢI TẠO ĐẤT TẠI TRUNG TÂM SẢN XUẤT
GIỐNG TRẢNG BÀNG - TÂY NINH



CNĐT: LÊ CÔNG NÔNG









8280

TP.HCM – 2010






1

MỞ ĐẦU
Đất là tài sản Quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu, là đối tượng lao động,
đồng thời cũng là sản phẩm của lao động. Vì vậy, điều tra đánh giá tài nguyên
đất đai, làm căn cứ khoa học cho việc hoạch định những chiến lược khai thác
nguồn tài nguyên quan trọng này là rất cần thiết và cấp bách.
Tỉnh Tây Ninh là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ (ĐNB), có diện tích tự
nhiên 402.960 ha, v
ới dân số 1.029.894 người (2003). Tài liệu bản đồ đất tỉnh
Tây Ninh đã được nghiên cứu khá nhiều và trải qua các thời kỳ khác nhau, các
tài liệu này đã đáp ứng kịp thời và thiết thực cho thực tiễn sản xuất của tỉnh.
Mặt khác trong những năm gần đây, dưới tác động của kinh tế thị trường việc
sử dụng đất trên địa bàn tỉnh có nhiều biến độ
ng. Tình trạng biến động nói trên
đã làm thay đổi rõ rệt đặc điểm, ranh giới và quy mô phân bố của nhiều loại đất;
bản đồ đất không còn phản ánh đúng đặc điểm của tài nguyên đất hiện nay của
nhiều vng trong tỉnh. Vì vậy, cần thiết phải bổ sung, điều tra đánh giá lại chất
lượng đất làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định chiến lượ
c sử dụng tài
nguyên đất cho hiện tại và tương lai.
Mặt khác, với những công nghệ mới về kỹ thuật bản đồ số, cần thiết phải
áp dụng để xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên đất theo một quy định thống nhất
cho vùng.
Trung tâm sản xuất thực nghiệm giống Trảng Bàng là đơn vị sự nghiệp
nghiên cứu khoa học có thu trực thuộc Viện nghiên c

ứu Dầu và cây có dầu,
được thành lập theo Quyết định số 2540/QĐ-TCCB, ngày 01/11/2001 của Bộ
trưởng Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) và Trung tâm có các nhiệm
vụ như sau:
1.Triển khai trồng thực nghiệm và sản xuất các giống cây có dầu, cây tinh
dầu và các cây, con khác theo kế hoạch của Viện;
2. Liên kết với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, tiếp
nhận kỹ thuật mới và nguồn vốn đầu tư để
xây dựng Trung tâm thành khu nông
- công nghiệp công nghệ cao;
3. Xây dựng các mô hình trình diễn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới,
sản xuất thử nghiệm các sản phẩm từ cây có dầu, cây tinh dầu, các loại cây, con
khác và các chế phẩm phục vụ nông nghiệp;
4. Tổ chức các dịch vụ khoa học kỹ thuật, thông tin chuyên ngành, các
lớp tập huấn kỹ thuật và giới thiệu các sản phẩm;
Cơ sở pháp lý/xuất xứ củ
a đề tài
Đề tài được thực hiện theo Quyết định số 6363/QĐ-BCT ngày
02/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Công Thương về việc đặt hàng thực hiện các
nhiệm vụ Khoa học và công nghệ năm 2009 cho Viện Nghiên cứu Dầu và Cây
có dầu và hợp đồng số 201.RD/2009/HĐ-KHCN ngày 16/03/2009 của Bộ Công
Thương ký với Viện, Hợp đồng giao khóan nội bộ số 11/HĐGK-VD ngày
7/4/2009 giữa Viện trưởng và Chủ nhi
ệm đề tài.

2

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước:
1.1.1. Vị trí địa lý của tỉnh Tây Ninh.

Tây Ninh là một tỉnh nằm ở miền Đông Nam bộ có tổng diện tích đất tự
nhiên 402.960 ha. Có tọa độ từ 105
o
48’ độ kinh đông thuộc xã Tân Bình –
Huyện Tân Biên đến 106
0
22’ thuộc xã Tân Đồng – Huyện Tân Châu và từ
10
o
57’ độ vĩ bắc thuộc xã Phước Chĩ – Huyện Trảng Bàng đến 11
o
46’ thuộc xã
Tân Lập – Huyện Tân Biên. Phía Bắc và Tây của tỉnh giáp Cămpuchia, phía
đông giáp tỉnh Bình Dương, phía Nam giáp Tp HCM và tỉnh Long An.
1.1.2. Những nghiên cứu về đất vùng miền Đông Nam bộ và tỉnh Tây
Ninh trước năm 1975:
Cùng với vùng Đông Nam bộ (ĐNB), ngay từ những năm 1930 các
chuyên gia thổ nhưỡng người Pháp đã có những công trình nghiên cứu về đất và
sử dụng đất ở vùng ĐNB nói chung và tỉnh Tây Ninh nói riêng nhằm mục đích
cho việ
c xây dựng các đồn điền Cao su. Đáng chú ý nhất là công trình nghiên
cứu và lập bản đồ đất của FR. Moorman (1958, 1959, 1961); Moorman, Goden
(1960); Thái Công Tụng, Moorman (1958); Thái Công Tụng (1972, 1973). Các
công trình này đã phản ánh khái quát về sự phân bố địa lý, đặc điểm một số loại
đất chính và phần nào đề cập đến việc sử dụng đất. Trong đó hai tài liệu đã đóng
góp những hình ảnh khái quát căn bản đầu tiên cho các khu vực phía nam nói
chung và tỉnh Tây Ninh nói riêng về b
ản đồ thổ nhưỡng và các loại đất trong
vùng:
1.1.2.1. Bản đồ đất tổng quát Nam Việt Nam (General soil map of south

V.N): tỷ lệ 1/1.000.000, FR. Moorman, 1961. Trên cơ sở những giải đoán
không ảnh, bằng việc sử dụng các tổ hợp và các nhóm đất có cùng nguồn gốc
phát sinh, tác giả đã xây dựng chú dẫn tổng quát cho bản đồ này gồm 25 đơn vị.
Trong đó tỉnh Tây Ninh có các đơn vị sau: Đất phù sa không phân biệt
(Undifferentiated Alluvial soil);Đất Podzolic xám trên phù sa cổ (Gray podzolic
soils on old alluvial sediments); T
ổ hợp đất núi (Complex of mountainous
soils). Từ bản đồ đất của Moorman đã phóng ra bản đồ đất tỷ lệ 1/200.000 cho
các tỉnh (1972, Bộ canh nông cũ). Trong đó bản đồ đất Tây Ninh, với các đơn vị
tương tự như bản đồ của Moorman, có bổ sung về thành phần sa cấu.
1.1.2.2. Thái Công Tụng: thuộc sở Địa học biên soạn tài liệu nghiên cứu
về đất đai miền cao nguyên Trung phần và miề
n Đông Nam phần năm 1971.
Trong tài liệu này tác giả đã mô tả 5 nhóm đất chính của miền ĐNB về nguồn
gốc phát sinh, tính chất lý hóa học, phân bố và khả năng sử dụng. Bao gồm: Đất
Podzolic xám tương đương với đơn vị số 14 của Moorman, có nguồn gốc từ phù
sa cổ sinh; Đất Latosols nâu đỏ, tương ứng với đơn vị số 8 và số 19 của
Moorman, đất được hình thành do sự hủ
y hoại của đá basalt; Đất có ít chất hữu
cơ và có đốm rỉ (Low humic gley soils), có nguồn gốc từ phù sa cổ; Đất
Latosols nâu và cạn trên đá basalt (Terres brunes basaltiques), có nguồn gốc từ

3

đá bọt basalt trong điều kiện úng thủy; Đất phù sa tương ứng với đơn vị số 01
của Moorman.
Thực chất tài liệu của Thái Công Tụng là làm rõ thêm các tính chất các
loại đất mà Moorman đã phát hiện. Tài liệu của Moorman có tính khái quát
chung toàn Miền Nam, còn tài liệu của Thái Công Tụng làm rõ thêm tài liệu của
Moorman và cũng là chú giải bản đồ đất 1/200.000 các tỉnh. Đây là hai tài liệu

điều tra đất đầu tiên của các tỉnh phía nam, đã gây những
ấn tượng quan trọng
cho những nghiên cứu về sau.
1.1.3. Những nghiên cứu về đất vùng miền Đông Nam bộ và tỉnh Tây
Ninh sau năm 1975
1.1.3.1. Giai đoạn trong năm 1975 sau ngày giải phóng, trên cơ sở
những tài liệu của Moorman và Thái Công Tụng, Viện quy hoạch thiết kế Nông
nghiệp với một số tuyến khảo sát bổ sung đã xây dựng sơ đồ đất tỷ lệ 1/250.000
cho các tỉnh (Nguyễn Khang và ctv, 1975). Các tác giả công trình này đ
ã
chuyển đổi phân loại đất theo quan điểm phát sinh và chia đất Miền ĐNB ra 9
nhóm đất chính: Đất cát, đất mặn, đất phèn, đất phù sa, đất đen, đất xám, đất đỏ
vàng, đất dốc tụ và đất trơ sỏi đá. Tài liệu này phát hiện tương đối đầy đủ các
nhóm đất chính nhưng các contour đất rất đơn điệu. Nhóm đất phèn có phát hiện
nhưng không thấy rõ bản chất mà chỉ dự
a vào hàm lượng SO
4
2-
và pH tầng đất
mặt để chia ra đất phèn ít và phèn trung bình.
1.1.3.2. Giai đoạn năm 1977-1978, Viện quy hoạch và thiết kế Nông
nghiệp đã tổ chức đợt điều tra khá chi tiết cho tỉnh Tây Ninh. Trên quan điểm
thổ nhưỡng phát sinh học, một bảng phân loại đất với các đơn vị bản đồ được
phân chia kỹ tới chủng và biến chủng, rất coi trọng các chỉ tiêu kết von, thành
cơ giớ
i, đá mẹ, độ dốc địa hình, độ dầy tầng đất mịn. Các khoanh đất được
khoanh chi tiết hơn hẳn các tài liệu trước đó. Các tác giả tài liệu này đã chia đất
tỉnh Tây Ninh ra 6 nhóm đất và 13 đơn vị bản đồ tương đương loại phát sinh.
Bao gồm:
(1) Nhóm đất phèn, có 2 đơn vị: Đất phèn nhiều; Đất phèn ít và trung bình.

(2) Nhóm đất phù sa, có 3 đơn vị: Đất phù sa gley; Đất phù sa có tầng loang
lổ
đỏ vàng; Đất phù sa sông suối.
(3) Nhóm đất xám bạc màu, có 3 đơn vị: Đất xám trên phù sa cổ; Đất xám
trên macma acid và đá cát; Đất xám glây.
(4) Nhóm đất đỏ vàng, có 4 đơn vị: Đất nâu đỏ trên đá bazan; Đất đỏ vàng
trên đá macma acid; Đất vàng nhạt trên đá phiến sét; Đất nâu vàng trên
phù sa cổ.
(5) Nhóm đất thung lũng dốc tụ, có 1 đơn vị: Đất dốc tụ.
(6) Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá, có 1 đơn vị là:
Đất xói mòn trơ sỏi đá.
Đây là tài liệu làm nền tảng cho những nghiên cứu đất trên phạm vi tỉnh
Tây Ninh tiếp theo và trong nhiều năm đã trở thành tài liệu đóng góp phần quan
trọng trong quy hoạch và định hướng sử dụng đất trong phạm vi toàn tỉnh.

