Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.4 KB, 30 trang )

Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương m

i
Là một trong những lĩnh vực hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
(NHTM),
thanh toán quốc tế (TTQT) ra đời và phát triển không ngừng như là một tất yếu
khách
quan. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của mình, TTQT không chỉ đơn thuần
mang lại những lợi ích kinh tế mà còn phát sinh những nguy cơ có thể gây ra rủi ro,
tổn thất
trực tiếpcho đất nước, cho ngân hàng (NH), cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu.
Rủi ro trong hoạt động TTQT của NHTM là vấn đề xảy ra ngoài ý muốn trong quá
trình tiến hành hoạt động TTQT và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của
NHTM. Trong quá trình tiến hành hoạt động TTQT, rủi ro xảy ra khi quyền lợi của
một bên tham gia bị vi phạm. Rủi ro không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc
chứng từ không được thanh toán, mà còn được hiểu rộng ra là bất kỳ một sự chậm
trễ nào trong các khâu của quá trình TTQT. Rủi ro có thể xảy ra với tất cả các bên
tham gia: Với người bán, rủi ro xảy ra khi bán hàng không thu được tiền hoặc chậm
thu được tiền, rủi ro về thị trường,
rủi ro không nhận hàng, rủi ro không thanh toán…; với người mua, rủi ro xảy ra khi
người bán giao hàng không đúng với các điều kiện của hợp đồng (không đúng số
lượng, chủng loại…), rủi ro không giao hàng, rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng
hoá…; với NH có liên quan, rủi ro xảy ra khi người mua hoặc người bán thiếu trung
thực, không thực hiện đúng cam kết đã ghi trong hợp đồng, do tỷ giá biến động…
Các loại rủi ro thường gặp trong quá trình tiến hành hoạt động TTQT của NHTM
Đối với phương thức chuyển tiền: Đây là một phương thức thanh toán trong đó một
khách hàng (người trả tiền, người mua, người nhập khẩu…) yêu cầu NH phục vụ
mình chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi (người bán, người xuất
khẩu, người
cung ứng dịch vụ…) ở một địa điểm nhất định. NH chuyển tiền phải thông qua đại


lý của mình ở nước người hưởng lợi để thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền. Trong
phương thức này, người bán có thể gặp rủi ro không được người mua thanh toán
trong trường hợp trả tiền sau. Hoặc người mua có thể gặp rủi ro không được người
bán giao hàng hoặc giao hàng kém phẩm chất trong trường hợp trả tiền trước.
Đối với phương thức nhờ thu: Là phương thức mà người bán sau khi hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng sẽ ký phát hối phiếu đòi tiền người mua, nhờ NH thu hộ số tiền
ghi trên hối phiếu đó. Có 2 loại nhờ thu: Nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng
từ. Phương thức này có nhược điểm là không đảm bảo quyền lợi của người bán, vì
việc thanh toán hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của người mua, tốc độ thanh toán
chậm và NH chỉ đóng vai trò là người trung gian đơn thuần mà thôi.
Phương thức tín dụng chứng từ: Là một sự thoả thuận mà trong đó một NH (NH mở
thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người xin mở thư tín dụng) cam kết sẽ
trả một số tiền nhất định cho một người thứ ba (người hưởng lợi số tiền của thư tín
dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người thứ ba ký phát trong phạm vi số tiền đó,
khi người thứ ba này xuất trình cho NH một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với
những quy định đề ra trong thư tín dụng. Phương thức này hiện đang được sử dụng
rất phổ biến, vì nội dung của nó được thực hiện theo “Quy tắc và thực hành thống
nhất về tín dụng chứng từ” - UCP500 do Phòng Thương mại Quốc tế tại Paris (ICC)
ban hành (bản sửa đổi mới nhất vào năm
1993). Tuy nhiên, khi sử dụng phương thức này cũng có thể xảy ra rủi ro cho các
bên tham gia như:
Rủi ro đối với nhà nhập khẩu: Việc thanh toán của NH cho nhà xuất khẩu chỉ căn cứ
vào bộ chứng từ xuất trình mà không căn cứ vào việc kiểm tra thực tế hàng hoá. NH
chỉ kiểm tra tính hợp lệ bề ngoài của chứng từ. Nếu nhà xuất khẩu chủ tâm gian lận
có thể xuất trình chứng từ giả mạo cho NH chỉ định để thanh toán. Như vậy, sẽ
không có sự bảo đảm nào cho nhà nhập khẩu rằng hàng hoá sẽ đúng như hợp đồng
về số lượng, chủng loại và không bị hư hỏng gì. Trong trường hợp này nhà nhập
khẩu vẫn phải hoàn trả đầy đủ tiền đã thanh toán cho NH phát hành.
Rủi ro đối với nhà xuất khẩu: Khi nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ không phù
hợp với L/C thì mọi khoản thanh toán (chấp nhận) đều có thể bị từ chối và nhà xuất

khẩu sẽ phải tự giải quyết bằng cách dỡ hàng, lưu kho, bán đấu giá… cho đến khi
vấn đề được giải quyết hoặc phải chở hàng quay về nước. Nhà xuất khẩu phải trả
các khoản chi phí như lưu tàu quá hạn, phí lưu kho, mua bảo hiểm hàng hoá… trong
khi không biết nhà nhập khẩu có đồng ý nhận hàng hay từ chối nhận hàng vì lý do
bộ chứng từ có sai sót. Nếu NH phát hành hoặc NH xác nhận mất khả năng thanh
toán thì mặc dù bộ chứng từ xuất trình có hoàn hảo cũng không được thanh toán.
Cũng tương tự như vậy, nếu NH chấp nhận hối phiếu kỳ hạn bị phá sản trước khi hối
phiếu đến hạn thì hối phiếu cũng không được trả tiền. Trừ khi L/C được xác nhận
bởi một NH hạng nhất trong nước, còn
lại nhà xuất khẩu sẽ phải chịu rủi ro về hệ số tín nhiệm của NH phát hành cũng như
rủi ro chính trị hay rủi ro do cơ chế chính sách của nhà nước thay đổi.
Rủi ro đối với NH phát hành (NH mở L/C- issuing bank): NH phát hành là NH đại
diện cho người nhập khẩu, nó cung cấp tín dụng cho người nhập khẩu. NH này
thường được hai bên nhập khẩu và xuất khẩu thoả thuận lựa chọn và được quy định
trong hợp đồng, nếu chưa có sự quy định trước, người nhập khẩu có quyền lựa chọn.
Rủi ro đối với NH
phát hành là ở chỗ NH phát hành phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng
theo quy
định của L/C trong trường hợp nhà nhập khẩu chủ tâm không thanh toán hay không
có khả năng thanh toán. Vì thế, trước khi chấp nhận phát hành L/C, NH cần thẩm
định một cách chặt chẽ giống như việc cấp một khoản tín dụng cho khách hàng.
Rủi ro đối với NH thông báo thư tín dụng (advising bank): NH thông báo là NH
được NH mở yêu cầu thông báo một L/C do NH mở phát hành cho người bán. NH
thông báo phải chịu trách nhiệm về tính chân thật, hợp lệ của thư tín dụng (bao gồm
cả việc xác minh
chữ ký, khoá mã, mẫu điện…) trước khi gửi thông báo cho nhà xuất khẩu. Rủi ro đối
với NH thông báo xảy ra khi gặp phải một L/C giả (hoặc sửa đổi giả) mà không có
ghi chú gì. Theo thông lệ quốc tế thì NH thông báo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm
với các bên liên quan.
Rủi ro đối với NH được chỉ định: NH được chỉ định không có một trách nhiệm nào

