Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

nghiên cứu công tác thống kê du lịch tại thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (722.85 KB, 98 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, du lịch đang trở thành nhu cầu không
thể thiếu trong đời sống văn hóa, xã hội của con người, những nước coi các chỉ tiêu
phản ánh kết quả kinh doanh du lịch là một trong những chỉ tiêu phản ánh đời sống,
thể hiện sự nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
Với tốc độ phát triển mạnh mẽ,hoạt động du lịch đã và đang trở thành một hoạt
động kinh doanh hấp dẫn đem lại nguồn thu nhập ngày càng cao cho các nước. ví dụ ở
Trung Quốc, doanh thu du lịch năm 2012 vượt 2.570 tỉ nhân nhân tệ(407,94 tỷ usd)
đóng góp đáng kể về mặt tài chính cho phát triển kinh tế của nước này hay hoạt động
du lịch của Thái Lan là một trong những hoạt động mang lại mức doanh thu cao nhất
của nước này, năm 2012 ước tính đạt hơn 30 tỷ USD.
Thừa thiên Huế là một trong những địa phương có thế mạnh phát triển du lịch,
và được xác định là ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của địa
phương. Để có những luận cứ khoa học cho việc đề ra những giải pháp cụ thể nhằm
phát triển kinh doanh du lịch tại Thừa thiên Huế, việc nghiên cứu thống kê, đánh giá
kết quả hoạt động kinh doanh du lịch, xác định vai trò vị trí cũng như tác động của
ngành du lịch trong sự phát triển chung của toàn tỉnh là hết sức cần thiết.
Tuy là một trong những địa phương có thế mạnh phát triển du lịch nhưng việc
thống kê du lịch trên địa bàn tỉnh vẫn chưa được đầu tư nhiều và còn rất nhiều hạn
chế.Công tác thống kê du lịch hiện nay của tỉnh Thừa Thiên Huế chủ yếu do hai cơ
quan Chi Cục Thống Kê Tỉnh và sở Văn Hóa Thể Dục Thể Thao đảm nhiệm,với
nguồn nhân lực, cở sở vật chất cũng như hệ thống chỉ tiêu thống kê du lịch hiện tại thì
công tác thống kê du lịch của tỉnh vững chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin cho các
cấp quản lý cũng như người tham gia hoạt động du lịch
Để du lịch của tỉnh ngày càng phát triển mạnh. Tương xứng với tiềm năng của
tỉnh thì công tác thống kê của tỉnh cần phải được chú trọng và đầu tư nhiều hơn,cung
1
cấp nhưng thông tin cần thiết,đầy đủ và chính xác để các cấp các ngành cũng như các
cơ sở du lịch. Từ đó xây dựng du lịch Thừa Thiên Huế ngày một lớn mạnh hơn.
Nhận thấy được điều đó cho nên em đã chọn đề tài “ Nghiên cứu công tác thống


kê du lịch tại Thừa Thiên Huế” để làm rõ nhưng cái đã làm được và chưa làm được
cũng như những thuận lợi và khó khăn của công tác thống kê trên địa bàn tinh, bên
cạnh đó kiến nghị áp dụng tài khoản vệ tinh du lịch vào tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.Mục đích nghiên cứu:
- Làm rỏ những thuận lợi và khó khăn của công tác thống kê du lịch tại tỉnh
thừa thiên huế.
- Nghiên cứu làm rỏ những khái niệm cơ bản về tài khoản vệ tinh du lịch cũng
như các khái niệm liên quan
- Xây dựng hệ thống thông tin thống kê đối với hoạt động kinh doanh du lịch,
phù hợp với hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và ứng dụng theo hướng tài
khoản vệ tinh du lịch do tổ chức du lịch thế giới đề xuất đối với các tỉnh,
thành phố hiện nay.
- Áp dụng tài khoản vệ tinh du lịch vào tỉnh thừa thiên huế.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu được xác định là công tác thống kê du lịch của Tỉnh
Thừa Thiên Huế cũng như hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả kinh doanh dịch vụ du
lịch theo hướng vận dụng TSA vào Việt nam trong điều kiện hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu là cơ quan thống kê quốc gia (Cục Thống kê các tỉnh,
thành phố), cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ( Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch)
và một số cơ sở kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh.
4.Các phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện tác giả dự kiến sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau:
2
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, tổng hợp từ các công trình nghiên cứu, các
bài viết và tài liệu có liên quan đến nội dung công tác thống kê kết quả kinh doanh du
lịch. Để phản ánh được thực trạng công tác thống kê hoạt động kinh doanh du lịch, đề
tài sử dụng các số liệu thứ cấp từ các báo cáo thống kê về hoạt động du lịch, các cuộc
điều tra chuyên môn về hoạt động du lịch của Tổng Cục Du lịch, và Tổng Cục Thống
kê; các báo cáo đánh giá tổng kết của Sở Văn hóa - Thể Thao - Du lịch Thừa Thiên

Huế; Niên giám thống kê Tỉnh Thừa thiên Huế; các trang web về du lịch của Việt nam.
Phương pháp xử lý thông tin: Luận án đã sử dụng các phương pháp tổng hợp
thông tin, phân tích thông tin để thấy được những vấn đề cơ bản nhằm định hướng cho
công tác thống kê du lịch tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
Sử dụng phần mềm spss để dự đoán doanh thu,số khách du lịch nội địa, quốc tế.
Bên cạnh đó luận án còn sử dụng một số công thức tính toán của thống kê kinh doanh
để phân tích các chỉ tiêu du lịch như : doanh thu du lịch, doanh thu xã hội từ du lịch,
tốc độ phát triển bình quân liên hoàn của khách du lịch trong nước và nước ngoài v v
5.Những đóng góp của luân án:
Làm sáng tỏ những kết quả đạt được và chưa đạt được của công tác thống kê du
lịch tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
Nêu lên những thuận lợi và khó khăn mà các cơ quan thống kê du lịch gặp phải
trong quá trình làm việc.
Làm rõ một số vấn đề lý luận về tài khoản vệ tinh du lịch và các chỉ tiêu trong
tài khoản vệ tinh du lịch do UNWTO đề xuất;
Nghiên cứu mối quan hệ giữa Thống kê du lịch và Tài khoản vệ tinh du lịch, để
từ đó xây dựng Tài khoản vệ tinh du lịch đối với các tỉnh thành phố trong điều kiện
của Việt nam hiện nay.
Đề xuất giải pháp trong việc biên soạn và vận dụng tài khoản vệ tinh du lịch ở
Việt nam hiện nay;
6.Kết cấu của luận án:
3
Ngoài phần mở đầu vầ kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lucjn
luận án gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận,thực tiễn về công tác thống kê du lịch và khái quat du
lịch Thừa Thiên Huế.
Chương 2: Thực trạng công tác thống kê du lịch tại Thừa Thiên Huế.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm khắc phục và phát triển công tác thống kê du
lịch.


