Tải bản đầy đủ (.pdf) (265 trang)

Nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.05 MB, 265 trang )

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

CỤC QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI CẤP BỘ
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC
XÂY DỰNG NỘI DUNG QUY HOẠCH TỔNG HỢP
TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG
Chủ nhiệm đề tài: TS. NGUYỄN LÊ TUẤN

7460
23/7/2009
HÀ NỘI – 2009


BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
CỤC QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
¶¶¶

BTNMT
CQLTNN

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC XÂY DỰNG NỘI DUNG
QUY HOẠCH TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG

TS. NGUYỄN LÊ TUẤN

HÀ NỘI, 2009




BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
CỤC QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
¶¶¶

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC XÂY DỰNG NỘI DUNG
QUY HOẠCH TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG
Chỉ số phân loại:
Số đăng ký:
Chỉ số lưu trữ:
Chủ nhiệm đề tài:
TS. Nguyễn Lê Tuấn
Các cộng tác viên chính:
KS. Nguyễn Sĩ Khôi
Cục Quản lý tài nguyên nước
KS. Nguyễn Vũ Trung
Cục Quản lý tài nguyên nước
ThS. Nguyễn Thị Việt Hồng
Cục Quản lý tài nguyên nước
KS. Lương Quang Phục
Cục Quản lý tài nguyên nước
TS. Nguyễn Tuấn Quang
Cục Quản lý tài nguyên nước
TS. Ngô Lê Long
Trường ĐH Thủy lợi Hà Nội
Hà Nội, ngày
tháng năm 2009

Chủ nhiệm đề tài

Hà Nội, ngày
tháng năm 2009
Thủ trưởng cơ quan chủ trì

Nguyễn Lê Tuấn
Hà Nội, ngày
tháng năm 2009
Chủ tịch Hội đồng đánh giá chính thức

Lê Bắc Huỳnh
Hà Nội, ngày
tháng năm 2009
Thủ trưởng cơ quan quản lý đề tài
TL. BỘ TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG
VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

PGS. TS. Ngô Trọng Thuận

Nguyễn Đắc Đồng


BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ
TÊN ĐỀ TÀI:
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC XÂY DỰNG NỘI DUNG
QUY HOẠCH TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG


Chỉ số phân loại:
Số đăng ký:
Chỉ số lưu trữ:
Chủ nhiệm đề tài:
TS. Nguyễn Lê Tuấn
Các cộng tác viên:
KS. Nguyễn Sĩ Khôi
Cục Quản lý tài nguyên nước
KS. Nguyễn Vũ Trung
Cục Quản lý tài nguyên nước
ThS. Nguyễn Thị Việt Hồng
Cục Quản lý tài nguyên nước
KS. Lương Quang Phục
Cục Quản lý tài nguyên nước
TS. Nguyễn Tuấn Quang
Cục Quản lý tài nguyên nước
TS. Ngô Lê Long
Trường ĐH Thủy lợi Hà Nội
Hà Nội, ngày
tháng năm 2009
Chủ nhiệm đề tài

Hà Nội, ngày
tháng năm 2009
Thủ trưởng cơ quan chủ trì

Nguyễn Lê Tuấn

Lê Bắc Huỳnh


Hà Nội, ngày
tháng năm 2009
Chủ tịch Hội đồng đánh giá chính thức

Hà Nội, ngày
tháng năm 2009
Thủ trưởng cơ quan quản lý đề tài
TL. BỘ TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG
VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

PGS. TS. Ngô Trọng Thuận

Nguyễn Đắc Đồng


MỞ ĐẦU
Quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông là cơ sở quan trọng, là
công cụ thiết yếu trong quản lý tổng hợp tài nguyên nước. Kinh nghiệm quốc tế
cũng như Việt Nam cho thấy việc chia sẻ, phân bổ tài nguyên nước giữa các đối
tượng và mục đích sử dụng tài nguyên nước, phát triển tài nguyên nước cùng với
bảo vệ tài nguyên nước, phòng, tránh, giảm thiểu thiệt hại do nước gây ra thường
được xem xét, quyết định theo đơn vị lưu vực sơng. Cũng chính ở cấp độ lưu vực
sông, các vấn đề đang được quan tâm về môi trường, về nước cho sinh hoạt đô thị
và nông thôn, tưới tiêu, công nghiệp, phát điện v.v... mới có thể đánh giá được một
cách tồn diện, đầy đủ, tương ứng với thuộc tính biến đổi mạnh theo không gian và
thời gian của các đặc trưng về tài nguyên nước trên lưu vực sông.
Để tiến hành quản lý tổng hợp lưu vực sông trên cơ sở hài hịa các mục tiêu
kinh tế, xã hội và mơi trường theo các nguyên tắc của phát triển bền vững, cần phải
có bước đi thích hợp với điều kiện của Việt Nam. Nguyên tắc “sử dụng tổng hợp,

quản lý thống nhất tài nguyên nước”, tuy đã được đưa vào Luật Tài nguyên nước
nhưng trên thực tế chưa được áp dụng triệt để. Những lợi ích theo ngành, theo địa
phương vẫn chi phối mạnh các quyết định liên quan đến tài nguyên nước; phát
triển tài nguyên nước chưa đi đôi với các biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng nước; các cơng cụ chính sách, tài chính chưa thực sự phát huy tác
dụng trong công tác quản lý... Tài nguyên nước trên các lưu vực sông tiếp tục tiềm
ẩn nguy cơ suy thoái, cạn kiệt; nhiều mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nảy sinh
có lúc, có nơi rất gay gắt. Thực tế đó địi hỏi cần nhanh chóng triển khai quản lý
tổng hợp lưu vực sơng, trong đó, quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông là cở sở
quan trọng hàng đầu. Xuất phát từ điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhất là quy
hoạch có liên quan đến tài nguyên nước trước đây, quy hoạch tổng hợp tài ngun
nước lưu vực sơng là một q trình lâu dài và phức tạp, cần phải đi từ tổng thể đến
chi tiết, từ những vấn đề lớn, có tính chiến lược đối với tài nguyên nước trên lưu
vực sông đến những giải pháp, biện pháp quản lý cụ thể; từ nhiệm vụ xác định các
mục tiêu, các vấn đề ưu tiên và giải pháp tổng thể về bảo vệ, khai thác, phát triển
và sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống, giảm thiểu các tác hại do nước gây ra
và bảo vệ mơi trường có liên quan đến tài ngun nước lưu vực sông đến nhiệm vụ
xác định các quy tắc, các hoạt động, hành động cụ thể nhằm quản lý tổng hợp và
bền vững tài nguyên nước lưu vực sông.
Lưu vực sông là một thực thể rất phức tạp trong đó diễn ra đầy đủ các q
trình thành phần trong chu trình vận động của nước trong tự nhiên. Lưu vực sông
cũng là nơi diễn ra các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, các hoạt
động phát triển lưu vực hết sức đa dạng. Từ đó, có thể thấy các kiến thức, nhận
thức, cơ sở khoa học đóng vai trị rất quan trọng trong tồn bộ q trình xây dựng
quy hoạch. Hơn nữa, khi xây dựng các quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông,
về cơ bản, cần dựa trên những mối quan hệ đa diện của tất cả các quá trình thành
phần trong chu trình của nước trên lưu vực sông. Kiến thức khoa học cần thiết là
kiến thức đa ngành, kể cả khoa học tự nhiên (thủy văn, môi trường, địa chất thủy
văn, thủy lực học...) và khoa học xã hội (kinh tế, tài chính, xã hội học....). Do đó,
3



việc nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng trình tự và nội dung quy hoạch tài
nguyên nước lưu vực sông phù hợp với bối cảnh thực tế của Việt Nam là hết sức
cần thiết.
Đề tài có mục tiêu: “Xây dựng luận cứ khoa học để xác định trình tự và nội
dung lập quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông, phục vụ công tác quản
lý tài nguyên nước các lưu vực sông trong cả nước”.
Để đáp ứng mục tiêu này, đề tài có những nội dung nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Tổng quan về phương pháp luận quy hoạch tài ngun nước lưu vực sơng và
tình hình lập, thực hiện quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông;
- Nghiên cứu cơ sở khoa học về các loại hình/cấp độ quy hoạch tài ngun
nước lưu vực sơng; xác định các loại quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông; các
nội dung liên quan đến lập nhiệm vụ quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học của các nội dung liên quan đến phân bổ, chia sẻ
tài nguyên nước lưu vực sông.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học của các nội dung liên quan đến bảo vệ tài
nguyên nước lưu vực sông.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học của các nội dung liên quan đến phòng, chống và
giảm thiểu tác hại do nước gây ra.
- Các vấn đề khoa học – công nghệ có liên quan đến lập quy hoạch tài nguyên
nước lưu vực sông và kiểm chứng các kết quả nghiên cứu đối với lưu vực sơng Ba.
Trong q trình thực hiện, đề tài đã được sự quan tâm, giúp đỡ có hiệu quả
của Vụ Khoa học - Cơng nghệ, Vụ Kế hoạch - Tài chính; sự chỉ đạo sát sao của
lãnh đạo Cục Quản lý tài nguyên nước, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan có
liên quan và các cộng tác viên, các đồng nghiệp. Đặc biệt là sự phối hợp, đóng góp
ý kiến và giúp đỡ các đồng nghiệp của Cục Quản lý tài nguyên nước trong quá
trình xây dựng, dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản pháp quy kỹ
thuật phục vụ công tác quản lý tài nguyên nước trong thời gian vừa qua.
Tuy nhiên, mới chỉ trong những năm gần đây, quy hoạch tài nguyên nước lưu

vực sông theo cách tiếp cận nhằm quản lý tổng hợp, bền vững tài nguyên nước là
vấn đề được đặt ra một cách thường xuyên và cấp bách hơn. Quy hoạch tài nguyên
nước lưu vực sông đề cập đến nhiều nội dung, kiến thức còn rất mới mẻ, phức tạp
đối với chủ nhiệm đề tài. Hơn nữa, đây là vấn đề có liên quan đến nhiều ngành
khoa học, nhiều lĩnh vực khác nhau. Với mong muốn đóng góp một phần kết quả
nghiên cứu vào cơng tác quản lý tài nguyên nước nhưng do khả năng và hiểu biết
còn hạn chế, các kết quả của đề tài không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Chủ
nhiệm đề tài mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các đồng
nghiệp, các nhà khoa học, quản lý quan tâm tới vấn đề này.

