Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ của THỊ TRƯỜNG kỳ hạn TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH của NGÂN HÀNG THƯƠNG mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.68 KB, 20 trang )

Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
Đề tài:VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG KỲ HẠN TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Phần 1: VAI TRÒ CÁC SẢN PHẨM PHÁI SINH TRÊN THỊ TRƯỜNG KÌ HẠN
TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.Thị trường kỳ hạn
1.1 Khái niệm
- Thị trường tài chính phái sinh là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán quyền sử
dụng các công cụ tài chính phái sinh thông qua những phương thức nhất định.
- Thị trường kỳ hạn là nơi tiến hành các giao dịch hàng hóa có tính kỳ hạn
1.2 Vai trò
- Quản trị rủi ro
Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi ro của
mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là những nhà đầu
cơ. Vì vậy, thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu
tư, không có ai cần phải chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp với bản thân mình. Và
cũng vì thế mà họ sẵn sàng cung cấp nhiều vốn hơn cho thị trường tài chính, điều này tạo
điều kiện cho nền kinh tế phát triển, phát huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử
dụng vốn. Bên cạnh đó, thị trường các sản phẩm phái sinh cũng là một công cụ hiệu quả
cho hoạt động đầu cơ. Bởi người muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một người khác
có nhu cầu đối lập hoàn toàn với mình, tức là rủi ro của người muốn phòng ngừa rủi ro
phải được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Tại sao các giao dịch này lại có thể được thực
hiện, khi mà thực tế rõ ràng là khi một bên có lợi thì tất yếu bên còn lại sẽ không thể
tránh khỏi những thiệt hại? Bởi mỗi nhà đầu tư có một “khẩu vị rủi ro” khác nhau, khả
năng chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Tuy nhiên, ai cũng có mong muốn là giữ cho các
khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Và thế là họ gặp nhau và
tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình cho đối tác.
Không giống như người ta thường nghĩ, thị trường phái sinh không dẫn vốn trong
nền kinh tế vào những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Những nhà đầu cơ không phải là
những tay cờ bạc. Chỉ đơn giản là thay vì giao dịch cổ phiếu, họ giao dịch các sản phẩm
1 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521


Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
phái sinh và chính việc đầu tư vào công cụ tài chính phái sinh lại tạo điều kiện cho việc
phòng ngừa các rủi ro ít tốn kém hơn và hiệu quả hơn. Bởi cần khẳng định chắc chắn
rằng, thị trường phái sinh không hề tạo ra mà cũng chẳng thể phá huỷ được tài sản, chúng
chỉ là những phương tiện chuyển giao rủi ro trên thị trường, những rủi ro sẵn có cuả thị
trường tài sản, chuyển những khoản rủi ro đó từ những không đủ khả năng chấp nhận nó
sang những người sẵn sàng tiếp nhận nó, chính là những nhà đầu cơ. Không có thêm bất
kỳ một rủi ro nào được sinh ra trên thị trường này. Và lợi ích từ thị trường không chỉ bó
hẹp trong lợi ích của những nhà đầu cơ mà nó lan toả ra toàn xã hội.
- Thông tin hiệu quả hình thành giá
Các thị trường kỳ hạn và tương lai là nguồn thông tin quan trọng đối với giá cả.
Đặc biệt, thị trường tương lai được xem là một công cụ chủ yếu để xác định giá giao ngay
của tài sản. Điều này không hề bất bình thường, bởi có rất nhiều hàng hoá được giao dịch
trên thị trường tương lai nhưng thị trường giao ngay của nó rất rộng lớn và phân tán nên
rất khó có thể xác định được giá giao ngay của chúng. Ở đây, thường giá tương lai của
những giao dịch sớm nhất sẽ được xác định là giá giao ngay. Thêm nữa, thị trường giao
sau, trên thế giới thường nhộn nhịp hơn nên các thông tin do nó cung cấp có tính tin cậy
cao hơn. Những thông tin được cung cấp trên thị trường phái sinh dù trực tiếp hay gián
tiếp đều góp phần hình thành giá giao ngay trong tương lai một cách có hiệu quả mà
những người tham gia thị trường có thể chốt lại trong giới hạn chấp nhận của mình.
- Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả.
Thứ nhất, chi phí giao dịch thấp hơn. Điều này làm cho việc chuyển hướng từ các
giao dịch giao ngay sang phái sinh ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn.
Thứ hai, tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Trước hết đó là
yêu cầu một mức vốn để tham gia thị trường là tương đối thấp. Thêm nữa, tỷ suất sinh lời
và rủi ro có thể được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như mong muốn.
Thứ ba, Các giao dịch bán khống được thực hiện dễ dàng hơn. Ngoài ra, các nhà
đầu tư có thể tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch giá, chênh
lệch lãi suất. Tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm thấy lợi nhuận.
Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế, các nhà đầu cơ

với ý định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất định. Chính vì thế, đặt bên
cạnh thị trường giao ngay, sự hiệu quả của thị trường phái sinh giúp nâng cao tính lành
mạnh cho thị trường đó.
2 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
- Đầu cơ rủi ro: là việc nhà đầu tư đưa ra dự đoán biến động tương lai của thị trường và
đánh cược với dự đoán đó. Các hợp đồng phái sinh là công cụ hữu hiệu để thực hiện việc
đầu cơ bằng việ duy trì trạng thái “trường” hoặc “đoản” đối với các gốc phái sinh phù
hợp. Ví dụ nhà đầu tư tin rằng giá cổ phiếu sẽ tăng, họ có thể thực hiện mua hợp đồng cổ
phiếu có kỳ hoặc mua quyền chọn mua cổ phiếu. Ngược lại, nếu nhà đầu tư tin rằng giá
cổ phiếu sẽ giảm, họ có thể thực hiện bán hợp đồng cổ phiếu có kỳ hạn hoặc mua quyền
chọn bán cổ phiếu.
2. Vai trò công cụ tài chính phái sinh của thị trường kỳ hạn trong các ngân hàng
thương mại.
Kinh doanh các nghiệp vụ phái sinh sẽ mang lại cho các ngân hàng nhiều lợi ích
Thứ nhất, hoạt động kinh doanh của ngân hàng có nhiều rủi ro, kinh doanh nghiệp vụ
phái sinh giúp các ngân hàng có thể bù đắp được rủi ro thông qua hoạt động bù trừ giữa
các giao dịch.
Thứ hai, kinh doanh nghiệp vụ phái sinh sẽ làm sản phẩm kinh doanh của ngân hàng
thêm đa dạng, phong phú, từ đó làm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng.
Thứ ba, kinh doanh nghiệp vụ phái sinh đòi hỏi ngân hàng phải có đội ngũ nhân viên
giỏi, có hệ thống công nghệ hiện đại, do đó sẽ nâng cao uy tín, thương hiệu của các ngân
hàng không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài.
Các nghiệp vụ phái sinh là sản phẩm tất yếu của thị trường tài chính hiện đại. Đó
thực chất là các hợp đồng tài chính mà giá trị của nó phụ thuộc vào một hợp đồng mua
bán cơ sở. Các nghiệp vụ tài chính phái sinh bao gồm: giao dịch kỳ hạn (Forward), tương
lai (Futures), quyền chọn (Options) và hoán đổi (Swaps). Trong đó, giao dịch kỳ hạn,
hoán đổi chỉ được thực hiện trên thị trường OTC (thị trường phi tập trung); giao dịch
tương lai được thực hiện trên thị trường tập trung; còn giao dịch quyền chọn có thể thực