4

Tuy vậy lúc đó do việc đi lại khó khăn, dân cư thưa thớt, an ninh phức
tạp, cũng phải kể đến những thiếu thốn về cơ sở vật chất và trang bị kỹ thuật
Một số vùng khảo sát với mật độ thưa, các mẫu đất chưa được phân tích đầy đủ,
cũng còn phải kể đến những hạn chế về sự hiể
u biết về đất phèn lúc đó. Cho đến
nay tài liệu đã quá cũ và lạc hậu.
1.1.3.3. Giai đoạn những năm 1980-1988: Những năm 1980-1988, Phân
viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp điều tra chi tiết xây dựng bản đồ đất ở
bản đồ tỷ lệ 1/10.000 cho các nông trường và các vùng chuyên canh lúa, lạc: (1)
Bản đồ đất nông trường mía Nước Trong; (2) Bản đồ đất-nông hóa vùng chuyên
canh lạc huyện Gò Dầu và vùng thâm canh lúa huyệ
n Hòa Thành Các bản đồ
đất tỷ lệ chi tiết nêu trên được xây dựng với một quy trình thống nhất, tài liệu

khá chi tiết, đáp ứng tốt cho các công tác quy hoạch, chỉ đạo sản xuất.
1.1.4. Kết quả phân loại đất tỉnh Tây Ninh
Theo bản đồ đất tỉnh Tây Ninh tỷ lệ 1/100.000 thì tỉnh Tây Ninh có các
loại đất như sau (GS.TS Phan Liêu và ctv):
a/ Đất phèn
: Gồm có 3 loại: i) Đất phèn tiềm tàng; ii) Đất phèn hoạt động;
iii) Đất phèn thủy phân.; chúng được phân bố và sử dụng như sau:
* Đất phèn tiềm tàng
: Diện tích 5.100 ha, chiếm 1/5 tổng diện tích các
loại đất phèn của tỉnh. Xuất hiện ở các địa hình thấp trũng thường ngập nước
thời gian dài, chúng có mặt ở xung quanh các khúc uốn hạ lưu sông Vàm Cỏ
Đông, phân bố rãi rác ở phía tây nam huyện Châu Thành, Hòa Thành và nối liền
trên diện tích khá lớn ở huyện Gò Dầu và Bến Cầu.
Đất phèn tiềm tàng được trồng 1 vụ lúa vào mùa mưa hoặc hai vụ lúa
Đông Xuân và Hè Thu, năng suất lúa đạ
t từ 1,5 – 2,0 tấn/ha. Một phần diện tích
được lên líp để trồng mía và cây ăn quả. Nếu lên líp đúng kỹ thuật (không bốc
phần chứa pyrit lên mặt hoặc phải để qua 1-2 vụ để nước mưa rửa bớt phèn kết
hợp với việc xây dựng hệ thống kênh mương tưới tiêu chủ động, bón bột
phosphorit (600 kg/ha) và bón vôi (1-3 tấn CaO/ha/vụ, bón liên tục 2-3 vụ)
trước khi cấy 15-20 ngày kết hợp vớ
i bón đạm, lân, kali thích hợp thì có thể đạt
năng suất lúa bình quân 5-6 tấn/ha.
* Đất phèn hoạt động
: Diện tích 9.335 ha, chiếm 2/5 tổng diện tích đất
phèn của tỉnh. Xuất hiện ở các địa hình cao hơn, nơi có thời kỳ khô bề mặt tới 6
tháng trong năm, được phân bố rãi rác xung quanh sông Vàm Cỏ Đông từ nam
huyện Châu Thành qua phía nam Hòa Thành tới bắc Bến Cầu và Gò Dầu. Ở góc
tây – nam của vùng nam Bến Cầu, Gò Dầu và Trảng Bàng đất phèn hoạt động
xuất hiện thành những vùng rộng lớn.

Đất phèn hoạt động có
độ chua lớn và nhiều độc tố nên thường bị bỏ
hoang hóa (cỏ năn, lác, tràm ). Nếu được lên líp và bón phân (phosphorit, vôi,
tro kết hợp rữa phèn) có thể trồng mía, dứa, đậu đen, điều là những cây có thể
chịu được đất chua.

5

* Đất phèn thủy phân: Diện tích 10.924 ha, chiếm 2/5 tổng diện tích đất
phèn của tỉnh. Xuất hiện trong vùng phèn tại các địa hình cao hơn có bề mặt
khô 6 tháng trong năm.
Phân bố khá tập trung ở nam Châu Thành tới Hòa Thành xung quanh
sông Vàm Cỏ Đông.
Đất phèn thủy phân có thể trồng lúa hoặc các loại hoa màu khác.
b/ Đất than bùn:
Diện tích 1.072 ha, chiếm 0,26% tổng diện tích quỹ đất
của tỉnh. Xuất hiện từng vệt rải rác, thường xen trong vùng phèn dọc theo hạ lưu
sông Vàm Cỏ Đông tại những địa hình thấp trũng, phân bố ở huyện Châu
Thành, nam Hòa Thành, Gò Dầu và Bến Cầu.
Đất than bùn ngoại trừ các diện tích có lớp than bùn rất dày dùng để khai
thác than, diện tích còn lại có thể trồng lúa, rau màu (cải, bầu bí, đậu, dưa ).
Khi trồng trọt chú ý thoát nướ
c, cày sâu, bón vôi.
c/ Đất phù sa:
Gồm có 2 loại: i) Đất phù sa có tầng loang lỗ; ii) Đất phù
sa gley. Chúng được phân bố và sử dụng như sau:
* Đất phù sa có tầng loang lỗ
: Diện tích 1.685 ha, chiếm > 0,4% tổng
diện tích quỹ đất của tỉnh. Xuất hiện ở địa hình thấp, một ít ở xa sông, mùa mưa
ít ngập nước, mùa khô không ngập nước. Phân bố tập trung xung quanh sông

Sài Gòn ở huyện Trảng Bàng, Dương Minh Châu và một vệt xung quanh rạch
Bến Đá ở huyện Châu Thành.
Đất phù sa được sử dụng để trồng lúa 2 vụ hoặc 1 vụ lúa – 1 vụ màu. Cần
chú ý bón phân hữu cơ, vôi, tăng cườ
ng cày bừa xới xáo, bón thêm bột
Phosphorit, đạm và lân.
* Đất phù sa gley
: Diện tích nhỏ khoảng 90 ha. Xuất hiện ở vùng có địa
hình thấp không xa các sông lớn hoặc các kênh rạch, thường ngập nước từ 8-9
tháng/năm. Phân bố tập trung ở huyện Trảng Bàng.
Đất phù sa gley thường được sử dụng để trồng lúa 1 vụ nhưng năng suất
thấp. Trong quá trình sử dụng cần chú ý bón vôi, phosphorit, tránh bón các phân
có gốc sulphat.
d/ Đất xám:
Đây là nhóm đất có diện tích lớn nhất tỉnh. Tây Ninh có diện
tích 338.833 ha đất xám chiếm khoảng 84,13% diện tích tự nhiên của toàn tỉnh,
địa hình bằng phẳng thuận tiện cho việc cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp,
phù hợp để trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày.
Gồm có 6 loại: i) Đất xám điển hình; ii) Đất xám có tầng loang lổ; iii) Đất
xám có tầng kết von đá ong; iv) Đất xám mùn; v) Đất xám gley; vi) Đất xám
đọng mùn gley. Chúng
được phân bổ và sử dụng như sau:
* Đất xám điển hình:
Diện tích 195.875 ha. Thường xuất hiện ở các địa
hình cao. Phân bố ở tất cả các huyện trong tỉnh, diện tích tập trung nhiều nhất ở
huyện Tân Châu, Tân Biên, Dương Minh Châu, Châu Thành.

6

Đất xám điển hình thường được sử dụng để trồng các loại cây công

nghiệp có giá trị như cao su, mía, lạc, hoặc hoa màu như khoai lang, sắn. Độ
màu mỡ của đất xám thấp vì vậy trong quá trình sử dụng cần bón nhiều chất
hữu cơ (phân chuồng, thân cây sau thu hoạch, phân xanh, phân rác ), vôi, lân,
đạm và kali hoặc tro thực vật kết hợp xới xáo và che phủ đất để giữ ẩm. Cần
chú ý tưới nước trong mùa khô kết hợ
p với sử dụng và cải tạo đất hợp lý để khai
thác hiệu quả và bền vững.
* Đất xám có tầng loang lổ và đất xám có tầng kết von đá ong:

- Diện tích đất xám có tầng loang lổ: 109.446 ha. Xuất hiện ở các địa hình
cao đến vừa.
- Diện tích đất xám có tầng kết von đá ong: 7.140 ha. Xuất hiện ở chân
đồi, phần cuối dốc là nơi chuyển tiếp từ đồi phù sa cổ xuống đồng bằng phù sa
trẻ hoặc thung lũng thấp.
- Việc sử dụng hai loại đất này tương tự nhau, có thể sử dụng để trồng
cao su, hoa màu, cây công nghi
ệp ngắn ngày. Nếu có tầng đá ong ở độ sâu 50-
120 cm thì nên sử dụng để trồng lúa hoặc hoa màu ngắn ngày chứ không nên
trồng cao su. Trong quá trình sử dụng nên chú ý bón phân hữu cơ, vô cơ, vôi kết
hợp cày sâu, bừa kỹ, tiêu thoát nước tốt trong mùa mưa.
* Đất xám mùn:
Diện tích 18.938 ha. Xuất hiện ở những vùng thấp vừa ở
triền đồi phẳng phía cuối bề mặt dốc hoặc ở phần giữa hai đồi lượng sóng, nằm
xen lẫn với các loại đất xám khác.
Việc sử dụng đất xám mùn tùy thuộc vào mức độ ngập nước để sử dụng
trồng lúa 1 vụ, hoa màu hoặc cao su. Trong quá trình sử dụng cần chú ý thiết kế
hệ thố
ng tiêu nước để trồng màu và cây công nghiệp, tăng cường bón vôi, cân
đối đạm, lân, kali.
* Đất xám gley và đất xám đọng mùn gley:


- Diện tích đất xám gley 10.145 ha.
- Diện tích đất xám đọng mùn gley 6.025 ha.
Cả hai loại đất này phân bố ở những địa hình thấp, xen lẫn với những
loại đất xám khác nhất là đất xám mùn và đất xám có tầng kết von đá ong.
Việc sử dụng hai loại đất này tương tự nhau, có thể trồng lúa 1-2 vụ, hoặc
có thể trồng thêm 1 vụ hoa màu như khoai lang, đậu nành nếu được tiêu nước
tốt. Nên bón nhiều vôi (2-4 tấn/ha), phosphorit, apatit kế
t hợp làm cỏ, sục bùn
để hạn chế tác hại của gley.
d/ Đất đỏ vàng
: Gồm có 3 loại: i) Đất đỏ nâu bazan; ii) Đất vàng đỏ
granit; iii) Đất vàng đỏ đá phiến. Chúng được phân bố và sử dụng như sau:
* Đất đỏ nâu trên bazan:
Diện tích 3.970 ha. Xuất hiện trên các mỏm đồi,
ở gần biên giới Cămpuchia được rừng che phủ.
Việc sử dụng loại đất này cần được chú ý để trồng các loại cây có giá trị
kinh tế cao như cafe, tiêu, cacao, cao su Trong quá trình sử dụng cần chú ý

7

chống hạn, xen canh cây ngắn ngày để phủ đất, bón vôi, super lân và kali để cân
đối dinh dưỡng cho cây.
* Đất đỏ vàng granit
: Diện tích 1.100 ha. Xuất hiện ở các vùng đất đồi
dốc, cây rừng còn che phủ. Phân bố chủ yếu ở núi Bà Đen, huyện Hòa Thành.
Hiện tại chủ yếu là rừng che phủ, một ít diện tích khoảng 100 ha được
dân khai phá trồng hoa màu, cần chú ý bón phân nhất là phân hữu cơ trong quá
trình sử dụng.
* Đất vàng đỏ đá phiến

: Diện tích 1.780 ha. Xuất hiện duy nhất trên đồi
85 ở phía nam huyện Tân Biên.Chủ yếu là cây bụi thưa, dốc và xói mòn mạnh
xuất hiện nhiều đá lộ đầu, khó cày bừa và canh tác.Vì vậy đất này ít được sử
dụng trong nông nghiệp, chỉ nên sử dụng để trồng rừng che phủ tạo môi trường
sinh thái và giữ nước.
Ở Miền Nam Việt Nam các đất xám chiếm rất nhiều diện tích ở miền
Đ
ông Nam bộ (Bình Dương, Tây Ninh, Biên Hòa).
Còn ở miền cao nguyên đất xám có nhiều ở phía Tây bắc Ban Mê Thuột và lan
mãi chiếm các bực thềm phù sa cổ sinh của hệ thống sông ngòi của vùng này.
Trước đây, năng suất lúa trên đất bạc màu rất thấp, nhưng hiện nay lại
khác. Những tính chất "nghèo, chua, khô, rắn" dần dần được cải thiện Ở Đông
Nam Bộ, rải rác một số nơi ở Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, người dân
bi
ết rõ mặt mạnh, mặt yếu, từ đó cải tạo lớp đất mặt, tăng lượng hữu cơ và các
chất dinh dưỡng khác như: đạm, lân và kali đi đôi với áp dụng giống mới. Do
địa hình cao, đất nhẹ, dễ thoát nước nên cũng dễ tăng vụ, dễ đưa các cây trồng
khác vào, hiệu quả kinh tế cao hơn lúa.
Theo TS. Nguyễn Thanh Phương, Viện KHKT nông nghiệp Duyên hải
Nam Trung bộ, kế
t quả từ mô hình đậu phộng xen mì thực hiện ở xã Cát Hiệp
và Cát Lâm mở ra triển vọng tăng hiệu quả kinh tế cho các vùng đất xám bạc
màu trong tỉnh. Với mô hình trên, khi áp dụng vào sản xuất không những nâng
cao hiệu quả sử dụng đất mà còn góp phần bảo vệ tài nguyên đất, giúp quá trình
canh tác bền vững hơn.
Theo Sở NN & PTNT Tây Ninh : Nhằm sử dụng hợp lý và nâng cao
hiệu quả sử dụng đất lúa vùng tưới Dầ
u Tiếng, Sở Nông nghiệp đã điều chỉnh,
tổ chức sản xuất nông nghiệp dự kiến chuyển đổi theo hướng như sau:
- Sản xuất lúa: mặc dù được đánh giá là kém lợi thế về sản xuất nhưng lúa

vẫn còn là cây trồng truyền thống, đảm bảo cuộc sống cho phần lớn hộ nông
dân chỉ có đất ruộng, do vậy, vẫn duy trì một cơ cấu di
ện tích hợp lý đất lúa;
tiếp tục duy trì công tác khuyến nông, nhất là các biện pháp: “ 3 giảm, 3 tăng”
để nâng cao năng suất, giảm chi phí, cải thịên thu nhập cho nông dân. Cần có
chính sách hỗ trợ để đưa cơ giới vào các khâu canh tác, nhất là thu hoạch lúa
nhằm giảm căng thẳng về lao động và giảm chi phí sản xuất.
- Sản xuất bắp: lợi thế là có thị trường lớn, hiện tại trên địa bàn tỉnh, bắp
đượ
c trồng trên đất ruộng có tưới luân canh với lúa tập trung ở 03 huyện Dương

8

Minh Châu, Gò Dầu, Trảng Bàng; trong tương lai diện tích bắp có thể mở rộng
đến các huyện Châu Thành và Tân Biên.
- Sản xuất lạc: là cây trồng truyền thống của tỉnh, diện tích cao nhất đạt
được (năm 1995) là 41.200 ha. Tuy nhiên sản phẩm lạc nhân chủ yếu phục vụ
xuất khẩu nên quy mô sản xuất phụ thuộc vào giá cả thị trường thế giới. Ngoài ý
nghĩa kinh tế, trồng lạc còn bảo vệ và cải tạ
o đất, nhất là đất xám nên cần đầu tư
nghiên cứu về giống, kỹ thuật canh tác và cơ giới hoá để duy trì cơ cấu, diện
tích thích hợp.
- Sản xuất thuốc lá: Các Công ty nguyên liệu thuốc lá vẫn đang đầu tư
trồng thuốc lá sợi vàng ở các huyện trong cơ cấu luân canh với lúa. Để phát
triển thuốc lá ổn định cần tiếp tục củng cố hệ thống tổ
chức sản xuất, thu mua,
chế biến và tiêu thụ đã và đang được hình thành như hịện nay, thông qua hệ
thống trạm, ký hợp đồng với nông dân.
- Sản xuất mía đường: trên địa bàn Tỉnh có 3 nhà máy chế biến có công
suất hiện tại 12.500 tấn mía cây/ ngày. Để ổn định sản xuất mía đường cần thực

hiện đúng quy hoạch vùng nguyên liệu cho từng nhà máy, đảm bảo cự ly vận
chuyển ngắn nh
ất, các nhà máy và địa phương có các biện pháp kinh tế hỗ trợ
nông dân để ổn định vùng nguyên liệu; tổ chức lại sản xuất của các nhà máy để
giảm chi phí chế biến.
- Sản xuất rau thực phẩm: khi công nghiệp và đô thị phát triển nhanh thì
các vùng rau truyền thống ven đô của Tp, HCM sẽ chịu sức ép về đất đai, nguồn
nước, lao động và môi trường; do vậy Tây Ninh sẽ có cơ hội tốt
để phát triển
rau thực phẩm.
- Sản xuất hoa, cây cảnh: để phát triển hoa, cây cảnh cần ứng dụng công
nghệ cao vào sản xuất trong đó đặc biệt là công nghệ sinh học, hình thành các tổ
chức hiệp hội, đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là các nghệ nhân trong sản xuất
cây kiểng, tìm kiếm thị trường để tổ chức sản xuất xuất khẩu.
- Trồng cỏ chă
n nuôi: dự báo khi gia nhập WTO, ngành chăn nuôi nước ta
phải chuyển sang phương thức tập trung, khép kín với sự kiểm soát chặt chẽ về
thú y và an toàn vệ sinh thực phẩm, áp dụng công nghệ tiên tiến. Để đáp ứng
nhu cầu thức ăn xanh cho đại gia súc, cần dành diện tích đất thích hợp trồng
thức ăn xanh trong đó chủ yếu là chuyển từ đất trồng lúa.
- Sản xuất cây ăn trái: theo Phân viện Quy hoạch và Thiế
t kế Nông nghiệp
miền Nam chuyển đổi đất lúa sang cây ăn trái nên thực hiện ở các huyện Hoà
Thành, thị xã Tây Ninh, Dương Minh Châu có kết hợp dịch vụ du lịch.
- Nuôi trồng thuỷ sản: hiện nay, nuôi trồng thuỷ sản đang là hướng
chuyển đổi có hiệu quả ở những khu vực có điều kiện; khu vực ven sông Vàm
Cỏ Đông và một số vùng trũng thấp khác có điều kiện nuôi thuỷ
sản nước ngọt.
Để phát triển thuỷ sản cần xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đê bao an toàn
chống lũ; nghiên cưu xác định loài, giống thuỷ sản nuôi phù hợp, chuyển giao

công nghệ cho người nuôi, xây dựng cơ sở giống và chế biến, bảo quản thuỷ
sản.

9

1.1.5. Kết quả nghiên cứu về vai trò của các nguyên tố dinh dưỡng:
Trong nhiều năm qua, việc nghiên cứu đã làm nổi bật được vai trò quan
trọng của các nguyên tố đa lượng (N, P, K) trong việc nâng cao năng suất cây
trồng. Tuy nhiên, các nguyên tố trung lượng (Ca, Mg, S), đặc biệt là các
nguyên tố vi lượng, mặc dù là một bộ phận không thể tách rời trong dinh
dưỡng cây trồng nhưng hầu như ít được quan tâm nghiên cứu nhiều.
Các nghiên cứu về đ
a lượng và vi lượng chủ yếu thông qua các thí
nghiệm phun hoặc bón phân cho cây trồng, sau đó theo dõi tình hình sinh
trưởng và năng suất. Như vậy, các nghiên cứu chủ yếu mang tính thăm dò –
thông qua phản ứng của cây trồng mà chưa đi từ cơ sở cơ bản – đó là hàm
lượng các nguyên tố dinh dưỡng đa, trung, vi lượng có trong đất. Cho đến
nay, có rất ít khảo sát, nghiên cứu về tính trạng vi lượng trong đất, đặc biệt
trên địa bàn đất c
ủa Trung tâm sản xuất thực nghiệm giống Trảng Bàng – Tây
Ninh thì hầu như chưa có một nghiên cứu nào về vấn đề này. Có thể nêu một
số nguyên nhân chính của sự bất cập đó như sau:
a) Trước đây, trong cơ chế cũ, vấn đề đáp ứng phân đa lượng gặp trở ngại
lớn đến mức nhiều nhà sản xuất - nghiên cứu - quản lý cho rằng trong khi
ch
ưa đáp ứng đủ đa lượng thì đừng vội nghĩ đến trung, vi lượng.
b) Vấn đề nghiên cứu trung lượng, đặc biệt là vi lượng bản thân nó cũng gặp
khó khăn thực sự do giá phân tích mẫu quá đắt.
c) Các giống sử dụng chưa phải là giống tiềm năng năng suất cao, giống lai
vì vậy nhu cầu trung - vi lượng chưa cao.