phải thanh toán cho nhà xuất khẩu trước khi nhận được tiền từ NH phát hành. Tuy
nhiên trong thực tế, các NH được chỉ định thường ứng trước tiền cho nhà xuất khẩu
với điều kiện truy đòi (with recourse) để trợ giúp cho nhà xuất khẩu. Do đó, NH này
thường phải tự chịu rủi ro tín dụng đối với NH phát hành hoặc nhà xuất khẩu.
Rủi ro đối với NH xác nhận (confirming bank): NH xác nhận thường là NH lớn có
uy tín hoặc NH có quan hệ tiền gửi, tiền vay với NH mở, được NH mở yêu cầu xác
nhận và
cam kết trả tiền cho người bán nếu như NH mở không thực hiện được nghĩa vụ của
mình. Đối với NH xác nhận, khi tham gia xác nhận là họ đã tự ràng buộc trách
nhiệm của mình vào nghĩa vụ thanh toán L/C khi có tranh chấp giữa hai bên. Rủi ro
đối với NH xác nhận
xảy ra khi họ không nắm vững được năng lực tài chính của NH mở mà xác nhận
theo yêu cầu của họ để rồi khi xảy ra hậu quả thì lại phải chịu trách nhiệm thanh
toán thay cho NH mở L/C do NH mở L/C thiếu thiện chí hay mất khả năng thanh
toán, thậm chí bị phá sản. Rủi ro đối với NH chiết khấu (negotiating bank): NH chiết
khấu là NH được chỉ định cụ thể hoặc bất cứ NH nào nếu L/C cho chiết khấu tự do.
Cũng như NH phát hành, NH chiết khấu có thể gặp phải rủi ro nếu như không thực
hiện chính xác nghiệp vụ cũng như
không tuân thủ theo các điều kiện của UCP500. Rủi ro xảy ra đối với NH chiết khấu
phần nhiều phụ thuộc vào thiện chí của NH mở và nhà nhập khẩu. Các rủi ro mà NH
chiết
khấu có thể gặp phải là: Rủi ro do những nguyên nhân bất khả kháng; rủi ro do nhà
nhập khẩu trì hoãn thanh toán; rủi ro trong quá trình vận chuyển; rủi ro do nhà nhập
khẩu từ chối thanh toán bộ chứng từ; rủi ro do NH mở bị phá sản; rủi ro do NH
chiết khấu không hành động đúng theo quy định của UCP500.
Rủi ro mặt đạo đức kinh doanh: Là những rủi ro khi một bên tham gia cố tình không
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các bên khác.
Rủi ro do cơ chế chính sách thay đổi hay còn gọi là rủi ro chính trị: Là những rủi ro
có quan hệ với nhiều đối tượng ở nhiều quốc gia khác nhau. Mỗi một sự thay đổi về
kinh tế, chính trị đều có ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và sự đáp ứng các điều

kiện đã thoả thuận trong hợp đồng của các bên. Suy thoái kinh tế và biến động chính
trị sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và giao lưu thương mại quốc tế.
Ngoài ra còn một số rủi ro khác như thiên tai, hoả hoạn… Giải pháp hạn chế và
phòng ngừa rủi ro
Để đạt được mục tiêu là hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động TTQT của
NHTM, cần có các biện pháp, chính sách mang tính đồng bộ và dài hạn, cụ thể là:
Đối với NHTM:
Hiện đại hoá công nghệ hoạt động TTQT của NH theo mặt bằng trình độ quốc tế.
Công nghệ ngân hàng là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của ngân
hàng trong quá trình hoạt động. Do vậy, các NHTM cần tiếp tục đầu tư củng cố nền
tảng công nghệ, tăng cường khai thác tiện ích, tạo các sản phẩm có giá trị gia tăng
phục vụ khách hàng. Hiện đại hoá cơ sở kỹ thuật đáp ứng yêu cầu tăng khối lượng
TTQT, hội nhập với khu vực và thế giới.
Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên về chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức
pháp luật, đạo đức nghề nghiệp và ý thức phòng ngừa rủi ro. Kinh nghiệm của nhiều
nước trên thế giới và khu vực cho thấy công tác đào tạo là một trong những nhân tố
quyết định thành công đối với sự phát triển của đất nước nói chung cũng như của
từng NHTM nói riêng. Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động TTQT nói riêng,
thì vấn đề đào tạo được một đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ làm công tác chuyên
môn có trình độ, năng lực, phẩm chất là hết sức quan trọng và cần thiết.
Nâng cao năng lực quản trị rủi ro đối với đội ngũ cán bộ quản trị, điều hành các cấp
và tăng cường công tác kiểm tra giám sát rủi ro trong hoạt động TTQT.
Tăng cường công tác thông tin phòng ngừa rủi ro. Các NH cần cập nhật đầy đủ
thông tin kinh tế, đặc biệt là thông tin phòng ngừa rủi ro nhằm mục đích giảm thiểu
rủi ro cho quá trình hoạt động TTQT của NHTM. Lựa chọn, áp dụng những phương
pháp và công cụ phòng ngừa, hạn chế rủi ro thích hợp theo thông lệ và chuẩn mực
quốc tế.
Tăng cường công tác đối ngoại với các NH nước ngoài. Các NHTM cần phải thiết
lập mới và củng cố mạng lưới các NH đại lý và các văn phòng đại diện ở nước

ngoài. Thông
qua đó cung cấp thông tin, hỗ trợ cho doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng và thực hiện các
hoạt động TTQT một cách an toàn, hiệu quả và nhanh chóng.
Đối với khách hàng:
Rủi ro trong hoạt động TTQT phần lớn phát sinh từ khách hàng - những người trực tiếp
tham gia vào quá trình hoạt động TTQT. Do vậy, để giảm bớt rủi ro trong quá trình hoạt
động TTQT, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần phải trang bị tốt kiến thức chuyên môn
và trình độ ngoại ngữ cho cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp và cán bộ chuyên môn nghiệp vụ
trực tiếp làm công tác xuất nhập khẩu. Cần am hiểu về thông lệ quốc tế trong buôn bán
ngoại thương, am hiểu phong tục, tập quán và pháp luật của nước có quan hệ ngoại
thương.
Đối với Nhà nước:
• Nhà nước cần tạo sự ổn định về môi trường kinh tế vĩ mô, tiếp tục hoàn thiện các chính
sách, pháp luật nhằm tạo dựng môi trường kinh tế thông thoáng, ổn định và thuận lợi, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển phù hợp với yêu cầu của các tổ chức kinh tế,
các quy ước, định chế thương mại quốc tế mà chúng ta tham gia.
• Củng cố, phát triển và hoàn thiện môi trường pháp luật cho hoạt động TTQT. Sớm hoàn
thiện hệ thống quy phạm pháp luật trong nghiệp vụ TTQT của NHTM đáp ứng các yêu
cầu mới của nền kinh tế. Các quy định này cần được tiến hành từng bước phù hợp với
tiến trình vận động của nền kinh tế, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo
tính độc lập, đặc thù của nước ta.
• Nâng cao chất lượng điều hành vĩ mô về tiền tệ, tín dụng. Duy trì chính sách tỷ giá thị
trường có sự quản lý của nhà nước và thực hiện chính sách quản lý ngoại hối có hiệu quả.
• Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động TTQT. Nhà nước cần tiếp
tục đưa ra các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống tài chính,
thị trường chứng khoán và hệ thống NH. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với
hoạt động TTQT, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro trong quá trình hoạt động
TTQT của NHTM. Nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ
thống cảnh báo sớm.
Đối với NHNN:

Tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát và đánh giá an toàn đối với hệ thống NHTM.
Phối hợp với các Bộ, ngành hoàn thiện các quy trình, quy định cho hoạt động TTQT. Xây
dựng các phương pháp kiểm tra, giám sát hoạt động TTQT của NHTM theo luật pháp
nước ta và các chuẩn mực quốc tế.
Hoàn thiện hoạt động thông tin phòng ngừa rủi ro trong hoạt động TTQT cho toàn bộ hệ
thống NHTM. Xây dựng một hệ thống công nghệ đảm bảo thu thập được những thông tin
quản trị cần thiết cho NH kịp thời để làm cơ sở cho những quyết định kinh doanh NH.
Với chủ trương phát triển nền kinh tế mở, đẩy nhanh quá trình hội nhập nền kinh tế nước
ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam với các
nước không ngừng tăng lên, trong đó phải kể đến những đóng góp không nhỏ của hệ
thống NHTM nước ta trong việc làm trung gian thanh toán giữa các doanh nghiệp trong
nước với nước ngoài, từng bước khẳng định niềm tin trên trường quốc tế.
Cho đến nay, các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước khi quan hệ mua bán với nhau
thường sử dụng các hình thức thanh toán như: Chuyển tiền (Remittance), Uỷ thác thu
(Collection), Tín dụng chứng từ (Documentary Credit). Nếu như hai phương thức đầu
đều bất lợi cho một bên là người mua hoặc người bán, ngân hàng chỉ là trung gian và
không bị ràng buộc trách nhiệm phải thanh toán, thì phương thức tín dụng chứng từ tỏ ra
ưu việt hơn, nó đảm bảo quyền lợi cho tất cả các bên tham gia. Chính những ưu điểm nổi
bật này mà phương thức tín dụng chứng từ được ưa chuộng hơn. Ước tính có khoảng
80% các hợp đồng ngoại thương thoả thuận phương thức thanh toán bằng tín dụng thư
không huỷ ngang.
Lợi ích khi sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:
Bản thân phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tỏ ra ưu việt, phương thức thanh toán
tín dụng chứng từ giúp giải quyết mối quan hệ tiền tệ,tạo nên tính liên lục của quá trình
sản xuất và thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá trên phạm vi quốc tế.Tăng cường mối
quan hệ giao lưu giữa các quốc gia,giúp cho quá trình giúp cho quá trình thanh toán được
nhanh chóng,tiện lợi và giảm bớt chi phí cho các chủ thể tham gia.Các ngân hàng với vai
trò là trung gian thanh toán sẽ bảo vệ quyên lợi cho khách hàng,đồng thời tư vấn hướng
dẫn cho khách hàng về kỹ thuật giao dịch nhằm hạn chế rủi ro và tạo sự an toàn cho
khách hàng.