4


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ QUY HOẠCH TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU
VỰC SÔNG - CÁC LOẠI QUY HOẠCH TÀI NGUYÊN NƯỚC
I. Khái niệm quy hoạch tài nguyên nước
I.1 Sự cần thiết phải xây dựng quy hoạch tài nguyên nước
Quy hoạch là quá trình nghiên cứu các giải pháp, biện pháp nhằm giải quyết
các vấn đề, đáp ứng các yêu cầu hoặc đề xuất các hoạt động để bảo đảm đạt được
những mục tiêu đề ra. Q trình quy hoạch có tính dự báo và luôn hướng tới mục
tiêu sử dụng tối ưu các nguồn lực hiện có.
Trong Hội nghị của Liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển bền vững ở
Rio de Janeiro, các nhà lãnh đạo của thế giới đã tán thành khái niệm “phát triển
bền vững” thông qua việc phê duyệt Tuyên bố Rio, một bản tuyên bố gồm 27
nguyên tắc làm cơ sở cho sự phát triển bền vững, bao gồm cách tiếp cận thận trọng
đối với các vấn đề về môi trường, xã hội và kinh tế. Các nguyên tắc được này đã
được đưa vào tài liệu “Chương trình nghị sự 21”, một kế hoạch hành động toàn
diện để hỗ trợ các nước thực hiện phát triển bền vững. Chương 18 của Chương
trình nghị sự 21 đề cập tới “Bảo vệ chất lượng và cung cấp các nguồn nước ngọt:

Áp dụng các cách tiếp cận tổng hợp tới quản lý phát triển và sử dụng các nguồn
tài nguyên nước”. Trong chương này, Chương trình cũng nêu rõ:
“Mức độ đóng góp của phát triển các nguồn nước vào năng suất lao động và
phúc lợi xã hội thường không được đánh giá mặc dù tất cả các hoạt động xã hội và
kinh tế đều dựa rất nhiều vào việc cung cấp và chất lượng của nước ngọt. Khi dân
số và các hoạt động kinh tế tăng lên, nhiều quốc gia đã nhanh chóng tiến đến tình
trạng khan hiếm nước hoặc bị đối mặt với các giới hạn của sự phát triển kinh tế.
Nhu cầu đối với nước tăng lên nhanh chóng, trong đó 70-80% cần cho tưới tiêu,
dưới 20% là cho cơng nghiệp và chỉ có 6% cho tiêu dùng của hộ gia đình. Quản lý
tồn diện nước ngọt như một nguồn tài nguyên có hạn, dễ bị tổn thương và việc
lồng ghép các kế hoạch và chương trình về nước của ngành vào khung khổ của
chính sách kinh tế và xã hội quốc gia, có tầm quan trọng hết sức lớn lao cho hành
động trong thập niên 90 và sau thập niên 90. Tuy nhiên, tình trạng phân tán trách
nhiệm giữa các cơ quan ngành đối với phát triển các nguồn nước được chứng
minh là một trở lực đối với việc thúc đẩy quản lý tổng hợp nguồn nước, thậm chí
cịn lớn hơn so với dự kiến; cần có cơ chế thực hiện và phối hợp hiệu quả”.
Vì vậy, có thể nói, việc điều hịa giữa phát triển kinh tế và xã hội, bảo vệ môi
trường với bảo tồn tài nguyên thiên nhiên là rất cấp thiết.
I.2 Khái niệm và mục tiêu tổng quát của quy hoạch tài nguyên nước
Cũng xuất phát từ khái niệm phát triển bền vững, khái niệm quy hoạch tài
nguyên nước cũng đã được đưa ra thảo luận từ lâu. Hiện nay, nhiều tài liệu [37, 49]
thống nhất khái niệm quy hoạch tài nguyên nước như sau: Quy hoạch tài nguyên
nước là quá trình đánh giá, xác định các yêu cầu trước mắt và lâu dài đối với tài
nguyên nước và xác định các giải pháp, biện pháp, cách thức phù hợp nhất về kỹ
5


thuật, kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường để đáp ứng các yêu cầu đó. Quy hoạch
tài nguyên nước có mục tiêu tổng quát là cải thiện đời sống nhân dân thơng qua
việc đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước và các vùng lãnh thổ, cải thiện

chất lượng môi trường tự nhiên, tạo ra các ảnh hưởng tích cực về mặt xã hội (giảm
tỷ lệ đói nghèo, cải thiện điều kiện vệ sinh nước ăn uống, sinh hoạt...).
I.3 Đơn vị cơ sở để tiến hành lập quy hoạch và quản lý tài nguyên nước - lưu
vực sông
Trong tự nhiên, nước vận động theo lưu vực sơng, khơng phân chia theo địa
giới hành chính. Mọi hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước cũng như các
tác động của nó đều diễn ra trên quy mơ lưu vực. Do đó, việc quy hoạch và quản lý
tài nguyên nước phải được thực hiện theo phương thức tổng hợp và thống nhất trên
cơ sở lưu vực sông. Luật Tài nguyên nước đã quy định nguyên tắc bảo vệ, khai
thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước
gây ra phải theo quy hoạch lưu vực sông đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt; bảo đảm tính hệ thống của lưu vực sông, không chia cắt theo địa giới
hành chính (khoản 1 Điều 5). Luật Tài nguyên nước cũng quy định quy hoạch lưu
vực sông là quy hoạch về bảo vệ, khai thác, sử dụng nguồn nước, phát triển tài
nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trong lưu
vực sông (khoản 16 Điều 3).
Do vậy, trên quan điểm khoa học và những căn cứ pháp lý, lưu vực sông là
đơn vị cơ sở để tiến hành lập quy hoạch tài nguyên nước. Kinh nghiệm quốc tế
cũng như Việt Nam cho thấy việc chia sẻ, phân bổ tài nguyên nước giữa các đối
tượng và mục đích sử dụng tài nguyên nước, phát triển tài nguyên nước cùng với
bảo vệ tài nguyên nước, phòng, tránh, giảm thiểu thiệt hại do nước gây ra thường
được xem xét, quyết định theo đơn vị lưu vực sơng. Cũng chính ở mức độ lưu vực
sơng, các vấn đề đang được quan tâm về môi trường, về nước cho sinh hoạt đô thị
và nông thôn, tưới tiêu, công nghiệp, phát điện v.v... mới có thể được đánh giá một
cách tồn diện, đầy đủ, tương ứng với thuộc tính biến đổi mạnh theo không gian và
thời gian của các đặc trưng tài nguyên nước trên các lưu vực sông.
Nhiều nhà quản lý, nghiên cứu về tài nguyên nước trên thế giới hiện nay cho
rằng quy hoạch và quản lý lưu vực sông, nếu được thực thi thành công, là cơ chế
tổng hợp mạnh nhất, hiệu quả nhất để quản lý tài nguyên nước. Cơ chế này vừa
bảo đảm nguyên tắc quản lý tài nguyên nước “trên cơ sở lưu vực sơng, khơng chia

cắt theo địa giới hành chính”, vừa tạo ra cơ sở để tiến hành đẩy mạnh sự tham gia
của cộng đồng trong các quyết sách về tài nguyên nước cũng như để tiến hành tổng
hợp các khía cạnh khác nhau của quản lý tài nguyên nước với quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội và xóa đói, giảm nghèo trên lưu vực sông.
II. Tổng quan về công tác quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông
II.1 Trên thế giới
Quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông là một quá trình thực hiện các hoạt
động liên quan đến nhiều vấn đề về khoa học và công nghệ. Do vậy, khó có thể
đưa ra một tổng quan chung cho các vấn đề này trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên,
6


liên quan đến trình tự, nội dung quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông (theo
cách tiếp cận hợp lý với điều kiện Việt Nam hiện nay như đã trình bày), có thể kể
ra một số hoạt động, cơng trình nghiên cứu tiêu biểu ở nước ngoài:
- Tháng 2 năm 1983, Tổng thống Mỹ lúc đó là Ronald Reagan đã ký ban hành
“Các nguyên tắc về kinh tế và môi trường đối với các nghiên cứu triển khai về
nước và tài nguyên đất có liên quan” (Economic and Environmental Principles for
Water and Related Land Resources Implementation Studies). Trên cơ sở các
nguyên tắc này, Hội đồng Quốc gia Tài nguyên nước của Hoa Kỳ đã ban hành các
hướng dẫn, phục vụ việc xây dựng và quản lý quy hoạch. Nhằm cụ thể hơn các
công việc cần tiến hành, tháng 4 năm 2002, lực lượng công binh Hoa Kỳ đã biên
soạn, cập nhật sổ tay hướng dẫn quy hoạch (Planning Guidance Notebook), trong
đó đưa ra 6 bước tiến hành xây dựng các quy hoạch nói chung, bao gồm:
+ Xác định các vấn đề, các cơ hội;
+ Tiến hành điều tra và dự báo các điều kiện;
+ Xây dựng các phương án đáp ứng mục tiêu đặt ra;
+ Đánh giá từng phương án;
+ So sánh các phương án;
+ Lựa chọn phương án tối ưu.

Tài liệu này cũng đưa ra những nội dung chủ yếu của từng bước đối với quy
hoạch tài nguyên nước.
- Ở Úc, để tiến hành quản lý lưu vực sông Murray - Darling (diện tích trên 1
triệu km2 nằm trên phần lãnh thổ thuộc các bang New South Wales, Victoria,
Queenland, South Australia), chiến lược quản lý lưu vực sông được chuẩn bị và
phê duyệt trước tiên, sau đó các quy hoạch sẽ được xây dựng, phê duyệt và thực
hiện, bao gồm: quy hoạch bảo vệ tài nguyên nước và chất lượng nước; quy hoạch
chia sẻ, phân bổ nguồn nước; quy hoạch phòng, chống, giảm thiểu tác hại của xâm
nhập mặn... Văn bản chiến lược tổng thể được mang tên: Chính sách quản lý tổng
hợp lưu vực (The Integrated Catchment Management Policy - ICM Policy) được
Hội đồng các Bộ trưởng lưu vực Murray - Darling và Ủy ban Tư vấn cộng đồng
đưa ra tháng 6 năm 2001 sau khi tham vấn rộng rãi với các cơ quan quản lý nhà
nước, các ngành và cộng đồng dân cư trong và ngoài lưu vực. Văn bản này là
khung khổ cho công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên của lưu vực sông trong giai
đoạn 2001 – 2010. Văn bản bao gồm các mục tiêu, xác định các giá trị và nguyên
tắc cơ bản để hướng dẫn cộng đồng, các cơ quan thuộc Chính phủ cũng như các
ngành khác nhau theo mục tiêu cải thiện chất lượng, bảo tồn và hạn chế các sức ép
đối với tài nguyên thiên nhiên của lưu vực sông. Văn bản chính sách này cũng đưa
ra khung thời gian và các mục đích về chất lượng nước, về việc chia sẻ nước, sức
khỏe của các hệ sinh thái sông và đa dạng sinh học trên cạn cần đạt được theo
khung thời gian đó. Một vấn đề mấu chốt khác trong văn bản chính sách này là
việc xây dựng và tăng cường năng lực cho các bên liên quan nhằm thực thi nhiệm
vụ của mình, phát triển cơ sở tri thức cũng như việc trao đổi các kiến thức giữa các
7