Chương 1: Cơ sở lý luận và Thực tiển về công tác thông kê du lịch
1.1 Cơ sở lý luận về công tác thống kê du lịch
4
Du lịch có tác động đối với nền kinh tế, đối với môi trường tự nhiên và xã hội
cộng đồng địa phương tại những địa điểm mà khách du lịch đến thăm quan, và đối với
cộng đồng địa phương tại những địa điểm mà khách du lịch đến thăm, và đối với bản
thân khách du lịch.
Do những tác động như thế, cùng với sự liên quan rộng rãi đến nhiều nhóm đối
tượng, chúng ta cần có cách tiếp cận hệ thống đối với quá trình phát triển du lịch, quản
lý và giám sát trong du lịch. Cách tiếp cận như thế được Tổ chức Du lịch Thế giới
(UNWTO) ủng hộ, nhằm xây dựng và thực hiện chính sách du lịch ở địa phương và
quốc gia.
Để đưa ra quyết định chính xác và hiệu quả, nhà hoạch định chính sách cần có
số liệu thống kê đầy đủ và đáng tin cậy. Chỉ với những dữ liệu đầy đủ, chính xác và
đáng tin cậy, ta mới có thể tiến hành các phương pháp khác nhau về phân tích trong du
lịch. Điều này là rất cần thiết, góp phần đánh giá nhiều khía cạnh khác nhau trong du
lịch, đồng thời hỗ trợ và nâng cao hiệu quả quá trình ra quyết định và hoạch định chính
sách.
Thống kê du lịch có ý nghĩa quan trọng để xây dựng chiến lược marketing,
đánh giá hiệu quả và hiệu lực của các quyết định quản lý, đo lường về du lịch trong
nền kinh tế quốc dân.
1.1.1. Ý nghĩa quốc gia và quốc tế của thống kê du lịch
- Xác định quy mô và phạm vi của du lịch
Du lịch khi được xem xét như một ngành kinh doanh hiếm khi nhận được quan
tâm của công chúng xứng đáng với đóng góp của nó trong các hoạt động kinh tế. Một
trong những nguyên nhân của tồn tại đó chính là thống kê. Đối với các hệ thống thống
kê đã có thì không thể đưa ra một cách đầy đủ quy mô và phạm vi của các hoạt động
kinh tế liên quan đến du lịch. Sự bất lực trong việc chuyển tải tới các quan chức du
lịch theo khía cạnh quản lý hay tới công chúng quy mô của du lịch theo khía cạnh tài
chính và các tác động rộng lớn của nó tới các nền kinh tế xã hội đã và đang ảnh hưởng

5
đến các quan hệ quốc tế dẫn tới sự thiếu hụt các chính sách công cần thiết và khả thi.
Tương tự như vậy, các chủ thể kinh tế phụ thuộc vào nhu cầu du lịch có thể không
nhận đủ số liệu công khai về lĩnh vực kinh doanh của họ hay các yếu tố có liên quan
tới kinh doanh du lịch để lập kế hoạch, quản lý và tiếp thị một cách hiệu quả.
Ngoài ra còn có một vài nguyên nhân nữa. Nhiều quốc gia vẫn chú trọng các
chính sách công và nông nghiệp, khai khoáng và chế biến như là nguồn lực chính để
phát triển kinh tế, không đánh giá đúng mức sức mạnh kinh tế của du lịch và ngành du
lịch nói chung. Một ví dụ minh hoạ thành kiến này trong các chính sách công đựơc thể
hiện rõ nếu xem xét chính sách phân bổ quốc gia khi khủng hoảng năng lượng. Rõ
ràng rằng nếu có sự thiếu hụt nhiên liệu hay vấn đề về phân bổ nguồn lực có thể so
sánh khác, công nghiệp nặng và nông nghiệp có được ưu tiên nhất định so với nhu cầu
của du lịch và hoạt động giải trí trong phần lớn các quốc gia. Các hoạt động giải trí
được xem như là “phù phiếm” và vì thế dành được ưu tiên thấp trong khủng hoảng
thiếu hụt nhiên liệu năm 1974 và 1979 theo tiêu chí về mức độ giải quyết việc làm hay
các khoản thu từ ngoại thương.
Đối với thống kê vấn đề cũng một phần do du lịch cùng với toàn bộ khu vực
dịch vụ, từ trước tới nay vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức trong các chương
trình thống kê quốc gia so với các ngành công nghiệp “cơ bản”. Trong khi các hoạt
động đang được diễn ra trong nhiều quốc gia đều bù đắp lại sự mất mát cân bằng này,
vẫn còn sự khác biệt lớn trong quy mô đối xử. Các mã phân loại công nghiệp chuẩn
quốc gia (SIC) hay phân loại ngành kinh tế đã có phản ánh và có lẽ là nhân tố gây ra
sự mất cân bằng này.
Trong bối cảnh yếu kém sẵn có của các phân loại hiện hành về các hoạt động
kinh tế hướng du lịch, công tác báo cáo các hoạt động kinh tế du lịch càng trở nên yếu
kém hơn do sự thiếu hụt các ranh giới rõ ràng của các hoạt động liên quan tới du lịch.
Hoạt động kinh tế du lịch đã được xem như một “hoạt động tổng hợp” mà các thành
phần thuộc về các nhánh hoạt động khác nhau

