Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

tình hình thực hiên quy hoạch, xây dựng ntm về phát triển hạ tầng kt-xh của xã điện quang, huyện điện bàn, tỉnh quảng nam đến năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.95 MB, 109 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
• Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển nông thôn là lĩnh vực quan trọng và cấp thiết trong chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội và hiện đại hóa đất nước. Trong những năm gần đây cùng với sự
phát triển chung của đất nước, nông thôn đã có sự đổi mới và phát triển đáng kể. Đây
là vấn đề đang được Đảng và Nhà nước rất quan tâm cả về tổng kết lý luận và thực
tiễn. Để phát triển nông thôn đúng hướng, có cơ sở khoa học, hợp logic và đảm bảo
phát triển bền vững thì phải tiến hành quy hoạch phát triển nông thôn, đây là công việc
hết sức quan trọng.
Xây dựng nông thôn mới là một chủ trương lớn của Đảng được đề ra trong
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
triển khai các Nghị quyết của Đảng và Quyết định của Chính phủ, đến nay, sau hơn 3
năm thực hiện chương trình thí điểm xây dựng nông thôn mới, kết quả đạt được ở mỗi
xã khác nhau nhưng đã hình thành mô hình nông thôn mới với sức sản xuất phát triển,
hình thành được các vùng sản xuất hàng hóa, thu nhập của người dân các xã thí điểm
tăng hơn 62%, cơ sở hạ tầng các xã được cải tạo, nâng cấp khá đồng bộ đã làm thay
đổi rõ nét diện mạo nông thôn, tác động trực tiếp đến việc cải thiện chất lượng cuộc
sống của người dân, thúc đẩy hoạt động văn hóa và phát triển kinh tế-xã hội từng bước
được cải thiện; bản sắc văn hóa được gìn giữ, trình độ dân trí và chất lượng hệ thống
cơ sở được nâng cao.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn tồn tại một số hạn chế trong việc triển
khai, đó là mô hình nông thôn mới tuy đã hình thành nhưng một số nội dung còn chưa
hoàn chỉnh, chưa bền vững; một số nội dung trong chương trình triển khai còn chậm,
việc phát huy dân chủ của nhân dân địa phương tham gia chưa cụ thể hóa; đặc biệt còn
cứng nhắc, gặp khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện một số tiêu chí. Bởi đối với
từng tiêu chí, mỗi địa phương cần có cách thực hiện phù hợp tùy theo điều kiện, khả
năng của mình.
Chúng ta đang đi từng bước để biến chủ trương thành hiện thực. Rõ ràng, ai
cũng nhận thấy đó là công việc không phải của ngày một, ngày hai. Vậy bước đi như
1


thế nào, cách làm ra sao để những chủ thể chính của chủ trương này được thừa hưởng
những thành quả đó? Xây những viên gạch nhỏ nhưng vững chãi và thiết thực được
xem là phù hợp trong điều kiện và xu thế hiện nay của chúng ta.
Đối với Việt Nam, là một nước với gần 70% dân số làm nghề nông, để đạt được
mục tiêu “ đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp có trình độ khoa học công
nghệ tiên tiến” thì nhất thiết phải có sự đầu tư vào nông nghiệp mà nhất là phát triển
cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn. Trong các Đại hội đại biểu toàn quốc cũng
như các hội nghị phát triển nông nghiệp nông thôn, đều đã nhận định đầu tư phát triển
CSHT KTXH ở nông thôn là vô cùng cần thiết trong điều kiện hiện nay. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói “Giao thông là mạch máu của tổ chức kinh tế, giao thông tốt thì
mọi việc đều dễ dàng…”- trích Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giao thông vận
tải.
Cùng với quá trình thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển nông thôn, xây
dựng chương trình NTM, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đã tiến
hành thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, nhằm xây dựng làng xã có cuộc
sống ấm no, văn minh, môi trường trong lành.
Sau hơn hai năm hưởng ứng phong trào xây dựng nông thôn mới đã làm thay
đổi một cách căn bản diện mạo nông thôn, nếp sống, nếp nghĩ. Giúp người dân biết áp
dụng KHKT vào sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, làm cho cả đời sống vật chất và tinh
thần của người dân đều được nâng cao, bộ mặt làng xã đã có sự thay đổi rõ rệt, cảnh
quan môi trường được bảo vệ. Đặc biệt hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển
cơ sở hạ tầng KT-XH đến sản xuất, các lãnh đạo chính quyền cùng toàn dân xã Điện
Quang đã chung tay xây dựng nên những con đường mới, bê tông hoá các đường nội
đồng phục vụ sản xuất, hệ thống thuỷ lợi được nâng cấp và đảm bảo phục vụ tốt nước
tưới cho sinh hoạt và sản xuất,
Bên cạnh những kết quả khả quan mà xã đã đạt được thì vẫn còn nhiều bất
cập.Nhiều hệ thống giao thông hiện nay đang xuống cấp và hư hỏng nghiêm trọng, các
công trình thuỷ lợi chưa được kiên cố hoá hoàn toàn, dân cư sống chủ yếu bằng nghề
nông, trình độ sản xuất chưa cao, hạ tầng KT-XH của xã vẫn ở điểm xuất phát thấp,
trong khi vốn đầu tư từ ngân sách địa phương thì rất hạn chế.