Thứ hai,giúp ngân hàng tăng doanh thu,nâng cao uy tín của ngân hàng và tạo dựng niềm
tin ở khách hàng.Từ đó giúp ngân hàng mở rộng quy mô,nâng cao sức cạnh tranh trong
cơ chế thị trường.
Thứ ba,tăng tính thanh khoản cho ngân hàng,thu hút được nguồn ngoại tệ tạm thời nhàn
rỗi dưới hình thức kí quỹ chờ thanh toán.
Thứ 4,tạo điều kiện hiện đại hoá công nghệ .ngân hàng
Song nó không phải là phương thức thanh toán tránh được rủi ro cho các bên tham gia
một cách tuyệt đối. Thực tế cho thấy, các bên tham gia của Việt Nam bước vào thị trường
thế giới đa phần là mới lạ, kinh nghiệm còn non trẻ.Trong điều kiện đó các ngân hàng và
các doanh nghiệp XNK đã gặp nhiều khó khăn khi phát sinh những rủi ro trong việc
thanh toán bằng TDCT, có trường hợp bị thiệt hại lên đến hàng triệu đôla.
+Nguyên nhân dẫn đến rủi ro là:
-Chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản luật chồng chéo,không rõ ràng
-Thị trường thế giới luôn có những biến dộng về giá cả,cung câu
Thông tin bất cân xứng về khoa học,nghành nghề đầu tư
-Đạo đức nghề nghiệp chưa tốt
-Không có sự thống nhất giũa chúc năng bán hàng,tác nghiệp và quản lí rủi ro
-Năng lực,kinh nghiệm chưa đáp ứng,chưa có sự phân công phù hợp
-Thẩm định gặp khó khăn khi phân tích tình hình tài chính
-Thiếu giám sát trước và sau cho vay
Những rủi ro:
Trong quá trình tiến hành hoạt động, rủi ro xảy ra khi quyền lợi của một bên tham
gia bị vi phạm. Rủi ro không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc chứng từ không được
thanh toán, mà còn được hiểu rộng ra là bất kỳ một sự chậm trễ nào trong các khâu của
quá trình TTQT. Rủi ro có thể xảy ra với tất cả các bên tham gia: Với người bán, rủi ro
xảy ra khi bán hàng không thu được tiền hoặc chậm thu được tiền, rủi ro về thị trường,
rủi ro không nhận hàng, rủi ro không thanh toán…; với người mua, rủi ro xảy ra khi
người bán giao hàng không đúng với các điều kiện của hợp đồng (không đúng số lượng,
chủng loại…), rủi ro không giao hàng, rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hoá…; với
NH có liên quan, rủi ro xảy ra khi người mua hoặc người bán thiếu trung thực, không

thực hiện đúng cam kết đã ghi trong hợp đồng, do tỷ giá biến động.
-Rủi ro đối với NH phát hành (NH mở L/C- issuing bank): NH phát hành là NH đại diện
cho người nhập khẩu, nó cung cấp tín dụng cho người nhập khẩu. NH này thường được
hai bên nhập khẩu và xuất khẩu thoả thuận lựa chọn và được quy định trong hợp đồng,
nếu chưa có sự quy định trước, người nhập khẩu có quyền lựa chọn. Rủi ro đối với NH
phát hành là ở chỗ NH phát hành phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo
quy
định của L/C trong trường hợp nhà nhập khẩu chủ tâm không thanh toán hay không có
khả năng thanh toán. Vì thế, trước khi chấp nhận phát hành L/C, NH cần thẩm định một
cách chặt chẽ giống như việc cấp một khoản tín dụng cho khách hàng.
-Rủi ro đối với NH thông báo thư tín dụng (advising bank): NH thông báo là NH được
NH
mở yêu cầu thông báo một L/C do NH mở phát hành cho người bán. NH thông báo phải
chịu trách nhiệm về tính chân thật, hợp lệ của thư tín dụng (bao gồm cả việc xác minh
chữ ký, khoá mã, mẫu điện…) trước khi gửi thông báo cho nhà xuất khẩu. Rủi ro đối với
NH thông báo xảy ra khi gặp phải một L/C giả (hoặc sửa đổi giả) mà không có ghi chú
gì. Theo thông lệ quốc tế thì NH thông báo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với các bên
liên quan.
+Rủi ro đối với NH được chỉ định: NH được chỉ định không có một trách nhiệm nào phải
thanh toán cho nhà xuất khẩu trước khi nhận được tiền từ NH phát hành. Tuy nhiên trong
thực tế, các NH được chỉ định thường ứng trước tiền cho nhà xuất khẩu với điều kiện truy
đòi (with recourse) để trợ giúp cho nhà xuất khẩu. Do đó, NH này thường phải tự chịu rủi
ro tín dụng đối với NH phát hành hoặc nhà xuất khẩu.
Rủi ro đối với NH xác nhận (confirming bank): NH xác nhận thường là NH lớn có uy tín
hoặc NH có quan hệ tiền gửi, tiền vay với NH mở, được NH mở yêu cầu xác nhận và
cam kết trả tiền cho người bán nếu như NH mở không thực hiện được nghĩa vụ của mình.
+Đối với NH xác nhận, khi tham gia xác nhận là họ đã tự ràng buộc trách nhiệm của
mình
vào nghĩa vụ thanh toán L/C khi có tranh chấp giữa hai bên. Rủi ro đối với NH xác nhận
xảy ra khi họ không nắm vững được năng lực tài chính của NH mở mà xác nhận theo yêu

cầu của họ để rồi khi xảy ra hậu quả thì lại phải chịu trách nhiệm thanh toán thay cho NH
mở L/C do NH mở L/C thiếu thiện chí hay mất khả năng thanh toán, thậm chí bị phá sản.
Rủi ro đối với NH chiết khấu (negotiating bank): NH chiết khấu là NH được chỉ định cụ
thể hoặc bất cứ NH nào nếu L/C cho chiết khấu tự do. Cũng như NH phát hành, NH chiết
khấu có thể gặp phải rủi ro nếu như không thực hiện chính xác nghiệp vụ cũng như
không tuân thủ theo các điều kiện của UCP500. Rủi ro xảy ra đối với NH chiết khấu phần
nhiều phụ thuộc vào thiện chí của NH mở và nhà nhập khẩu. Các rủi ro mà NH chiết
khấu có thể gặp phải là: Rủi ro do những nguyên nhân bất khả kháng; rủi ro do nhà nhập
khẩu trì hoãn thanh toán; rủi ro trong quá trình vận chuyển; rủi ro do nhà nhập khẩu từ
chối thanh toán bộ chứng từ; rủi ro do NH mở bị phá sản; rủi ro do NH chiết khấu không
hành động đúng theo quy định của UCP500.
+Rủi ro đối với NH được chỉ định: NH được chỉ định không có có một trách nhiệm nào
phải
thanh toán cho nhà xuất khẩu trước khi nhận được tiền từ NH phát hành. Tuy nhiên trong
thực tế, các NH được chỉ định thường ứng trước tiền cho nhà xuất khẩu với điều kiện truy
đòi (with recourse) để trợ giúp cho nhà xuất khẩu. Do đó, NH này thường phải tự chịu rủi
ro tín dụng đối với NH phát hành hoặc nhà xuất khẩu.
Giải pháp:
Do vậy, việc hoàn thiện và phát triển công tác thanh toán quốc tế, cụ thể là nghiên cứu và
phòng chống rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ là một trong những mối quan tâm
thường xuyên của mỗi ngân hàng.
Để đạt được mục tiêu là hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động TTQT của
NHTM, cần có các biện pháp, chính sách mang tính đồng bộ và dài hạn, cụ thể là:
Đối với NHTM:
Hiện đại hoá công nghệ hoạt động TTQT của NH theo mặt bằng trình độ quốc tế. Công
nghệ ngân hàng là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của ngân hàng trong
quá trình hoạt động. Do vậy, các NHTM cần tiếp tục đầu tư củng cố nền tảng công nghệ,
tăng cường khai thác tiện ích, tạo các sản phẩm có giá trị gia tăng phục vụ khách hàng.
Hiện đại hoá cơ sở kỹ thuật đáp ứng yêu cầu tăng khối lượng TTQT, hội nhập với khu
vực và thế giới.

Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên về chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp
luật, đạo đức nghề nghiệp và ý thức phòng ngừa rủi ro. Kinh nghiệm của nhiều nước trên
thế giới và khu vực cho thấy công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định
thành công đối với sự phát triển của đất nước nói chung cũng như của từng NHTM nói
riêng. Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động TTQT nói riêng, thì vấn đề đào tạo
được một đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ làm công tác chuyên môn có trình độ, năng lực,
phẩm chất là hết sức quan trọng và cần thiết.
Nâng cao năng lực quản trị rủi ro đối với đội ngũ cán bộ quản trị, điều hành các cấp và
tăng cường công tác kiểm tra giám sát rủi ro trong hoạt động TTQT.
Tăng cường công tác thông tin phòng ngừa rủi ro. Các NH cần cập nhật đầy đủ thông tin
kinh tế, đặc biệt là thông tin phòng ngừa rủi ro nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro cho quá
trình hoạt động TTQT của NHTM. Lựa chọn, áp dụng những phương pháp và công cụ
phòng ngừa, hạn chế rủi ro thích hợp theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Tăng cường công tác đối ngoại với các NH nước ngoài. Các NHTM cần phải thiết lập
mới và củng cố mạng lưới các NH đại lý và các văn phòng đại diện ở nước ngoài. Thông
qua đó cung cấp thông tin, hỗ trợ cho doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng và thực hiện các
hoạt động TTQT một cách an toàn, hiệu quả và nhanh chóng.
Đối với NHNN:
Tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát và đánh giá an toàn đối với hệ thống NHTM.
Phối hợp với các Bộ, ngành hoàn thiện các quy trình, quy định cho hoạt động TTQT. Xây
dựng các phương pháp kiểm tra, giám sát hoạt động TTQT của NHTM theo luật pháp
nước ta và các chuẩn mực quốc tế.
Hoàn thiện hoạt động thông tin phòng ngừa rủi ro trong hoạt động TTQT cho toàn bộ hệ
thống NHTM. Xây dựng một hệ thống công nghệ đảm bảo thu thập được những thông tin
quản trị cần thiết cho NH kịp thời để làm cơ sở cho những quyết định kinh doanh NH.
Đối với Nhà nước:
• Nhà nước cần tạo sự ổn định về môi trường kinh tế vĩ mô, tiếp tục hoàn thiện các chính
sách, pháp luật nhằm tạo dựng môi trường kinh tế thông thoáng, ổn định và thuận lợi, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển phù hợp với yêu cầu của các tổ chức kinh tế,
các quy ước, định chế thương mại quốc tế mà chúng ta tham gia.

• Củng cố, phát triển và hoàn thiện môi trường pháp luật cho hoạt động TTQT. Sớm hoàn
thiện hệ thống quy phạm pháp luật trong nghiệp vụ TTQT của NHTM đáp ứng các yêu
cầu mới của nền kinh tế. Các quy định này cần được tiến hành từng bước phù hợp với
tiến trình vận động của nền kinh tế, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo
tính độc lập, đặc thù của nước ta.
• Nâng cao chất lượng điều hành vĩ mô về tiền tệ, tín dụng. Duy trì chính sách tỷ giá thị
trường có sự quản lý của nhà nước và thực hiện chính sách quản lý ngoại hối có hiệu quả.
• Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động TTQT. Nhà nước cần tiếp
tục đưa ra các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống tài chính,
thị trường chứng khoán và hệ thống NH. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với
hoạt động TTQT, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro trong quá trình hoạt động
TTQT của NHTM. Nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ
thống cảnh báo sớm.
Rủi ro đối với ngân hàng phát hành L/C
1.1.Rủi ro từ phía người mở L/C.
Ngoại trừ trường hợp L/C được kí quỹ 100%, người mở L/C luôn được ngân
hàng cấp hạn mức tín dụng bằng cam kết thanh toán L/C. Việc phát hành L/C
luôn mang yếu tố bảo lãnh khi người mở ký quỹ không đủ số toàn bộ số tiền,
khi họ yêu cầu ngân hàng phát hành L/C. Vào thời điểm thanh toán, nếu có vấn
đề khó khăn từ phía người mở (phá sản mất khả năng thnah toán…) thì ngân
hàng mở là người trả tiền cho người hưởng bằng nguồn vốn của mình, mặc dù
họ chỉ thỏa thuận với người mở là cấp bảo lãnh chứ không cáp tín dụng (vay),
người mở phải dùng tiền của chính họ để thanh toán L/C. trong các nghiệp vụ
bảo lãnh luôn mang yếu tố rủi ro.
Ngoài ra, ngân hàng khi thực hiện mở L/C theo yêu cầu của ngườ mở và phải
thực hiện theo đúng các chỉ thị của người mở. Nếu ngân hàng tự sửa đổi theo
phán đoán riêng của mình, sau này bộ chứng từ hoặc các điều khoản khác
không đúng theo đơn của mình, người mở có thể dựa vào lý do này để từ chối
thanh toán và rủi ro thuộc về ngân hàng mở L/C. Ngân hàng mở L/C chỉ nên tư
vấn góp ý cho người mở.

1.2. Rủi ro từ người thụ hưởng.
Đây là giao dịch trên chứng từ nên ngân hàng mở L/C phải thực hiện thanh
toán.
1.3. Rủi ro từ ngân hàng chiết khấu.
Khi L/C cho phép đòi tiền bằng điện, có thể xảy ra trường hợp ngân hàng chiết
khấu sau khi đã nhận được tiền từ ngân hàng hoàn trả, nhưng không thể hoàn
trả lại số tiền do chứng từ bị phát hiện là bất hợp lệ với các điều khoản của L/C
và bị yêu cầu hoàn trả. Khi đó, ngân hàng mở sẽ phải gánh chịu rủi ro.
1.4. Rủi ro về điều kiện thị trường hàng hóa nhập khẩu.
Nếu các giao dịch thương mại không thuận lợi thì người mở L/C sẽ gặp khó
khăn khi thanh toán. Vì thế, ngân hàng phải lưu ý về các kênh phân phối hàng
hóa, mặt hàng có kinh doanh thường xuyên hay không, khả năng thị trường về
hàng hóa, hàng hóa nhập khẩu theo L/C có phải là tài sản đảm bảo cho ngân
hàng hay không… Khi đó, iá trị hành hóa phải được tính toán cẩn thận về mức
độ an toàn, khả năng thị trường và giá cả hàng hóa.
1.5. Rủi ro khi chứng từ vận tải nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng.
Khi mở L/C với một vận đơn gốc gửi về trước hoặc gửi theo tàu, nếu người mở
không ký quỹ đầy đủ, vận đơn không lập theo lệnh của ngân hàng, hoặc tại thời
điểm ký hậu vận đơn để người mở đi nhận hàng, ngân hàng không kiểm tra và
xác được sự an toàn trong trong thanh toán của người mở. Khi bộ chứng từ về
ngân hàng sẽ phải gánh chịu rủi ro nếu người mở bị phá sản. Ngân hàng không
nắm giữ hàng hóa nhưng vẫn thanh toán hoặc phải đền bù hàng háo cho người
hưởng…
1.6. Rủi ro khi thực hiện hoàn trả giữa các ngân hàng.
Trường hợp ngân hàng hoàn trả, vì lý do nào đó, không chuyển tiền cho ngân
hàng đòi tiền (hay ngân hàng chiết khấu) thì ghĩa vụ này thuộc về ngân hàng
phát hành. Trong thực tế, có trường hợp ngân hàng phát hành cho phép đòi tiền
tại ngân.
1.7. Rủi ro trong thực hiện bảo lãnh nhân hàng.
Bảo lãnh nhân hàng là nhiệm vụ khá phổ biến trong phương thức L/C. Ngân