theo nghĩa này, sẽ là không thích hợp

nếu sử dụng thuật ngữ ngành khi xem xét tới các hoạt động kinh tế du lịch.
6
Để có thể gắn một cách đúng đắn các hoạt động kinh tế du lịch vào toàn bộ Hệ
thống Tài khoản quốc gia và nâng cao khả năng quốc tế sử dụng số liệu du lịch, cần
phải có sự mô tả rõ ràng về phạm vi của du lịch. Theo một nghĩa nào đó, pham vi này
là vô cùng rộng lớn. Phần lớn các định nghĩa du lịch dựa trên nhu cầu và định nghĩa du
lịch như là tổng hợp của dịch vụ và sản phẩm được mua bởi các khách du lịch, với các
khách du lịch đã được định rõ. Điều kiện này có nghĩa là cùng một sản phẩm hay dịch
vụ sẽ (hay không) là một hoạt động kinh tế có liên quan du lịch trên các đặc tính nhất
định của người tiêu dùng, hơn là bất kỳ cái gì gắn với sản phẩm hoặc dịch vụ. Với
cách tiếp cận như vậy thì mọi kinh doanh đều có phần nào đó nằm trong hoạt động
tổng hợp của chi phí du lịch, vì các khách du lịch có thể và có khả năng tiêu dùng
trong mọi khu vực của nền kinh tế. Cách tiếp cận mang tính định nghĩa như vậy đặt
quyền số lớn vào định nghĩa đựơc sử dụng cho một khách du lịch. Những quan điểm
khác nhau về việc là cách nào dể định nghĩa khách du lịch hay đơn vị tiêu dùng khách
du lịch làm phức tạp thêm vấn đề.
Điều trái ngược hẳn với nguyên tắc thực hành trong hệ thống tài khoản quốc gia
khi các khác biệt giữa các ngành kinh tế dựa trên sự khác biệt trong bản chất của sản
phẩm từ quan điểm vật liệu sử dụng, sản xuất, các khác biệt trong phương thức chế
tạo, cũng như công dụng của sản phẩm đầu ra. Điểm này được đề cập một cách ngắn
gọn trong một tài liệu WTO “… các hoạt động kinh tế của các phân loại hiện hành
được xác định dựa theo hàng hoá hay dịch vụ được tạo ra bởi các đơn vị sản phẩm
trong khi hoạt động kinh tế du lịch cho đến nay vẫn xác định chủ yếu dựa vào hàng
hoá và dịch vụ được tiêu dùng bởi tác nhân du lịch có tổ chức – khách du lịch và
khách tham quan trong ngày”.
Trong khi du lịch không thể bỏ đi định nghĩa dựa trên nhu cầu của phạm vi, sẽ
phải tìm kiếm mô tả rõ ràng hơn cấu trúc khái niệm dựa trên nguồn cung cấp đối với
các hoạt động du lịch, bởi vì đó chính là nguồn của hầu hết các thống kê kinh tế quốc
gia. Được kết hợp một cách đúng đắn với cấu trúc khái niệm dựa trên nguồn cung đối
với các hoạt động du lịch bởi vì đó chính là nguồn của hầu hết các thống kê kinh tế

quốc gia. Được kết hợp một cách đúng đắn với cấu trúc thống kê dựa trên nguồn cung
7
các mối quan hệ của du lịch với các khu vực kinh tế khác và tầm quan trọng thích đáng
so sanh với các khu vực khác có thể được nhận diện rõ hơn. Một yếu tố trung tâm
trong quá trình này là sự mô tả của Phân loại chuẩn quốc gia các hoạt động du lịch
SICTA.
- Các mục tiêu và mục đích
UNWTO đã nhận diện 5 đích cơ bản gắn với nâng cao một hệ thống thống kê
du lịch thế giới.
Định nghĩa các biến thống kê phản ánh các viễn cảnh khác nhau của du lịch và
các đặc trưng nhận diện của nó.
Hài hoà các định nghĩa du lịch nội địa và quốc gia, vì chúng là các khía cạnh bổ
sung của hiện tượng du lịch,
Giúp tạo thông tin du lịch có tính so sánh quốc tế và quốc gia, hướng dẫn các
nước thành viên cũng như không phải thành viên, chấp nhận và phỏng theo các khái
niệm được chuẩn hoá cho từng nước để bảo đảm tính có thể so sánh.
Điều phối và tích hợp thống kê du lịch với những hoạt động kinh tế khác, đặc
biệt chú ý tới các định nghĩa và phân loại của thống kê kinh tế và nhân khẩu học cơ
bản, Hệ thống Tài khoản quốc gia và cán cân thanh toán.
Xem xét những giới hạn hiện hành về tính sẵn có và khả năng truy cập tới
những thông kê cần thiết, dẫn đến tính phức tạp của hoạt động du lịch bất kể nó được
định nghĩa thế nào.
Các tài liệu tương tự miêu tả tập hợp các hoạt động thống kê được thực hiện bởi
WTO để tạo ra một cơ cấu nền tảng cho hệ thống thống kê du lịch thế giới trong việc
cùng theo đuổi những mục đích cơ bản. Có thể thấy rằng một khu vực ưu tiên cao
nhưng đã không được đánh giá đúng mức chính là sự tích hợp của du lịch vào trong
phân loại các hoạt động kinh tế, phân loại hàng hoá và dịch vụ. Việc thành lập một
8
bảng phân loại các hoạt động du lịch đúng đắn sẽ là nhân tố cơ bản trong toàn bộ hạ
tầng được thiết kế nhằm thống kê WTO.

Sự phát triển này giúp nâng cao cơ hội tạo lập các phân loại quốc gia và quốc
tế, các hệ thống tài khoản và báo cáo, cũng như nắm bắt được phạm vi và quy mô của
các hoạt động kinh tế gắn với du lịch.
- Ứng dụng thực tế trong phân tích kinh tế về du lịch.
Như là một phần của hạ tầng thống kê. Tiêu chuẩn phân loại quốc tế về hoạt
động du lịch (SICTA) có mục đích cung cấp cấu trúc có tính khái niệm nền tảng để
giúp phát triển hệ thống thống nhất, toàn diện và có mục đích trong việc sản xuất, tổ
chức và báo cáo thông tin thống kê gắn với du lịch. Các mục tiêu chính của SICTA là:
Kích thích tính đại diện rộng hơn của thống kê du lịch.
Hướng dẫn phát triển các tài khoản quốc gia phản ánh du lịch hướng tới danh
mục hợp lý và có ý nghĩa của các hoạt động kinh tế gắn bó với du lịch.
Cung cấp một cơ cấu nền tảng đảm bảo tính có thể so sánh giữa thống kê du
lịch quốc gia và quốc tế.
Cung cấp các chuyên gia du lịch có kiến thức vững vàng và các sản phẩm, dịch
vụ, thị trường du lịch và các điều kiện ngành.
Cung cấp mối liên hệ hệ thống giữa bên cung cấp du lịch (các dịch vụ cung cấp/
thu nhập/ chi phí) và bên có nhu cầu (các chi phí/ nhu cầu/sở thích).
Một bảng phân loại các hoạt động du lịch dựa trên các hoạt động kinh tế cung
cấp một cấu trúc “bên cung” trong việc danh mục hoá, ở một số mức độ nào đó sẽ rất
hữu ích để làm phù hợp và tuân theo định danh của các hoạt động hay sản phẩm chính
của du lịch, như là cách xác định truyền thống theo phía cầu.
Khi hệ thống báo cáo thống kế quốc gia đang được thiết kế, những nhân tố rất
thực tiễn và thậm chí nhỏ nhặt thường điều khiển quá trình thiết kế đó. Báo cáo thống
9
kê quốc gia và quốc tế cần phải luôn phù hợp với các cấu trúc kiểu SIC tại báo cáo chi
tiết mức 2,3 hay 4 ký tự. Việc thiếu chi tiết thường dẫn tới việc tổng hợp số liệu ở
những mức tổng hợp khiến cho du lịch hoàn toàn chìm nghỉm trong nhưng danh mục
khái quát. Trong các cơ quan thống kê, các cuộc điều tra xác minh theo hướng cung
thường được chọn lọc và cấu trúc xung quanh các danh mục SIC có sẵn. Các lĩnh vực
không được định nghĩa rõ ràng, bao gồm hay loại trừ một cách rõ ràng những danh