hiện trên cả hai thị trường.
2.1 Hợp đồng kỳ hạn
2.1.1 Hợp đồng kỳ hạn ngoại tệ
Trong hoạt động ngoại thương, thời điểm ký kết hợp đồng và thời điểm thanh toán
thường có độ lệch thời gian nhất định, do đó, nhà kinh doanh xuất nhập khẩu phải đối
mặt với rủi ro tỷ giá. Tuy nhiên nhà nhập khẩu và xuất khẩu không phải là những chuyên
gia trong thương mại quốc tế, họ không kỳ vọng lãi từ chênh lệch tỷ giá mà họ kỳ vọng
3 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
vào lãi từ chênh lệch giữa giá mua và giá bán hàng hóa là chính. Chính vì vậy họ thường
mong muốn tỷ giá được ổn định hoặc được cố định từ trước, để tập trung vào việc kinh
doanh chính của mình đồng thời có thể hạch toán được lỗ lãi một cách chắc chắn đối với
từng thương vụ. Đáp ứng nhu cầu đó các NHTM đã cung cấp các sản phẩm phái sinh,
một trong những sản phẩm phái sinh đó là hợp đồng kỳ hạn ngoại tệ.
Vậy loại hợp đồng này đã cung cấp phương tiện phòng ngừa rủi ro hối đoái cho
các chủ thể tham gia thị trường, tức là rủi ro phát sinh do sự biến động bất thường của tỷ
giá gây ra. Với tư cách là công cụ phòng ngừa rủi ro, hợp đồng có kỳ hạn được sử dụng
để cố định khoản thu nhập hay chi trả theo một tỷ giá cố định đã biết trước, bất chấp sự
biến động tỷ giá trên thị trường.
Một ứng dụng nữa của hợp đồng kỳ hạn ngoại tệ là các nhà đầu tư quốc tế cần
mua ngoại tệ để đầu tư. Họ cần bán ngoại tệ từ nguồn thu nhập như cổ tức, lãi suất và thu
hồi vốn.
2.1.2 Hợp đồng kỳ hạn lãi suất
Nhà đầu tư mua hợp đồng kì hạn lãi suất sẽ thanh toán lãi suất cố định đồng thời
nhận lãi suất tham chiếu tính cho khoản vay tham chiếu trong một kì hạn định trước.
Ngược lại, nhà đầu tư bán hợp đồng kì hạn lãi suất sẽ nhận lãi suất cố định và thanh toán
lãi suất tham chiếu.
Hợp đồng kì hạn lãi suất có thể sử dụng như một công cụ giảm thiểu rủi ro đối với sự
biến động của lãi suất hoặc cho mục đích đầu cơ biến động lãi suất. Nhà đầu tư có thể sử
dụng hợp đồng kì hạn lãi suất nhằm

- Cố định thu nhập đối với một khoản đầu tư hay chi phí đối với một khoản vay
- Bảo hiểm giá trị danh mục đầu tư
- Lấp khe hở kì hạn danh mục đầu tư
- Đầu cơ xu hướng biến động lãi suất
Nhưng ở Việt Nam hiện nay thì rất ít áp dụng.
Những vai trò riêng của mỗi loại trong hợp đồng kỳ hạn lãi suất:
+Hợp đồng kì hạn trái phiếu
Giữa thị giá trái phiếu với mức lãi suất thị trường có mối quan hệ nghịch biến, nên nhà
quản trị NH có thể sử dụng quy tắc này để phòng ngừa rủi ro lãi suất đối với trái phiếu.
Chẳng hạn, nếu lãi suất thị trường dự báo sẽ tăng (nghiã là giá trái phiếu giảm), nhà quản
trị NH có thể bán kì hạn các trái phiếu theo giá hiện tại. Khi hợp đồng kì hạn đến hạn nếu
lãi suất tăng lên đúng như dự báo, nhà quản trị sẽ thực hiện việc bán trái phiếu cho người
mua theo giá đã thỏa thuận cố định trong hợp đồng, do đó tránh được thiệt hại do giá trái
phiếu giảm. Ngược lại, nếu NH dự báo lãi suất thị trường sẽ giảm, nhà quản trị có thể kí
kết các hợp đồng mua kì hạn các trái phiếu để phòng ngừa rủi ro lãi suất.
4 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
+ Hợp đồng kì hạn tiền gửi
Như chúng ta đã biết đặc trưng kinh doanh của NH là huy động tiền gửi có thời hạn ngắn
để tài trợ cho các khoản cho vay có thời hạn dài hơn. Nếu các khoản cho vay có lãi suất
là cố định, trong khi đó, theo dự báo của NH thì lãi suất thị trường lại có xu hướng tăng
lên trong tương lai. Tình huống này đặt NH đứng trước rủi ro lãi suất. Để tránh rủi ro lãi
suất, NH có thể tiến hành kí một hợp đồng kì hạn tiền gửi (Forward – Forwars Deposit –
FFD) với một đối tác khác, với các nội dung được mô tả theo ví dụ sau:
- Hôm nay, NH kí một hợp đồng tín dụng với khách hàng có mức lãi suất cố định,
thời hạn từ to đến t
2
.
- Hiện tại, NH chỉ huy động được nguồn vốn có thời hạn từ t
0

đến t
1
- Để phòng ngừa rủi ro do lãi suất có thể tăng tại thời điểm t
1
(trong đó; to<t
1
<t
2
)
ngân hàng phải huy động vốn để tài trợ tiềp cho khoản tín dụng trong khoảng thời
gian còn lại từ t
1
đến t
2
. Ngay ngày hôm nay, ngân hàng kí một hợp đồng kì hạn
với một đối tác, rằng: Tại thời điểm t
1
, ngân hàng cam kết sẽ nhận và phía đối tác
cam kết sẽ gửi một lượng tiền nhất định, với mức lãi suất cố định, thời hạn từ t
1
đến t
2
.
Với hợp đồng kì hạn tiền gửi này, ngân hàng đã hoàn toàn tránh được rủi ro lãi suất,
nghĩa là thu nhập của NH từ chênh lệch lãi suất cho vay và huy động là một số biết trước
và chắc chắn, nghĩa là không phụ thuộc vào biến động của lãi suất thị trường trong suốt
khoảng thời gian từ t
0
đến t
2