hàng mở L/C sẽ phát hành thư bảo lãnh nhận hàng cho người mở để họ nhận
hàng hóa trước khi bộ chứng từ vận tải được gửi đến. Bảo lãnh ngân hàng khi
chưa có vận đơn gốc nhằm tạo thuận lợi cho người mở L/C khi họ đáp ứng đầy
đủ khả năng thanh toán. Bảo lãnh này chỉ có tính chất tạm thời, không thể thay
thế chứng từ sở hưu hàng hóa trong giao nhận ngoại thương. Ngân hàng nhận
bảo lãnh luôn phải cam kết đền bù cho hàng vận tải nếu xảy ra tổn thất. Lúc
này, ngân hàng phải chịu trách nhiệm với hãng vận tải, các chi phí khác… Việc
cấp ảo lãnh nhận hàng cững phải tính đến yếu tố rủi ro nếu vận đơn gốc, vì bất
cứ lý do nào, rơi vào tay kẻ xấu.
1.8. Rủi ro khi chứng từ không hợp lệ.
Một trong những trường hợp sau sẽ khiên cho ngân hàng mở (hoặc ngân hàng
xác nhận) mất quyền từ chối bất hợp lệ và phải thanh toán. Khi ngân hàng làm
thông báo từ chối thanh toán nhưng không nêu rõ sự bất hợp lệ của chứng từ,
hoặc bất hợp lệ này bị ngân hàng chiết khấu bác bỏ và không có giá trị. Hoặc
ngân hàng không hành động theo lệnh của phái xuất trình, tự động thanh toán
khi người mở chấp nhận bất hợp lệ mà không đợi chỉ thị của phía xuất trình.
Cũng có thể ngân hàng ra thông báo những bất hợp lệ và từ chối chứng từ vượt
quá 7 ngày làm việc của ngân hàng. Hoặc ngân hàng đã giao chứng từ cho
người mở hay làm mất nên không trả lại cho phía xuất trình toàn bộ tài liệu
nguyên vẹn như lức nhận, hoặc không giao chúng cho người thứ 3 do phái xuất
trình chỉ định. Hoặc ngân hàng chấp nhận thanh toán bộ chứng từ mà không có
văn bản chấp nhận bất hợp lệ của chứng từ cả người mở L/C.
2. Rủi ro đối với ngân hàng xác nhận L/C.
2.1. Rủi ro khi thực hiện xác nhân L/C theo yêu cầu của ngân hàng mở.
Trong UCP, các điều khoản luôn đề cập đến nghĩa vụ và trách nhiệm của ngân
hàng mở và ngân hàng xác nhận một cách rất rõ ràng. Có thể thấy trách nhiệm và
nghĩa vụ của ngân hàng xác nhận cũng giống như ngân hàng mở đối với việc
thanh toán và có thể ngân hàng xác nhận phải gánh chịu rủi ro cho ngân hàng mở.
có thể nói, tất cả các rủi ro mà ngân hàng mở gặp phải đều có khả năng xảy ra đối
với ngân hàng xác nhận nếu có sự cố từ ngân hàng phát hành.

Khi đã xác nhận L/C, ngân hàng xác nhận buộc phải chấp nhận, thanh toán hay
chiết khấu bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện của L/C, cả khi ngân hàng mở
gặp khó khăn (bị vỡ nợ hay phá sản). Thậm chi nếu ngân hàng mở không trả được
tiền do nguyên nhân bất khả kháng thì ngân hàng xác nhận cũng phải chịu mọi rủi
ro và sẽ không được đòi hoàn tiền từ người thụ hưởng. Ngân hàng xác nhận không
cho phép từ chối thanh toán khi nhân được chứng từ hoàn toàn hợp lệ theo L/C.
Khi chứng từ bất hợp lệ, ngân hagnf xác nhận thực hiện chiết khấu bộ chứng từ
nếu không lưu ý cho nhà xuất khẩu rằng lúc này họ cỉ đóng vai cho là ngân hàng
chiết khâu đơn thuần không phải là ngân hàng xác nhận, dù chiết khấu có bảo lưu,
thì họ vẫn phải gánh chịu rủi ro mất quyền bảo lưu vì được coi như là ngân hàng
xác nhận.
2.2. Rủi ro khi thực hiện xác nhận L/C theo yêu cầu của người hưởng.
Xác nhận đơn phương (Silent confirmation) có nghĩa là ngần hàng sẽ xác nhận
theo yêu cầu của người hưởng, không được ủy quyền hoặc theo yêu cầu của
ngân hàng phát hành. Việc xác nhận đơn phương không có giá trị đới với ngân
hàng mở.
Điều gì bất lợi cho ngân hàng xác nhận ở trường hợp này? Do không được
ngân hàng paths hành ủy quyền hoặc yêu câu nên việc xác nhận này hoàn toàn
dựa vào uy tín và khả năng trả tiền của ngân hàng phát hành. Nếu không có
yếu tố thế chấp (lý quỹ ngân hàng mở tai ngân hàng xác nhận, hoặc có tài
khoản tiền gửi) thì rỉu ro có thể phát sinh. Trong đó trách nhiệm thanh toán cho
người hưởng của ngân hàng xác nhận là tuyệt đối và không thay đổi dù cho
mọi biến cố khách quan hoặc chủ quân từ phái ngân hàng mở. điều bất lợi nữa
là có thể ngân hàng xác nhận không được quyền kiện ngân hàng phát hành.
Nếu luật quốc tế của ngân hàng phát hành chỉ cho phép tòa án chấp nhận đơn
kiện của người hưởng mà không phải là của ngân hàng chiết khấu thì ngân
hàng xác nhận không đủ tư cách là nguyên đơn. Khi đó, ngân hàng xác nhận
phải thương lượng, thảo thuận với người hưởng để kiện ngân hàng phát hành.
Nếu người hưởng đã nhận thanh toán (hoặc chiết khấu) mà không quan tâm
đến két quả giao dịch giữa 2 ngân hàng thì rủi ro sẽ do ngân hàng xác nhận

gánh chịu và không được quyên yêu cầu người hưởng hoàn trả lai tiền.
3. Rủi ro đối với ngân hàng thông báo.
3.1. Rủi ro khi nhận L/C từ ngân hàng phát hành.
Khi nhận được L/C từ ngân hàng mở, ngân hàng phải thông báo L/C ngay cho
người thụ hưởng một cách nhanh chóng và kịp thời. Bất kỳ một sự chậm trễ hay
thiếu chinh xác nào về việc thông báo do sự sai lầm của người thông báo dẫn đến
thương vụ không thành, thì ngân hàng mở hoặc người thụ hưởng có thể kiện ngân
hàng thông báo bồi thường cho những thiệt hại xảy ra.
Trước khi thông báo, ngân hàng phải kiểm tra tính chất chân thực của L/C và nó
có thể bị giả mạo chữ ký (nếu bằng thư) hoặc mã testkey (nếu bằng điện). Nếu
ngân hàng thông báo không thể kiểm tra tính xác thực của L/C nhưng không thông
báo ngay cho ngân hàng paths hành, mà lại quyết đinh thông báo cho người hưởng
không kèm theo bộ chứng từ.
3.2. Rủi ro khi thông báo giao L/C cho người hưởng thụ.
Trong giai đoạn này rủi ro có thể phát sinh do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất do
dịch vụ vận chuyển không đáng tin cậy hoặc địa chỉ người thụ hưởng không ro
ràng làm cho L/C bị thất lạc; hoặc là, L/C được giao tại quầy nhưng giấy giới
thiệu bị giả mạo, hoặc do người thụ hưởng L/C không phải là khách hàng của
ngân hàng thông báo nên không kiểm tra được tính chân thực của thư ủy quyên
hay giấy giới thiệu.
4. Rủi ro đối với ngân hàng chiết khấu.
4.1. Rủi ro từ nguyên nhân bất khả kháng.
Đó là rủi ro xảy ra như các sự kiện trong hiện tại, nổi loạn, bạo động, chiến tranh,
đình công đảo, chính đóng cửa ngân hàng do khung hoảng kinh tế… Nếu ngày
xuất trình chứng từ hoặc ngầy hết hạn hiệu lực L/C rơi đúng vào nagyf xảy ra các
sự kiện trên thì ngân hàng mở có thể miễn trách nhiệm thanh toán trong khi nhà
xuất khẩu đã gửi hàng hóa và ngân hàng đã chiết khâu bộ chứng từ cho nhà xuất
khẩu. Nếu rủi ro phát sinh do các nguyên nhân trên thì ngân hàng chiết khấu khó
có thể chủ động phòng ngừa do nó xảy ra bất ngờ và tại nước nhập khẩu.
4.2. Rủi ro từ ngân hàng phát hành.