mục này có thể không được xem xét một cách đúng đắn trong hệ thống thống kê.
1.1.2. Tiêu chuẩn thống kê du lịch
Với sự phát triển mạnh mẽ của du lịch trong những thập kỷ gần đây, ngày càng
có nhiều quốc gia nhận thức được tầm quan trọng của du lịch đối với nền kinh tế quốc
dân. Điều này dẫn tới công tác đo lường trong du lịch được chú trọng, đảm bảo sự
chính xác và tin cậy.
Tuy nhiên, không giống như những ngành khác – như các ngành kinh tế có tính
chất truyền thống, hiện nay không có những tiêu chuẩn về thống kê giúp thực hiện
mục tiêu này. Trong qúa trình thu thập các số liệu có liên quan đến du lịch, các cơ
quan có trách nhiệm trong nước thường áp dụng những khái niệm, định nghĩa và cách
thức phân loại khác nhau, dẫn tới thực trạng là các số liệu thống kê được thực hiện
trong nước thường không thể so sánh được.
Số liệu thống kê ngay chính trong một nước đã khác nhau, cũng dẫn tới việc so
sánh về số liệu giữa các nước càng khó khăn hơn, do các định nghĩa, cách tiếp cận
được sử dụng cũng khác nhau.
Vì vậy, để có những số liệu đáng tin cậy và có thể so sánh được - cả ở trong nội
bộ một quốc gia và giữa các quốc gia với nhau, Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO),
với sự hỗ trợ của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, đã nhận thấy nhu cầu xây dựng hệ
thống tiêu chuẩn quốc tế về thống kê.
Tài liệu đầu tiên về tiêu chuẩn thống kê trong du lịch được giới thiệu lần đầu
tiên năm 1993. “Khuyến nghị về Thống kê Du lịch năm 1993” chính là tài liệu về tiêu
10
chuẩn quốc tế trong thống kê du lịch đang được sử dụng. Tuy nhiên, sau một thời gian
sử dụng, vì một số lý do, những tiêu chuẩn này không còn cập nhật nữa và cần được
sửa đổi bổ sung. Bởi vì:
Kể từ khi hệ thống tiêu chuẩn về thống kê du lịch được giới thiệu vào năm
1993, nhiều vấn đề đã trở lên cấp thiết và cần được giải quyết: lao động trong du lịch,
đầu tư, xác định sự tham gia của chính phủ trong du lịch, tác động đến môi trường, đo
lường du lịch ở cấp độ quốc gia…
Kể từ khi trở thành một cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc năm 2004, tổ

chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã rất chủ động thực hiện theo trách nhiệm nhằm
lồng ghép hệ thống khái niệm và định nghĩa trong thống kê du lịch vào hệ thống tiêu
chuẩn quốc tế. Điều này cần có một số sự điều chỉnh cho phù hợp.
Để xây dựng Tài khoản vệ tinh Du lịch (TSA) phù hợp với các khái niệm và
định nghĩa trong hệ thống của Liên hợp quốc về Tài khoản Quốc gia (năm 1993) và tài
liệu Hướng dẫn số 5 của Qũy Tiền tệ Quốc tế về đảm bảo cán cân thanh toán, chúng ta
cần điều chỉnh hệ thống tiêu chuẩn về thống kê du lịch năm 1993.
Các khuôn khổ khác có liên quan đến thống kê du lịch, ví dụ như SNA39,
BPM5, CPC, ISIC và tài liệu hướng dẫn thống kê về tài khoản Quốc tế trong dịch vụ
đã liên tục có sự cập nhật và sửa đổi, bổ sung. Vì vậy, tiêu chuẩn về thống kê du lịch
cũng cần phải được cập nhật, nhằm tăng cường tính liên kết và sự chắc chắn.
Sau một vài năm nghiêm cứu, hệ thống tiêu chuẩn mới, “Khuyến nghị về
Thống kê du lịch năm 2008”, đã được hoàn thiện và giới thiệu tại Uỷ ban Thống kê
của Liên Hợp Quốc tại New York vào tháng 2/2008. Tại đây, hệ thống tiêu chuẩn quốc
tế mới về thống kê đã được phê duyệt.
Tài liệu “Khuyến nghị về Thống kê Du lịch năm 2008” được giới thiệu nhằm
đưa ra hệ thống các khái niệm, định nghĩa, cách thức phân loại và chỉ số có sự thống
nhất nội tại, đồng thời có liên hệ với hệ thống khái niệm về Tải khoản Vệ tinh du lịch
(TSA), tài khoản quốc gia cán cân thanh toán và số liệu thống kê về lao động… Thêm
11
vào đó, tài liệu hướng dẫn chung về cách thức xác định và thu thập dữ liệu cũng đã
được cung cấp cụ thể, nội dung này sẽ được ứng dụng thể hiện trong đề tài này.
Trọng tâm trong đó là quan điểm cho rằng du lịch là hoạt động của con người,
ở đây được xác định là khách du lịch. Khách du lịch là người đi du lịch nghỉ ngơi, giải
trí và thư giãn, công việc, sức khoẻ, giáo dục hoặc các mục đích khác.
Du lịch bao gồm các hoạt động liên quan đến tất cả các loại khách. Phạm vi này
rộng hơn so với quan điểm truyền thống cho rằng khách du lịch là người đi du lịch để
nghỉ ngơi.
Khái niệm về các hoạt động sẽ bao trùm tất cả các hoạt động của khách du lịch
trong thời gian chuẩn bị hoặc tham gia chuyến đi. Sẽ không có sự hạn chế đối với các

hoạt động vẫn được coi là “điển hình” như tham quan, tắm nắng, chơi hoặc xem thể
thao… Ở đây, trạng thái là khách du lịch có ý nghĩa tạm thời; khi chuyến đi kết thúc,
cá nhân sẽ không còn ở trạng thái là khách du lịch nữa.
Du lịch là một hiện tượng được xác định theo hướng nhu cầu, đóng góp về kinh
tế của du lịch cần được tiếp cận theo hướng các hoạt động của khách du lịch và việc
khách du lịch tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, cũng có thể xác định theo
hướng cung ứng, trong đó du lịch được hiểu là hệ thống các hoạt động hiệu quả nhằm
chủ yếu phục vụ khách du lịch, hoặc một phần quan trọng trong đầu ra của các hoạt
động này được tiêu thụ bởi khách du lịch.
1.1.3. Đánh giá chất lượng trong thống kê du lịch
Thống kê du lịch là sản phẩm cuối cùng của quá trình phức tạp bao gồm nhiều
giai đoạn, kể từ bước thu thập và xử lý số cho tới việc phổ biến thông tin.
Chất lượng số liệu thống kê du lịch được liên hệ với việc cung cấp cho người sử
dụng lượng thông tin đầy đủ để đánh giá những số liệu đó có phù hợp với mục đích sử
dụng hay không Ví dụ, người sử dụng cần xác định khái niệm và định nghĩa sử dụng
trong quá trình thu thập và xử lý các thông tin cơ bản, phương pháp thu thập thông tin,
12
cũng như là tính chính xác của các số liệu kết quả, trong đó có các dữ liệu thoả mãn
nhu cầu về thông tin.
Hầu hết các tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia phát triển hệ thống đánh giá chất
lượng. Cho dù những hệ thống đánh giá hiện nay có khác nhau đôi chút về cách thức
tiếp cận về chất lượng, liên quan tới số lượng, tên gọi và phạm vi, những hệ thống này
hỗ trợ lẫn nhau và có những cơ sở có tính chất linh động và toàn diện để có những
đánh giá định tính về số liệu thống kê.
Ví dụ:
Hệ thống đánh giá chất lượng dữ liệu của IMF (DQAF) bao gồm 5 nhóm nội
dung về chất lượng - đảm bảo tính thống nhất, sự đảm bảo về phương pháp luận, sự
chính xác và độ tin cậy, khả năng tiếp cận và tính dịch vụ.
Hệ thống thống kê Châu Âu (ESS) tập trung vào đầu ra của thống kê và có đề
cập 6 tiêu chí - có sự liên hệ, chính xác, kịp thời và đúng thời gian, khả năng tiếp cận