. Ngoài ra, với hợp đồng kì hạn tiền gửi này, NH cũng đồng
thời tránh được rủi ro thanh khoản.
2.2 Hợp đồng tương lai
*Khái niệm: hợp đồng tương lai là một hợp đồng cam kết có kỳ hạn, cam kết mua bán
trong tương lai với mức giá thỏa thuận này tại thời điểm hiện tại theo quy chuẩn của sở
giao dịch.
*Vai trò:
- Đầu cơ
Hoạt động giao dịch trên thị trường tương lai là hoạt động đầu cơ. Người mua hợp đồng
tương lai dự đoán thị trường giá tăng (ngoại tệ) tăng, sẽ có lời và được ghi có vào tài
khoản và ngược lại. Đối với người bán hợp đồng tương lai khi giá sẽ xuống, sẽ lãi và ghi
có vào tài khoản và ngược lại. Khi đó nhà đầu tư trở thành những nhà đầu cơ thực hiện
các hoạt động mua bán nhằm mục đích sinh lời.
- Phòng chống rủi ro
Ngoài ứng dụng trong hoạt động đầu cơ, hợp đồng tương lai còn được sử dụng để quản lý
và phòng chống rủi ro. Với hoạt động ngoại hối có thể giải thích như sau: khi một nhà
đầu tư đang có một khoản nợ bằng ngoại, nhà đầu tư đó sẽ mua một hợp đồng tương lai
5 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
bằng ngoại tệ. Khi đó có thể tạo ra hai trạng thái ngoại tệ trái ngược nhau: một là, trạng
thái âm khi nợ một khoản phải trả; hai là, trạng thái dương khi mua hợp đồng tương lai
với cùng loại ngoại tệ đó. Hai trạng thái ngoại tệ tráichiều nhau ấy sẽ tự hóa giải rủi ro.
Trường hợp có một khoản phải thu, thay vì khoản phải trả, thì làm ngược lại.
2.3 Hợp đồng hoán đổi
2.3.1 Hợp đồng hoán đổi hối đoái
+ Giảm thiểu rủi ro tỷ giá, hối đoái
Nhà đầu tư có nguồn thu tương lai bằng ngoại tệ sẽ muốn bảo hiểm tỷ giá bằng
cách cố định tỷ giá cho tương lai ngay tại thời điểm hiện tại.
+ Thay thế ngoại tệ cho mục đích đầu tư ra nước ngoài
Nhà đầu tư có nhu cầu ngoại tệ để đầu tư, thay vì vay ngoại tệ, có thể thực hiện

hợp đồng hoán đổi hối đoái để hoán đổi nội tệ lấy ngoại tệ để đầu tư ra nước ngoài mà
không chịu rủi ro tỷ giá. Đến cuối mỗi kỳ đáo hạn, nhà đầu tư có thể đảo hợp đồng hoán
đổi hối đoái.
+ Gia hạn hợp đồng ngoại tệ kỳ hạn
Khi nhà đầu tư ký kết một hợp đồng kỳ hạn ngoại tệ muốn gia hạn tiếp trong một
khoảng thời gian 3 tháng, thay vì thực hiện một giao dịch trao ngay và giao dịch kỳ hạn
với một cách riêng biệt, có thể ký kết một giao dịch hoán đổi hối đoái trong vòng 3 tháng.
Việc thực hiện giao dịch hối đoái trong trường hợp này sẽ giảm thiểu chi phí giao dịch,
đồng thời giúp nhà đầu tư thương lượng mức giá tốt nhất với ngân hàng, do đó tiết kiệm
chi phí. Đây là một trong những ứng dụng quan trọng của hợp đồng hoán đổi mà được
nhà đầu tư rất quan tâm.
2.3.2 Hợp đồng hoán đổi tiền tệ
+ Chuyển đối cơ cấu tiền tệ của tài sản hoặc nguồn vốn
Hợp đồng hoán đổi tiền tệ có thể chuyển đổi có cấu tiền tệ của tài sản hoặc nguồn
vốn một cách hiệu quả. Với ví dụ trên, nếu kết hợp dòng tiền mặt của việc doanh nghiệp
vay 18 tỷ VND với hợp đồng hoán đổi tiền tệ (bán VND, mua USD), kết quả cũng giống
như chúng ta có một gioa dịch tương tự như việc doanh nghiệp di vay 1 triệu USD. Nếu
kết hợp dòng tiền mặt của việc doanh nghiệp đầu tư 1 triệu USD và hợp đồng hoán đổi
tiền tệ (bán VND, mua USD), kết quả cũng giống như việc doanh nghiệp đầu tư 18 tỷ
VND. Như vậy hợp đồng hoán đổi tiền tệ giúp doanh nghiệp hoán đổi cơ cấu tiền tệ của
tài sản hoặc nguồn vốn một cách dễ dàng. Trong trường hợp lãi suất vay VND cao hơn
nhiều so với USD và doanh nghiệp tin tưởng tỷ giá USD/VND sẽ được duy trì ổn định,
nhà đầu tư có thể thực hiện hợp đồng hoán đổi tiện tệ để chuyển khoản vay VND thành
khoản vay USD. Hàng tháng doanh nghiệp sẽ trả lãi suất vay trên USD, tuy nhiên chịu
6 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
rủi ro về tỷ giá USD/VND tăng cao. Bản chất của chiến thuật này là một dạng khai thác
chênh lệch lãi suất. Chiến thuật này phù hợp với doanh nghiệp có nguồn thu ổn định bằng
ngoại tệ.
Trong trường hợp ngược lại, một nhà đầu tưu nước ngoài có tài sản bằng USD

song muốn đầu tư vào Việt Nam bằng VND mà không chịu rủi ro ngoại hối do lo ngại
VND mất giá có thể giam gia hợp đồng hoán đổi tiền tệ để chuyển khoản đầu tư USD
thành một khoản đầu tư VND. Hàng tháng, nhà đầu tư sẽ trả lãi suất VND để nhận lại lãi
suất USD. Nếu tỷ giá USD/VND được duy trì ổn định thì nhà đầu tư sẽ bị thiệt về lãi
suất.
+ Tạo sự phù hợp về đồng tiền giữa cơ cấu tài sản và nguồn vốn
Khi một doanh nghiệp tiếp cận vay vốn nước ngoài song muốn tránh rủi ro về tỷ
giá khi chuyển nguồn vốn này sang đồng tiền nội địa có thể thực hiện hợp đồng hoán đổi
tiền tệ. Kết quả là doanh nghiệp sẽ thanh toán lãi suất bằng đồng nội địa. Chiến lược này
phù hợp với doanh nghiệp có thu nhập bằng đồng tiền nội địa nhưng lại muốn vay nợ
nước ngoài hoặc trong trong nước bằng ngoại tệ.
+ Tiết kiệm chi phí lãi suất và tăng cường thu nhập
Một số tập đoàn đa quốc gia có hoạt động trên toàn cầu có nhu cầu vốn bằng nhiều
đồng tiền khác nhau. Việc tập trung vốn từ nước mẹ có thể giúp việc thực hiện dễ dàng
hơn thông quan hiệu quả kinh tế theo qui mô. Do đó, tập đoàn có thể huy động vốn bằng
một đồng tiền thông dụng và sau đó thực hiện hợp đồng hoán đổi tiền tệ để chuyển đổi
khoản vay sang các đồng tiền khác nhau cho các công ty con tại các quốc gia khác nhau.
Ngược lại, một tập đoàn có các công ty con tại nước ngoài có các khoản đầu tưu bằng
ngoại tệ có lãi suất thấp hơn ddoognf tiền của nước mẹ có thể thực hiện hợp đồng hoán
đổi tiền tệ để chuyển hóa khoản đầu tư ngoại tệ với lãi suất thấp sang đông tiền nước mẹ
có lãi suất cao hơn.
2.3.3 Hợp đồng hoán đổi cổ phiếu
+ Tạo đòn bẩy tài chính
Hợp đồng hoán đổi cổ phiếu được sử dụng như một công cụ đầu tư vào thị trường
cổ phiếu rất hiệu quả mà không cần số vốn ban đầu lớn. Thông thường nhà đầu tư chỉ cần
bỏ ra một số vốn nhất định để ký quỹ với ngân hàng đầu tư và thanh toán chi phí vốn
định kỳ. Do đó nhà đầu tư có thể sử dụng đòn bẩy tài chính.
+ Khắc phục rào cản đầu tư trực tiếp
7 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch

Hợp đồng hoán đổi cổ phiếu là một công cụ hữu hiệu giúp các nhà đầu tư nước
ngoài có thể thực hiện đầu tư vào một thị trường nội địa mà không vấp phải các rào cản
về địa lý, chênh lệch múi giờ, ngôn ngữ, qui định ngoại hối và hạn chế tỷ lệ sở hữu đối
với nhà đầu tư nước ngoài. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với nhà đầu tư vào các thị
trường mới nổi với các hạn chế hết sức ngặt nghèo. Nhà đầu tư còn có thể giảm thiểu chi
phí đầu tư so với đầu tư trực tiếp và tránh rủi ro ngoại hối.
+ Đầu cơ bán khống cổ phiếu
Hợp đồng hoán đổi cổ phiếu là một công cụ đầu cơ hữu hiệu, cho phép một bên có
thể thực hiện bán khống cổ phiếu một cách hiệu quả. Thông thường bên thanh toán lợi
nhuận đầu tư cổ phiếu sẽ trung hòa trạng thái đầu tư của mình bằng việc mua cổ phiếu
trực tiếp hoặc thông qua các công cụ phái sinh khác như mua quyền chọn mua cổ phiếu.
Trong trường hợp bên thanh toán lợi nhuận đầu tư cổ phiếu tin rằng giá cổ phiếu sẽ
xuống, họ sẽ chấp nhận trạng thái đoản và hưởng lợi từ giá cổ phiếu giảm cúng như nhận
chi phí sử dụng vốn từ đối tác của hợp đồng hoán đổi.
Đối với các quốc gia không cho phép bán khống cổ phiếu như ở Việt Nam thì nhà
đầu tư nước ngoài có thể thực hiện bán khống trên thị trường quốc tế đối với các cổ phiếu
Việt Nam thông qua các sản phẩm phái sinh.
2.4 Hợp đồng quyền chọn
Quyền chọn là một công cụ tài chính phái sinh cho phép người nắm giữ nó được phép
mua (quyền chọn mua – call option), hoặc bán (quyền chọn bán – put option) một khối
lượng hàng hoá nhất định với giá nhất định và trong một khoảng thời gian xác định
(quyền chọn kiểu Mỹ) hoặc điểm thời gian xác định (quyền chọn kiểu Châu Âu). Một
điều quan trọng là người nắm giữ quyền chọn có thể thực hiện hoặc không thực hiện hợp
đồng. Vì vậy khi rủi ro xảy ra, thị trường không theo đúng hướng dự đoán của người nắm
giữ quyền chọn thì lỗ lãi được tối thiểu hoá chỉ ở mức giá của hợp đồng quyền
chọn. Hàng hoá ở đây có thể là thương phẩm, cổ phiếu, trái phiếu, vàng, ngoại tệ…
+ Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư
Khi giá chứng khoán trên thị trường có xu hướng tăng giá, người đầu tư thường có
ý định mua chứng khoán ở thời điểm hịên tại và sẽ bán chúng khi giá chứng khoán tăng
lên. Khi đó nhà đầu tư sẽ thu được lợi nhuận. Song để đạt được mục tiêu lợi nhuận như

mong muốn khi giá chứng khoán có xu hướng gia tăng không nhất thiết phải thực hiện
theo con đường kinh điển đó. Thay vì việc bỏ vốn mua chứng khoán, nhà đầu tư có thể
mua quyền chọn mua. Khi giá chứng khoán trên thị trường về tới mức giá như nhà đầu tư
đã dự đoán, anh ta sẽ thực hiện quyền mua đồng thời bán ngay số chứng khoán mua được
8 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
theo giá thị trường hiện hành. Như vậy, với phương thức này giao dịch này đã giúp cho
nhà đầu tư nâng cao hiệu suất vốn đầu tư của mình.
+Phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro
Giảm thiểu rủi ro là mong muốn của mọi nhà đầu tư. Trên TTCK, quyền chọn
được coi là một trong các công cụ hạn chế rủi ro hiệu quả khi mà giá thị trường của
chứng khoán biến động theo xu hướng bất lợi cho người nhà đầu tư chứng khoán. Bằng
việc sử dụng quyền chọn nhà đầu tư luôn giới hạn được mức thua lỗ luôn nhỏ hơn hoặc
cao nhất bằng số tiền bỏ ra mua quyền chọn (phí quyền chọn).
Phần 2: THỰC TRẠNG PHÁT HUY VAI TRÒ THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH TẠI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.Tổng quan về thị trường phái sinh tại các NHTM Việt Nam
Nghiệp vụ tài chính phái sinh đã xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1990, chủ
yếu là tại các ngân hàng có giao dịch với các ngân hàng nước ngoài. Một số ngân hàng
lớn như: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Công thương (Viettinbank)…cũng đã triển khai các
nghiệp vụ như: mua bán ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi, hợp đồng tương lai…cho các doanh
nghiệp có nhu cầu sử dụng ngoại tệ và trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong thanh toán quốc
tế. Tuy nhiên, các sản phẩm công cụ phái sinh hiện nay tại các ngân hàng còn ít, chưa thu
hút được các doanh nghiệp sử dụng. Vì thế, thu nhập từ các công cụ phái sinh còn chiếm
tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu nhập của ngân hàng. Đơn cử số liệu về thu nhập và lợi
nhuận từ công cụ phái sinh của 3 ngân hàng thương mại hàng đầu hiện nay để có thể
thấy được thực tế này.
Bảng 1: Thu nhập và lợi nhuận từ công cụ phái sinh tại một số NHTM
Năm Chỉ tiêu

BIDV Vietinbank Vietcombank
TriệuVNĐ % TriệuVNĐ % TriệuVNĐ %
2007
Tổng thu nhập 7.794.275 100 6.648.680 100 5.763.393 100
Trong đó:
Thu từ các công cụ phái
sinh 19.110 0,24 4.256 0,06 0
Tổng lợi nhuận 2.028.246 100 1.529.085 100 3.192.119 100
Trong đó:
Dịch vụ phái sinh 8.829 0,04 -6.464 0 0 0
9 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
2008
Tổng thu nhập 7.570.430 100 8.694.253 100 10.991.219 100
Trong đó:
Thu từ các công cụ phái
sinh 363.288 4,79 74.764 0,86 52.492 0,04
Tổng lợi nhuận 2.368.018 100 2.436.388 100 3.525.877 100
Trong đó:
Dịch vụ phái sinh 237.930 10,04 -120.042 0 52.492 1,4
2009
Tổng thu nhập 9.687.959 100 5.428.316 100 9.286.804 100
Trong đó:
Thu từ các công cụ phái
sinh 91.272 0,94 200.587 3,70 6.420 0,06
Tổng lợi nhuận 3.605.469 100 1.678.289 100 5.004.374 100
Trong đó:
Dịch vụ phái sinh -171.695 0 -289.517 0 -288.777 0
(Nguồn: Báo cáo thường niên của các NHTM)
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, tỷ trọng doanh thu và lợi nhuận của công cụ phái