Rủi ro này nhìn chung ít xảy ra nhưng không phải là không bao giờ xảy ra. Sau
các cuộc khủng hoảng tài chính, một số ngân hàng có thể bị phá sản, bị mua lại
hoặc bị sáp nhập… Các ngân hàng lức này sẽ mất khả năng thanh toán cho
những L/C mà họ đã mở. Nếu ngân hàng chiết khấu đã mua bộ chứng từ rồi thì
ngân hàng chiết khấu sẽ gánh chịu thiệt hại do không thể đòi lại tiền từ người
hưởng được lợi.
4.3. Đây là loiaj rủi ro gây thiệt hại nặng nhất cho nhà xuất khẩu, nhugw nếu nhà
xuất khâu không có khả năng thanh toán lại thì ngân hàng chiết khấu gánh chịu
rủi ro. Nguyên nhân có thể do nhà nhập khẩu bị mất kahr năng thanh toán, phá
sản… khi đó, mở buộc phải từ chối thanh toán nếu bộ chứng từ có lỗi dù rất
nhỏ. Có khi rủi ro phát sinh do nhà nhập khẩu trì hoãn thanh toán thường là do
khả năng thanh toán của họ yếu. Mặt khác, cũng có thể nhà nhập khẩu không
tin tưởng không tin tưởng nhà xuất khẩu vì thường giao hàng trễ hoặc kém chất
lượng. Mục đích của nhà nhập khẩu là muốn hàng thực sự cập cảng mới chấp
nhận trả tiền. Để trì hoãn thanh toán nhà nhập khẩu thường yêu cầu ngân hàng
mở tìm ra lỗi của chứng từ trong 7 nagyf làm việc của ngân hàng. Thời gian trì
hoãn thanh toán càng dài thì ngân hàng chiết khấu càng dễ bị động vè nguồn
vốn do đã trả tiền trước cho người bán.
4.4. Rủi ro trong nghiệp vụ kiểm tra chứng từ.
Rủi ro vè thời gian kiểm tra chứng từ và thời hạn xuất trình chứng từ.
Khi ngân hàng được chỉ định chấp nhận bộ chứng từ xuất trình tại mình, mặc
dù nó không hề cam kết về trách nhiệm đối với L/C đó, cũng phải kiểm tra
chứng từ để quyết định trong thời hạn quy định (7 ngày làm việc của ngân
hàng theo UCP500), nhân hay từ chối chứng từ, chiết khấu hay chỉ làm ngân
hàng chuyển chứng từ mà thôi. Trách nhiệm cộng với những giới hạn về thời
gian sẽ trở thành rủi roc ho ngân hàng nếu không tuân thủ đúng quy định.
Ngân hàng mở chỉ căn cứ ngày ghi trên Bản gửi chứng từ (Covering/Schedule
letter) của ngân hàng chuyển chứng từ để xác định ngày xuất trình chứng từ.
Nếu ngày đó sau ngày mất hiệu lực hoặc sau ngày cuối cùng xuất trình chứng
từ thì ngân hàng mở có quyền từ chối. Trường hợp thời hạn xuất trình chứng từ

vẫn hợp lệ nhưng ngân hàng chỉ định không ghi rõ sẽ gánh chịu rủi ro từ chối
thanh toán.
Rủi ro khi kiểm tra chứng từ không theo UCP.
Khi khách hàng xuất trình chứng từ, dù ngân hàng có chiết khấu bộ chứng từ
đó hay không thì cũng phải kiểm tra chứng từ với một sự cẩn thận hợp lý .
Trong tranh chấp, người nào có lỗi thì người đó phải gánh chịu hậu quả. Do
vậy, ngân hàng kiểm tra bộ chứng từ không thể cố tình hiểu sai sự việc vì mục
đích bảo vệ quyền lợi khách hàng của mình dẫn đến hậu quả là từ chối bộ
chứng từ. Và vi thế mà ngân hàng bị đánh giá thấp trình độ nghiệp vụ và uy tín
trên thị trường quốc tế.
Rủi ro do giá trị hiệu lực của chứng từ.
Nếu ngân hàng kiểm tra với “sự cẩn thận hợp lý” nhưng không thể kiểm tra
được sự gian lận của chứng từ như chữ ký, con dấu, mẫu chứng từ giả… thì
ngân hàng được miễn trách. Nhưng nếu ngân hàng bất cẩn mà không nhận ra
sự giả mạo thì phải gánh chịu những hậu quả xảy ra. Những trường hợp sự giả
mạo của chữ ký của người cấp vận đơn nhưng không đúng theo mẫu chữ ký tại
hồ sơ ngân hàng. Vận đơn này phải bị ngân hàng từ chối. mặc dù trong trường
hợp theo UCP500, ngân hàng được mienx trách nhiệm và không phải trược
tiếp gánh chịu hậu quả nhưng ngân hàng sẽ bị ngân hàng nước ngoài đánh giá
thấp hoặc bị mất yu tín.
4.5. Rủi ro trong nghiệp vụ chiết khấu chứng từ.
- Rủi ro khi chiết khấu chứng từ không bảo lưu (miễn truy đòi).
Chiết khấu chứng từ xuất khẩu là việc ứng một khoản tín dụng cho người
xin chiết khấu. Vì thế, việc quản lý khaonr tín dụng cấp cho người xin chiết
khấu này cho đến khi thanh toán chugws từ là rất quan trọng. Nếu ngân
hàng chiết khấu chứng từ không bảo lưu (Without recourse) thì ngân hàng
sẽ gánh chịu rủi ro khi không được trả lại số tiền hối phiếu từ người xin
chiết khấu. Bởi vì chứng từ bị từ chối thanh toán do bất hợp lệ với điều
khoản và điều kiện của L/C; hoặc việc nhờ thu chứng từ này không thể
được do quy định gắt gao về ngoai hối và thương mại của nước nhập khẩu,

hoặc do sụ phá sản của ngân hàng mở L/C. Chiết khấu cóa bảo lưu (được
truy đòi) là ngân hàng trả tiền cho quyền yêu cầu của người hoàn lại tiền.
Vì mối quan hệ của ngân hàng và người hưởng, ngân hàng có thể chiết
khấu chứng từ bất hợp lệ trên cơ sở đảm bảo, cam kết của người hưởng (sẽ
hoàn trả gốc và lại cho ngân hàng nếu chứng từ bị từ chối). Đây là mố quan
hệ riêng với phái xuất khẩu không liên quan tới phái nhập khẩu, đặc biệt là
ngân hàng phát hành. Nếu ngân hàng chiết khấu có ghi chú điều này vào
chỉ thị trả tiền thì vì thế mà ngân hàng phát hành mất đi quyền từ chối bộ
chứng từ bất hợp lệ và nghại vị phải hành động đúng theo quy tắc của
UCP500. Vì thế, ngân hàng chiết khấu vẫn phải gánh chịu hoàn toàn rủi ro
khi bộ chứng từ bị từ chối mà nhà xuất khẩu hoàn trả lại tiền khi triết khấu
không bảo lưu.
- Rủi ro khi ngân hàng chiết khấu không phải là ngân hàng thông báo.
Đối với L/C có điều khoản “cho phép chiết khấu ở bất kì ngân hàng nào”
ngân hàng triết khấu rất khó xác định số lần sủa đổi L/C, mà tùy thuộc hoàn
toàn vào tính chung thực của người hưởng (khi ngân hàng chiết khấu không
phải là ngân hàng thông báo). Một ngân hàng mở ghi số thứ tụ sủa đổi L/C
nhằm kiểm soát dễ dàng, nhưng các ngân hàng khác lại không làm như vậy
vì không có quy định chung hay riêng nào cả. Do không có hồ sơ thông báo
L/C nên ngân hàng chiết khấu chỉ dựa vào chỉ dự vào việc xuất trình của
ngườ hưởng. Có thể một sửa đổi nào đó đã bị từ chối hoặc đucợ hủy bỏ
nhưng vẫn được xuất trình. Tất cả những vân đề trên tạo ra khe hở trong
kiểm tra chứng từ của ngân hàng được chỉ định khi họ họ không phải là
ngân hàng thông báo.
- Rủi ro trong thực hiện chứng từ.
Ngân hàng phải thực hiện đúng điều kiện của L/C trong việc gửi chứng từ
về số lần gửi chứng từ, hãng vận chuyển, đảm bảo thời hạn xuất trình,…
ngược lại nó phải gánh chịu hậu quả.
- Rủi ro trong trường hợp hoàn trả tiền giữa các ngân hàng.
Ngân hàng chiết khấu phải thực hiện đúng các điều kiện của L/C trong