và sự rõ ràng, khả năng so sánh và dễ hiểu.
Hệ thống đo lường chất lượng của OECD xem xét về yếu tố chất lượng dựa trên
7 nội dung: sự phù hợp, chính xác, tin cậy, kịp thời, khả năng tiếp cận, dễ hiểu và có
thể giải thích.
Mục tiêu tổng quát của 03 khung đánh giá chất lượng nói trên nhằm tiêu chuẩn
hoá và hệ thống hoá quá trình đo lường, thống kê và báo cáo giữa các quốc gia.
Các hệ thống này cho phép các quốc gia riêng rẽ đánh giá về các tập quán trong
công tác thống kê của quốc gia đó, so sánh với các cách tiếp cận được chấp thuận
trong khu vực và trên thế giới về đo lường chất lượng.
Các cơ quan phụ trách thống kê du lịch có thể quyết định phát triển một trong
các hệ thống hiện có về đánh giá chất lượng, có thể trên cơ sở tiến hành trực tiếp hoặc
phát triển hệ thống riêng phù hợp với tình hình và tập quán ở quốc gia.
13
Chất lượng là một hiện tượng có tính chất đa chiều. Mỗi một chiều phản ánh
một lĩnh vực cụ thể về đặc điểm của đầu ra thống kê và cần được đo lường một cách
trực tiếp (Ví dụ: thời gian từ ngày tham chiếu đến ngày đưa ra thống kê du lịch cụ thể
là cách đo chất lượng trực tiếp), hoặc thông qua các tiêu chí đo lường chất lượng, có
trong Hướng dẫn Thu thập IRTS 2008.
UNWTO khuyến nghị rằng những nội dung sau đây của chất lượng cần được
tính đến thống kê du lịch:
Tính tiên quy ết của chất lượng: Tính tiên quyết của chất lượng đề cập tới tất cả các
điều kiện về tổ chức có tác động đến chất lượng của thống kê du lịch. Các thành tố cần
thiết bao gồm:
+ Cơ sở pháp lý cho việc thu thập dữ liệu:
Sự thích hợp của việc chia sẻ dữ liệu và phối hợp giữa các cơ quan cung cấp dữ liệu.
+ Đảm bảo tính bảo mật
Sự phù hợp về nguồn nhân lực, tài chính và kỹ thuật cho việc thực hiện các chương
trình thống kê du lịch, và thực hiện các biện pháp để đảm bảo tính kinh tế đối với
những chương trình như thế.
+ Nhận thức về chất lượng

S ự liên h ệ : Sự liên hệ của thống kê du lịch phản ánh mức độ mà số liệu thống kê du
lịch đáp ứng nhu cầu của người sử dụng.
Khó khăn đối với những người thu thập số liệu thống kê là xác định những
nhóm sử dụng khác nhau, đánh giá và ghi nhận những yêu cầu khác nhau của người sử
dụng và xây dựng một chương trình có thể đáp ứng được những nhu cầu quan trọng
nhất, cùng với những hạn chế về nguồn lực đã có.
14
Sư tin c ậy : Sự tin cậy của số liệu thống kê du lịch phản ánh mức độ tin tưởng của
người sử dụng đối với dữ liệu, dựa trên uy tín của cơ quan sản xuất và cung cấp những
dữ liệu đó.
Số liệu thống kê du lịch vì thế cần được thực hiện một cách chuyên nghiệp, phù
hợp với các tiêu chuẩn về thống kê, sử dụng một cách minh bạch các cách thức thu
thập dữ liệu, chính sách và tập quán truyền đạt thông tin.
Chính xác: Sự chính xác của số liệu thống kê du lịch phản ánh mức độ mà các số liệu
này dự báo và miêu tả chính xác về đặc điểm và số lượng những yếu tố mà những số
liệu này đo lường.
Có nhiều yếu tố gắn kết và trong thực tế không có một phép cộng thống nhất và
tổng thể đo lường sự chính xác. Nói chung, sự chính xác được xác định theo những sai
số trong dự báo thống kê. Có thể bao gồm lỗi về chủ quan hoặc lỗi khách quan trong
các mẫu khảo sát.
Sự chính xác và việc đo lường đối với các thống kê dựa trên các quy trình hành
chính - có khá nhiều đối với du lịch (ví dụ như kiểm soát biên giới và giao thông, số
liệu về lao động ).
Sư kịp th ời: Sự kịp thời của số liệu thống kê du lịch phản ánh khoảng thời gian giữa
thời gian tham chiếu mà các số liệu này có sự liên hệ, với ngày mà dữ liệu được công
bố và giới thiệu ra công chúng.
Sự kịp thời có thể được đo lường bởi độ dài của những khoảng thời gian như
thế.
Sự kịp thời gắn liền với thời gian công bố công trình. Thời gian công bố có thể
bao gồm nhiều thời điểm gắn với việc công bố này.