bên liên quan trong việc xây dựng, thực hiện và đánh giá quy hoạch lưu vực sông,
liên kết giữa quy hoạch lưu vực với quy hoạch sử dụng đất, phân rõ vai trò, trách
nhiệm cũng như bổn phận của từng bên ở tất cả các cấp độ quản lý. Các quy hoạch
nhằm cụ thể hóa văn bản chính sách và thực thi văn bản này, trong nhiều trường

hợp đối với các vấn đề cụ thể của lưu vực sông Murray – Darling, được coi là các
chiến lược cụ thể, ví dụ, Chiến lược quản lý mặn lưu vực (tháng 8 năm 2001),
Chiến lược khôi phục quần thể cá của lưu vực sông (tháng 5 năm 2003), chiến lược
quản lý các bãi lũ lưu vực sông Murray – Darling (tháng 8 năm 2003)... Tiếp theo
các chiến lược cụ thể là các dự án, chương trình đã và đang được thực hiện. Ví dụ,
dự án “Quản lý dịng chảy mơi trường và mục tiêu chất lượng nước đối với sơng
Murray”, chương trình “Nguy cơ rủi ro đối với các nguồn nước được chia sẻ”, sáng
kiến “Sông Murray sống động”, các hội thảo chuyên đề dành cho những người trẻ
tuổi và vấn đề quản lý tổng hợp,bền vững lưu vực sông Murray – Darling... [34]
- Tại các nước châu Âu, cụ thể là các nước trong Cộng đồng châu Âu, hoạt
động quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông tuân theo chỉ thị khung về nước
(Water Framework Directive) số 2000/60/EC. Điều 13 của chỉ thị quy định về quy
hoạch (chính xác hơn là kế hoạch) quản lý các lưu vực sông. Những nội dung cần
thiết đối với bản quy hoạch này bao gồm:
+ Mô tả tổng quan về các đặc điểm của lưu vực sông (đặc điểm tự nhiên, đặc
điểm kinh tế xã hội, đặc điểm nguồn nước...);
+ Tóm tắt các áp lực chính và các tác động quan trọng của các hoạt động của
con người tới tài nguyên nước trong lưu vực sông;
+ Xác định và lập bản đồ các vùng cần bảo vệ trong lưu vực sông;
+ Xác định hệ thống giám sát tài nguyên nước;
+ Xác định các mục tiêu môi trường của lưu vực sông;
+ Xây dựng các phương án quy hoạch;
+ Chi tiết hóa phương án quy hoạch cho một số tiểu vùng hay đối với vấn đề
cụ thể của lưu vực sông;
+ Tham vấn cộng đồng về phương án quy hoạch;
+ Giải pháp thực hiện quy hoạch.
Một số vấn đề có liên quan đến cơng tác điều tra, khảo sát kỹ thuật phục vụ
lập quy hoạch đối với các loại hình nguồn nước cũng đã được quy định, tuy mới
chỉ ở mức độ khung, mang tính khái quát.
Một số nhận xét:

- Phương pháp tiếp cận trong quản lý lưu vực sông luôn được thực hiện theo
quan điểm hệ thống, đi từ tổng thể đến chi tiết. Quy hoạch tài nguyên nước lưu vực
sông nhằm cụ thể, chi tiết hóa các chiến lược quản lý lưu vực sơng. Quy hoạch
được xác định là một quá trình lặp đi lặp lại để đạt được mục tiêu quản lý. Các nội
dung chính trong quy hoạch tài nguyên nước được xác định một cách mạch lạc,
trong đó nhấn mạnh vào sự tham gia và đồng thuận rộng rãi của các đối tượng bị
8


tác động, ảnh hưởng của quy hoạch. Trên cơ sở đó, nâng cao tính tồn diện, tổng
thể trong q trình xây dựng quy hoạch và tính khả thi khi thực hiện quy hoạch.
- Bảo vệ tài nguyên nước, bảo tồn các giá trị của nước đối với con người và
môi trường là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong nội dung quy
hoạch tài nguyên nước lưu vực sông. Nội dung này được lồng ghép chặt chẽ khi xây
dựng các phương án quy hoạch khai thác, sử dụng và phát triển tài nguyên nước.
- Quy hoạch tài nguyên nước không đơn thuần tập trung vào việc đề xuất các
dự án, cơng trình về tài ngun nước mà cịn chú trọng đặc biệt đến việc hồn thiện
thể chế, chính sách cùng với các biện pháp, giải pháp phi công trình trong việc bảo
vệ tài nguyên nước, phân bổ, chia sẻ nguồn nước và phòng, chống, giảm thiểu tác
hại do nước gây ra. Nói một cách khác, quy hoạch khơng chỉ là bước nghiên cứu để
đưa ra những cơng trình, dự án cụ thể để khai thác, sử dụng nguồn nước như quan
điểm trước đây (quy hoạch phục vụ các ngành) mà là cơng cụ chủ yếu để hoạch định
chính sách, xây dựng thể chế, thiết lập những nguyên tắc cơ bản phục vụ quản lý tài
nguyên nước trên quan điểm tổng hợp, bền vững, liên ngành và liên vùng.
II.2 Ở Việt Nam
Ngày 28 tháng 10 năm 1995, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi (trước đây) ra quyết định
số 167 QĐ/KHTL về việc ban hành tiêu chuẩn ngành “Quy hoạch sử dụng tổng
hợp và bảo vệ nguồn nước – Các quy định chủ yếu”. Tiêu chuẩn ngành này của Bộ
Thủy lợi có mã số 14 TCN 87 – 1995; được áp dụng cho việc lập mới hoặc bổ
sung quy hoạch sử dụng tổng hợp và bảo vệ nguồn nước ở một lưu vực sông, một

vùng kinh tế, liên lưu vực hoặc toàn quốc. Quy hoạch sử dụng tổng hợp và bảo vệ
nguồn nước quy định trong tiêu chuẩn này được gọi tắt là quy hoạch thủy lợi, tùy
theo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu vì nhiệm vụ của quy hoạch thủy
lợi, điều kiện tự nhiên, quy hoạch thủy lợi cụ thể gồm toàn bộ hoặc một số quy
hoạch chuyên ngành sau:
- Quy hoạch thủy nông (tưới tiêu, cải tạo đất bằng biện pháp thủy lợi);
- Quy hoạch cấp thốt nước cho sinh hoạt, cơng nghiệp:
- Quy hoạch thủy điện;
- Quy hoạch giao thông thủy;
- Quy hoạch nuôi trồng thủy sản;
- Quy hoạch phục vụ an dưỡng – du lịch – giải trí;
- Quy hoạch phịng chống lũ;
- Quy hoạch bảo vệ phịng chống ơ nhiễm nguồn nước;
- Quy hoạch bảo vệ phòng chống cạn kiệt nguồn nước.
Ngồi những quy định chung, tiêu chuẩn cịn quy định về thành phần, nội
dung và bước lập quy hoạch thủy lợi; quy định về các tài liệu cơ bản; quy định về
quản lý quy hoạch. Tiêu chuẩn ngành 14 TCN 87 – 1995 là một văn bản pháp quy
kỹ thuật đã được sử dụng có hiệu quả trong các hoạt động quy hoạch phát triển
9


thủy lợi trong thời gian qua. Tuy nhiên, tiêu chuẩn 14 TCN 87 – 1995 đã bộc lộ
một số bất cập:
- Tiêu chuẩn được ban hành khi Luật Tài nguyên nước chưa ra đời, hành lang
pháp lý cho công tác quản lý tài nguyên nước chưa được hình thành; các hoạt động
bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống, giảm thiểu tác tác hại do
nước gây ra cũng chưa được xác định rõ. Nhìn chung, phương châm chủ yếu của
quy hoạch thủy lợi theo tiêu chuẩn ngành 14 TCN 87 – 1995 là tạo nguồn và
phòng chống lũ lụt bằng các biện pháp cơng trình (cụ thể: quy định tại khoản 1.9
của tiêu chuẩn). Khi tiến hành xây dựng tiêu chuẩn ngành về quy hoạch thủy lợi,

quan điểm “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” chưa được xác định một
cách rõ nét;
- Mối liên hệ giữa các quy hoạch chuyên ngành trong quy hoạch thủy lợi
(quy định tại khoản 1.3 của tiêu chuẩn) còn mờ nhạt và dẫn đến việc quy định tiến
hành một loạt các quy hoạch chuyên ngành trong quy hoạch thủy lợi ít mang tính
khả thi. Thực tế, có thể nói, đến hiện nay quy hoạch thủy điện đã được thực hiện
gần xong, quy hoạch phát triển công nghiệp cũng đã đang được thực hiện (cùng
với các yêu cầu cấp nước công nghiệp), quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đã
được xây dựng và đang chờ phê duyệt, hầu hết các cơng trình tạo nguồn phục vụ
tưới tiêu cho nông nghiệp đã được quy hoạch và đang dần được thực hiện... Việc
bảo đảm tính thống nhất trong các quy hoạch chuyên ngành với nhau và với quy
hoạch thủy lợi chưa được đề cập và thiếu chế tài để điều chỉnh. Việc coi môi
trường cũng là một đối tượng khai thác, sử dụng nước chưa được đề cập trong tiêu
chuẩn. Do đó, một số hoạt động rất cần thiết của công tác quản lý tài nguyên nước
như điều hòa, phân bổ nguồn nước trên lưu vực sông; cấp phép khai thác sử dụng
tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước; các kế hoạch kiểm kê, điều tra cơ
bản tài nguyên nước; hoạt động bảo vệ tài nguyên nước... phù hợp với điều kiện
hiện tại của lưu vực sông chưa được làm rõ trong các quy định tại tiêu chuẩn 14
TCN 87 – 1995.
- Về mặt kỹ thuật, tiêu chuẩn 14 TCN 87 – 1995 áp dụng cho lưu vực sông và
vùng kinh tế nhưng những khác biệt khi tiến hành lập quy hoạch thủy lợi cho các
đơn vị không gian này chưa được làm rõ. Mặt khác, những thành tựu khoa học,
công nghệ nói chung, trong lĩnh vực tài nguyên nước nói riêng trong thời gian qua
chưa được cập nhật, bổ sung khi xây dựng những quy định của tiêu chuẩn 14 TCN
87 – 1995.
Tóm lại, những quy định của tiêu chuẩn 14 TCN 87 – 1995 cần phải tiếp tục
cập nhật, nghiên cứu, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các nguyên tắc
và nội dung của quản lý tổng hợp tài nguyên nước trên các lưu vực sông; bảo đảm
định hướng phát triển bển vững của đất nước.