nghiệp vụ đòi hoàn trả. Nếu yêu cầu hoàn trả được L/C quy định gửi bằng
thư mà ngân hàng chiết khấu gửi bằng điện thì ngân hàng hoàn trả có thể từ
chối trả tiền cho đến khi nhận được bản đòi tiền bằng thư; hoặc ngân hàng
hoàn trả có thể phạt ngân hàng chiết khấu vì đã không thực hiện đúng yêu
cầu của L/C. Sự chậm trễ nhận dược tiền hoặc chi phí phạt thì ngân hàng
chiết khấu sẽ phải gánh chịu. Ngân hàng hoàn trả có thể bỏ qua bản đòi tiền
nếu bản bản đòi tiền không ghi rõ ngày hoàn trả được xác định trước; hoặc
bản đòi tiền được xuất trình cho ngân hàng hoàn trả quá 10 ngày làm việc
trước ngày được xác định trước. Ngân hàng chiết khấu sẽ phải làm lại yêu
cầu hoàn trả, tốn phí và thời gian.
- Rủi ro trong thực hiện chiết khấu chứng từ bất hợp lệ.
Rủi ro sẽ phát sinh đói với ngân hàng chiết khấu khi ngân hàng mở từ chối
thanh toán do: Bất hợp lệ do ngân hnagf phát hành phát hiện mà ngân hàng
chiết khấu không biết; chưa nhận được điện báo chấp nhận bất hợp lệ mà đã
chiết khấu bộ chứng từ và gửi chứng từ đi; chứng từ bất hợp lệ không được
phát hiện, đã đòi tiền ngân hàng hoàn trả và ghi có cho người hưởng. Bất
hợp lệ bị phát hiện, chứng từ bị từ chối, ngân hàng chiết khấu phải trả lai
tiền và lãi trong khi gười hưởng đã sử dụng hết tiền; không thông báo cho
người hưởng về bất hợp lệ của chứng từ sau khi kiểm tra, không có văn bản
xác nhận của người hưởng về bất hợp lệ, người hưởng sau này có thể kiện
lại ngân hàng vì họ không được biết để có cách giaỉ quyết. ngân hàng chiết
khấu thay mặt ngân hàng phát hành để kiểm tra và định đoạt chứng từ. Nếu
bộ chứng từ bất hợp lệ nghĩa là bề mặt của chúng không phù hợp vói quy
định của L/C, thì trong khoảng thời gian quy định, ngân hàng chiết khấu
phải quyết định chấp nhận hay từ chối bộ chứng từ. Nếu qua thời gian quy
định mà ngân hnagf và người nhập khẩu vì chậm thời gian định đoạt hay
thương lượng với nhà xuất khẩu để đảm bảo hàng hóa cho họ. Giả sự nhà
nhập khẩu chấp nhận bộ chứng từ bất hợp lệ, sự chậm trễ trong việc kiểm
tra chứng từ của ngân hàng sẽ gây ra sự chậm trễ trong việc nhân hàng và
sẽ gây ra phát sinh các phụ phí khác.


Rủi ro đối với ngân hàng phát hành
1. Trong nghiệp vụ mở L/C, nếu NH phát hành kiểm tra không kĩ đơn xin mở L/C sẽ
dẫn đến việc chấp nhận cả những điều khoản hàm chứa rủi ro cho NH sau này.
2. Khi nhận được bộ chứng từ xuất trình, nếu NH phát hành trả tiền hay chấp nhận
thanh toán hối phiếu kỳ hạn mà không có sự kiểm tra một cách thích đáng bộ chứng
từ, để bộ chứng từ có lỗi, nhà NK không chấp nhận, thì NH không thể đòi tiền nhà
NK.
3. Ngân hàng phát hành phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo qui định
của L/C ngay cả trong trường hợp nhà NK mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản do
kinh doanh thua lỗ.
4. Trong trường hợp hàng đến trước bộ chứng từ thì NH phát hành hay được yêu cầu
chấp nhận thanh toán cho người thụ hưởng mà chưa nhìn thấy bộ chứng từ. Nếu
không có sự chấp nhận trước của người NK về việc hoàn trả, thì NH phát hành sẽ gặp
rủi ro khi bộ chứng từ có sai sót, khi đó nhà NK không chấp nhận và NH sẽ không
truy hoàn được tiền từ nhà NK.
5. Nếu trong L/C ngân hàng phát hành không qui định bộ vận đơn đầy đủ(full set off
bills of lading) thì một người NK có thể lấy được hàng hoá khi chỉ cần xuất trình một
phần của bộ vận đơn, trong khi đó người trả tiền hàng hoá lại là ngân hàng phát hành
theo cam kết của L/C.
6. NH phát hành có thể gặp rủi ro do không hành động đúng theo UCP 500, đó là đưa
ra quyết định từ chối bộ chứng từ vượt quá 7 ngày làm việc của ngân hàng, theo qui
định của UCP 500 là không quá 7 ngày.
Rủi ro đối với ngân hàng thông báo
NH thông báo có trách nhiệm phải đảm bảo rằng thư tín dụng là chân thật, đồng thời phải
xác minh chữ ký, mã khoá (test key), mẫu điện của NH phát hành trước khi gửi thông báo
cho nhà XK. Rủi ro xảy ra với NH thông báo là khi NH này thông báo một L/C giả hoặc
sửa đổi một L/C không có hiệu lực trong khi chính NH chưa xác nhận được tình trạng mã
khoá hay chữ ký uỷ quyền của NH mở L/C.
Rủi ro đối với ngân hàng xác nhận

1. Nếu bộ chứng từ được xuất trình là hoàn hảo thì NH xác nhận phải trả tiền cho nhà
XK bất luận là có truy hoàn được tiền từ NH phát hành hay không. Như vậy, NH xác
nhận chịu rủi ro tín dụng đối với NH phát hành.
2. Nếu NH xác nhận trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn mà không có
sự kiểm tra bộ chứng từ một cách thích đáng, để bộ chứng từ có lỗi, NH phát hành
không chấp nhận thanh toán thì NH xác nhận không thể đòi tiền NH phát hành.
Rủi ro đối với ngân hàng được chỉ định
Các NH được chỉ định không có trách nhiệm thanh toán cho nhà XK trước khi nhận được
tiền hàng từ NH phát hành. Tuy nhiên trong thực tế, trên cơ sở bộ chứng từ được xuất
trình, các NH được chỉ định thường ứng trước cho nhà XK với điều kiện truy đòi để trợ
giúp nhà XK, do đó NH này phải chịu rủi ro tín dụng đối với NH phát hành hoặc nhà XK.
Rủi ro đạo đức đối với ngân hàng
NH là người gánh chịu rủi ro đạo đức : NH phát hành phải thực hiện thanh toán cho
người hưởng lợi theo qui định của L/C ngay cả trong trường hợp người NK chủ tâm
không hoàn trả.
NH là người gây ra rủi ro đạo đức: NH mở L/C có thể vi phạm cam kết của mình như từ
chối thanh toán hoặc trì hoãn thanh toán hoặc đứng về phía khách hàng gây khó khăn
trong quá trình thanh toán.
Giải pháp :
- Yêu cầu mở L/C tại các ngân hàng uy tín, có tên tuổi
- Ngân hàng xác nhận được chỉ đích danh hay là ngân hàng đại lý của ngân hàng phát
hành L/C tại nước xuất khẩu
. Giải pháp phòng ngừa và quản lý rủi ro trong hoạt động kế toán tại các NHTM Việt
Nam
a) Áp dụng phương pháp đánh giá về rủi ro tác nghiệp trong hoạt động kế toán
Đánh giá rủi ro là quá trình trong đó ngân hàng phát hiện và phân tích những rủi ro liên
quan tới việc thực hiện các mục tiêu của mình, tạo cơ sở để xác định cách thức quản lý
những rủi ro đó.
- Các kỹ thuật đánh giá rủi ro
+ Phân loại theo từng bộ phận rủi ro như bộ phận tiền gửi, bộ phận tiền vay, bộ phận