Trong nội dung này thường có sự đánh đổi với sự chính xác. Sự kịp thời của
thông tin đôi khi ảnh hưởng đến sự liên hệ thích đáng, do những số liệu chính xác
nhưng không kịp thời có rất ít độ hữu dụng.
15
S ự đảm bảo về phương pháp : Sự đảm bảo về phương pháp đề cập tới việc áp dụng các
tiêu chuẩn, hướng dẫn và tập quán quốc tế để thực hiện các số liệu thống kê khách du
lịch. Sự tương xứng của các định nghĩa, khái niệm, nhóm dân số mục tiêu, các biến số
và thuật ngữ sẽ có ý nghĩa quyết định khi so sánh với các tiêu chuẩn quốc tế.
Tính chặt chẽ khi xem xét đến thực tế rằng thống kê du lịch do nhiều cơ quan thực
hiện, bao hàm nhiều lĩnh vực trong du lịch, tính chặt chẽ là một nội dung quan trọng
trong đảm bảo về chất lượng
Tính chặt chẽ phản ánh một mức độ mà các dữ liệu có sự liên hệ logic với nhau,
tức là có thể được giới thiệu cùng với các số liệu thống kê khác, để bổ trợ lẫn nhau,
hoặc so sánh với nhau.
Việc sử dụng một cách chuẩn xác các khái niệm, cách thức phân loại và theo
nhóm dân số mục tiêu và việc sử dụng phương pháp chung trong các bản khảo sát điều
tra sẽ tăng cường tính chặt chẽ.
Khả năng tiếp cận: Khả năng tiếp cận của số liệu thống kê du lịch phản ánh sự dễ dàng
thể hiện khi các số liệu được lấy từ các cơ quan thu thập và thực hiện các số liệu.
Bao gồm trong đó và tính phù hợp của các hình thức hoặc phương tiện truyền
đạt thông tin mà thông qua đó thông tin được tiếp cận.
Khả năng tiếp cận đòi hỏi việc phát triển một thời gian biểu cung cấp thông tin
hiện đại, cho phép người sử dụng có thể biết trước khi nào dữ liệu có, làm thế nào và
lấy dữ liệu ở đâu.
Nội dung của yếu tố chất lượng có sự liên hệ và chồng lấn. Bất kỳ một hành
động nào tác động hoặc chỉnh sửa có thể ảnh hưởng đến các yếu tố khác có liên quan
đến chất lượng chung.
Ví dụ, có thể có sự đánh đổi giữa việc ước tính chính xác tổng chi tiêu du lịch
hàng năm và việc cung cấp dữ liệu kịp thời.
16

UNWTO khuyến nghị rằng các quốc gia cần xử lý tình huống đánh đổi này
bằng cách đưa ra các dự báo tạm thời dựa trên cơ sở dữ liệu hạn chế hơn, ngay sau
thời điểm tham chiếu. Những sự ước tính này có thể được sửa đổi, bổ sung vào thời
gian muộn hơn, dựa trên hệ thống dữ liệu hoàn thiện hơn nhưng sẽ không kịp thời nữa.
Cần ghi nhận rằng những phương pháp chất lượng như thế sẽ rất khó để phát
triển. Ví dụ, trong trường hợp về sự chính xác, hầu như là không thể đo lường những
xu hướng không có sự phản hồi, do đặc điểm của các yếu tố phản hồi này khó có thể
được đảm bảo. Trong vấn đề này, tỷ lệ phản hồi được sử dụng như một chỉ số chất
lượng, trong đó cung cấp phương pháp đo lường các yếu tố không có sự phản hồi.
Bởi vì xác định một phương pháp định tính chung về chất lượng trong thống kê
du lịch là không thể, UNWTO khuyến nghị rằng các quốc gia phát triển hệ thống chất
lượng thống kê du lịch dựa trên các nội dung đã được đề cập, đồng thời thường xuyên
có báo cáo như là một phần của hệ thống dữ liệu.
UNWTO khuyến nghị rằng việc đánh giá chất lượng của thống kê du lịch cần
được tiến hành trong vòng 4 đến 5 năm một lần, hoặc thường xuyên hơn nếu có những
thay đổi lớn về phương pháp hoặc thay đổi trong cơ sở dữ liệu.
1.1.4. Hợp tác giữa các cơ quan về thống kê du lịch
Dựa trên hệ thống pháp lý và cơ cấu tổ chức của chính phủ, một số cơ quan có
thể tham gia vào quá trình thu thập và truyền đạt số liệu thống kê du lịch, bao gồm cơ
quan du lịch quốc gia, cơ quan phụ trách xuất nhập cảnh, Hiệp hội du lịch, cơ quan
thống kê quốc gia và ngân hàng trung ương.
Tất cả các cơ quan này có những ưu tiên riêng và nhiệm vụ riêng.
Cơ quan thống kê quốc gia (Tổng cục Thống kê) chịu trách nhiệm thu thập và
công bố 6 chỉ tiêu về du lịch (Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia năm 2005)
Các chỉ tiêu khác do ngành du lịch xây dựng, thu thập và công bố
17
Trong đó cần được ghi nhận thành văn bản và xác định một cách cụ thể về loại
hình số liệu thống kê du lịch mà mỗi một cơ quan chịu trách nhiệm, phương pháp
được sử dụng trong quá trình trao đổi thông tin, đảm bảo tính bảo mật, đặc biệt khi
khu vực tư nhân và cơ quan thuế vụ có tham gia. Như vậy sẽ tăng tính hiệu quả trong

công tác thu thập dữ liệu và giảm bớt gánh nặng báo cáo cho các doanh nghiệp hoạt
động du lịch.
Phối hợp liên cơ quan có thể xác định các cách thức mới để sử dụng các dữ liệu
đã được thu thập hoặc tái thu thập để đáp ứng những nhu cầu khác nhau trong các lĩnh
vực của thống kê.
Việc phát triển và duy trì mới liên hệ công tác như thế sẽ là rất cần thiết để đảm
bảo rằng tất cả các cơ quan nhận biết được những sự thay đổi về chính sách và quy
trình mà có ảnh hưởng đến việc thu thập số liệu thống kê du lịch.
Tất cả các cơ quan tham gia vào thống kê du lịch nên có báo cáo hàng quý về
các biện pháp thu thập và truyền đạt thông tin, nhằm đảm bảo rằng những số liệu
thống kê được công bố có chất lượng cao và đến với người sử dụng kịp thời.
Cơ quan thống kê quốc gia cần hỗ trợ các cơ quan quản lý du lịch tham gia vào
quá trình thu thập, chuẩn bị số liệu thống kê du lịch về các tiêu chuẩn và phương pháp
sử dụng trong công tác thống kê.
1.2 Một số khái niệm sử dụng trong thống kê du lịch:
1.2.1. Du lịch:
khái niệm du lịch được mở rộng thêm rất nhiều: "Du lịch là hoạt động về
chuyến đi đến một nơi khác với môi trường sống thường xuyên của con người và ở lại
đó để thăm quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích khác ngoài các hoạt
động để có thù lao ở nơi đến với thời gian liên tục ít hơn 1 năm".
Như vậy theo định nghĩa của tổ chức du lịch thế giới về du lịch và trong khuôn khổ
của thống kê du lịch thì lượng khách du lịch sẽ được tính gồm:
18
(a). Những chuyến đi đến nơi khác môi trường sống thường xuyên của họ, do
đó sẽ ít hơn những chuyến đi lại thường xuyên giữa những nơi mà người đó đang ở
hoặc nghiên cứu đến một nơi khác nơi cư trú thường xuyên của họ;
(b). Nơi mà người đó đi đến phải dưới 12 tháng liên tục, nếu từ 12 tháng liên
tục trở lên sẽ trở thành người cư trú thường xuyên ở nơi đó (theo quan điểm của thống
kê);
(c). Mục đích chính của chuyến đi sẽ không phải đến đó để nhận thù lao (hay