sinh là rất nhỏ so với tổng doanh thu và lợi nhuận của các ngân hàng. Tại BIDV, năm
2007, thu từ công cụ phái sinh là 19.110 triệu đồng, chiếm 0,24% tổng thu nhập, năm
2008 tăng lên 363.288 triệu đồng, chiếm 4,79 % tổng thu nhập nhưng đến năm 2009 chỉ
đạt 91.272 triệu đồng chiếm 0.94 % tổng thu nhập; và lợi nhuận năm 2007 là 8.829 triệu
đồng, chiếm 0,04% tổng lợi nhuận, năm 2008 tăng lên 237.930 triệu đồng chiếm 10,04%
tổng lợi nhuận nhưng đến năm 2009 lại giảm mạnh, lỗ 171.695 triệu đồng.
Tại Vietinbank, thu nhập từ công cụ phái sinh tăng qua các năm, năm 2007 chỉ là
4.256 triệu đồng, chiếm 0,06% tổng thu nhập, đến năm 2008 đã tăng lên 74.764 triệu
đồng, chiếm 0.86%, năm 2009 tăng mạnh lên 200.287 triệu đồng, chiếm 3,7% tổng thu
nhập. Mặc dù có thu nhập tăng qua các năm nhưng ngân hàng lại toàn lỗ khi kinh doanh
lĩnh vực này, năm 2007 lỗ 6.464 triệu đồng, năm 2008 lỗ 120.042 triệu đồng, năm 2009
lỗ 289.517 triệu đồng.
Tại Vietcombank, năm 2008 thu nhập từ công cụ phái sinh là 52.492 triệu đồng,
chiếm 0,04% tổng thu nhập, năm 2009 tăng lên là 6.420 triệu đồng chiếm 0,06% tổng thu
nhập. Trong đó, lợi nhuận năm 2008 là 52.492 triệu đồng, chiếm 1,4% tổng lợi nhuận,
năm 2009 lại lỗ 288.777 triệu đồng.
Có thể nhận thấy, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực công cụ phái sinh của các
ngân hàng chưa hiệu quả. Các sản phẩm chưa đa dạng, phong phú, do đó mặc dù các
ngân hàng đã không ngừng đầu tư chi phí để phát triển các sản phẩm này nhưng chưa thu
10 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
hút được các doanh nghiệp tham gia. Thực tế là các doanh nghiệp hiện nay nhận thức rất
ít về kỹ thuật phòng chống rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái và phòng chống bằng công cụ
phái sinh lại càng xa lạ.
Do đó, các doanh nghiệp không nhiệt tình phòng ngừa rủi ro bằng các hợp đồng kỳ
hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng quyền chọn dẫn đến các NHTM gặp khó khăn trong
việc phát triển các nghiệp vụ này. Mặt khác, vì đây là các nghiệp vụ hiện đại, phức tạp
nên đòi hỏi đội ngũ nhân viên ngân hàng phải có trình độ chuyên môn cao, mới có thể tư
vấn cho các doanh nghiệp thực hiện các nghiệp vụ phái sinh đồng thời việc quảng bá,
giới thiệu của các ngân hàng đối với doanh nghiệp còn chưa rộng rãi, làm doanh nghiệp

chưa biết hoặc không mặn mà với các dịch vụ mới về công cụ phái sinh của ngân hàng.
2. Việc sử dụng công cụ phái sinh tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
2.1 Giao dịch kỳ hạn
Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên ở Việt
Nam theo quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các giao dịch kỳ hạn
được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa ngân hàng thương mại với
doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc với các ngân hàng thương mại khác được phép của
ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, Hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị
trường liên ngân hàng ở VN chưa phát triển, một phần do những hạn chế vốn có của nó
trong việc phòng chống rủi ro tỉ giá và những hạn chế của NHNN. Vì thế, các giao dịch
kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 5-7% khối lượng giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng.
2.2 Giao dịch hoán đổi
Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quyết định số 430/QĐ-NHNN13
ngày24/12/1997 và sau này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001 của
thống đốc NHNN. Tuy nhiên đây chỉ là những giao dịch hoán đổi thuận chiều giữa
NHNN và NHTM. Nó chỉ được sử dụng trong trường hợp các NHTM dư thừa ngoại tệ và
khan hiếm VND.
Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở VN và được
các ngân hàng sử dụng do nhu cầu nội tại của các NHTM nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt
động ngân hàng quốc tế. NHNN đã cho phép các NHTM thực hiện một số nghiệp vụ phái
sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Theo quyết định số 1133/QĐ-
NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở
rộng danh mục các NHTM và các TCTD, các DN được sử dụng công cụ hoán đổi lãi
11 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
suất. Hoán đổi lãi suất được thực hiện đối với cả VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng với
DN vay vốn tại NH; giữa NH với những DN vay vốn tại các tổ chức tín dụng (TCTD)
khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các NH trong nước với nhau và giữa các ngân hàng
thương mại trong nước với các TCTD nước ngoài. Trên cơ sở nới lỏng quản lý của

NHNN, nhiều NHTM đã triển khai cung cấp Hợp đồng hoán đổi lãi suất cho các doanh
nghiệp (DN), tìm kiếm đối tác là các TCTD nước ngoài để ký kết hợp tác. Tuy nhiên,
giao dịch phái sinh trong đó có hoán đổi lãi suất được coi là hoạt động ngoại bảng của
NH do đó hướng dẫn hạch toán từ phía NHNN đối với các nghiệp vụ này đang được xem
là điều kiện đủ để các NHTM đẩy mạnh cung cấp dịch vụ này cho khách hàng.
Từ khi NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường Việt
Nam (từ 1/2003), đã có một só ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất
trong phạm vi đồng USD từ ngày 1/3/2005 tới 2/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi lãi
suất giữa 2 đồng tiền USD và VND (hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện, từ trước
khi có quy định chính thức của ngân hàng nhà nước. Cho tới lần đầu tiên, khi được
NHNN cho phép, HSBC đã cung cấp gói Swaps tiền Đồng cho một công ty đa quốc gia
với số vốn lên tới 15 triệu USD trên tại trường Việt Nam. Theo đó, HSBC sẽ đưa VND
và nhận USD từ khách hàng, tới tháng 12/2007, HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VND từ
khách hàng. Với giao dịch này, khách đã đạt được mức lãi suất cạnh tranh nhất trên thị
trường nội địa cho việc vay vốn tiền Đồng kỳ hạn 3 năm mà không chịu bất cứ một rủi ro
nào về tỷ giá USD/VND.
Chính hành động của HSBC, tạo ra nền tảng phát triển cho các giao dịch hoán đổi
sau này. Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi
suất chéo giữa hai đồng tiền chéo đối với các khoản vay ngoại tệ của khách hàng sử khi
khách hàng vay ngoại tệ. Và trong tương lai, Standard Chartered sẽ còn cung cấp nhiều
sản phẩm phái sinh nữa trên thị trường Việt Nam, hứa hẹn tương lai phát triển thị trường.
Ở một mức cao hơn, các công cụ lai tạp có nguồn gốc từ hoán đổi như hoán đổi lãi
suất cộng dồn, hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn, hoán đổi lãi suất bắt đầu
thực hiện trong tương lai …cũng đã xuất hiện và triển khai trên thị trường ngoại hối trong
thời gian gần đây. Điều đặc biệt là các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng đã được thí
điểm áp dụng tại Việt Nam theo công văn 3324/NHNN-CSTT, tháng 4/2006 cho phép
HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh thực hiện. Mặc dù là một loại hoán đổi nhưng
hoán đổi rủi ro tín dụng thực sự lại giống một chính sách bảo hiểm hơn. Tức một bên
nắm giữ trái phiếu hoặc các khoản vay, định kỳ sẽ thanh toán cho bên kia. Trường hợp
12 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521

Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
trái phiếu bị đánh giá thấp hay các khoản vay trên bị vỡ nợ, bên bảo hiểm ở đây là HSBC
sẽ trả cho bên đối tác, khách hàng các khoản bù trừ lỗ.
Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín dụng
của các loại trái phiếu do chính phủ hoặc các DN Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị
trường quốc tế, các khoản vay dài hạn của DN Việt nam tại các tổ chức tín dụng hoạt
động tại Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng cho HSBC là các tổ chức
tín dụng hoạt động tại Việt Nam và bên nhận chuyển nhượng là các chi nhánh HSBC ở
nước ngoài. Thời hạn của giao dịch không quá 5 năm. Khách hàng mua loại công cụ này
cũng giống như thực hiện một khoản đầu tư gián tiếp. Việc tiếp cận với các công cụ này
cho phép nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm những mức lợi nhuận cao hơn so với hoạt động
tín dụng tiền gửi bình thường, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các TCTD. Hơn
nữa, việc sử dụng các công cụ mới này còn góp phần nâng cao mức độ tín nhiệm của
chính phủ và các DN Việt Nam khi phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế.
2.3 Giao dịch quyền chọn
Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ phái sinh được
thị trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó trong
bối cảnh lãi suất và tỷ giá và giá vàng luôn ở trạng thái tăng liên tục. Ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền
chọn lãi suất. Các giao dịch quyền chọn lãi suất được phép thực hiện đối với những
khoản cho vay và đi vay trung hạn (dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng EURO và chỉ được
thực hiện đối với các DN hoạt động tại VN, các NHTM hoạt động ở VN được NHNN
cho phép và các NH ở nước ngoài. Sau BIDV là hàng loạt các NHTM khác, bao gồm cả
NHTM cổ phần cũng được cho phép thực hiện nghiệp vụ này.
Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng
cung cấp, điển hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribank, Citibank,
Vietcombank, ICB, và ngân hàng Hồng Kông bank chi nhánh thành phố HCM. Nguyên
tắc chính của loại quyền chọn này là các DN và cá nhân được quyền đặt mua hay đặt bán
USD với VNĐ thông qua một tỷ giá do khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện.
Đặc biệt, quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu

trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho
nhà xuất khẩu. Sau khi NHNN cho phép ACB, Sacombank và Agribank thực hiện quyền
chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là ngân hàng đầu tiên công bố triển khai dịch
vụ này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế giá vàng liên tục
13 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường mức độ đón nhận của thị trường đối
với công cụ. Tới nay, đã có rất nhiều ngân hàng được phép của Ngân hàng nhà nước cho
phép thực hiện các nghiệp vụ Option. Đặc biệt, Ngân hàng nhà nước cũng đã cho phép
thực hiện các Options tiền Đồng tại BIDV, ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, ngân
hàng cổ phần thương mại quốc tế. Với nghiệp vụ này, chắc chắn tương lai sẽ được mở
rộng bởi khi đó VND sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường tài chính thế giới. Vị thế của
VND và Việt Nam cũng qua đó mà tăng lên. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn thí điểm
nên các ngân hàng này bị giới hạn bởi thời gian thực hiện. Nhìn chung, hoạt động này
đang đem lại một cơ cấu sản phẩm hiện đại cho các ngân hàng trong điều kiện hội nhập.
Hơn nữa, nhu cầu của khách hàng đối với các giao dịch Options đang có xu hướng tăng,
do vậy ngân hàng nhà nước đã tiến hành gia hạn thí điểm hợp đồng các nghiệp vụ này.
Đáng kể nhất là ACB một ngân hàng luôn mạnh dạn trong việc phát triển và tung ra thị
trường các sản phẩm mới. Hiện nay ACB cung cấp các hợp đồng giao dịch quyền chọn
trên tỷ giá giữa các ngoại tệ như EUR, JPY, GBP so với USD và kể cả giao dịch quyền
chọn trên tỷ giá USD/VND. Chúng ta xem xét tình huống mô tả như sau: Hiện tại tỷ giá
EUR/USD là 1,2412 - 82. Giả sử khách hàng G dự báo ba tháng nữa EUR sẽ lên giá so
với USD trong khi khách hàng H ngược lại dự báo EUR sẽ xuống giá so với USD. Cả hai
khách hàng này đều có mục tiêu đầu cơ kiếm lời từ thị trường ngoại hối. Khách hàng G
có thể đầu cơ bằng cách mua 100.000EUR giữ đó để ba tháng sau khi EUR lên giá bán
lại kiếm lời. Muốn vậy, ngay hiện tại G phải bỏ ra 100.000 x 1,2482 = 124.820 USD để
mua 100.000EUR. Do số tiền này khá lớn nên để tạo điều kiện cho G , ACB chào cho G
một hợp đồng quyền chọn mua, có những điều khoản như sau:
• Người bán quyền: ACB
• Người mua quyền: G