2

Xuất phát từ vai trò quan trọng của hạ tầng KT-XH trong phát triển NTM cùng
với những thực trạng trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tình hình thực hiên quy
hoạch, xây dựng NTM về phát triển hạ tầng KT-XH của xã Điện Quang, huyện
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đến năm 2012” để làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
• Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng NTM về phát triển hạ tầng
KT-XH.
- Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng Nông thôn mới về phát
triển hạ tầng kinh tế- xã hội của xã Điện Quang, những thuận lợi và khó khăn ảnh
hưởng tới tiến trình phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH của địa phương.
- Từ đó đề xuất những giải pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa
phương để nhằm đẩy mạnh tiến trình thực hiện quy hoạch hạ tầng KT-XH của xã
trong thời gian tới.
• Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung đánh giá tình hình thực hiện quy
hoạch và nội dung phát triển hạ tầng KT-XH của xã Điện Quang đến năm 2012, đó là
các nội dung thuộc tiêu chí phát triển NTM: Giao thông, thủy lơi, điện, trường học, cơ
sở vật chất văn hóa, chợ nông thôn, bưu điện và tình hình phát triển nhà ở của dân cư
xã nhà.
- Phạm vi nghiên cứu
+Về mặt không gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại tất cả các thôn thuộc
xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
+Về mặt thời gian : Tình hình cơ bản 3 năm (2010-2012) và tình hình thực hiện
xây dựng nông thôn mới của xã Điện Quang qua hai năm ( 2011-2012).
+ Về mặt nội dung: Đề tài tiến hành nghiên cứu hiện trạng xây dựng nông thôn
mới của xã Điện Quang , huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam qua 8 tiêu chí phát triển hạ
tầng kinh tế xã hội đã nêu ở trên.
Để thực hiện đề tài nghiên cứu, tôi đã sử dụng hệ thống các phương pháp

nghiên cứu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng.
- Phương pháp duy vật lịch sử.
- Phương pháp thu thập số liệu.
3

- Phương pháp phân tích thống kê.
- Phương pháp chỉ số.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo.
- Phương pháp biểu đồ, bản đồ minh họa thực trạng các nội dung phát triển hạ
tầng KT-XH.
- Phương pháp điều tra cán bộ lãnh đạo và hộ nông dân.
4

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu:
1.1.1Cơ sở lý luận
1.1.1.1Những vấn đề về nông thôn
• Khái niệm nông thôn
Cho đến nay, có rất nhiều các quan điểm khác nhau về nông thôn, và khi nói về
nông thôn người ta thường đặt nó trong mối tương quan với đô thị.
Trong từ điển Tiếng Việt của viện ngôn ngữ học, nông thôn được định nghĩa là
khu vực tập trung chủ yếu dân cư làm nghề nông. Thành thị được định nghĩa là khu
vực dân cư làm các ngành nghề ngoài nông nghiệp. Hai định nghĩa nêu trên mới chỉ
nói lên một đặc điểm cơ bản khác nhau giữa nông thôn và thành thị.
Thực tế sự khác nhau giữa nông thôn và thành thị không phải chỉ ở đặc điểm
nghề nghiệp của dân cư, mà còn khác nhau về mặt tự nhiên, kinh tế và xã hội.
Về tự nhiên, nông thôn là vùng đất đai rộng lớn, thường bao quanh các đô thị.
Những vùng đất đai này khác nhau về địa hình, khí hậu, thủy văn