là để kiếm sống) do đó sẽ loại trừ những trường hợp chuyển nơi cư trú cho mục đích
công việc. Vì thế những người đi với các mục đích sau đây sẽ được tính vào khách du
lịch :
- Đi vào dịp thời gian rỗi, giải trí và các kỳ nghỉ
- Đi thăm bạn bè, họ hàng
- Đi công tác
- Đi điều trị sức khoẻ
- Đi tu hành hoặc hành hương
- Đi theo các mục đích tương tự khác.
Dựa theo khái niệm này mà khách du lịch được chia làm hai loại : Khách Quốc tế và
khách trong nước.
1.2.2 Khách quốc tế
Bất kỳ một người nào đó đi ra khỏi nước người đó cư trú thường xuyên và
ngoài môi trường sống thường xuyên của họ với thời gian liên tục ít hơn 12 tháng với
mục đích của chuyến đi là không phải đến đó để dược nhận thù lao (hay nói cách khác
là không phải để kiếm sống), không bao gồm các trường hợp sau:
19
- Những người đến và sống ở nước này như một người cư trú thường xuyên ở
nước đó kể cả những người đi theo sống dựa vào họ.
- Những người công nhân cư trú ở gần biên giới nước này nhưng lại làm việc
cho một nước khác ở gần biên giới nước đó
- Những nhà ngoại giao, tư vấn và các thành viên lực lượng vũ trang ở nước
khác đến theo sự phân công bao gồm cả những người ở và những người đi theo sống
dựa vào họ
- Những người đi theo dạng tị nạn hoặc du mục
- Những người quá cảnh mà không vào nước đó (chỉ chờ chuyển máy bay ở sân
bay) thông qua kiểm tra hộ chiếu như những hành khách transit ở lại trong thời gian
rất ngắn ở ga sân bay. Hoặc là những hành khách trên thuyền đỗ ở cảng mà không
được phép lên bờ.
1.2.3. Khách trong nước

Bất kỳ một người nào đó đi ra khỏi môi trường sống thường xuyên của họ và
trong phạm vi nước sở tại với thời gian liên tục dưới 12 tháng và mục đích của chuyến
đi là không phải đến đó để dược nhận thù lao (hay nói cách khác là không phải để
kiếm sống), như vậy khách trong nước không bao gồm các trường hợp sau:
- Những người cư trú ở nước này đến một nơi khác với mục đích là cư trú ở nơi đó
- Những người đến một nơi khác và nhận được thù lao từ nơi đó
- Những người đến và làm việc tạm thời ở nơi đó
- Những người đi thường xuyên hoặc theo thói quen giữa các vùng lân cận để
học tập hoặc nghiên cứu
- Những người du mục và những người không cư trú cố định
- Những chuyến đi diễn tập của các lực lượng vũ trang.
20
1.2.4. Cơ sở lưu trú du lịch:
Là cơ sở cho thuê buồng, giường và cung cấp các dịch vụ khác phục vụ khách
lưu trú, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú du lịch chủ yếu.
Các loại cơ sở lưu trú du lịch bao gồm:
- Khách sạn;
- Làng du lịch;
- Biệt thự du lịch;
- Căn hộ du lịch;
- Bãi cắm trại du lịch;
- Nhà nghỉ du lịch;
- Nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê;
- Các cơ sở lưu trú du lịch khác.
1.2.5: Số ngày khách du lịch
Số ngày khách du lịch là tổng số ngày khách mà đơn vị đã phục vụ du khách
trong kỳ nghiên cứu, đơn vị tính là ngày người. Đây cũng là chỉ tiêu tuyệt đối, thời kỳ
được thu thập và tính toán theo tháng, quý, năm.
Chỉ tiêu này được tính cho từng đơn vị kinh doanh và toàn ngành. Đây là chỉ
tiêu không có tính trùng và phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh du lịch cụ thể hơn

so với số khách. Nó có tác dụng trong việc lập kế hoạch các chỉ tiêu có liên quan,
hoạch định khách sạn, chuẩn bị các phương tiện phục vụ công cộng
Tổng số ngày khách được thu thập từ các báo cáo của các đơn vị và các cơ sở
kinh doanh lưu trú.
1.2.6: Khái niệm “tiêu dùng của khách du lịc
h

21
Vì khách du lịch là trung tâm của hoạt động du lịch, vì thế tiêu dùng của
khách du lịch chính là trung tâm của việc đo lường kinh tế hoạt ñộng du lịch.
Tiêu dùng của khách du lịch là lượng tiền chi trả cho việc tiêu thụ hàng hóa và
dịch vụ, cũng như là những ñồ có giá trị, do khách du lịch sử dụng hoặc làm quà
tặng, thực hiện để chuẩn bị hoặc trong thời gian diễn ra chuyến đi du lịch, bao gồm
chi phí của bản thân khách du lịch và chi phí được trả hoặc hoàn trả bởi người
khác.
Khái niệm về tiêu dùng của khách du lịch theo TSA cũng tuân theo khái
niệm “tiêu dùng cuối cùng” trong SNA, đó là “tổng chi tiêu cho tiêu dùng của
khách du lịch hoặc của người thay mặt cho khách du lịc
h
trong suốt chuyến đi và
nghỉ lại tại điểm đế
n
”.
Phạm vi tiêu dùng của khách du lịch có thể được xác định từ các định nghĩa về
tiêu dùng cuối cùng thực tế của hộ, tiêu dùng trung gian của Chính phủ và tiêu dùng
cuối cùng của Chính phủ và cơ quan phi lợi nhuận phục vụ hộ gia đình đã được
trình bày trong SNA 1993, trong đó lưu ý ba điểm là:
-Tiêu dùng của khách du lịch bao gồm tiêu dùng của khách cho công việc,
nghỉ ngơi hoặc các mục đích du lịch khác.
-Tiêu dùng của khách du lịch bao gồm các dịch vụ cá nhân do Chính phủ và