• Loại quyền: chọn mua (call)
• Kiểu quyền: kiểu Mỹ
• Số lượng ngoại tệ: 100.000EUR
• Tỷ giá thực hiện: 1,2502
• Thời hạn hiệu lực của quyền chọn: 90 ngày kể từ ngày thoả thuận
• Phí mua quyền: 0,02USD cho mỗi EUR.
Với hợp đồng quyền chọn, G không phải mua 100.000EUR và do đó không phải bỏ ra
124.820USD ở hiện tại. G chỉ mua quyền được mua trị giá 100.000EUR ở mức tỷ giá
1,2502 USD cho mỗi EUR và chi phí mua quyền G phải bỏ ra ở hiện tại là: 0,02 x
14 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
100.000 = 2.000USD. Chỉ bỏ ra 2.000USD thay vì phải bỏ ra 124.820USD có thể dễ
dàng hơn cho G thử thời vận của mình. Với tỷ giá thực hiện là 1,2502 và phí mua quyền
chọn mua là 0,02, điểm hoà vốn của G sẽ là 1,2502 + 0,02 = 1,2702, tức là ở mức giá
này lợi nhuận G kiếm được từ quyền chọn vừa đủ để trang trải chi phí mua quyền, do đó,
G không kiếm được đồng lời nào. Ở một thời điểm nào đó sau khi mua, tình hình thị
trường khiến cho EUR có thể:
• Lên giá so với USD:
- Nếu EUR lên giá nhưng chưa vượt qua điểm hoà vốn thì G có thể xem quyền chọn đến
hạn hay chưa. Nếu quyền chọn chưa đến hạn thì chờ EUR sẽ tiếp tục lên giá. Nếu quyền
chọn đã đến hạn thì G mất đi 2.000USD thử thời vận. Tuy nhiên, G có thể thực hiện
quyền chọn nếu tỷ giá nằm
giữa tỷ giá thực hiện và điểm hoà vốn. Chẳng hạn, tỷ giá giao ngay lúc hợp đồng đáo
hạn là 1,2602, G thực hiện hợp đồng quyền chọn sẽ lời được: (1,2602 – 1,2502)100.000
= 1000USD trừ đi chi phí mua quyền là 2.000USD còn lỗ 1000USD thay vì không thực
hiện sẽ mất hết 2000USD.
- Nếu EUR lên giá và vượt qua điểm hoà vốn thì thời vận của G đã đến. Nếu quyền chọn
đã đến hạn thì G phải thực hiện ngay và kiếm lợi nhuận bằng chênh lệch giữa tỷ giá giao
ngay và tỷ giá thực hiện nhân với trị giá hợp đồng nhưng phải trừ đi chi phí mua quyền
(2.000USD) đã bỏ ra. Chẳng hạn tỷ giá giao ngay EUR/USD khi hợp đồng đến hạn là

1,2710. Khi ấy G thực hiện quyền chọn và kiếm lợi nhuận: (1,2770 – 1,2502)100.000 –
2000= 680USD. nếu xảy ra tình huống tỷ giá EUR/USD lên cao hơn điểm hòa vốn ,
chẳng hạn tỷ giá giao ngay EUR/USD khi hợp đồng đến hạn là 1,2710 thì khách hàng G
sẽ kiếm được lợi nhuận bằng chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay và tỷ giá thực hiện sau khi
trừ đi chi phí mua quyền chọn. Khi ấy ngân hàng sẽ lỗ một số tiền bằng lợi nhuận mà nhà
đầu tư kiếm được. Ngân hàng có thể bù đắp phần ỗ này bằng hai cách:
• Doanh thu có được từ bán quyền chọn, kể cả quyền chọn bán lẫn quyền chọn mua.
Nếu ngân hàng lỗ khi bán quyền chọn mua thì ngân hàng sẽ lãi bằng đúng phần thu được
do bán quyền chọn bán và ngược lại. Ngân hàng có thể sử dụng doanh thu do bán quyền
chọn mua và quyền chọn bán để chi cho khách hàng trong trường hợp khách hàng thực
hiện quyền chọn.
• Ngân hàng có thể bù đắp phần lỗ này từ việc mua lại quyền chọn mua từ phía ngân
hàng đối tác ở nước ngoài. Chẳng hạn, ACB sau khi bán quyền chọn mua cho khách
hàng G sẽ mua lại quyền chọn mua đó từ ngân hàng Bepielle. Trong trường hợp này
15 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
ACB chào chi phí bán quyền chọn cho khách hàng G cao hơn chi phí mua quyền chọn từ
Bepielle. Khi EUR lên giá so với USD và khách hàng G thực hiện quyền chọn mua để
kiếm lợi nhuận thì ngân hàng ACB sẽ thực hiện quyền chọn mua đối với khách hàng G,
sau đó ACB thực hiện quyền chọn mua lại đối với ngân hàng Bepielle để bù đắp phần lỗ
mà ngân hàng đã trả cho khách hàng G.
2.4 Giao dịch hợp đồng tương lai
Hiện nay, ở Việt Nam, hợp đồng tương lai và các giao dịch trên thị trường tương lai còn
là những khái niệm khá mới mẻ với nhiều các nhân, tổ chức. Techcombank là đơn vị đầu
tiên trên cả nước được Ngân hàng Nhà nước cho phép tổ chức dịch vụ mua bán bằng hợp
đồng tương lai với các thị trường quốc tế. Techcombank đóng vai trò trung gian tin cậy
giữa các doanh nghiệp với các thị trường và sàn giao dịch hàng hóa tương lai trên thế giới
như: LIFFE, SICOM, TOCOM, NYBOT, LME. CBOT
Ví dụ về hợp đồng tương lai :Vào ngày 15/5/2009, 1 doanh nghiệp sản xuất cà phê của
Việt Nam đàm phán với đối tác Mỹ và ký hợp đồng xuất khẩu 1 triệu tấn cà phê, trong 3

tháng nữa sẽ giao hàng, tức là đến đúng 15/8/2009 sẽ giao hàng cho đối tác. Trong đó,
giá áp dụng trong hợp đồng mua bán ngoại thương là giá giao ngay của cà phê tại thời
điểm ngày 15/8/2009.
Giả sử giá cà phê giao ngay tại thời điểm 15/5/2009 tại NYMEX là $19/ 1 thùng. Giá
tương lai cà phê 3 tháng được niêm yết tại NYMEX là $18,75.
Công ty có thể phòng ngừa rủi ro bằng cách bán 1 hợp đồng tương lai cà phê với số
lượng là 1 triệu tấn và giá thực hiện là X = $18,75 (giá niêm yết trên NYMEX)
- Giả sử giá giao ngay tại thời điểm 15/8/2009 là $17,50.
Khi đó, đối với hợp đồng mua bán ngoại thương (ở đây là hợp đồng xuất khẩu) thì doanh
thu của doanh nghiệp là: $17,50 x 1 triệu = $17.500.000
Lãi ở hợp đồng tương lai là ($18,75 - $17,50) x 1 triệu = $1.250.000
Vậy tổng doanh thu là: 17.500.000 + 1.250.000 = $18.750.000
-Giả sử như giá giao ngay tại thời điểm 15/8/2009 là $19,50.
Khi đó, đối với hợp đồng mua bán ngoại thương thì doanh thu của doanh nghiệp là:
$19,50 x 1 triệu = $19.500.000.
Đối với hợp đồng tương lai, doanh nghiệp lỗ, và số lỗ là: ($19,50 - $18,75) x 1 triệu =
750.000.
Vậy tổng doanh thu của doanh nghiệp là: $19.500.000 - $750.000 = $18.750.000.
16 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
Như vậy, nếu sử dụng hợp đồng tương lai thì doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam sẽ
cố định và biết trước được doanh thu của mình là bao nhiêu, dù giá của cà phê trên thị
trường có biến động như thế nào đi chăng nữa.
Phần3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KÌ HẠN TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Các ngân hàng thương mại Việt Nam đang phải đối mặt với việc cạnh tranh gay
gắt từ các ngân hàng nước ngoài, bởi các rào cản với các ngân hàng nước ngoài sẽ được
dỡ bỏ vào năm nay. Các ngân hàng nước ngoài có lợi thế về vốn, về công nghệ, về kinh
nghiệm phát triển các sản phẩm phái sinh hơn hẳn các ngân hàng trong nước
Còn các ngân hàng trong nước, mặc dù có được lợi thế về mạng lưới chi nhánh