Về kinh tế, nông thôn chủ yếu làm nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp). Cơ sở
hạ tầng ở vùng nông thôn lạc hậu, thấp kém hơn đô thị. Trình độ phát triển cơ sở vật
chất và kỹ thuật, trình độ sản xuất hàng hóa cũng kém hơn đô thị.
Về xã hội, trình độ học vấn, điều kiện cho giáo dục, y tế, đời sống vật chất, tinh
thần của dân cư nông thôn thấp hơn dân cư thành thị. Tuy nhiên những di sản văn hóa,
phong tục tập quán cổ truyền ở nông thôn lại thường phong phú hơn thành thị.
Nhưng có ý kiến khác lại cho rằng, vùng nông thôn là vùng có dân cư làm nông
nghiệp chủ yếu, tức nguồn sinh kế chính của dân cư trong vùng đều từ sản xuất nông
nghiệp. Những quan điểm này chỉ đúng khi đặt trong bối cảnh cụ thể của từng nước.
Như vậy, khái niệm nông thôn chỉ có tính chất tương đối theo thời gian, theo tiến trình
phát triển kinh tế xã hội.
Căn cứ vào điều kiện thực tế và xét dưới góc độ quản lý thì PGS. TS Nguyễn
Ngọc Nông cho rằng “Nông thôn là vùng khác với thành thị, ở đó một cộng đồng chủ
yếu là nông dân sống và làm việc, có mật độ dân cư thấp, có kết cấu hạ tầng kém phát
triển, có trình độ dân trí, trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hoá thấp hơn”
5

Như vậy, khái niệm về nông thôn chỉ có tích chất tương đối, thay đổi theo thời
gian và theo tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia trên thế giới. Trong
điều kiện hiện nay ở Việt Nam, nhìn nhận dưới góc độ quản lý, có thể hiểu: “Nông
thôn là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó có nhiều nông dân. Tập hợp cư
dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường trong một
thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác”
• Đặc trưng của nông thôn:
Nói đến các vấn đề trong nông thôn là vấn đề không bao giờ là lỗi thời ở Việt
Nam. Trước hết để hiểu được những vấn đề nóng, bức xúc ở nông thôn thì trước tiên ta
phải hiểu được những đặc trưng ở vùng nông thôn.
+ Nông thôn là vùng sinh sống và làm việc của một cộng đồng dân cư bao gồm
chủ yếu là nông dân, là vùng chủ yếu sản xuất nông nghiệp. Các hoạt động sản xuất và
dịch vụ phục vụ chủ yếu cho nông nghiệp, cho cộng đồng nông thôn. Mật độ dân cư

vùng nông thôn thấp hơn đô thị.
+ Nông thôn có cơ cấu hạ tầng, có trình độ tiếp cận thị trường, trình độ sản xuất
hàng hóa thấp hơn so với thành thị. Nông thôn chịu sức hút của thành thị về nhiều mặt, dân
nông thôn thường tìm cách di chuyển vào thành thị.
+ Nông thôn là vùng có trình độ văn hóa, khoa học và kỹ thuật thấp hơn thành
thị, và trong chừng mực nào đó mức độ dân chủ, tự do và công bằng xã hội cũng thấp
hơn đô thị. Thu nhập, đời sống vật chất và tinh thần của vùng nông thôn thấp hơn
thành thị.
+ Nông thôn trải trên địa bàn khá rộng, chịu tác động nhiều bởi điều kiện tự
nhiên. Đa dạng về quy mô, trình độ phát triển và về các hình thức tổ chức sản xuất và
quản lý. Tính đa dạng đó diễn ra không chỉ giữa nông thôn các nước khác nhau mà
ngay cả giữa các vùng nông thôn trong cả nước.
• Khái niệm nông thôn mới:
Khái niệm nông thôn mới trước tiên phải là nông thôn chứ không phải là thị
trấn, thị tứ. Thứ hai, là nông thôn mới chứ không phải nông thôn truyền thống. Nếu so
sánh giữa nông thôn mới và nông thôn truyền thống, thì nông thôn mới phải bao hàm
cơ cấu và chức năng mới.
6

“Nông thôn mới phải tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng làm đòn bẩy phát
triển các nghành nghề khác”.
“Nông thôn mới đạt được bộ tiêu chí quốc gia do chính phủ ban hành theo
quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/04/2009”.
“Nông thôn mới phải cải tạo được cảnh quan, bảo vệ môi trường phục vụ hiện
đại hoá, công nghiệp hoá đất nước”.
“Nông thôn mới phải áp dụng khoa học kỹ thuật mới, nâng cao thu nhập cho
người dân”.
• Xây dựng nông thôn mới
Xây dựng mô hình NTM là một chính sách về một mô hình phát triển cả về
nông nghiệp và nông thôn nên vừa mang tính tổng hợp, bao quát nhiều lĩnh vực, vừa