Liên quan đến cơng tác quy hoạch tài ngun nước có thể kể ra một số quy
hoạch chuyên ngành như Quy hoạch trị thủy và khai thác hệ thống sông Hồng
(1964); Luận chứng kinh tế kỹ thuật cơng trình đa mục tiêu Hịa Bình (được nhà
nước duyệt năm 1973); Nghiên cứu về phát triển và quản lý tài nguyên nước toàn
10


quốc tại nước CHXHCN Việt Nam (Hoàn thành năm 2003 do Bộ NN và PTNT
thực hiện dưới sự giúp đỡ của Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản) Nghiên cứu quy
hoạch thủy điện quốc gia (Hoàn thành năm 2007 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tập
đoàn Điện lực Việt Nam thực hiện với sự giúp đỡ của Cơ quan hợp tác phát triển
của Na Uy, Thụy Điển)...
Các nghiên cứu quy hoạch trên đây là những nguồn tư liệu, thơng tin tham
khảo bổ ích trong việc định hướng các nội dung cần thiết cho những bước đi phù
hợp của q trình quy hoạch tài ngun nước lưu vực sơng. Tuy nhiên, cũng cần
thấy rằng các quy hoạch mới tập trung vào giải quyết những khía cạnh cụ thể của
tài nguyên nước như phát triển tài nguyên nước hay phòng chống lũ lụt. Cách tiếp
cận trong các quy hoạch đó chưa bảo đảm đầy đủ sự đồng bộ và nhất quán từ tổng
thể đến chi tiết. Không thể đưa ra các giải pháp hay phương án phát triển tài
nguyên nước nếu chưa tập trung làm rõ những vấn đề về chiến lược, về tầm nhìn
đối với lưu vực sơng; việc phịng, chống, giảm thiểu tác hại gây ra cũng khơng thể
khơng dựa trên những giải pháp tổng hợp cơng trình và phi cơng trình, từng bước
hài hịa, thích nghi với tự nhiên... Trong giai đoạn hiện nay, khi các vấn đề mơi
trường nước, về suy thối, cạn kiệt nguồn nước đang trở nên ngày càng gay gắt,
ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ các thực thể xã hội, nhân văn, kinh tế trên lưu vực
sơng thì việc bảo vệ tài nguyên nước, việc tăng cường bảo vệ để phát triển tài
nguyên nước, việc triển khai các giải pháp đồng bộ và tổng hợp trong quản lý
nguồn nước các lưu vực sơng là một địi hỏi có tính thời sự. Cùng với sự những
thành tựu về khoa học công nghệ, về sự chuyển dịch mạnh mẽ sang nền kinh tế tri
thức của Việt Nam, quá trình quy hoạch tổng hợp tài ngun nước lưu vực sơng

cần thiết phải có đổi mới cơ bản về chất.
III. Tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên nước, ô nhiễm nguồn nước, các
thiên tai liên quan đến nước ở Việt Nam
III.1 Tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên nước
Tài nguyên nước là tư liệu thiết yếu cho nhiều ngành kinh tế. Phần này trình
bày những nét chung nhất về hiện trạng và nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên
nước của một số ngành kinh tế - xã hội có liên quan chặt chẽ với tài nguyên nước.
III.1.1 Cấp nước sinh hoạt
a) Cấp nước đơ thị
Với hơn 600 đơ thị, hiện nay tồn quốc có trên 300 nhà máy nước để phục vụ
sinh hoạt và sản xuất của các thành phố, thị xã tỉnh lỵ và thị xã trực thuộc tỉnh với
tổng công suất thiết kế đạt khoảng 5,0 triệu m3 nước/ngày đêm. Đối với các đô thị
là thị xã nhỏ, thị trấn huyện lỵ mới chỉ có khoảng 25% có hệ thống cấp nước tập
trung với tổng công suất cấp nước đạt khoảng 550.000 m3/ ngày. Nguồn nước cấp
cho đô thị chủ yếu là nguồn nước mặt (chiếm tỷ lệ khoảng 2/3 tổng số nhà máy),
chủ yếu lấy từ hệ thống sông Hồng, sơng Thái Bình, sơng Thu Bồn, sơng Đồng
Nai... là nơi tập trung các đô thị lớn. Tuy tất cả các đô thị đều được cấp nước
nhưng tỷ lệ dân số được cấp nước còn thấp (khoảng 70%) và lượng nước được cấp
cũng thấp hơn tiêu chuẩn định lượng cần thiết, trung bình chỉ đạt 40-50
11


lít/ngày/người, đạt 40-50% tiêu chuẩn cần thiết. Tại các độ đô thị loại đặc biệt như
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số đơ thị loại I và loại II, tỷ lệ được cấp
nước đạt gần 80% với tiêu chuẩn cấp nước từ 100 - 120 lít/người/ngày.
Theo định hướng cấp nước đô thị đến năm 2020 được phê duyệt tại Quyết
định số 63/1998/QĐ-TTg ngày 18/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ, mục tiêu cấp
nước đơ thị đến năm 2020 là nâng cao chất lượng phục vụ cấp nước cho sản xuất
và dân sinh tại các đô thị, phấn đấu 100% dân số đô thị được cấp nước sạch với
tiêu chuẩn 120 - 150 lít/người/ngày; đối với các thành phố lớn như Hà Nội, Hải

Phịng, thành phố Hồ Chí Minh, phấn đấu đạt tiêu chuẩn 180 - 200 lít/người/ngày;
Chỉ tiêu cấp nước đô thị trong từng giai đoạn như sau: đối với các đơ thị loại
đặc biệt là 165 lít/người/ngày vào năm 2010, 180 - 200 lít/người/ngày vào năm
2020; đơ thị loại I là 150 lít/người/ngày vào năm 2010, 165 lít/người/ngày vào
năm 2020; các đơ thị cịn lại là 120 lít/người/ngày vào năm 2010, 150
lít/người/ngày vào năm 2020; các thị trấn thị tứ là 80 - 100 lít/người/ngày vào năm
2010, 120 lít/người/ngày vào năm 2020.
Nhu cầu cấp nước cho các đơ thị trên tồn quốc là 8,9 triệu m3/ngày vào năm
2010 và 15,94 triệu m3/ngày vào năm 2020. Trong đó, nhu cầu nước tăng mạnh ở
lưu vực sông Hồng - Thái Bình (ước tính là 45 triệu m3/tháng), lưu vực sơng Đồng
Nai (ước tính là 36,8 triệu m3/tháng) và vùng đồng bằng sơng Cửu Long (ước tính
là 26,8 triệu m3/tháng) vào năm 2010. Các lưu vực có nhu cầu nước cấp cho đô thị
khá lớn là sông Cả, sông Mã, sông Vũ Gia - Thu Bồn, sông Ba và sông Srêpơk.
Hiện nay, các vấn đề chính đối với cấp nước đô thị là:
- Hầu hết các doanh nghiệp cấp nước đô thị là các doanh nghiệp nhà nước với
cơ sở hạ tầng của ngành được nhà nước đầu tư xây dựng. Công tác quản lý vận
hành, bảo dưỡng các hệ thống cấp nước được giao cho các xí nghiệp hoặc công ty
cấp nước ở các tỉnh, thành phố đảm trách… Các hệ thống cấp nước nhìn chung đã
được xây dựng từ lâu, cải tạo, sửa chữa chắp vá xuống cấp nghiêm trọng. Nhiều hệ
thống cấp nước tuy mới được xây dựng nhưng chưa đồng bộ, việc xây dựng nhà
máy cấp nước chưa gắn liền với việc xây dựng mạng lưới phân phối nước. Hậu quả
là hiện nay, lượng nước thất thốt chiếm tới 30 - 50%.
- Chưa có cơ chế định giá nước một cách hợp lý nên doanh thu về nước sạch
hiện khơng đủ bù đắp chi phí sản xuất, chưa kể việc bảo dưỡng, cải tạo, nâng cấp
hệ thống cấp nước. Vì vậy hầu hết các doanh nghiệp cấp nước chưa có khả năng tự
chủ về tài chính trong sản xuất kinh doanh, nhà nước phải bù lỗ; chưa hình thành
được ý thức sử dụng nước tiết kiệm trong cộng đồng dân cư đô thị.
b) Cấp nước nông thơn
Theo báo cáo của Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh mơi
trường nơng thơn thì tính đến năm cuối 2005 tổng số cư dân nông thôn được sử

dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt gần 40 triệu người, tăng thêm 23 triệu người
so với năm 1998, bình quân tăng 4,3%/năm, nâng tỷ lệ dân số nông thôn được cấp
nước sinh hoạt hợp vệ sinh đến cuối năm 2005 lên 62%. Bốn vùng có tỷ lệ dân số
nông thôn sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt cao hơn 60% là: Đồng bằng
12


sông Hồng (66%), Đông Nam Bộ (68%), Đồng bằng sông Cửu Long (66%) và Bắc
Trung Bộ (61%). Các cùng còn lại đều đạt tỷ lệ thấp hơn 60%
Chiến lược Quốc gia cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thơn đến năm
2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 104/2000/QĐ-TTg
ngày 25 tháng 8 năm 2000 với mục tiêu là đến năm 2010, 85% dân số nông thôn
được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh với tiêu chuẩn cấp nước 60
lít/người/ngày và mục tiêu đến năm 2020 thì tất cả dân cư nơng thơn được sử dụng
nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia với số lượng ít nhất là 60 lít/người/ngày.
Ngày 11 tháng 12 năm 2006, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số
277/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và
vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2006 - 2010. Mục tiêu cấp nước của
Chương trình là bảo đảm đến năm 2010, 85% dân số nông thôn được sử dụng
nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó có 50% sử dụng nước sạch đạt Tiêu chuẩn
09/2005/QĐ-BYT ngày 11 tháng 3 năm 2005 của Bộ Y tế với số lượng 60 lít
nước/người/ngày.
Theo Chiến lược quốc gia cấp nước sạch - vệ sinh môi trường nông thôn, dân
số nông thôn đến năm 2010 là 61,7 triệu người và năm 2020 là 56,0 triệu người.
Nhu cầu cấp nước nông thôn tương ứng sẽ là 1,14 tỷ m3/năm vào năm 2010, và
1,23 tỷ m3/năm vào năm 2020.
Về nguồn nước cấp cho sinh hoạt nơng thơn được lấy từ hai nguồn nước
chính là nước mặt và nước ngầm. Nước mặt được lấy chủ yếu từ nước sông, kênh
hoặc hồ chứa. Nguồn nước mặt có ưu điểm chính là độ khống hố thấp, thành
phần hoá học phần lớn đáp ứng được yêu cầu cấp nước sinh hoạt, có khả năng cấp