d) Chúng ta quá chú trọng đến năng suất t
ối đa mà chưa quan tâm nhiều đến
vấn đề chất lượng sản phẩm.
Biểu hiện rối loạn dinh dưỡng do thiếu trung và vi lượng thể hiện phổ
biến trên thực tế, một phần do nhu cầu sinh lý của các giống mới, mặt khác do
một thời gian dài khai thác tiềm năng của đất mà thiếu bổ sung các nguyên tố
này làm cho đất bị suy kiệt.
Về phương diện sinh lý thực vậ
t, các nguyên tố vi lượng mặc dù được
tiêu thụ với lượng ít hơn so với đa lượng, các nguyên tố trung, vi lượng vẫn
giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống cây trồng. Vi lượng tham gia
tạo thành các enzim, coenzim, các men xúc tác sinh học, trực tiếp hay gián
tiếp tham gia vào quá trình tổng hợp phytohocmôn, gây ảnh hưởng đến quá
trình quang hợp, trao đổi chất và vì thế các yếu tố này sẽ điều khiển quá trình
sinh trưởng cũng như tác độ
ng mạnh tới năng suất của cây trồng. Thiếu vi
lượng có thể dẫn đến hiện tượng rối loạn sinh lý, cây sinh trưởng kém, năng
suất cây trồng giảm mạnh. Việc thiếu nguyên tố Bo làm cho hạt phấn và vòi
phấn phát triển kém, quá trình thụ tinh xảy ra không hoàn chỉnh, phôi phát
triển kém và vì thế năng suất cây trồng giảm là điều dễ hiểu. Theo nhiều tài
liệu sơ bộ, bội thu do sử dụng vi lượng có thể đạt 25 - 35% so với đối chứng
không dùng vi lượng. Thậm chí trong một số trường hợp cá biệt, chỉ cần phun
vi lượng 1 lần cho 1 chu kỳ sinh trưởng có thể cho bội thu năng suất trên 50%.

10

Đối với các nguyên tố trung lượng, hiện tượng thiếu canxi (Ca) trên đất
chua cũng có thể làm cho cây phát triển kém. Đặc biệt đối với cây ăn trái, cây
lấy dầu nếu thiếu Ca, tỷ lệ rụng quả sẽ cao, thành quả mềm, dễ bị tổn thương,
độ axít cao và chất lượng quả thường thấp. Ngược lại với yếu tố Ca, với vùng

đất xám bạc màu như ở tỉnh Tây Ninh, trong nhiều tr
ường hợp nguyên tố lưu
huỳnh (S) có thể trở nên độc đối với cây trồng. Tiếc rằng trên thực tế, bất chấp
những nhận định này, nhiều phân bón chứhi a lưu huỳnh (thông thường có
cộng thêm 13 S) đang được bán nhiều ở tỉnh Tây Ninh. Việc này không những
gây lãng phí mà còn có khả năng phản tác dụng gây độc vì một phần không
nhỏ đất ở tỉnh Tây Ninh là đất chua.
Vai trò của nguyên tố trung lượ
ng Mg đối với năng suất và chất lượng
nông phẩm cũng cần phải được đánh giá đúng mức. Xác định rõ vai trò của
Mg và Ca đối với từng loại đất sẽ giúp quyết định được nên chọn loại phân lân
nung chảy (Thermophosphate) chứa nhiều Mg hay super lân chứa ít Mg để có
thể đạt hiệu quả đầu tư cao nhất.
Đã đến lúc phải xem xét vấn đề trung, vi lượng như một bộ
phận cấu
thành quan trọng trong giải pháp tổng thể nâng cao năng suất cây trồng, phát
huy tối đa tiềm năng của đất.
Sử dụng phân bón cho cây lạc:
• Bón phân cho lạc là yếu tố kỹ thuật quan trọng để cây lạc cho năng suất
cao. Để bón phân cho lạc, cần xác định thời kỳ bón thích hợp, lượng
phân, dạng phân bón và cân đối các yếu tố dinh dưỡng để tạo điều kiện
tốt nhất cho cây lạc hấp thu dinh dưỡng, sinh trưởng và phát triển, cho
năng suất cao.
• Phân chuồng: Là yếu tố kỹ thuật không thể thiếu để có được năng suất
trong trồng lạc. Lượng phân chuồng bón cho lạc trong khoảng 8-12
tấn/ha. Phân chuồng bao gồm phân gia súc và chất độn chuồng cần được
ủ thật hoai mục, tốt nhất là chuẩn bị trước khi gieo 1 tháng.
Dùng toàn bộ phân chuồng để bón lót. Bón theo hàng trước khi gieo hạ
t.
Nếu phân chuồng thật hoai mục, có thể bón trực tiếp vào hạt.

• Phân đạm vô cơ: Nên dùng phân đạm vô cơ để bón lót vào 2 thời điểm:
sau gieo 15 ngày (khi lạc có 2-3 lá kép) và khi lạc ra hoa.
Bón phân đạm cho lạc đòi hỏi hết sức thận trọng. Nếu bón không đúng kỹ thuật,
đôi khi dẫn đến giảm năng suất do hiện tượng lạc lốp đổ. Chỉ bón đạm vô cơ
cho những trường hợ
p sau:
- Lượng phân chuồng bón lót không đủ, đất xấu, thiếu dinh dưỡng.
- Cây sinh trưởng kém, có biểu hiện thiếu đạm. Bộ rễ lạc tạo nốt sần
kém, lượng đạm cố định do vi khuẩn cung cấp cho cây ít.

11

- Bón đạm vô cơ trên cơ sở bón lân, kali và bón vôi đầy đủ, tạo sự cân
đối trong dinh dưỡng khoáng. Lượng phân đạm vô cơ có thể bón tối đa tới 40kg
đạm nguyên chất cho 1ha.
Phân lân
• Lượng lân (P
2
O
5
) bón cho lạc khoảng 40-60kg/ha. Tất cả các dạng lân
đều có tác dụng tốt đối với lạc. Các loại lân khó tiêu như apatit,
tecmophotphat thì nên ủ với phân chuồng để tăng lượng dễ tiêu và chỉ
dùng để bón lót, còn super lân có thể bón trực tiếp (bón thúc) cho lạc.
Thời kỳ bón thúc lân cũng trùng với thời kỳ bón đạm vô cơ (khi cây lạc 2-3 lá
và thời kỳ ra hoa). Lượng lân nên dùng 50% để bón lót và bón thúc 50% (bằng
super lân).
Phân kali
• Bón kali (K
2

O) cho lạc phát huy tác dụng tốt trên các loại đất bạc màu,
đất nghèo dinh dưỡng. Dạng kali sulphat hay kali clorua đều tốt đối với
cây lạc. Lượng bón cho 1ha là 40-60kg K
2
O. Nên ủ kali cùng phân
chuồng để bón cho lạc. Nhiều nơi dùng tro bếp thay kali để bón cho lạc
cũng rất tốt vì hàm lượng kali trong tro khá cao.
Hiệu quả của kali đối với lạc thường thấp hơn lân, song việc bón kali cho lạc để
có năng suất cao là điều cần thiết.
Bón vôi
• Bón vôi cho lạc vừa nâng pH đất, cải tạo những vùng đất chua đồng thời
cung cấp canxi cho cây. Bón vôi cho lạc đem lại hiệu quả
tăng năng suất
trên tất cả các loại đất. Vôi được bón với lượng 600-800 kg/ha chia làm 2
lần, bón lót 50% và bón thúc vào thời kỳ ra hoa rộ.
• Phân vi lượng: Lạc rất cần những nguyên tố vi lượng như Mo, Bo, Cu,
Mg. Không nên bón riêng rẽ từng nguyên tố vi lượng mà dùng phân vi
lượng hỗn hợp để bón, như vậy sẽ hiệu quả hơn do có tác dụng hỗ trợ của
các nguyên tố, làm cho hiệu quả sử dụng phân tă
ng.
Phân vi lượng thường dùng dưới dạng phun lên lá, bón vào thời kỳ 5-6 lá, thời
kỳ ra hoa rộ và phát triển quả.
o Phân vi sinh: Phân vi sinh Nitrazin được sản xuất từ những chủng vi
khuẩn có hoạt tính cố định đạm cao, bằng cách nhân và cố định chúng
trong than bùn để sử dụng làm phân bón cho lạc. Phân vi sinh có tác dụng
tốt đối với lạc trên các loại đất mới khai phá chưa trồng lạc, đất chua, đất
bạc màu.
Hiện nay việc s
ử dụng phân vi sinh cho lạc chưa nhiều vì bà con chưa quen
dùng. Việc dùng phân vi sinh không những có tác dụng làm tăng hiệu quả sử

dụng các loại phân vô cơ, tăng năng suất lạc, mà còn làm tăng cấu tượng đất,
tăng hàm lượng các chất dễ tiêu, tạo điều kiện dinh dưỡng tốt cho cây trồng ở
vụ kế tiếp.

12

1.1.6. Mối quan hệ đất – cây và các kết quả nghiên cứu về dinh dưỡng:
• Giữa đất và cây trồng có mối quan hệ rất chặt chẽ, việc phân tích, khảo
sát đánh giá chất lượng đất để quy hoạch phát triển cho mỗi loại cây trồng
là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng tốt nhu cầu dinh dưỡng cho cây và khai
thác tốt lợi thế về độ màu mỡ của đất. Vì vậy có th
ể nói rằng “đất nào –
cây ấy”.
• Để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho mỗi loại cây chúng ta phải biết được
khả năng cung cấp dinh dưỡng của đất cho cây (đất tốt – xấu…), yêu cầu
dinh dưỡng của mỗi loại cây từ đó nghiên cứu xây dựng quy trình bón
phân thích hợp, cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
• Trong nhiều năm qua, nhiều nghiên cứu đã làm nổi bật được vai trò c
ủa
các nguyên tố N,P,K trong việc nâng cao năng suất cây trồng. Tuy nhiên
các nguyên tố trung lượng Ca, Mg, S và đặc biệt là các nguyên tố vi
lượng mặc dù là một bộ phận không thể tách rời trong dinh dưỡng cây
trồng nhưng hầu như ít được quan tâm nghiên cứu. Các nghiên cứu về
trung, vi lượng chủ yếu thông qua các thí nghiệm phun hoặc bón vào đất
sau đó theo dõi tình hình sinh trưởng và năng suất. Như vậy các nghiên
cứu chủ yếu mang tính thăm dò thông qua phản ứng của cây trồng mà
chưa đi từ nghiên cứu cơ bản – đó là thực trạng của chúng có ở trong đất.
• Nguyễn Thị Liên Hoa và CTV (1995 – 1998) đã nghiên cứu thành công
phân ACA (N,P,K, Mg, Ca, Bo…) chuyên dùng cho cây lạc thay thế tro
dừa đã làm tăng năng suất lạc 30-36% so với đ/c không bón phân, tăng 1-