đi sâu giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải quyết các mối quan hệ với các
chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính toán, cân đối mang tính tổng thể, khắc
phục tình trạng rời rạc hoặc duy ý chí.
Có thể quan niệm: “ Mô hình NTM là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo
thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho
nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng so với mô hình
nông thôn cũ ở tính tiên tiến về mọi mặt.
Xây dựng NTM vẫn đảm bảo cuộc sống người dân, giữ được truyền thống, bảo
vệ môi trường.
Xây dựng NTM là quá trình không có điểm dừng. Ngay cả Châu Âu cũng xây
dựng nông thôn mới và khái niệm, tiêu chí nông thôn mới của họ cũng thay đổi tuỳ
theo mức sống, nhu cầu và quan niệm của người dân.( Nguồn: Nguyễn Trọng Bình)
• Sự khác biệt giữa Nông thôn trước đây và nông thôn mới:
Như tôi nói ở trên, khái niệm NTM trước tiên phải là nông thôn chứ không phải
là Thị trấn hay Thị tứ.
Thứ hai, NTM không phải là nông thôn truyền thống. Nếu so sánh giữa NTM
và nông thôn truyền thống thì NTM phải bao hàm cả cơ cấu và chức năng mới.
7

Mô hình NTM là những kiểu mẫu cộng đồng được xét trên những tiêu chí mới,
tiếp thu khoa học công nghê hiện đại nhưng vẫn giữ được nét đặc trưng của vùng quê
nông thôn cả về văn hoá lẫn tinh thần.
Nếu như mô hình nông thôn cũ làm việc với tư duy bảo thủ, sự quyết định
thường rơi vào tay cấp trên, người dân ở trạng thái bị động thì mô hình NTM là việc
đổi mới tư duy, nâng cao năng lực của người dân nông thôn, tạo động lực giúp họ chủ
động phát triển kinh tế-xã hội, góp phần thực hiện chính sách vì nông nghiệp, nông
dân và nông thôn, thay đổi cơ sở vật chất và diện mạo đời sống, văn hoá, qua đó thu
hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.
Theo Tiến sỹ Tô Văn Tường- Viện trưởng Viện quy hoạch Thuỷ lợi miền Nam:
“Có điều không bao giờ thay đổi là nông thôn mới cũng phải giữ được tính truyền

thống, những nét đặc trưng nhất, bản sắc từng vùng, từng dân tộc và nâng cao giá trị
đoàn kết của cộng đồng, mức sống của người dân. Mô hình Nông thôn tiên tiến phải
dựa trên nền tảng cơ bản: nông dân có trí thức. Họ phải có trình độ khoa học về thổ
nhưỡng, giống cây trồng, hoá học phân bón và thuốc trừ sâu, quản lý dịch bệnh, bảo
quản sau thu hoạch, kinh tế nông nghiệp”.
Tóm lại, NTM khẳng định vai trò của người dân, nêu cao tính tự chủ của nông
dân. Người dân chủ động trong việc xây dựng kế hoạch phát triển, thu hút sự tham gia
đầy đủ của các thành viên trong nông thôn nhằm đạt được mục tiêu đề ra có tính hiệu
quả cao.Việc thực hiện kế hoạch dựa trên nền tảng huy động nguồn lực của bản thân
người dân, thay cho việc dựa vào sự hỗ trợ từ bên ngoài là chính. Các tổ chức nông
dân hoạt động mạnh, có tính hiệu quả cao. Nguồn vốn từ bên ngoài được phân bổ và
quản lý sử dụng có hiệu quả.
Tất cả những điều trên đã tạo nên sự khác biệt của Mô hình NTM so với mô
hình nông thôn trước đây.
• Sự cần thiết phải xây dựng NTM:
Những thành tựu đạt được trong phát triển nông nghiệp nông thôn thời kì đổi
mới là rất to lớn, tuy nhiên, nông nghiệp và nông thôn nước ta vẫn tiềm ẩn những mâu
thuẫn, thách thức và bộc lộ những hạn chế không nhỏ đòi hỏi cần phải quy hoạch và
phát triển xây dựng NTM.
8