giao dịch nhưng nếu không phát triển được các nghiệp vụ phái sinh đáp ứng nhu cầu của
thị trường thì chắc chắn sẽ phải đối mặt với nguy cơ lớn là “thua ngay trên sân nhà”. Để
có thể phát triển được nghiệp vụ phái sinh đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường hiện tại và
tương lai, cần phải thực hiện một số giải pháp sau:
Về phía ngân hàng:
Thứ nhất, tại các NHTM, các nghiệp vụ phái sinh hiện nay rất ít, chủ yếu là mua
bán kỳ hạn, quyền chọn ngoại tệ, hoán đổi lãi suất với quy mô và mức độ thực hiện thấp.
Do đó, các NHTM cần phải phát triển các nghiệp vụ phái sinh đa dạng và phong phú hơn
nhằm thu hút doanh nghiệp từ chính những tiện ích mang lại từ các dịch vụ này.
Thứ hai, các NHTM cần hiện đại hóa đồng bộ công nghệ ngân hàng. Các nghiệp
vụ phái sinh là những nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, nên đòi hỏi các ngân hàng phải trang
bị hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, đồng bộ mới có thể thu thập, xử lý, phân tích
thông tin nhanh chóng, chính xác, hiệu quả, từ đó mới có thể hạn chế rủi ro cho chính
các ngân hàng và tư vấn được cho các khách hàng của mình.
Thứ ba, để các doanh nghiệp hiểu được lợi ích của các công cụ phái sinh và sử
dụng rộng rãi các nghiệp vụ này như một công cụ để hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh
doanh do biến động của thị trường, các ngân hàng cần đẩy mạnh quảng cáo, giới thiệu, tư
vấn các nghiệp vụ phái sinh cho các doanh nghiệp.
Thứ tư, các ngân hàng phải nhanh chóng đào tạo được đội ngũ nhân viên chuyên
nghiệp trong lĩnh vực này. Chìa khóa của mọi sự thành công là yếu tố con người, các
ngân hàng cần phải có đội ngũ nhân viên am hiểu những kiến thức về tài chính, pháp lý,
17 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
đặc biệt là kỹ thuật định giá và giao dịch các công cụ tài chính phái sinh. Công tác đào
tạo và tái đào tạo phải được tiến hành thường xuyên, liên tục; cả ở trong nước và nước
ngoài; cả về lý thuyết lẫn thực hành. Có như vậy, mới giúp được đội ngũ nhân viên hiểu
và triển khai được các nghiệp vụ một cách linh hoạt, tránh gây ra rủi ro cho chính các
ngân hàng.
Thứ năm, các ngân hàng cần phải tăng cường kiểm soát nội bộ. Các ngân hàng cần
đảm bảo an toàn hoạt động, do đó các ngân hàng cần đánh giá rủi ro cấu trúc, quản lý hệ

thống kế toán nhằm đảm bảo các quyết định được đưa ra trên cơ sở có đầy đủ thông tin
về rủi ro.
Về phía Nhà nước:
Thứ nhất, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về giao dịch phái sinh
sao cho vừa phù hợp với thông lệ quốc tế vừa phù hợp với điều kiện phát triển của thị
trường Việt Nam. Các ngân hàng thương mại có kinh doanh ngoại hối đều nên được thực
hiện các nghiệp vụ phái sinh đầy đủ, để có được một thị trường cạnh tranh bình đẳng giữa
các ngân hàng, nhằm cung cấp các sản phẩm tiện ích nhất cho các nhà đầu tư, các doanh
nghiệp.
Thứ hai, Nhà nước cần hoàn thiện chế độ kế toán, quy định cụ thể về các giao dịch
phái sinh. Nhà nước cần có các hướng dẫn cụ thể quy định cách tính toán thu nhập, chi
phí, cách tính giá hạch toán, cách định giá, … phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm giúp
các ngân hàng thương mại thực hiện tốt việc theo dõi quản lý nghiệp vụ phái sinh trong
quá trình áp dụng.
Thứ ba, Nhà nước cần phát triển sâu thị trường thị trường tài chính tiền tệ. Nhà
nước cần tăng quy mô của thị trường chứng khoán, khuyến khích các doanh nghiệp niêm
yết và phát hành chứng khoán huy động vốn, đồng thời phát hành nhiều loại trái phiếu
chính phủ với nhiều kỳ hạn đa dạng. Việc thị trường tài chính tiền tệ phát triển sẽ tạo điều
kiện phát triển những thị trường mới có tổ chức như thị trường giao dịch tương lai…Từ
đó, các ngân hàng có thể phát triển các nghiệp vụ phái sinh, đa dạng hóa sản phẩm, hoàn
thiện hơn những biệp pháp phòng ngừa rủi ro nói chung và rủi ro lãi suất nói riêng.
18 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521
Thị trường kỳ hạn: Tổ chức và quản trị các giao dịch
KẾT LUẬN
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường trong nước ngày càng có liên hệ
mật thiết với thị trường quốc tế nên khả năng rủi ro liên quan đến tỷ giá, lãi suất sẽ lớn
hơn, gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
cũng như hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Ngoài ra, các ngân hàng nước ngoài
có rất nhiều kinh nghiệm trong việc kinh doanh các sản phẩm tài chính phái sinh, tạo ra
sự cạnh tranh gay gắt đối với các ngân hàng trong nước trong bối cảnh hội nhập. Do đó,

việc phát triển các sản phẩm tài chính phái sinh đóng vai trò rất quan trọng thông qua
việc ngân hàng có thể kinh doanh kiếm lời cũng như để phòng ngừa rủi ro lãi suất, tỷ giá,
tiền tệ của hoạt động chính ngân hàng.
Về nguyên tắc và theo thông lệ quốc tế, các NHTM có thể tham gia thực hiện các
nghiệp vụ phái sinh theo một trong các tư cách: Người cung cấp dịch vụ ngân hàng liên
quan đến công cụ phái sinh hoặc cung cấp dịch vụ môi giới, tư vấn cho khách hàng mua,
bán công cụ phái sinh (ngân hàng cung cấp dịch vụ) ; Nhà đầu tư mua, bán các sản phẩm
phái sinh. Ngoài ra, theo loại tài sản gốc, các sản phẩm phái sinh có thể chia thành các
sản phẩm phái sinh dựa trên tài sản tài chính (như ngoại tệ, lãi suất, cổ phiếu, trái phiếu,
khoản vay, tiền gửi, )và các sản phẩm phái sinh dựa trên hàng hóa (như gạo, cao su, cà
phê, xăng dầu, )
Để phát triển các sản phẩm tài chính phái sinh, góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư, khách hàng và đặc biệt có thể cạnh
tranh với các ngân hàng nước ngoài, các NHTM trong nước phải có các giải pháp đồng
bộ về chính sách quản lý rủi ro, đào tạo cán bộ, chính sách khách hàng,…Ngoài ra,
NHNN và các cơ quan có liên quan cần nhanh chóng nghiên cứu, xây dựng và ban hành
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh điều chỉnh hoạt động kinh doanh
các công cụ tài chính phái sinh của các NHTM. Bên cạnh đó, các NHTM cũng rất cần sự
hỗ trợ từ phía NHNN trong việc phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, hoàn thiện
chính sách quản lý thị trường ngoại hối, hình thành các công ty môi giới ngoại hối,
19 Nhóm 4 Lớp 1103BKSC0521

×