5% năng suất và tăng hàm lượng dầu từ 1,5 – 3% so với bón tro dừa
nguyên chất, đồng thời chi phí bón phân ACA thấp hơn 24% so với bón
tro dừa nguyên chất và giá thành sản xuất 1 kg lạ
c vỏ sử dụng phân ACA
thấp hơn so với sử dụng tro dừa là 10% đã được Bộ NN & PTNT cho
phép sản xuất và được nông dân chấp nhận.
• Nguyễn Thị Liên Hoa, Ngô Thị Lam Giang và ctv (1999-2004) đã nghiên
cứu xây dựng mô hình thâm canh cây lạc trên đất xám (Acrisols) ở Đông
Nam bộ cho thấy việc sử dụng màng phủ PE + phân ACA + vôi + phân
chuồng đã cho năng suất vượt đối chứng của nông dân 25%, chi phí đầu
tư thấp hơn 10% và giá thành sả
n xuất 1 kg lạc vở giảm 29%, đồng thời
làm tăng 7% khối lượng 100 hạt, tăng 5% tỷ lệ hạt chắc, 5% tỷ lệ nhân,
tăng 29% số trái/bụi.
• Diệp Thị Mỹ Hạnh, Nguyễn Thị Liên Hoa và ctv (1987-1999) nghiên cứu
bón phân cho Dừa trên đất phèn Thủ đức – TPHCM (dừa Dâu) và Bến
Lức – Long An (dừa lai PB121), cho thấy: N và P dạng thiên nhiên có
ảnh hưởng rõ đến chu vi cổ thân, số lá mọc thêm, tỷ lệ ra hoa và hàm
lượ
ng dinh dưỡng tập trung trong lá. Kali chưa thấy có ảnh hưởng trong
2-5 năm đầu.
Viện nghiên cứu Dầu và Cây có dầu đã nghiên cứu đưa ra công thức bón
phân thích hợp cho cây dừa Dâu thời kỳ kiến thiết cơ bản trên vùng đất phèn

13

nhiễm mặn nhẹ Thủ Đức (Nguyễn Thị Liên Hoa, 1982), trong đó đưa ra lượng
phân/cây/năm từ năm thứ 5 trở đi: (0,7 kg Urê + 2,0 kg Super lân + 0,5 kg
KCl)/cây/năm. Đối với dừa Ta, Dâu địa phương vào thời kỳ cho trái ổn định,
liều lượng phân bón thích hợp là: (0,8 kg Urê + 1,2 kg Super lân + 0,8 kg

KCl)/cây/năm tại xã Lương Hòa và Hưng Phong, cho năng suất tăng gấp 30-
50% so với bón phân theo kinh nghiệm của nông dân (Phạm Thị Lan, 2004).
Lượng phân N và K
2
O thích hợp cho cây dừa lai PB121 thời kỳ kiến thiết cơ
bản trên vùng đất phèn Bến Lức- Long An (Diệp Thị Mỹ Hạnh, 1999), trong đó
đã nghiên cứu lượng phân N (dùng Ure) và K
2
O (dùng KCl) thích hợp cho cây
dừa lai từ năm thứ 1 đến năm thứ 4 (năm thứ 4 với lượng phân bón/cây/năm là:
1,0 kg Urê + 1,5 kg Super lân + 0,8 kg KCl). Kết quả điều tra khảo sát tình hình
bón phân cho cây dừa Ta, Dâu đang ra trái tại xã Lương Hòa-Giồng Trôm-Bến
Tre, cho thấy, 50% số hộ nông dân không bón phân, 50% còn lại có bón phân
cho cây dừa, song lượng phân bón không ổn định (tùy theo điều kiện kinh tế và
giá cả của trái dừa). Khi bón, loại phân được dùng chủ yếu là NPK (16:16:8)
với liều lượ
ng 1,0 kg /cây/năm, năng suất giao động từ 35-50trái/cây/năm. (Lưu
Quốc Thắng, 2005).
Năm 2003-2004, kết quả điều tra tại huyện Hoài Nhơn - Bình Định cho
thấy 85% số hộ nông dân không bón phân cho cây dừa, năng suất trung bình chỉ
đạt từ 25-30 trái/cây/năm (Phạm Thị Lan, 2004).
Cây Lạc thích ứng với khí hậu bán khô hạn hoặc bán ẩm ướt, với lượng
mưa khoảng 500-1200 mm/năm. Cây lạc ưa đất nhẹ, t
ơi xốp, từ cát pha thịt đến
thịt pha cát. Giới hạn pH thích hợp là 5,5-6,5.
Nhu cầu dinh dưỡng cây lạc rất lớn, nhất là đạm. Tuy nhiên, trên thực tế,
nhu cầu bón đạm cho cây lại rất thấp. Do cây có vi khuẩn cộng sinh trong nốt
sần ở rễ, có khả năng đồng hóa được đạm khí trời để cung cấp cho cây. Nếu sản
lượng thu hoạch khoảng 3 tấn quả (củ)/ha, cây lạc lấy đi cho c
ả quả và thân lá là

192 kg N, 48 kg P
2
O
5
, 80 kg K
2
O, 79 kg CaO/ha. Ngoài ra, cây còn cần rất
nhiều các nguyên tố trung lượng và vi lượng khác như magiê, lưu huỳnh, đồng,
kẽm, bo, molypđen, mangan, sắt v.v Như vậy, nếu xét về tỷ lệ phân bón đa
lượng cho cây, thì lạc có nhu cầu tỷ lệ N:P
2
O
5
:K
2
O là xấp xỉ 4-1-2. Tuy nhiên,
trên thực tế, bón phân cho lạc thì lượng đạm cần bón được hạ thấp rất nhiều, do
đặc điểm tự tổng hợp đạm khí trời nhờ vi khuẩn cộng sinh. Lượng canxi cây cần
và lấy đi từ đất cũng tương đương lượng kali, do vậy, cần chú ý đặc điểm này.
Theo một số tài liệu, lượng magiê cây hút cũng tương đương hoặc cao hơn
l
ượng canxi. Ngoài ra, cây lạc cũng rất cần lưu huỳnh như những cây lấy dầu
khác.
Sử dụng phân bón cho lạc: Vôi là một yếu tố quan trọng trong phân bón
cho cây lạc, nếu pH đất thấp, thì nên bón vôi bằng cách rải trên ruộng và cày
bừa để trộn vào đất trước khi trồng ít nhất 10 ngày. Đối với phân đạm, chỉ nên
bón lượng cao, khi không hy vọng có đủ số lượng nốt sần cần thiết. Lân và kali
luôn luôn là 2 nguyên tố
cần thiết cho cây họ đậu, nhưng thường ở đất tốt thì


14

hiệu lực của 2 nguyên tố này không rõ. Ngược lại, ở những đất có độ phì thấp,
thì hiệu lực của 2 nguyên tố này rất rõ, nhất là đất có độ cố định lân cao.
Ở Việt Nam, cây lạc thường được trồng ở những chân đất rất xấu, phần
lớn là đất xám và xám bạc màu do vậy, ngoài các loại phân bón chính, nông dân
thường phải bắt buộc bón "Tro dừa" như là phần thay thế cho một số
nguyên tố
vi lượng quan trọng mà đất thiếu. Lượng phân bón khuyến cáo dùng ở Việt
Nam là:
- Phân chuồng: 8-12 tấn /ha (ở miền Bắc).
- Tro dừa: 1,5-2 tấn /ha (ở miền Đông Nam bộ).
- Vôi bột: 300-500 kg/ha.
- Phân đạm: 30-40 kg N/ha.
- Phân lân: 40-60 kg P
2
O
5
/ha.
- Phân kali: 40-60 kg K
2
O/ha.
Chú ý, toàn bộ lượng phân đạm cho cây lạc nói trên, nên dùng ở dạng
phân SA, vì có như vậy mới cung cấp đồng thời cho cây lượng dinh dưỡng lưu
huỳnh cần thiết. Nên dùng toàn bộ lượng phân lân nung chảy. Về phân vi lượng,
các cây họ đậu nói chung thường rất cần molypđen, bo và đồng. Các loại phân
này thường được dùng dưới dạng vi lượng tổng hợp để phun lên lá hoặc xử lý
hạt là kinh tế nhất. Hiện Xí nghiệp Phân bón Chánh Hưng
đã sản xuất phân
chuyên NPK "Con ó đen” cho cây lạc, có thể kết hợp dùng phân đơn theo liều

lượng trên kết hợp với việc bón vôi, tro dừa và các loại phân vi lượng bổ sung
nếu cần. (Nguồn:Nông nghiệp Việt Nam, ngày 10/12/2003, Số 246 (1788), tr.11)
Phân bón cho Vừng: Theo kết quả nghiên cứu của TS Ngô Thị Lam
Giang và ctv, 2006, cho thấy: Phân Đạm làm tăng năng suất vừng 1 cách rõ rệt,
bón đến 135 kg N vẫn còn có tác dụng làm tăng năng suất (đạt 1,27 t
ấn/ha) so
với không bón đạm (đạt 0,83 tấn/ha). Lân và kali không có ảnh hưởng rõ rệt đến
năng suất, công thức bón phân cho năng suất cao là 135 N- 0 P
2
0
5
– 30 K
2
0 ,
135 N – 30 P
2
0
5
– 60 K
2
0 và 135 N- 60 P
2
0
5
– 0 K
2
0/ha đạt năng suất từ 1,28 –
1,39 tấn/ha. Lượng phân khuyến cáo đưa vào quy trình kỹ thuật canh tác vừng
là 50 N – 60 P
2

0
5
– 60 K
2
0/ha.
Theo KS Đào Ngọc Hải, 2006, phun phân bón lá 16-16-8 hai lần vào 15
và 30 ngày sau gieo cho vừng đạt năng suất cao hơn đối chứng không phun 0,19
tấn/ha có ý nghĩa so sánh.
Hiện nay, theo www.agroviet.com khuyến cáo bón phân cho vừng như
sau: Vôi bột: 400kg/ha (bón trước khi cày bừa) + Phân chuồng: 4-5 tấn/ha +
Phân NPK 500 kg/ha loại 3:9:6. Tất cả các loại phân này đều bón lót vào lần
cày bừa cuối cùng (đối với đất không cày thì bón trước khi bừa). Riêng đất quá
xấu bón thúc 2kg urê/sào khi vừng 2-3 lá. Tùy theo đất tốt hay xấu mà ta đầu tư
phân bón nhiều hay ít, nhưng ph
ải cân đối theo tỷ lệ 1 đạm 1 lân và 1 kali
(1:1:1). Mức bón 45N + 45 P
2
0
5
+ 45 K
2
0/ha.
1.1.7. Thực trạng đất canh tác ở Trảng Bàng:

15

- Đất tại Trung tâm Sản xuất giống Trảng Bàng – Tây Ninh chủ yếu là đất
xám bạc màu (Haplic Acrisol), đất xấu (chua, nghèo chất hữu cơ, N, P, K, Ca,
Mg…), kết cấu kém, theo số liệu phân tích (04 mẫu đất) của Trường Đại học
Nông Lâm TP HCM năm 2002 - 2003 cho thấy pH