nước quy mơ lớn. Nhưng có nhược điểm lớn là độ đục và thành phần vi sinh lớn,
chất lượng nước không ổn định, dễ bị nhiễm bẩn do các hoạt động của con người;
ở các vùng ven biển nước mặt còn bị nhiễm mặn; giá thành nước thương phẩm sẽ
cao do phải tiến hành xử lý. Ngược lại, nguồn nước ngầm có ưu điểm là chất lượng
nước tốt hơn, ổn định theo thời gian, hàm lượng vi sinh thấp, độ đục thấp, khó bị
nhiễm bẩn, khai thác thuận tiện, kinh tế. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của nước
ngầm ở nước ta là hàm lượng sắt tương đối cao, một số thành phần hoá học khác
cũng tương đối cao, như Magan, Clo (ở ven biển), Bicacbonat (vùng núi), pH thấp
ở đồng bằng sông Cửu Long; tại nhiều địa phương, nước ngầm đã có dấu hiệu bị ơ
nhiễm thạch tín; một số vùng nguồn nước ngầm hạn chế khó đáp ứng cho yêu cầu
cấp nước lớn.
Nhìn chung, cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt ở nơng thơn khơng giống nhau
giữa các vùng. Các vùng khó khăn nhất thường là miền núi, các địa phương ven
biển và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Theo tập quán, người dân địa phương
thường tận dụng tất cả các nguồn nước từ giếng đào, giếng khoan, sử dụng nước ao
hồ không qua xử lý hoặc nước mưa, các hệ thống cấp nước máy chưa được phổ
biến.
Trong những năm qua, nguồn vốn đầu tư cho hoạt động cấp nước nông thôn
được huy động từ nhiều nguồn khác nhau để thực hiện chương trình cấp nước sạch
13


nông thôn, chủ yếu từ các nguồn: ngân sách nhà nước, vốn vay, viện trợ khơng
hồn lại của quốc tế, vốn huy động trong dân. Nhiều mơ hình đầu tư và tổ chức
quản lý cấp nước sạch nông thôn đã và đang được triển khai như mơ hình nhà nước
và nhân dân cùng làm, mơ hình tư nhân bỏ vốn xây dựng quản lý, khai thác kinh
doanh, dịch vụ cung cấp nước sạch, mơ hình hợp tác xã cổ phần cung cấp nước
sạch. Tuy nhiên, cũng giống như cấp nước đơ thị, các giải pháp như đẩy mạnh xã
hội hóa cấp nước nơng thơn, đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho cấp nước và
hình thành thị trường cấp nước; tăng cường công tác thông tin - giáo dục - truyền

thông và huy động sự tham gia của cộng đồng dân cư; đẩy mạnh xây dựng và thực
hiện quy hoạch, kế hoạch; đầu tư đồng bộ về khoa học, công nghệ; tăng cường
việc quản lý, xây dựng, khai thác và bảo vệ cơng trình... cần được tiến hành.
III.1.2 Cấp nước cho nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sử dụng nước nhiều nhất ở nước ta. Lượng nước sử
dụng cho trồng trọt và chăn nuôi năm 2005 chiếm khoảng 82% tổng lượng nước
tiêu thụ của các ngành kinh tế - xã hội và đời sống. Dự tính tỷ lệ nước sử dụng cho
nông nghiệp sẽ giảm dần trong tương lai nhưng về trị số tổng lượng nước dùng cho
nông nghiệp vẫn tăng. Nguồn nước chính sử dụng cho nơng nghiệp là nước mặt;
tại một số vùng trồng nhiều cây công nghiệp như cà phê, hồ tiêu... sử dụng nước
ngầm để tưới vào thời kỳ mùa cạn. Nhìn chung, sử dụng nước ngầm cho sản xuất
nơng nghiệp hiện nay cịn ở quy mơ hộ gia đình. Tổng lượng nước tiêu thụ cho sản
xuất nông nghiệp trong năm 2005 khoảng trên 66 tỷ m3. Theo tính tốn tại dự thảo
“Chiến lược phát triển thủy lợi đến năm 2020” của Bộ NN và PTNT, nhu cầu nước
cho trồng trọt và chăn nuôi là 75,64 tỷ m3 vào năm 2010 và gần 84 tỷ m3 vào năm
2020. Các vùng có nhu cầu nước cho nơng nghiệp lớn vào năm 2010 là đồng bằng
sông Cửu Long (1.326 m3/s), lưu vực sơng Hồng - Thái Bình (595,5 m3/s), Đồng
Nai (137,1 m3/s), Mã (69,0 m3/s), Ba (56,8 m3/s), Cả (55,9 m3/s)...
Về cơ sở hạ tầng cấp nước cho nơng nghiệp, đến nay cả nước có 75 hệ thống
thủy lợi lớn, 800 hồ đập loại lớn và vừa, hơn 3.500 hồ có dung tích trên 1 triệu m3
nước và đập cao trên 10 m, hơn 5.000 cống tưới, tiêu lớn, trên 10.000 trạm bơm
lớn và vừa có tổng cơng suất bơm 24,8 triệu m3/h, hàng vạn cơng trình thủy lợi vừa
và nhỏ. Các hệ thống có tổng năng lực tưới trực tiếp cho 3,45 triệu ha, tạo nguồn
cấp nước cho 1,13 triệu ha, tiêu 1,4 triệu ha, ngăn mặn 0,87 triệu ha và cải tạo chua
phèn 1,6 triệu ha đất canh tác nơng nghiệp. Diện tích lúa, rau màu và cây công
nghiệp ngắn ngày được tưới không ngừng tăng lên qua từng thời kỳ.
Một số vấn đề đặt ra đối với việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho
nông nghiệp là:
- Việc cấp nước nhằm bảo đảm mục tiêu an ninh lương thực là hết sức cần
thiết. Tuy nhiên, cần phải tăng cường hiệu quả của việc khai thác, sử dụng tài

nguyên nước cho nông nghiệp và điều chỉnh phù hợp với định hướng chuyển đổi
cơ cấu nền kinh tế của nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Việc đẩy mạnh chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sử dụng tiết kiệm nước là rất cần thiết.
- Hiện nay, nhiều cơng trình thuỷ lợi đang vận hành dưới công suất thiết kế.
14


Năng lực trữ nước của nhiều hồ chứa nước, nhất là các hồ chứa nhỏ đã bị giảm
đáng kể, một phần do tổn thất lớn, một phần do phải trữ nước ở mức thấp dưới
mức thiết kế để đảm bảo an tồn cho cơng trình. Cơ sở hạ tầng phân phối nước sau
cơng trình đầu mối bị xuống cấp khá nhiều. Tổn thất nước trong quá trình trữ và
phân phối của nhiều hệ thống cơng trình thủy lợi cịn ở mức cao. Việc thu thủy lợi
phí và vấn đề hạch tốn đối với các cơng ty quản lý và khai thác cơng trình thủy lợi
nhằm nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ tưới tiêu nông nghiệp, bảo đảm phù hợp
với nền kinh tế thị trường còn chậm và thiếu đồng bộ. Do đó hiệu quả sử dụng
nước chưa cao. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, với những chính sách mới
trong quản lý đất nơng nghiệp như “dồn điền, dải thửa”, hiệu quả sử dụng nước và
cơng trình thủy lợi có thể tăng lên đáng kể.
- Những bất cập trong việc điều hòa, phân phối nguồn nước, nhất là trong thời
kỳ mùa cạn cùng với nhiều nguyên khách quan khác đã gây ra những đợt hạn hán,
thiếu nước gay gắt kéo dài tại nhiều vùng trên cả nước, làm cho sản xuất nông
nghiệp ngày càng thiếu chủ động. Vấn đề kiểm soát việc sử dụng thuốc trừ sâu,
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật chưa được quan tâm đúng mức.
III.1.3 Sử dụng nước cho phát điện
Với một mạng lưới sông suối khá dày đặc và lượng mưa hàng năm khoảng 2000
mm, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển thủy điện. Tiềm năng lý thuyết
thuỷ điện Việt Nam xác định khoảng 300 tỷ KWh, tiềm năng kỹ thuật xác định
khoảng 123 tỷ KWh tương đương với tổng công suất lắp máy khoảng 31.000 MW.
Tiềm năng kinh tế - kỹ thuật xác định khoảng 75 - 80 tỷ KWh, tương đương với tổng
công suất lắp máy khoảng 18.000 – 20.000 MW. Một phần không nhỏ trong trữ năng

kinh tế - kỹ thuật nêu trên là các thuỷ điện vừa và nhỏ trên các sông nhánh.
Đối với các nhà máy thủy điện lớn và vừa: Hiện nay, tổng công suất lắp máy
các nhà máy đang vận hành là 4.198 MW, gồm 11 nhà máy thuỷ điện lớn là Hồ
Bình (1.920 MW), Yaly (720 MW), Trị An (400 MW), Hàm Thuận (300 MW), Đa
Mi (175 MW), Đa Nhim (160 MW), Thác Mơ (150 MW), Thác Bà (120 MW),
Cần Đơn (78 MW), Sông Hinh (70 MW), Vĩnh Sơn (66 MW), Tuyên Quang (342
MW) trên sông Gâm, Đại Ninh (300 MW) trên sông Đồng Nai và các nhà máy
thuỷ điện nhỏ hơn với tổng công suất lắp máy là 51 MW. Hiện tại, các hồ chứa
thủy điện lớn và vừa có tổng dung tích chứa khoảng trên 19 tỷ m3.
Tập đồn Điện lực Việt Nam (EVN) đã khởi công xây dựng 20 nhà máy thuỷ
điện để đưa vào vận hành những năm 2010 - 2012 với tổng công suất lắp máy
6.768 MW, trong đó có những cơng trình lớn như Sơn La (2.400 MW), Huội
Quảng (520 MW) trên sông Đà, Sê San 4 (360 MW) trên sông Sê San, Bản Vẽ
(320 MW) trên sơng Cả,... Tổng dung tích nước của các hồ này khoảng 23 tỷ m3.
Đối với thủy điện nhỏ: Theo quy hoạch thuỷ điện nhỏ tồn quốc được Bộ
Cơng nghiệp phê duyệt năm 2005 thì số dự án thuỷ điện nhỏ có cơng suất từ
khoảng 1 MW đến 30 MW ở 31 tỉnh có trên 300 nhà máy với tổng công suất lắp
máy khoảng 2.000 - 2.500 MW, tương ứng với điện lượng trung bình hàng năm
khoảng 8 - 10 tỷ KWh. Các địa phương có nhiều thủy điện nhỏ bao gồm Lào Cai,
15