cơ quan phi lợi nhuận phục vụ hộ gia đình sản xuất và được tiêu dùng bởi khách
du lịch.
-Tiêu dùng của khách du lịch bao gồm tiêu dùng bằng hiện vật khác nhau.
Với cách tiếp cận về tiêu dùng của khách du lịch như trên thì các yếu tố cơ bản
trong tiêu dùng của khách du lịch bao gồm:
-Chi tiêu cho tiêu dùng cuối cùng bằng tiền mặt của khách du lịch.đây là yếu tố
quan trọng nhất trong tổng tiêu dùng của khách du lịch.
-Chi tiêu cho tiêu dùng cuối cùng của khách du lịch bằng hiện vật.
22
-Chuyển nhượng xã hội bằng hiện vật của du lịch như các dịch vụ y tế cung
cấp cho khách du lịch, hay các hoạt động khác mà tổng chi phí không được thu
hoàn toàn qua việc bán vé cho khách như thăm bảo tàng…
-Các chi phí du lịch của doanh nghiệp: bao gồm phần tiêu dùng của khách du
lịch trong các chuyến đi mà được xem như phần tiêu dùng trung gian của các doanh
nghiệp, chẳng hạn như thanh toán cho đi lại và nhà ở của nhân viên trong chuyến
ni…
Tuy nhiên, theo qui ước của hệ thống tài khoản quốc gia 1993, một số chi tiêu có
liên quan đến một chuyến đi của du khách được loại trừ khỏi tiêu dùng của du khách,
đó là những chi phí không phải chi phí để mua hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng, chẳng
hạn:
-Tiền thuế và thuế nhập khẩu hàng hóa
-Lãi suất (chi phí trung gian thuần được tính gián tiếp cho du khách), kể cả
lãi suất cho chi tiêu trong suốt chuyến đi hoặc là cho chuyến đi.
-Mua tài sản tài chính và phi tài chính, kể cả đất đai, tác phẩm nghệ thuật và
hàng hóa dịch vụ có giá trị khác.
-Các khoản chuyển nhượng bằng tiền mặt như tiền công đức cho các tổ chức
từ thiện hoặc các cá nhân khác mà không phải là khoản chi cho hàng hóa và dịch vụ.
-Bất cứ sự mua sắm nào trong một chuyến đi vì mục đích thương mại để bán
lại hoặc để dùng trong một qui trình sản xuất bởi khách du lịch hoặc khi khách
du lịch thay mặt cho công ty để mua trong chuyến công tác đều không tính vào,

(đây có thể là tiêu dùng trung gian hoặc tích lũy tài sản cố định của đơn vị sản xuất)
1.2.7 Doanh thu du lịch
23
Khái niệm doanh thu được cả chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14 (VAS14) và
chuẩn mực kế toán quốc tế số 18 (IAS18) thống nhất định nghĩa: "Doanh thu là tổng giá
trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động
sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở
hữu, không bao gồm khoản góp vốn của cổ đông hoặc chủ sở hữu".
Theo đó có thể định nghĩa: Doanh thu du lịch là toàn bộ số tiền thu được từ
khách du lịch trong kỳ nghiên cứu do hoạt động phục vụ các loại, bao gồm các chi phí
của khách về dịch vụ hàng hóa du lịch, trừ các chi phí cho vận tải hành khách quốc tế.
Đây là chỉ tiêu tuyệt đối, thời kỳ, tính theo tháng, quý, năm; với đơn vị tính là đồng
Việt Nam (VNĐ) hoặc ngoại tệ (USD).
Doanh thu du lịch bao gồm: Doanh thu hướng dẫn du lịch, doanh thu vận
chuyển, doanh thu lưu trú, doanh thu kinh doanh hàng ăn uống ngoài ra còn có doanh
thu từ các dịch vụ khác như giặt là vui chơi giải trị, điện thoại, doanh thu bán đồ lưu
niệm
- Công thức tính:

=
i
DD
Trong đó:
+ D là tổng doanh thu
+ D
i
doanh thu từ loại hình kinh doanh du lịch thứ i
Chỉ tiêu doanh thu được thu thập thông qua báo cáo định kỳ của các tổ chức đơn vị
kinh doanh du lịch, số liệu tổng hợp của Tổng Cục Du Lịch và Tổng Cục Thống kê
Ngoài ra, có thể tính thêm chỉ tiêu doanh thu xã hội về du lịch, là tổng số tiền

thu được từ khách du lịch do hoạt động phục vụ các loại (lưu trú, ăn uống, mua sắm
hàng hoá, đi lại, vui chơi giải trí và các dịch vụ bổ sung khác ). Chỉ tiêu được tính trên
cơ sở số lượng khách, ngày khách đã có và mức chi tiêu bình quân một khách, một
ngày khách.
1.3 Kinh nghiệm của 1 số quốc gia trên thế giới về thống kê du lịch:
24
1.3.1 Giới thiệu về tài khoản vệ tinh du lịch.
1.3.1.1 Khái niệm về tài khoản vệ tinh du lịch :
Cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm đầy đủ, chính thức nào về tài khoản vệ
tinh du lịch
Tài liệu ‘‘Các đề xuất về hệ thống phương pháp luận cho Tài khoản vệ tinh du
lịch’’ của UNWTO, OECD và Eurostat dự thảo và đã được Ủy ban thống kê thông qua
tại phiên họp lần thứ 21 năm 2000 không đưa ra thành khái niệmvề tài khoản vệ tinh
du lịch mà chỉ đưa ra quan điểm chung về tài khoản vệ tinh du lịch, đó là: Một công cụ
thống kê mới, bao gồm các khái niệm, định nghĩa, tổng hợp, phân ngành và bảng bảng,
phù hợp với hướng dẫn sử dung tài khoản ở cấp quốc gia và quốc tế, cho phép so sánh
giữa các vùng, các nước hoặc các nhóm nước.nó cũng cho phép các ước tính này so
sánh được với các số liệu tổng hợp và các tính toán ở tầm kinh tế vĩ mô được thế giới
công nhận.
Còn trong đề tài “nghiên cứu xây dựng mô hình tài khoản vệ tinh du lịch ở Việt
Nam” do TS Lý Minh Khải chủ nhiệm thực hiện năm 2003, đưa ra khái niệm: “Tài
khoản vệ tinh du lịch là một tập hợp các bảng bảng đo lường, tính toán phản ánh kết
quả các mặt hoạt động du lịch trong mối quan hệ qua lại với các ngành kinh tế quốc
dân khác theo cùng một phương pháp tính của tài khoản quốc gia”.
Xuất phát từ nội dung của Hệ thống tài khoản Quốc gia, cùng với quan điểm về
tài khoản vệ tinh du lịch mà các tổ chức quốc tế, các nhân trên đưa ra thì có thể tổng
hợp thành một khái niệm về tài khoản vệ tinh du lịch, đó là:
“Tài khoản vệ tinh du lịch (Tourism Satellite Account – TSA) là một hệ thống
các khái niệm, định nghĩa, các bảng bảng và các chỉ tiêu kinh tế được sắp xếp logic và
thống nhất nhằm đo lường tính toán và phản ánh kết quả các mặt hoạt động du lịch

theo quan điểm cung cầu và trong mối quan hệ qua lại với các ngành kinh tế quốc dân
khác theo cùng một nguyên tắc của tài khoản quốc gia, nhằm đảm bảo tính so sánh
được giữa các vùng, các nước hoặc các nhó nước”.
25

×