KCL
= 3,94 - 4,01; N tổng số =
0,03 – 0,04%; lân tổng số = 0,021 – 0,023%; lân dễ tiêu = 0,9 – 2,6 mg/100g
đất; kaili tổng số = 0,006 – 0,13%; kali dễ tiêu = 0,4 -0,5 mg/100g đất; mùn =
0,4 - 0,6%; Ca = 0,2 - 0,4 meq/100g đất; Mg > 0,1 meq/100g đất,v.v…
- Các nghiên cứu về cây có dầu (lạc, đậu tương, vừng, dừa …) trên đất xám
tại Trung tâm Sản xuất giống Trảng Bàng – Tây Ninh chưa thấy ghi nhận về đặc
điểm dinh dưỡng đất nghiên cứu.
- Chưa đánh giá được hàm lượng dinh dưỡng ở các lô đang sản xuất tại
Trung tâm.
- Chư
a có nghiên cứu xây dựng quy trình bón phân thích hợp cho các loại
cây có dầu.
- Năm 2007 đã được Bộ Công Thương đầu tư xây dựng được 720m kênh
tưới cấp 1 có khả năng đáp ứng nhu cầu nước cho các loại cây có dầu theo
hướng thâm canh.
- Định hướng nghiên cứu xây dựng các mô hình Nông – Công nghiệp công
nghệ cao nhằm gia tăng thu nhập trên/ha hàng năm theo quyết định số
2540/QĐ-TCCB ngày 01/11/2001 về việc thành lập Trung tâm Sản xuất giống
Trảng Bàng c
ủa Bộ trưởng Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), trong đó
có giao cho Trung tâm nhiệm vụ “Liên kết với các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước, tiếp nhận kỹ thuật mới và nguồn vốn đầu tư để xây dựng
Trung tâm thành khu nông công nghiệp công nghệ cao”.
- Từng bước quy hoạch các khu trồng các loại cây có dầu thích hợp trên cơ
sở đặc điểm dinh dưỡng đất các lô.
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Đất hiệ
n đang được nhìn nhận là hợp phần mấu chốt của môi trường, nó
có thể dễ dàng hủy hoại và mất đi. Đất còn được coi là nguồn tài nguyên có hạn.

Các nhà khoa học đất ở thế kỷ XXI đã và đang cùng với các nhà khoa học khác
xây dựng các thể chế để chống lại sự hủy hoại đất và nêu cao vai trò của đất
trong phạm vi môi trường toàn cầu. Theo Oguike, PC; Chukwu GO và Njoku
NC thuộc Đại học Nông nghiệp Umudike và Việ
n nghiên cứu nông nghiệp
Umudike - Nigeria nghiên cứu cho thấy:
Nghiên cứu hiệu quả của chất thải xay lúa (rice mill waste - RMW) kết
hợp có bón hoặc không bón NPK theo tỷ lệ 15:15:15 đã có ảnh hưởng đến một
số tính chất hóa học của đất xám (Haplic Acrisol) vùng Umudike, Đông Nam
Nigeria. Các thử nghiệm bao gồm 10 công thức (20, 10, 5 và 2,5 tấn RMW/ha
kết hợp với 200 hoặc 400 kg/ha NPK, 30 tấn RMW/ha, 400 kg NPK/ha NPK và
đối chứng). Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp khối đầy đủ ngẫu nhiên
hoàn toàn với 3 lần lặp lại. Kết quả cho thấy bón RMW 30 tấn/ha đã có tác
dụng làm tăng lân tổng số. Tương tự, công thức bón kết hợp 20 tấn RMW/ha +

16

NPK tại 200-400 kg/ha và bón 30 tấn RMW/ha đã làm tăng đáng kể hàm lượng
chất hữu cơ (OM) điều này cho thấy tiềm năng của RMW trong việc cải thiện lý
hoá tính của đất nghèo dinh dưỡng như đất xám.
Theo SN Sharma; R. Prasad; MK Dwivedi; Sandeep Kumar; MR
Davari và Moola Ram thuộc Viện Nghiên cứu Nông nghiệp New Delhi, Ấn Độ
đã nghiên cứu trong ba năm (2001 đến 2004) để tìm hiểu tác dụng của hệ thống
canh tác và ảnh hưởng của chúng đến tính chất hóa học và đặc tính sinh học của
đất. Kết quả cho thấy hệ thống canh tác: Lúa - khoai tây – đậu xanh đã cho
năng suất cao hơn so với đối chứng 59-89%, sản lượng tăng 18-38% và hàm
lượng lân trong đất tăng 7-16% cao hơn so với hệ
thống canh tác lúa - lúa mì.
Tương tự hệ thống canh tác lúa - cải dầu –
đậu xanh cũng đã cho kết quả năng suất cao hơn 12-15%, sản lượng tăng 19-

26% và hàm lượng lân trong đất tăng 11-18% cao hơn so với hệ thống canh tác
lúa – lúa.
Theo Majid Gholamhoseini; Amir Ghalavand ; Aria Dolatabadian ; Ehsan
Jamshidi; Aydin Khodaei Joghan thuộc Trường Đại học Tarbiat Modares,
Tehran, Cộng hòa Hồi giáo Iran đã nghiên cứu chế độ phân bón hợp lý cho cây
hướng dương để đạt được năng suất cao và bền vững theo các chế
độ tưới tiêu
khác nhau. Mục tiêu của nghiên cứu này là nghiên cứu quản lý phân bón tổng
hợp được tiến hành trong thời gian 2005-2006 để đánh giá tác động của phân
urê đến một số đặc điểm của cây hướng dương dưới các chế độ tưới tiêu khác
nhau. Các kết quả đã chứng minh rằng các chế độ tưới tiêu khác nhau có tác
dụng đáng kể làm tăng sản lượng hạt giống, vật chất khô, hàm lượng di
ệp lục,
chỉ số diện tích lá (LAI) và sản lượng dầu. Nhưng các yếu tố về chất lượng hạt
giống đã không bị ảnh hưởng bởi các chế độ tưới tiêu. Các tác giả đã đề xuất
liều lượng tốt nhất là cung cấp 80 kg N/ha dạng urê và 50 kg N/ha phân kết hợp
với 15% khoáng Zeolite.
Phân bón đã được xác định là 1 yếu tố quan trọng làm ảnh hưởng tới năng
suất cây trồng. Năm 1999 tại Đài Loan, Trung tâm kỹ thuật bón phân cho cây
lương thực đã đưa ra các mức khuyến cáo để đánh giá tình trạng dinh dưỡng
(đa, trung, vi lượng) ở trong đất, trong cây và ảnh hưởng của chúng tới năng
suất cây trồng. H
ầu hết các quốc gia Châu Á đã tái khẳng định rằng việc thiếu
hụt hàm lượng dinh dưỡng ở trong đất là 1 trong những yếu tố làm giảm năng
suất cây trồng khu vực Châu Á. Việc nghiên cứu, nhận dạng tình trạng thiếu hụt
dinh dưỡng trong mối quan hệ đất – cây trồng là một việc làm rất cần thiết để
nâng cao tiềm năng của đất.
Trung và vi lượng từ lâu đã được kh
ẳng định là một yếu tố quan trọng
ảnh hưởng tới năng suất cây trồng. Ở Fiji, trong cuốn “Hướng dẫn đánh giá các

kết quả phân tích các mẫu đất nông nghiệp” đã đưa ra các ngưỡng đánh giá
trung, vi lượng trong đất và trong cây cho phần lớn các cây trồng nhiệt đới.
Trung tâm kỹ thuật bón phân cho cây lương thực ở Châu Á cũng đã đưa ra các
thang khuyến cáo đánh giá tình trạng trung, vi lượng trong đất. Chỉ riêng ở châu
Á, n
ăm 1999, tại Đài Loan đã có một cuộc hội thảo quốc tế lớn về vi lượng đối

17

với cây trồng. Tại hội nghị này, các báo cáo của các quốc gia Châu Á đã tái
khẳng định rằng thiếu hụt vi lượng là một trong những yếu tố giảm năng suất
cây trồng ở vùng châu Á và nghiên cứu , nhận dạng tình trạng thiếu hụt vi lượng
trong mối quan hệ đất – cây trồng là một việc làm rất cần thiết để nâng cao tiềm
năng của đất.
Cây lạc (Arachis hypogaea L.
) là cây lấy dầu và dùng làm thực phẩm khá
phổ biến ở trên thế giới và được trồng ở 115 nước. Trung bình một vụ cây lạc
lấy đi của đất 112 kg N + 27 kg P
2
0
5
+ 34 kg K
2
0/ha. Tại bang Andhra Pradesh -
Ấn Độ đã khuyến cáo bón phân cho lạc trong điều kiện trồng lạc có tưới là : 30
kg N + 60 kg P
2
0
5
+ 45 kg K

2
0/ha và trong điều kiện trồng lạc nhờ nước trời là:
20 kg N + 40 kg P
2
0
5
+ 20 kg K
2
0/ha. Theo nghiên cứu của Ấn Độ, đất trồng lạc
có pH > 8 hoặc pH < 6 là không thích hợp cho trồng lạc (theo www.
Ikisan.com).
Ngoài Đạm, Lân, Kali rất cần thiết cho sinh trưởng, phát triển và tăng năng
suất lạc, các nguyên tố Canxi, Lưu huỳnh, Magiê, Bo, Sắt, Đồng, Mangan,
Molipđen… đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc làm tăng năng suất lạc.
Tùy thuộc vào điều kiện đất của mỗi nơi, để khắc phục tình tr
ạng thiếu hụt các
nguyên tố dinh dưỡng trung lượng, vi lượng, nhiều kết quả nghiên cứu đã
khuyến cáo liều lượng bón và phun thích hợp cho cây lạc như sau:
- Canxi và Lưu huỳnh: Bón 250 -500 kg CaSO
4
.2H
2
O/ha ở độ sâu 0 – 5 cm
trong vùng hình thành củ, có tác dụng cung cấp được 24% CaO + 18,6% S/ha
cho cây;
- Magiê: Phun qua lá 1% MgS0
4
.7H
2
O;

- Sắt: Bón 10 kg FeS0
4
.7H
2
O/ha hoặc phun qua lá FeS0
4
.7H
2
O 0,5%;
- Kẽm:Bón 15 kg ZnS0
4
.7H
2
O/ha hoặc phun qua lá 10 kg ZnS04.7H2O /ha;
- Bo: Bón 10 kg Borax/ha hoặc phun qua lá 0,1ppm Bo vào giai đoạn nở hoa;
- Đồng: Bón 2-6 kg CuS0
4
.5H
2
O /ha hoặc phun qua lá 0,1% CuS0
4
.5H
2
O /ha;
- Molipđen: Bón 1 kg Molipđat amôn hoặc phun qua lá Molipđat amôn 200
ppm trước khi nở hoa;
- Măng gan: Bón 10 kg MnS0
4
.H
2

O /ha hoặc phun qua lá 0,12 kg Mn/ha
Cây lạc ở Mỹ thường được khuyến cáo bón như sau: Bột đá vôi được rải
ra và vùi vào đất trước khi gieo hạt nếu pH 5,5 -6,0. Lân và Kali cũng được rải
ra và vùi vào đất trước khi gieo hạt với liều 45-90 kg/ha P
2
O
5
và 50-95 kg/ha
K
2
O, tùy thuộc vào số liệu phân tích đất Mg cũng được bón với liều 50 kg /ha
MgO, nếu hàm lượng thấp và nếu không được bón vôi. Thạch cao cũng được
bón lúc cây có hoa đối với giống có hạt nhỏ với mức 250-315 kg/ha CaO hay
mức thấp hơn nếu bón theo hàng hoặc băng. Liều thạch cao gấp đôi như vậy
được bón cho các giống hạt lớn bất kể hàm lượng canxi thế nào. Bo ở mức 0,6
kg/ha B (trừ khi mức Bo 0,5 mg B/kg đất) th
ường bằng con đường phun qua lá
và được chia ra giữa 2 lần phun trừ nấm đầu tiên. Đối với đạm, có thể bón thúc
với mức 30-40kg N/ha lúc cây con.