Lâm Đồng, Yên Bái, Nghệ An, Sơn La, Gia Lai, Quảng Nam.
Ngồi ra, về thuỷ điện tích năng, các kết quả nghiên cứu bước đầu đã kiến
nghị 10 cơng trình có tính khả thi ở thời điểm hiện tại, với tổng công suất khoảng
10.000 MW.
Như vậy, nếu các nhà máy thủy điện đi vào vận hành đúng tiến độ thì cho đến
năm 2020, khoảng 87% tiềm năng kinh tế - kỹ thuật của thủy điện Việt Nam đã
được khai thác.
Đối với các nhà máy nhiệt điện, ước tính lượng nước sử dụng khoảng 2,7 tỷ

m tại thời điểm năm 2005 với tổng công suất lắp máy của các nhà máy nhiệt điện
là 6.593 MW. Theo kế hoạch phát triển điện lực Việt Nam, vào năm 2010 tổng
công suất của các nhà máy nhiệt điện là 16.000 MW, chiếm 62% tổng công suất
lắp máy của các nhà máy điện. Nhiều nhà máy nhiệt điện sẽ được xây dựng mới
hoặc nâng cấp như nhiệt điện Quảng Ninh, Mông Dương, Cà Mau, Uông Bí, Ơ
Mơn, Bà Rịa - Vũng Tàu... Như vậy, ước tính sơ bộ lượng nước sử dụng cho các
nhà máy nhiệt điện sẽ là 6,6 tỷ m3 vào năm 2010.
3

Với mục tiêu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhu cầu về
điện tăng khá mạnh, vào khoảng 16% năm từ nay đến 2010. Việc xây dựng thêm
các nhà máy điện, cải tạo, nâng cấp các nhà máy điện đã có là tất yếu. Các nhà
máy thủy điện nói chung đều có ảnh hưởng lớn đến chế độ nguồn nước sơng ngịi.
Một mặt, phát triển thủy điện tạo ra các điều kiện thuận lợi để điều hòa dòng chảy,
trữ nước trong mùa lũ và cung cấp bổ sung cho các mục đích sử dụng trong mùa
cạn. Mặt khác, các hồ chứa thủy điện cũng gây những tác động khơng nhỏ đến chế
độ dịng chảy, chất lượng nước và các hệ thủy sinh ở cả thượng lưu và hạ lưu.
Nhằm bảo đảm công suất phát điện, hiện nay việc vận hành nhiều hồ chứa thủy
điện chưa đáp ứng được mục tiêu hài hịa giữa các lợi ích như chống lũ, cấp nước
sinh hoạt và tưới tiêu nông nghiệp, cải thiện điều kiện môi trường, đẩy mặn... ở
vùng hạ lưu. Đối với các nhà máy nhiệt điện cũng cần một lượng nước khá lớn để
làm mát trong quá trình sản xuất. Lượng nước làm mát này nếu không được quản
lý, kiểm soát chặt chẽ sẽ gây nhiều tác động bất lợi đến tài nguyên, môi trường
nước khi được trả về nguồn.
III.I.4 Cấp nước cho công nghiệp
Căn cứ giá trị sản lượng các sản phẩm cơng nghiệp năm 2005, có thể ước tính
lượng nước tiêu thụ của các ngành cơng nghiệp sử dụng nhiều nước như nhiệt điện,
sản xuất thép (không tính sản phẩm cán, đúc), sản xuất phân đạm, sản xuất xút clo,
bia, chế biến thủy sản, dệt nhuộm, khai thác (than và apatit) của nước ta là 3,54
triệu m3 nước. Trong đó, trên 86% lượng nước sử dụng cho công nghiệp lấy từ

nguồn nước mặt, khoảng 11% từ nước ngầm và chưa đầy 1,2% là nước biển (sản
xuất muối). Sử dụng nước trong công nghiệp hiện đang chiếm khoảng 6,5% tổng
lượng nước khai thác, sử dụng.
Tại các khu công nghiệp tập trung, dựa trên tiêu chuẩn sử dụng nước 60 m3/ha
và mức lấp đầy các khu công nghiệp ở từng vùng, lượng nước sử dụng cho các khu
công nghiệp tập trung trên toàn quốc năm 2005 là 507 triệu m3. Số lượng các khu
16


công nghiệp, cụm công nghiệp địa phương đang hoạt động trong cả nước (chưa kể
vùng Đông Bắc) hiện nay là 204 với tổng diện tích là 6.050 ha và mức lấp đầy
trung bình là 44%. Như vậy, lượng nước tiêu thụ năm 2005 của các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp địa phương khoảng 164 triệu m3.
Tại các làng nghề tiểu thủ cơng nghiệp, ước tính mức tiêu thụ nước năm 2005
cho các hoạt động tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề của cả nước đạt khoảng
215 triệu m3/năm, trong đó vùng đồng bằng sơng Hồng có lượng nước sử dụng lớn
nhất trong cả nước, khoảng 132 triệu m3.
Về nhu cầu nước cho công nghiệp: Theo Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg
ngày 04 tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát
triển tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ
đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020, giá trị sản xuất cơng nghiệp đạt mức tăng
trưởng bình qn 15 - 16%/năm giai đoạn 2006 – 2010, tỷ trọng của công nghiệp
và xây dựng trong GDP đạt 43 - 44% (riêng cơng nghiệp 37 - 38%) năm 2010.
Duy trì tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành công nghiệp ở mức trên
10,2%/năm giai đoạn 2006 - 2010 và trên 10,3%/năm giai đoạn sau 2010.
Với chỉ tiêu tăng trưởng của tồn ngành cơng nghiệp khoảng 15,5 %, có thể
ước tính được mức tiêu thụ nước cho công nghiệp đến năm 2010 là 7,28 tỷ m3 và
đến năm 2020 là 30,75 tỷ m3.
Yêu cầu về chất lượng nước của các ngành công nghiệp khác nhau cũng rất
khác nhau. Một số ngành công nghiệp, nước phải được xử lý bảo đảm các yêu cầu,

tiêu chuẩn về mặt vật lý và hóa học trước khi đưa vào sử dụng, đặc biệt là đối với
công nghiệp thực phẩm, sản xuất giấy và dệt nhuộm.
III.1.5 Nước cho giao thông thủy nội địa
Giao thông thuỷ nội địa đóng vai trị quan trọng trong phát triển ngành giao
thơng vận tải ở Việt Nam nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung của đất nước.
Theo tiêu chuẩn phân cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải năm 2005 thì
kích thước đường thủy loại 1 đối với sông là: độ sâu từ 3.3 đến 3.7 m, độ rộng từ
60 - 125 m; loại 2 là: độ sâu từ 2.5 đến 3.3 m, độ rộng 55 đến 115 m. Hiện nay, tại
khu vực miền Bắc đã đưa vào quản lý, đầu tư khai thác 2.676 km trên tổng số
4.500 km sơng kênh có khả năng khai thác vận tải, đạt tỷ lệ hơn 65 %. Ở vùng
đồng bằng Nam Bộ, hệ thống kênh sơng có khả năng vận tải cũng khá lớn với tổng
chiều dài các tuyến là 3.083 km. Hiện tại, khối lượng vận tải đường sông của khu
vực miền Bắc khoảng 24,4 triệu tấn, miền Trung khoảng 4,3 triệu tấn và miền Nam
khoảng 30,4 triệu tấn. Theo dự báo đến năm 2010, nhu cầu vận tải đường sông của
khu vực miền Bắc là 35 triệu tấn, miền Trung là 6 triệu tấn và miền Nam là 42
triệu tấn. Hiện trạng các tuyến chính tại khu vực miền Bắc và miền Nam đang là
cấp 3 (tuy nhiên có nhiều phân đoạn đạt cấp 2 hoặc cấp 1).
Ngày 3 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
166/2000/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải đường sơng Việt Nam đến năm 2020, trong đó nêu rõ việc tập trung nâng
cấp, cải tạo các luồng tuyến chính, trọng tâm là đưa vào cấp các tuyến sau:
17


- Các tuyến đạt tiêu chuẩn cấp 1: Cửa Đáy - Ninh Bình, Lạch Giang - Hà
Nội, sơng Tiền, sơng Hậu;
- Các tuyến đạt tiêu chuẩn cấp 2: từ Việt Trì, Hà Nội, Ninh Bình đi Hải
Phịng, Quảng Ninh qua sông Đuống và sông Luộc;
- Các tuyến đạt tiêu chuẩn cấp 3: từ thành phố Hồ Chí Minh đi Cà Mau
(qua kênh Xà No), đi Kiên Lương (qua kênh Rạch Giá và qua kênh Tháp Mười Tứ
giác Long Xuyên);

- Các tuyến khác tận dụng điều kiện thiên nhiên kết hợp với cải tạo luồng
để đạt tiêu chuẩn tuyến sông cấp 3 hoặc cấp 4.
Các vấn đề về tài nguyên nước liên quan trực tiếp đến giao thông vận tải
đường thủy nội địa là:
- Hiện nay số liệu về nhu cầu sử dụng nước của ngành vận tải đường sông
chưa được tính tốn cụ thể nhưng trong tương lai nhu cầu này sẽ tăng mạnh, thể
hiện ở hai khía cạnh: tăng lưu lượng trong mùa khô để tăng độ sâu vận tải đồng
thời giảm nhỏ lưu lượng trong mùa lũ để hạn chế tác hại tới vận tải thuỷ. Trong
mùa khô, độ sâu dòng chảy cần tăng từ 0.5 tới 0.8 m ở miền Bắc và từ 0.4 tới 0.6
m ở miền Nam để bảo đảm hiệu quả trong vận tải thuỷ. Tại một số thời điểm thiếu
nước trong mùa cạn thời gian vừa qua, các phương tiện tàu thuyền vận tải đường
thủy nội địa trên sông Hồng chỉ hoạt động ở mức 50% tới 60% tải trọng tối đa do
hệ thống kênh sông không đảm bảo độ sâu vận tải. Ngồi ra, cịn rất nhiều loại xà
lan và tàu khơng thể hoạt động được.
- Do đặc điểm hàm lượng bùn cát trong nước sơng ngịi Việt Nam khá cao,
các tuyến đường thủy chính ln phải đầu tư nạo vét, cải tạo, chỉnh trị luồng lạch,
xử lý bãi cạn... Việc chỉnh trị này lại liên quan đến nhiều ngành như thủy lợi, đê
điều cũng bị hạn chế nhiều trong triển khai thực hiện. Các khu vực vận tải thủy chủ
yếu là miền Bắc và miền Nam cịn nhiều vị trí có tĩnh khơng cầu thấp. Hướng vận
tải thường ngược hướng dịng chảy thường xuyên, nhất là ở miền Bắc, lại chưa tạo
được nguồn hàng hai chiều thích hợp nên hiệu suất vận tải chưa cao.
- Việc khai thác quá mức các vùng thượng lưu và vận hành các hồ chứa nước
thủy lợi, thủy điện làm ảnh hưởng trực tiếp tới mực nước cũng như biến đổi luồng
vận tải là các vấn đề chính để duy trì giao thơng thuỷ trên các dịng sơng. Cơng tác
cập nhật thủy đạc trên các tuyến vận tải chính hiện nay cịn nhiều hạn chế, chưa
đáp ứng các yêu cầu quản lý và điều hành vận tải đường thủy nội địa. An tồn giao
thơng đường thủy chưa được quan tâm đầu tư và kiểm soát chặt chẽ. Giao thông
vận tải đường thủy nội địa được coi là loại hình ít gây ơ nhiễm mơi trường nhưng
thực tế hiện nay cho thấy cần tăng cường giám sát, kiểm tra việc xả nước thải, chất
thải vào nguồn nước trong hoạt động này.