thanh toán quốc tế
+ Phân loại theo mô hình rủi ro để đánh giá mức độ ảnh hưởng và khả năng xảy ra theo
từng yếu tố (hệ thống công nghệ thông tin, nguồn nhân lực, tính phức tạp của qui trình
kinh doanh, quản lý tài sản, môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh, )
Thông thường rủi ro được định lượng theo công thức sau: R = P * L
Trong đó: R: Rủi ro ước tính; L: Thiệt hại ước tính bằng tiền; P: Xác suất xảy ra thiệt hại.
- Các bước tiến hành đánh giá rủi ro tác nghiệp
+ Xác định các mục tiêu chủ yếu của ngân hàng: Ngân hàng thường đưa ra những mục
tiêu cụ thể trong tương lai về nguồn vốn huy động, cho vay, doanh số thu phí dịch vụ, lợi
nhuận,…
+ Xác định các rủi ro chủ yếu sẽ tác động đến việc hoàn thành mục tiêu.
+ Đánh giá khả năng xảy ra rủi ro khi thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Từ đó xây dựng
bảng câu hỏi liên quan đến vấn đề cần đánh giá cũng như ước lượng khả năng xảy ra cho
mỗi câu hỏi.
Ban kiểm soát nội bộ NHTM xây dựng bảng câu hỏi đánh giá rủi ro liên quan đến hoạt
động kế toán ngân hàng và chuyển đến các chi nhánh trong cả nước. Bộ phận quản lý rủi
ro của mỗi chi nhánh sẽ trả lời bảng câu hỏi và chuyển lại Ban kiểm soát nội bộ để tổng
hợp và lập thành bảng câu hỏi chuẩn phục vụ công tác kiểm soát hàng năm.
b) Tăng cường giám sát cán bộ và phòng ngừa rủi ro từng nghiệp vụ kế toán
- Tăng cường giám sát cán bộ
Khi ngân hàng có nhu cầu tuyển dụng nhân sự vào làm công tác kế toán, cần lựa chọn
những người có đủ những tố chất phù hợp với công việc kế toán như: phải có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, trung thực, cẩn thận, nhiệt tình
nhằm hạn chế những rủi ro xảy ra cho ngân hàng sau này. Nhân viên sau khi được tuyển
dụng cần được đào tạo vững chắc các quy trình nghiệp vụ, nội quy cơ quan và phải trải
qua thời gian tập sự cần thiết để có thể đảm nhận công việc tốt. Định kỳ ngân hàng thực
hiện đánh giá cán bộ về các mặt: Theo dõi việc tuân thủ chấp hành các chính sách, quy
định, quy trình nghiệp vụ, chấp hành nội quy lao động; thái độ, trách nhiệm với công việc
được giao hằng ngày, tư cách cán bộ, đạo đức nghề nghiệp; các phản ánh của khách hàng,
các phòng ban liên quan, trong việc phối hợp công tác đối với đồng nghiệp…

- Phòng ngừa rủi ro liên quan đến nghiệp vụ cụ thể
+ Phòng ngừa rủi ro trong khâu giao nhận và xử lý chứng từ ban đầu: Khi giao nhận
chứng từ giữa khách hàng và ngân hàng, nhân viên phải kiểm tra tính hợp lệ của chứng
từ: ngày lập, số tiền bằng chữ, bằng số, dấu và chữ ký có đầy đủ, đúng chữ ký mẫu
Trường hợp phát hiện yếu tố chưa hợp lệ, nhân viên hướng dẫn khách hàng bổ sung hoặc
đổi lại không chấp nhận chứng từ sai, thiếu sau đó gây chậm trễ cho khách hàng do
không thanh toán được.
+ Phòng ngừa rủi ro trong quá trình thực hiện các giao dịch.
Một vài nghiệp vụ chủ yếu của NHTM cần chú ý:
Trong kế toán chi tiền mặt: Khi chi tiền mặt cho khách hàng, có thể xảy ra các sai sót như
séc lĩnh tiền mặt quá thời hạn hiệu lực, chữ ký và dấu không rõ ràng không đúng mẫu
đăng ký, giấy tờ tùy thân của người lĩnh tiền khó nhận dạng, nhất là hiện nay, tình trạng
làm giả các giấy tờ đang ở mức báo động. Vì vậy, nhân viên kế toán phải kiểm tra kỹ các
yếu tố hợp lý, hợp lệ trên chứng từ lĩnh tiền mặt như đã nêu, trước khi giao tiền cho
khách hàng.
Trong kế toán thu tiền mặt: Khi thu tiền mặt, có thể gặp phải rủi ro thu tiền giả, xếp tiền
không đủ sau đó đổ lỗi cho nhân viên ngân hàng. Trong trường hợp này, nhân viên phải
tuân thủ đúng quy trình thu tiền mặt; phải kiểm đếm đầy đủ số tiền khách hàng nộp theo
bảng kê và luôn nhắc nhở khách hàng quan sát việc đếm tiền để tránh phát sinh những
tranh cãi về số tiền giao nhận.
Trong kế toán cho vay: Trước khi phát tiền vay, phải kiểm tra hồ sơ chặt chẽ, giải ngân
đúng đối tượng đã ghi rõ trong hợp đồng, giấy nhận nợ. Trường hợp người thụ hưởng
trên hợp đồng và giấy nhận nợ không ghi rõ ràng (hợp đồng yêu cầu giải ngân chuyển
tiền cho khách hàng A, trên giấy nhận nợ yêu cầu chuyển tiền cho khách hàng B), nhân
viên kế toán trả lại và yêu cầu cán bộ tín dụng chỉnh sửa rõ ràng. Trường hợp giải ngân
bằng tiền mặt yêu cầu khách hàng xuất trình chứng minh nhân dân hoặc có thêm giấy ủy
quyền thì phải kiểm tra nội dung hợp lệ trên giấy ủy quyền. Trường hợp khách hàng nhận
nợ vay và thanh toán cho nhiều người khác nhau thì tổng số tiền mà kế toán chuyển đi
trên các chứng từ phải bằng số tiền giải ngân.
Khi nhận được yêu cầu thu nợ, thu lãi từ khách hàng hay cán bộ tín dụng, kế toán viên

phải kiểm tra ngay số dư trên tài khoản yêu cầu trích để thu nợ, thu lãi. Trường hợp tài
khoản khách hàng không đủ tiền, phải trả lại giấy đề nghị thu nợ, thu lãi cho khách hàng
hay cán bộ tín dụng và thông báo cho khách hàng biết ngay, đặc biệt là các khoản vay đến
hạn nếu không thu được sẽ chuyển sang nợ quá hạn.
Trong thanh toán TTR (telegraphic transfer reimbursement): Để phòng ngừa rủi ro trong
thanh toán TTR, kế toán phải kiểm tra kỹ bộ chứng từ trước khi thanh toán, chỉ thực hiện
thanh toán theo đúng phương thức ghi trên hợp đồng, hóa đơn, tờ khai hải quan. Trường
hợp phương thức thanh toán ghi trong 3 yếu tố trên không khớp nhau, kế toán yêu cầu
khách hàng phải bổ sung cho phù hợp hoặc có xác nhận chỉnh sửa của cơ quan hải quan.
Đối với phương thức thanh toán TTR ứng trước, kế toán chỉ thực hiện thanh toán khi
khách hàng cam kết sẽ xuất trình tờ khai hải quan bản chính và bổ sung bản sao khi nhập
hàng với thời gian cụ thể…
c) Giải pháp phòng ngừa, xử lý về rủi ro công nghệ
Để xử lý và phòng ngừa tốt rủi ro công nghệ, Ban lãnh đạo ngân hàng phải tuyệt đối tuân
thủ các quy định về bảo mật thông tin. Dữ liệu được lưu giữ trong hệ thống máy tính của
ngân hàng rất quan trọng, là nơi lưu trữ toàn bộ thông tin liên quan đến khách hàng, ngân
hàng. Vì vậy, cần được bảo mật tuyệt đối và chỉ được sử dụng đúng mục đích và đúng
thẩm quyền được quy định.
Hạn chế tối đa các sự cố về kỹ thuật làm cho các giao dịch bị ngưng trệ hoặc mất dữ liệu.
Thường xuyên theo dõi và cập nhật chương trình diệt virus mới nhằm có kế hoạch phòng
ngừa và hạn chế tối đa việc xâm nhập của virus vào hệ thống máy tính của ngân hàng. Cụ
thể như sau:
- Đối với cán bộ kế toán:
+ Cán bộ kế toán phải tuân thủ tuyệt đối chế độ bảo mật thông tin, chỉ được phép truy cập
những thông tin, dữ liệu theo đúng cấp độ được quy định.
+ Tuyệt đối chấp hành nội quy công nghệ thông tin: sử dụng mật khẩu đúng quy định,
không để người khác biết mật khẩu cũng như không được sử dụng mật khẩu của người
khác .
- Đối với cán bộ điện toán:

×