18

Cây Vừng (Sesamum indicum L.) là một trong những cây có dầu ngắn
ngày dùng để làm nguyên liệu để sản xuất các loại dầu ăn và nhiều loại hàng
thực phẩm cao cấp khác. Cây Vừng được trồng ở nhiều nước trên thế giới. Theo
Faostat 2005, trên toàn thế giới có 7,561 triệu ha vừng, năng suất bình quân đạt
8,78 tạ/ha, sản lượng đạt 3,32 triệu tấn và được trồng tập trung ở Ấn Độ v
ới
2.670.000 ha chiếm 30% tổng diện tích của thế giới. Trung Quốc cũng là một
trong những nước sản xuất vừng lớn trên thế giới với khoảng 670.000 –

1.000.000 ha/năm và đạt sản lượng 500.000 – 700.000 tấn. Ngoài ra Xu Đăng,
Myanma và Uganda cũng có diện tích vừng trên 670.000 ha. Trung Quốc là
nước có năng suất vừng cao nhất thế giới, trong đó có 4 tỉnh là Hồ Nam, An
Hụy, Hồ Bắc và Giang Tây có diện tích vừng trên 33.340 ha chiếm 78,1% diện
tích c
ủa cả nước, riêng Hồ Bắc là tỉnh đạt năng suất cao nhất 1.512 kg/ha vượt
năng suất bình quân của cả nước Trung Quốc 50,7%.
Ở Triều Tiên, những năm gần đây cây vừng cũng được xem là một trong
những cây đem lại lợi ích quan trọng nhất và đang được Nhà nước quan tâm
nghiên cứu và phát triển.
Nghiên cứu phân bón cho vừng ở Ấn Độ cho thấy: Tại Hoshangabad, Madhya
Pradesh, India lượng phân bón thích hợp cho vừ
ng là: 60 kg N: 40 kg P
2
O
5
: 20
kg K
2
O/ha (Journal of Oilseeds Research, 2005 (Vol.22) (No.1) 63-65).
Ở Thái lan, theo Laksanawadee Panpruik, Sootin Claimon và Pairoj
Panpruik (Nhóm nghiên cứu đất và phân bón cho cây trồng cạn hàng năm, Bộ
môn Khoa học đất, Bộ Nông nghiệp Thái Lan (Bangkok)) tại Hội thảo về cây
vừng ở Ubon Ratchathani (Thailand), ngày 20-22 tháng 8 năm 1996, cho thấy:
Phân bón đã có tác dụng làm tăng sinh trưởng và năng suất vừng có ý nghĩa
thống kê ở tỷ lệ 4-4-2 kg N-P
2
O
5
-K

2
O/rai và không ghi nhận được sự tương tác
giữa phân bón với 4 giống vừng MK.60, Ubonratchathani 1, MKS-I-84001,
KU.18 tham gia nghiên cứu.
Ở Úc đã nghiên cứu và khuyến cáo kỹ thuật bón phân cho 4 giống vừng:
Yori 77, Aussie Gold, Edith và Beach Choice như sau: Bón 60 kg N/ha và nhu
cầu phân bón cho vừng phụ thuộc vào độ phì của đất, thường sử dụng phân bón
lót và không cần thiết bón thúc vì hầu hết đất thịt pha cát ở Úc đã có khá đầy đủ
P, K, S, Cu, Zn và B (dẫn theo Ks. Đào Ngọc Hải).










19

CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU NĂM 2009
2.1. Điều tra xây dựng bản đồ đất
2.1.1. Điều tra, phân tích, đánh giá các tài liệu bản đồ, kết quả nghiên
cứu có liên quan.
- Thu và nghiên cứu các tài liệu về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên
nhiên có liên quan đến vùng nghiên cứu như: Địa chất, địa hình, khí hậu, thủy
văn, thực vật, các tài liệu đất trước đây, tình hình sử dụng đất, các loại cây
trồng, năng suất, sản lượ

ng
- Thu thập, nghiên cứu bản đồ nền: Bản đồ địa hình và bản đồ giải thửa.
- Tổng hợp đánh giá các tài liệu đã thu thập được, phân tích xử lý số liệu
làm cơ sở ban đầu so sánh với kết quả hiện trường.
2.1.2. Khảo sát thực địa:
- Đào, mô tả phẫu diện đất, lấy tiêu bản và mẫu đất phân tích, quan trắc
và xác định ranh giới đất. Theo Quy phạm
điều tra lập bản đồ đất tỷ lệ lớn (10
TCN 68- 84), áp dụng cho Vùng đồi lượn sóng, dốc thoải, độ dốc <10
o
, không
bị cây trồng hoặc rừng cây che phủ (vùng III
1
), số phẩu diện quan trắc và mô tả
60 phẫu diện, trong đó có 10 phẫu diện chính phân tích, 10 phẫu diện chính
không phân tích và 40 phẩu diện thăm dò. Các phẫu diện đất phân tích cần phải
đại diện cho tất cả các dạng đất, các dạng địa hình và các loại hình sử dụng đất.
- Chụp ảnh cảnh quan và hình thái phẫu diện đất. Tất cả các phẫu diện đất
nghiên cứu đều được chụp các loại
ảnh: ảnh cảnh quan, ảnh hình thái phẫu diện
đất, ảnh các loại hình sử dụng đất đại diện và các đặc trưng khác.
2.1.3. Tập hợp, kiểm tra các tài liệu, biên tập và xây dựng các tài liệu gốc
- Tập hợp, kiểm tra các tài liệu, thông tin thu thập được trong quá trình khảo
sát thực địa.
- Xây dựng bản đồ gốc đất (bản đồ dự thảo) và Xây dựng bản đồ chính thức.
-
Đo và thống kê diện tích các loại đất và Biên tập ảnh phẫu diện đất và cảnh
quan.
- Lập hồ sơ bản tả các phẫu diện đất phân tích.
2.1.4. Số hóa bản đồ đất

2.1.5. Phân tích đất
Dự kiến sẽ phân tích 6 phẫu diện đất, tương đương 24 mẫu đất. Các chỉ tiêu
phân tích:
1 pH
H2O
11 Mg
2+
trao đổi
2 pH
KCl
12 Na
+
trao đổi
3 OM (%) 13 K
+
trao đổi
4 N tổng số 14 CEC

20

5 P
2
O
5
tổng số 15 SO
4
2-

6 K
2

O tổng số 16 Al
3+

7 N dễ tiêu 17 Fe
2+
, Fe
3+

8 P dễ tiêu 18 Thành phần cơ giới (3 cấp)
9 K dễ tiêu 19 Một số nguyên tố vi lượng (Mn, Mo,Bo, Zn)
10 Ca
2+
trao đổi
2.1.6. Viết báo cáo chuyên đề Chú giải bản đồ đất
2.2. Điều tra xây dựng bản đồ hiện trạng và bản đồ đánh giá đất
Đánh giá đất đai là một nội dung làm mới, được thực hiện theo quy trình
đánh giá đất đai do Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành (10 TCN 343-98). Bao
gồm các nội dung sau:
2.2.1. Khảo sát thực địa và điều tra tình hình sử dụng đất sản xuất nông
nghiệp
- Kh
ảo sát về tình hình bố trí sản xuất nông nghiệp trên địa bàn
- Xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất
- Điều tra thu thập các thông tin về các biện pháp kỹ thuật áp dụng trong sản
xuất nông nghiệp, về đầu tư thu nhập của các loại hình sử dụng đất nông
nghiệp.
2.2.2. Xử lý thông tin, xây dựng các bản đồ gốc và viết báo cáo chuyên đề
- Tập hợp và xử lý các thông tin thu th
ập được qua khảo sát thực địa và lập
các biểu kết quả xử lý

- Thành lập các loại bản đồ đơn tính (bản đồ gốc), gồm:
Bản đồ các vùng
đất, Bản đồ độ dốc- địa hình, Bản đồ độ dày tầng đất, Bản đồ khả năng tưới,
Bản đồ thành phần cơ giới đất.
- Thành lập bản đồ tài nguyên đất đai: Chồng xếp các bản đồ đơn tính để
thành lập bản đồ tài nguyên đất đai, xác định số lượng và thống kê diện tích các
đơn vị tài nguyên đất đ
ai và lập biểu mô tả chất lượng các đơn vị đất đai.
- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất, gồm: Tập hợp thông tin và tình hình sử
dụng đất, xử lý thông tin, thành lập các biểu số liệu về cơ cấu sử dụng đất, diễn
biến sử dụng đất và hiệu quả sử dụng đất.
- Đánh giá khả năng thích nghi đất đai (TNĐĐ): L
ựa chọn các loại hình sử
dụng đất dùng cho đánh giá đất, xây dựng yêu cầu đất đai của các loại hình sử
dụng đất, xây dựng cây quyết định cho đánh giá TNĐĐ, xác định khả năng
TNĐĐ, xây dựng bản đồ đánh giá TNĐĐ và thống kê diện tích đất theo khả
năng TNĐĐ.
2.2.3. Số hóa bản đồ đơn vị tài nguyên đất và hiện trạng sử dụng đất
:
gồm số hoá các bản đồ đơn tính, bản đồ tài nguyên đất đai và bản đồ hiện trạng
sử dụng đất.

21

2.2.4. Viết báo cáo chuyên đề Đánh giá đất đai
2.3. Tổng hợp, xử lí các tư liệu, xây dựng báo cáo khoa học và tổng kết
2.3.1. Tổng hợp xây dựng các tư liệu thành phần
- Xây dựng các loại bản đồ khổ A-4, gồm: Bản đồ đất, Bản đồ hiện trạng sử
dụng đất, Bản đồ các đơn vị tài nguyên đất đai và Bản đồ đánh giá đất đai.
- Xây dựng các trang ảnh màu về cảnh quan, địa mạo, phẫu diện đất và hiện

trạng sử dụng đất loại bản đồ khổ A-4.
- Xây dựng các bảng số liệu, biểu đồ
2.3.2. Xây dựng báo cáo: Báo cáo tổng hợp về Đất, đánh giá đất và đề
xuất sử dụng tài nguyên đất Trung tâm sản xuất giống Trảng Bàng – Tây
Ninh.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU NĂM 2010

2. 4. Điều tra xây dựng bản đồ Nông hóa.
2.4.1. Điều tra, lấy mẫu đất phân tích các chỉ tiêu về nông hóa dựa trên bản đồ
giải thửa hiện có của vùng nghiên cứu. Độ sâu lấy mẫu đất theo quy định của
Bộ NN & PTNT áp dụng cho vùng trồng cây lâu năm là tầng 0-30cm và 30-60
cm; vùng trồng cây hàng năm là 0-30 cm.
2.4.2. Phân tích đất : Các chỉ tiêu phân tích như sau;
1 pH
KCl
5 K
2
O tổng số
2 OM (%) 6 N dễ tiêu
3 N tổng số 7 P dễ tiêu
4 P
2
O
5
tổng số 8 K dễ tiêu
2.4.3. Lập bản đồ nông hóa tỷ lệ 1/5.000.
2.5. Xây dựng bản đồ quy hoạch
2.5.1. Điều tra thu thập thông tin và xây dựng bản đồ quy hoạch dựa trên cơ sở
các tài liệu và phương pháp sau:
- Kết quả phân loại đất; - Độ phì đất.