III.1.6 Cấp nước cho thủy sản
Thủy sản là một trong những ngành sản xuất được ưu tiên phát triển nhằm
mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước. Ni trồng thuỷ sản trong thời gian
qua có tốc độ phát triển nhanh (tăng 4 - 5%/ năm), góp phần thay đổi cơ cấu kinh
18


tế vùng nông thôn ven biển, giải quyết việc làm, xố đói, giảm nghèo, tăng thu
nhập cho ngư dân.
Hiện nay, cả nước có 98.980 ha diện tích ni cá tại các ao hồ, 239.379 ha
nuôi cá mặt ruộng, 478.800 ha diện tích ni tơm nước lợ. Sản lượng ni trồng
thủy sản nước ngọt là 721.000 tấn, tôm nước lợ là 250.330 tấn. Nuôi tôm nước lợ,
nuôi tôm nước ngọt đang được phát triển mạnh, tập trung chủ yếu ở đồng bằng
sông Cửu Long, đạt gần 300 ngàn ha.
Tổng lượng nước cho nuôi trồng thủy sản là 36,41 tỷ m3/năm, tập trung chủ
yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và lưu vực sơng Hồng và sơng Thái Bình.
Lượng nước dùng cho chế biến thuỷ sản trong năm 2005 khoảng 0,24 tỷ m3. Tổng
nhu cầu nước cho thủy sản trong cả nước năm 2005 ước tính khoảng 36,65 tỷ m3.
Ngành thủy sản hiện có trên 370 trại sản xuất giống thuỷ sản nước ngọt, hàng năm
dùng nước liên tục. Nhất là trong mùa vụ cho đẻ, lượng nước chảy suốt ngày đêm,
mỗi trại bình quân tiêu tốn 1.000 m3 nước/ ngày đêm. Hiện nay ngành thuỷ sản có
hơn 280 nhà máy chế biến và hàng nghìn cơ sở chế biến thủ công, hàng chục dây
chuyền sản xuất đá đông lạnh sản xuất 830 tấn/ ngày, các kho lạnh công suất làm
nước đá tới 3.300 tấn ngày, 28 tàu vận tải lạnh sức chở 6.000 tấn. Những nhà máy
chế biến thuỷ sản hoạt động thường xuyên cùng với hàng ngàn cơ sở thu mua, sơ
chế và hàng ngàn cơ sở chế biến nước mắm hàng năm cũng sử dụng một lượng
nước khá lớn.
- Về nhu cầu nước cho thủy sản:
Theo Quyết định số 10/2006/QĐ-TTg ngày 11/01/2006 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm

2010 và định hướng đến năm 2020, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2010
đạt 2 triệu tấn. Trong đó, ni nước ngọt đạt 0,98 triệu tấn, nuôi mặn lợ đạt 1,02
triệu tấn (nuôi biển đạt 0,2 triệu tấn). Diện tích đưa vào ni trồng thủy sản từ 1,1 1,4 triệu ha. Trong đó, diện tích ni nước ngọt từ 0,5 - 0,6 triệu ha, diện tích nuôi
mặn lợ từ 0,6 - 0,8 triệu ha.
Theo quy hoạch trên, nhu cầu cấp nước cho nuôi trồng thủy sản trong cả nước
vào năm 2010 sẽ từ 50 đến 63 tỷ m3, nhu cầu nước cho chế biến thủy sản khoảng
0,5 tỷ m3.
Vấn đề chính về tài nguyên nước đối với ngành thủy sản là bảo đảm chất
lượng nguồn nước cấp và kiểm soát chặt chẽ nước thải từ các hoạt động nuôi trồng
và chế biến thủy sản. Nhiều địa phương nuôi tôm trên cát đã tiến hành khai thác
quá mức nước dưới đất, làm hạ thấp mực nước, xâm nhập mặt và ơ nhiễm nguồn
nước ngầm. Việc kiểm sốt thức ăn dùng trong nuôi trồng thủy sản nhằm bảo đảm
chính các sản phẩm thủy sản và bảo vệ tài ngun nước, phịng, chống suy thối, ơ
nhiễm nguồn nước cần phải đặc biệt quan tâm.
III.1.7 Nước cho du lịch và giải trí
Mục tiêu của Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010
(phê duyệt tại Quyết định số 97/2002/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm 2002 của Thủ
tướng Chính phủ) là: Phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên
19


cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống
văn hoá lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ
trợ quốc tế, góp phần thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Từng bước
đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu sau
năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát
triển trong khu vực.
Trong phát triển du lịch, lượng nước yêu cầu không lớn so với nơng nghiệp
nhưng địi hỏi phải có chất lượng cao. Theo số liệu thống kê của Tổng cục du lịch,
số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tính đến hết tháng 12/2006 là 3,6

triệu lượt khách nước ngoài và 14,5 triệu khách nội địa. Thời gian lưu trú đối với
khách nước ngồi trung bình là 5,5 ngày, khách du lịch nội địa là 1,5 ngày. Lượng
nước sử dụng cho du khách sẽ là 9,3 triệu m3, trong đó 4,95 triệu m3 dùng cho
khách nước ngoài, 4,35 triệu m3 dùng cho khách nội địa.
Theo kết quả nghiên cứu dự án “Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch đến năm 2010” của Viện Nghiên cứu phát triển du lịch - Tổng cục Du lịch thì
đến năm 2010, lượng khách quốc tế sẽ là 6 triệu lượt khách, thời gian lưu trú trung
bình là 6 ngày; khách du lịch nội địa sẽ là 25 triệu, và thời gian lưu trú là 2 ngày.
Tương ứng với lượng nước sử dụng cho khách nước ngoài là 9 triệu m3, cho khách
trong nước 10 triệu m3 vào năm 2010.
Nhu cầu nước cho phát triển du lịch cần được xét đến ở lượng nước sử dụng
cho du khách và lượng nước để duy trì các điểm du lịch cũng như các hoạt động
dịch vụ khác phục vụ du khách. Đặc biệt trong thời gian tới chú trọng phát triển
các khu du lịch sinh thái.
III.2 Vấn đề xả nước thải và ô nhiễm nguồn nước
Hầu hết nước thải đô thị đều chưa được xử lý trước khi thải. Theo ước tính sơ
bộ, hiện nay chỉ có khoảng 4,26% lượng nước thải cơng nghiệp được xử lý đạt tiêu
chuẩn trước khi xả ra môi trường. Ngồi ra, nước rị rỉ từ các bãi rác cũng là một
trong những nguồn gây ô nhiễm nghiêm trọng nước mặt và nước dưới đất. Các
thành phố lớn hiện không có hệ thống xử lý nước thải. Nhiều cơ sở sản xuất không
xử lý nước thải. Phần lớn các bệnh viện và các cơ sở y tế khơng có hệ thống xử lý
nước thải. Trên cả nước hiện nay có khoảng hơn 1.000 bệnh viện, mỗi ngày thải ra
hàng trăm ngàn m3 nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý khơng đạt tiêu chuẩn cho
phép. Hàng năm, lượng hóa chất bảo vệ thực vật được sử dụng trong nông nghiệp
khoảng 0,5 đến 3,5 kg/ha/vụ, dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật và phân khoáng
sử dụng trong sản xuất nông nghiệp cũng gây ra phú dưỡng hoặc nhiễm độc nước.
Ngoài ra, hoạt động của trên 1.450 làng nghề trong cả nước tạo ra một lượng nước
thải và chất thải rắn xả vào môi trường một cách bừa bãi và khơng được xử lý nên
gây ra tình trạng ơ nhiễm nguồn nước tại nhiều điểm, đặc biệt là các làng nghề giết
mổ gia súc, làm giấy, dệt, nhuộm.

Nhìn chung, nước thải từ mọi nguồn sinh hoạt, công nghiệp, thuỷ sản, nơng
nghiệp, làng nghề, du lịch... thường đổ vào các lịng dẫn rồi chảy vào hệ thống
sông. Chỉ một phần rất nhỏ nguồn thải này được xử lý trước khi nhập vào sông.
20