- Định hướng phát triển Trung tâm Sản xuất Giống Trảng Bàng
- Thông tư 30/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường hướng dẫn về việc l
ập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch kế hoạch
sử dụng đất;
- Quy trình lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất kèm theo
Quyết định số 04/2005/QĐ-BTNMT ngày 30/6/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường.
2.6. Xây dựng mô hình sử dụng và cải tạo đất thích hợp cho một số cây có
dầu

22

2.6.1. Đề xuất biện pháp sử dụng đất hợp lý và theo hướng cải tạo độ phì đất
dựa trên kết quả đánh giá độ phì đất vùng nghiên cứu khuyến cáo theo quan
điểm thổ nhưởng.
2.6.2. Thí nghiệm Cải tạo đất theo hướng sử dụng phân bón hợp lý, bao gồm
các công thức dự kiến như sau:
CT1. Đối chứng (bón nền)
CT2: Bón theo tập quán của nông dân trong vùng
CT3: Nền + Lân Thermo + phân vi sinh
CT4: Nền + Vôi + phân vi sinh
Diện tích ô = 50-100 m
2
. Bố trí theo Phương pháp RCBD, 3 lần nhắc lại. Cây
trồng: lạc, vừng
Chỉ tiêu theo dỏi: - Thời gian sinh trưởng qua các giai đọan.
- Chiều cao cây.
- Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất.
- Thành phần dinh dưỡng đất sau thí nghiệm

2.7. Báo cáo tổng kết đề tài và tổ chức nghiệm thu đề tài
2.8. Mô tả phương pháp nghiên cứu và kỹ thuật thực hiện đề tài:
Điều tra, lấy mẫu đất phân tích hàm lượng các nguyên t
ố dinh dưỡng trong
đất và lập các loại bản đồ theo các Tiêu chuẩn ngành của Bộ NN & PTNT, Hội
khoa học đất Việt Nam ban hành.
Sử dụng các phần mềm chuyên dụng GPS, GIS, v.v để xây dựng bản đồ,
phân tích và xử lý số liệu trên máy vi tính.
2.8.1 Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đề ra, đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu dưới
đây:
2.8.1.1. Phương pháp chung sử dụng trong điều tra xây dự
ng bản đồ đất
Bao gồm các phương pháp điều tra ngoại nghiệp truyền thống được sử dụng
trong điều tra xây dựng bản đồ đất ngoài thực địa như:
- Phương pháp quan trắc, mô tả phẫu diện đất và lấy mẫu đất phân tích
được thực hiện theo hướng dẫn của FAO và đã cụ thể hóa ở điều kiện Việt Nam
trong “Sổ tay Đ
iều tra Phân loại, Đánh giá đất” của Hội Khoa Học Đất Việt
Nam (1999).
-Phương pháp xây dựng khóa chuẩn và phương pháp chuyên gia sẽ được
sử dụng trong phân loại đất, chuyển đổi phân loại, tổng hợp đất và biên hội bản
đồ gốc đất.
- Các phương pháp phân tích đất phổ biến hiện hành được sử dụng để phân
tích mẫu đất.
* Nội dung thực hiện và phương pháp cụ th

(i) Công tác chuẩn bị:

23


- Thu thập các bản đồ, tài liệu, số liệu có liên quan đến đất vùng nghiên cứu.
- Đánh giá chất lượng các bản đồ, tài liệu đã thu thập được.
- Xây dựng kế hoạch điều tra chi tiết.
- Xây dựng bảng dự thảo phân loại đất.
(ii) Điều tra chi tiết ngoài đồng
- Bố trí mạng lưới phẫu diện: Căn cứ vào bản
đồ địa hình và thực trạng bản đồ
đất đã có, bố trí mạng lưới phẫu diện và xác định những vấn đề, những khu vực
cần phải xem xét chi tiết hơn để xác định ranh giới đất.
- Điều tra thực địa: Thực hiện các nội dung sau:
+ Đào các phẫu diện định giới, phẫu diện phụ và phẫu diện chính không
phân tích để xác định tên đất; xác đị
nh ranh giới các nhóm, loại đất và khoanh
vẽ ranh giới đất lên bản đồ giã ngoại.
+ Đào, quan trắc, mô tả phẫu diện và thu thập mẫu đất đối với các phẫu diện
chính có phân tích; trong đó, mỗi một loại đất trong dự thảo phân loại ít nhất
phải có một phẫu diện chính có phân tích.
+ Chụp ảnh hình thái phẫu diện, cảnh quan hoặc hiện trạng sử dụng đất.
(iii) Phân tích đất và xây dựng b
ản đồ gốc
- Phân tích đất: Mẫu đất được xử lý và phân tích trong phòng thí nghiệm
nhằm làm rõ các chỉ tiêu về phân loại đất và đặc tính lý- hóa- nông học của
loại đất (chỉ tiêu và phương pháp phân tích xem phụ lục 1)
- Biên vẽ bản đồ gốc đất: Sau khi kết thúc điều tra ngoại nghiệp, tiến hành
phân tích, tổng kết và đánh giá quy luật phân bố, mối tương quan giữa các
yếu tố địa hình, địa chấ
t, thực vật với hình thái phẫu diện đất và số liệu
phân tích đất để xác định tên đất chính thức và xây dựng bản đồ gốc đất.
(iv) Biên tập bản đồ đất, xây dựng cơ sở dữ liệu, tổng hợp và viết báo cáo

- Quét và số hóa bản đồ: Bản đồ gốc chính thức được quét và số hóa trên máy
tính.
- Biên tập bản đồ đất kỹ thuậ
t số: Bản đồ sau khi số hoá được chuyển đổi về
khuôn dạng MapInfo để biên tập bản in; bao gồm 2 nhóm thông tin chính:
Nền địa hình và thổ nhưỡng.
+ Các lớp dữ liệu nền địa hình được biên tập màu sắc, kích thước, kiểu,
phông chữ, cỡ chữ theo qui phạm bản đồ địa hình do Bộ Tài nguyên và Môi
trường ban hành.
+ Các chỉ tiêu của lớp dữ liệu thổ nhưỡng: thể hiện ở nhãn (label) trên
khoanh
đất theo trình tự: Cấp độ dốc- địa hình, loại đất, mẫu chất- đá mẹ, thành
phần cơ giới, độ dày tầng đất mịn và các yếu tố phụ như glây, kết von, đá lẫn,
đá lộ đầu.
+ Màu sắc khoanh đất lấy theo tên đất, thực hiện theo qui phạm bản đồ thổ
nhưỡng.

24

- In bản đồ, kiểm tra, chỉnh lý, hoàn thiện bản đồ đất: Sau khi biên tập, bản
đồ gốc đất được in ra giấy để kiểm tra, phát hiện những sai sót. Chỉnh lý và
hoàn thiện lần cuối. In bản đồ đất màu chính thức. Đo và tổng hợp diện tích
các loại đất.
- Tổng hợp, viết báo cáo thuyết minh: Nội dung báo cáo chú giải như quy
định tại quy phạm đi
ều tra lập bản đồ đất của Bộ Nông nghiệp ban hành năm
1984.
2.8.1.2. Phương pháp nghiên cứu đánh giá thích nghi đất đai:
(1) Phương pháp đánh giá thích nghi đất đai: Được áp dụng theo ”Quy trình
đánh giá đất đai phục vụ nông nghiệp” (số 10 TCN 343-98), đồng thời có chi

tiết và cụ thể hoá cho phù hợp với mục tiêu và đặc điểm tài nguyên đất đai của
vùng nghiên cứu.
(2) Phương pháp chuyên gia: được sử dụng trong giám đị
nh kết quả đánh giá
đất đai và đề xuất bố trí sử dụng đất nông- lâm nghiệp.
a/ Kỹ thuật sử dụng
- Kỹ thuật GIS được sử dụng để số hoá, chồng xếp, tích hợp các lớp bản đồ,
số liệu, biên tập tổng hợp kết quả đánh giá đất đai và lưu vào máy tính các lớp
thông tin của bản đồ như: địa hình, loại đấ
t, tầng dày và thành phần cơ giới…
- Phần mềm GIS ArcInfo và ArcView được sử dụng để: (i) Thiết lập
khuôn dạng dữ liệu, quản lý và lưu trữ các lớp số liệu không gian (spatial data
layers) của bản đồ gắn với các lớp dữ liệu thuộc tính (attribute data) của từng
contour và được thống nhất trên cùng một hệ tọa độ quốc gia; từ đó, xây dựng
cơ sở dữ
liệu (database) về tài nguyên đất đai và sử dụng đất; (ii) Sử dụng trong
phân tích, tổng hợp các lớp thông tin về tài nguyên đất (như chồng xếp các bản
đồ thành phần, đo đạc- tổng hợp diện tích,…), truy xuất thông tin (biên tập, in
ấn bản đồ kết quả,…).
*. Kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, gồm:
- Các kết quả nghiên cứu về đất và phân bón có liên quan đến đấ
t và sử dụng
đất vùng nghiên cứu;
- Kết quả kiểm kê đất đai năm 2007 của vùng nghiên cứu;
- Các tài liệu, số liệu, bản đồ và kết quả nghiên cứu khác có liên quan: Địa
chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, thực vật, tình hình sản xuất nông nghiệp
*. Điều tra xây dựng bản đồ đất, được thực hiện theo Quy phạm điều tra lập
bản
đồ đất tỷ lệ lớn (10 TCN 68-84).
*. Phương pháp quan trắc, mô tả phẫu diện đất, lấy mẫu đất phân tích: Thực

hiện theo hướng dẫn của FAO và đã được cụ thể hóa ở điều kiện Việt Nam
trong “Sổ tay Điều tra Phân loại, Đánh giá đất” của Hội Khoa học Đất Việt
Nam (1999).
*. Phương pháp phân tích đất: Mẫu đất được phân tích một số
chỉ tiêu sử dụng
các phương pháp phân tích đất chuẩn hóa của Quốc tế (ISO 10381-2: 2002 =
TCVN 7538-2: 2005 và ISO 10381-3: 2002 = TCVN 7538-2: 2005).

×