Một lượng lớn chất thải rắn trong thành phố không thu gom hết được... là những
nguồn gây ô nhiễm nước. Hiện nay mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các
thành phố lớn là rất nặng.
Ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 400.000 m3/ ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải,
36/400 cơ sở sản xuất có xử lý nước thải; lượng nước thải sinh hoạt chưa được thu
gom khoảng 1.200 m3/ngày đang xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương
trong nội thành; chỉ số BOD, ơ xy hồ tan, các chất NH4, NO2-, NO3- ở các sông,
hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép nhiều lần.
Theo báo cáo Hiện trạng môi trường năm 2005, hệ thống sông Đồng Nai - Sài
Gòn mỗi ngày tiếp nhận khoảng 115.600 m3 nước thải từ các khu công nghiệp, khu
chế xuất từ các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trong đó có chứa
khoảng 15 tấn TSS, 77 tấn COD, 22 tấn BOD5, 1,6 tấn Nitơ và 500 kg Phốt pho tổng
làm cho nồng độ một số chất trong nước sông vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần.
Đối với lưu vực sông Cầu, chỉ riêng ở Thái Nguyên với 10 cơ sở khai thác
mỏ, bơm nước tháo khô mỏ và nước tuyển khoáng với tổng tải lượng 2,4 triệu
m3/năm; lượng nước thải từ 29 cơ sở chế biến khoáng sản là 24 triệu m3/năm, có
tải lượng khá lớn kim loại nặng tự do thải vào sông. Nước thải từ các mỏ khai thác
chì, kẽm ở Chợ Đồn, Lang Hít có nồng độ chì, kẽm cao. Nước thải từ các mỏ thiếc
La Bằng, Cù Vân chứa nhiều chất lơ lửng, bùn, sét, nồng độ dầu mỡ cao. Nước
thải từ khu vực khai thác vàng ở Đông Hưng, Võ Nhai, Trại Cau có hàm lượng
thủy ngân cao. Về mùa cạn tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên
gồm nước thải công nghiệp từ các cơ sở sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim
mầu, khai thác than chiếm khoảng 15% lượng dịng chảy sơng Cầu.
Ngành thủy sản cũng thải ra một lượng nước thải lớn từ công nghiệp chế biến

thuỷ sản như nước thải sản xuất, nước thải vệ sinh cơng nghiệp và nước thải sinh
hoạt. Chỉ tính riêng 20 xí nghiệp chế biến thuỷ hải sản trong năm 2001 đã thải ra
trên một triệu m3. Bình quân mỗi ngày 300 - 400 m3 nước thải/1 xí nghiệp. Lượng
nước tiêu hao trong chế biến thuỷ sản đông lạnh cũng lớn, từ 10 - 70 m3 nước/1 tấn
thành phẩm. Các hoạt động sản xuất khác như sản xuất nước mắm, hàng khô...cũng
thải ra hàng ngàn m3 cho một tấn sản phẩm. Số liệu của ngành xây dựng cho thấy
trung bình mỗi ngày nước thải từ các đô thị, khu công nghiệp, cơ sở công nghiệp,
du lịch đổ vào nguồn nước mặt khoảng 4 triệu m3.
Nhiều vùng, đặc biệt ở đồng bằng sơng Cửu Long, nguồn nước có độ pH
thấp, có tới khoảng 1 - 1,2 triệu ha diện tích đất bị chua phèn với pH < 5. Vùng
Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và bán đảo Cà Mau bị chua phèn khá
nghiêm trọng. Thời gian chịu ảnh hưởng chua phèn kéo dài khoảng 3 tháng, từ
cuối mùa khô đến đầu mùa mưa.
Nước sơng ngịi, kênh rạch đầm lầy và đồng ruộng ở vùng ven biển thường bị
mặn do nước triều xâm nhập vào, nhất là trong mùa cạn. ở đồng bằng sơng Cửu
Long, có khoảng 1,7 triệu ha đất bị nhiễm mặn từ Biển Đông và Biển Tây. Ranh
giới mặn thay đổi theo mùa và có khả năng ảnh hưởng khá sâu vào nội địa làm ảnh
21


hưởng xấu tới canh tác nông nghiệp. ở các sông lớn như sơng Hồng và sơng Thái
bình, độ mặn và khu vực bị ảnh hưởng nhiễm mặn được giảm đi nhiều khi có các
cơng trình hồ chứa nước điều tiết nước trên thượng lưu sông.
Chất lượng nước hồ tự nhiên và các hồ chứa ở nước ta hiện nay nói chung cịn
tốt, có thể sử dụng để cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt (qua xử lý). Các thành
phần hố học nước hồ chứa thay đổi khơng nhiều so với nước sông tự nhiên trước
khi ngăn sông.
III.3 Thiên tai ở Việt Nam
III.3.1 Lũ lụt
Lũ lụt thường xảy ra trong thời kỳ giữa mùa mưa khi trên lưu vực xuất hiện

lượng mưa lớn. Lũ lụt thường rất nghiêm trọng ở các vùng hạ du có cao độ măt đất
thấp. Lũ lụt là một trong các thiên tai gây nhiều hậu quả nghiêm trọng nhất đối với
sự phát triển kinh tế xã hội và ảnh hưởng lớn đến đời sống con người.
Khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khơ đã hình
thành chế độ thuỷ văn mùa lũ và chế độ thuỷ văn mùa cạn trên các hệ thống sơng
ngịi. Mùa lũ hàng năm ở Việt Nam thường xuất hiện từ các tháng V, VI và kết
thúc vào tháng IX, X ở Bắc Bộ và phần phía bắc của Bắc Trung Bộ, các tháng VI,
VII đến tháng X, XI ở Nam Bộ và phần phía tây của dãy Trường Sơn, các tháng
IX, X đến tháng XII ở ven biển Nam Trung Bộ. Lũ hàng năm thường kéo dài từ 3 4 tháng đến 5 - 6 tháng tuỳ từng nơi. Lũ tiểu mãn thường xuất hiện rất sớm vào đầu
mùa lũ từ tháng 5 đến tháng 6 hàng năm nhưng có biên độ nhỏ và thường rút
nhanh. Tuy nhiên, có năm lũ tiểu mãn lớn hơn lũ chính vụ như năm 1983 xảy ra
trên sơng Hương. Lũ chính vụ thường xuất hiện trong thời kỳ có mưa to, thường
vào các tháng VII, VIII, IX. Càng vào miền Nam lũ chính vụ xuất hiện càng muộn.
Lượng dòng chảy mùa lũ chiếm khoảng 60 - 85% lượng dịng chảy tồn năm.
Tỷ lệ tổng lượng dịng chảy trong mùa lũ ở ven biển Nam Trung Bộ (chỉ kéo dài 3
- 4 tháng) là rất cao (60 - 70% lượng dịng chảy tồn năm tập trung vào mùa lũ).
Lượng dịng chảy trung bình tháng lớn nhất thường xuất hiện vào tháng VII, VIII
trên các sông ở Bắc Bộ, phần phía bắc của Bắc Trung Bộ, tháng IX, X ở phần phía
nam của Bắc Trung Bộ, ở Tây Nguyên và Nam Bộ, tháng XI ở ven biển Nam
Trung Bộ. Lượng dòng chảy của các tháng này chiếm khoảng 20 - 30% tổng lượng
dòng chảy năm. Lũ lớn nhất hàng năm ở đây cũng thường xuất hiện vào tháng này.
Lũ trên các sông suối vừa và nhỏ lên nhanh và thường rút cũng nhanh, tốc độ
chảy lớn; mô đun đỉnh lũ khá lớn, từ 1 - 5 m3/s.km2 đến trên 20 m3/s.km2, thuộc
loại lớn trên thế giới. Lũ quét trên nhiều sông suối vừa và nhỏ thường xảy ra ở một
số tỉnh miền núi phía bắc, miền Trung và ven biển Nam Trung Bộ. Lũ lớn và đặc
biệt lớn trên các sông vừa và lớn gây ra tổn thất to lớn về người và của, gây ngập
lụt ở các vùng trũng ven sơng và đồng bằng hạ lưu. Đó là các trận lũ lịch sử vào
vác năm 1945, 1971 trên sông Hồng, trận lũ đặc biệt lớn năm 1964, 1999 ở ven
biển Miền Trung, trận lũ 1952 ở sông Đồng Nai và các trận lũ 1961, 1966, 1978,
1984, 1991, 1994, 1996, 2000, 2001, 2002 ở đồng bằng sông Cửu Long.

Hàng năm lũ lụt xẩy ra khác nhau trên các sông ở các vùng trên cả nước và
22


thường chậm dần về phía Nam với độ lệch xuất hiện giữa các vùng thường khoảng
1 tháng. Các sông Bắc Bộ và bắc Thanh Hoá: Từ tháng VI đến tháng X. Các sơng
ven biển từ Nam Thanh Hố đến Hà Tĩnh:Từ tháng VII đến XI, các sông ven biển
từ Quảng Bình đến Ninh Thuận: từ tháng IX đến tháng XI. Các sông Nam Bộ và
Tây Nguyên: Từ tháng VII đến tháng XI.
III.3.2 Hạn hán
Mùa khô kéo dài 6 - 9 tháng tuỳ từng vùng, nhưng lượng dòng chảy chỉ chiếm
15-40% tổng lượng dòng chảy năm. Ở ven biển Trung Bộ, sau lũ đầu mùa lại là
giai đoạn khơ nóng, mưa ít. Cho nên, dù không lớn, lượng lũ này cũng là nguồn
cung cấp nước quan trọng cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp trong mùa khô
hạn. Trong mùa cạn, ba tháng liên tục có lượng dịng chảy nhỏ nhất dưới 2-3%
lượng dịng chảy năm, xuất hiện khơng đồng thời giữa các vùng. Thời gian xuất
hiện thường chậm dần từ Bắc vào Nam.
Theo kết quả nghiên cứu của ngành Khí tượng Thuỷ văn về diễn biến hạn từ
năm 1960 đến năm 1998, số năm không bị hạn nhỏ hơn nhiều so với số năm bị hạn
(chiếm khoảng 25%). Năm 1993, 1998, hạn hán xẩy ra trên diện rộng tại các vùng
trong cả nước.
Việc xây dựng mới các cơng trình thuỷ lợi để cấp nước tưới và sửa chữa,
nâng cấp các hệ thống cơng trình thuỷ lợi tưới tiêu để tăng năng lực tưới của cơng
trình, sử dụng và khai thác nước ngầm phục vụ tưới, cộng với các biện pháp phi
cơng trình như xây dựng cơ chế, chính sách, thay đổi cơ cấu cây trồng, thông tin
dự báo, bảo vệ rừng đầu nguồn là những biện pháp rất quan trọng để đối phó với
hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt này.
III.3.4 Các loại hình thiên tai khác
Ngồi hai loại hình thiên tai chính trên đây, Việt Nam là một trong những
quốc gia có nhiều loại hình thiên tai nhất trên thế giới, bao gồm cả những loại hình

thiên tai đặc trưng của một nước có điều kiện tự nhiên đa dạng và phức tạp. Trong
những năm gần đây, do tác động của nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan,
các loại thiên tai có xu thế gia tăng cả về tần suất xuất hiện, mức độ và phạm vi
ảnh hưởng. Về vấn đề phân vùng thiên tai, theo các chuyên gia trong và ngồi
nước, Việt Nam có thể chia làm 8 vùng: miền núi Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng,
Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Bắc Nam Bộ, đồng bằng sông
Cửu Long và vùng duyên hải. Các loại thiên tai và mức độ nghiêm trọng ở từng
vùng trong cả nước được trình bày trong Bảng I.1.
Bảng I.1: Mức độ nghiêm trọng của thiên tai ở từng vùng

Các loại thiên tai

Bão


Miền
núi
Bắc Bộ

+++
-

Đồng
bằng
sông
Hồng
++++
++++

Bắc

Trung
Bộ

++++
++++
23

Các vùng
Nam
Tây
Trung Nguyên
Bộ

++++
+++

++
+++

Đông
Bắc
Nam
Bộ
+++
+++

Đồng Vùng
bằng duyên
sông
hải

Cửu
Long
+++
++++
+++++ ++++


×