Thứ nhất: Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch và tự phát
- Hiện nay nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, tự phát, có khoảng 23% xã có
quy hoạch nhưng thiếu đồng bộ, tầm nhìn ngắn, chất lượng chưa cao.
- Cơ chế quản lý phát triển theo quy hoạch còn yếu.
- Xây dựng tự phát, kiến trúc cảnh quan làng quê bị pha tạp, lộn xộn, nhiều nét
văn hóa truyền thống bị mai một.
Thứ hai: Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn lạc hậu không đáp ứng được
yêu cầu phát triển lâu dài
Thủy lợi chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất nông nghiệp và dân sinh. Tỷ lệ

kênh mương do xã quản lý được kiên cố hóa mới đạt tỷ lệ thấp. Giao thông chất lượng
thấp, không có quy chuẩn, chủ yếu phục vụ dân sinh, nhiều vùng giao thông chưa phục
vụ tốt sản xuất, lưu thông hàng hóa, phần lớn chưa đạt chuẩn quy định. Hệ thống lưới
điện hạ thế ở tình trạng chắp vá, chất lượng thấp, quản lý lưới điện ở nông thôn còn
yếu, tổn hao điện năng cao (22-25%), nông dân phải chịu giá điện cao hơn giá trần
Nhà nước quy định. Hệ thống các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở ở nông
thôn có tỷ lệ đạt chuẩn về cơ sở vật chất thấp; Mức đạt chuẩn của nhà văn hóa và khu
thể thao xã mới đạt 29,6%, hầu hết các thôn không có khu thể thao theo quy định. Tỷ
lệ chợ nông thôn đạt chuẩn thấp, có 77,6% số xã có điểm bưu điện văn hóa theo tiêu
chuẩn, 22,5% số thôn có điểm truy cập internet. Cả nước hiện còn hơn hàng nghìn nhà
ở tạm bợ (tranh, tre, nứa lá), hầu hết nhà ở nông thôn được xây không có quy hoạch,
quy chuẩn.
Thứ ba: Quan hệ sản xuất chậm đổi mới, đời sống người dân còn ở mức
thấp
- Kinh tế hộ phổ biến quy mô nhỏ (36% số hộ có dưới 0,2 ha đất).
- Kinh tế trang trại chỉ chiếm hơn 1% tổng số hộ nông- lâm –ngư nghiệp trong
cả nước.
- Kinh tế tập thể phát triển chậm, hầu hết các xã đã có hợp tác xã hoặc tổ hợp
tác nhưng hoạt động còn hình thức, có trên 54% số hợp tác xã ở mức trung bình và
yếu.
9

- Đời sống cư dân nông thôn tuy được cải thiện nhưng còn ở mức thấp, chênh
lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng ngày càng cao, thu thập
bình quân đạt 32triệu đồng/ hộ (năm 2012) nhưng chênh lệch thu nhập giữa 10%
nhóm người giàu và 10% nhóm người nghèo nhất là 13,5 lần).
- Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn còn cao (10%).
Thứ tư: Các vấn đề về văn hóa - môi trường – giáo dục – y tế
- Giáo dục mầm non: Còn 11,7% số xã chưa có nhà trẻ, mẫu giáo.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo rất thấp,

- Hệ thống an sinh xã hội chưa phát triển.
- Môi trường sống ô nhiễm.
- Số trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia thấp, vai trò y tế dự phòng của trạm y tế
còn hạn chế.
Thứ năm: Hệ thống chính trị còn yếu (nhất là trình độ và năng lực điều
hành)
- Trong hơn 81 nghìn công chức xã: 0.1% chưa biết chữ, 2.4% tiểu học, 21,5%
trung học cơ sở, 75,5% trung học phổ thông.
- Về trình độ chuyên môn: Chỉ có 9% có trình độ đại học, cao đẳng, 32,4%
trung cấp, 9,8% sơ cấp, 48,7% chưa qua đào tạo.
- Về trình độ quản lý nhà nước: Chưa qua đào tạo là 44%, chưa qua đào tạo tin
học là 87%.
Góp phần khắc phục một cách cơ bản tình trạng trên, đưa Nghị quyết của Đảng
về nông thôn đi vào cuộc sống, một trong những việc cần làm trong giai đoạn này là
xây dựng mô hình nông thôn mới đáp ứng nhu cầu CNH-HĐH và hội nhập nền kinh tế
thế giới. Đây là vấn đề cấp thiết của nước ta hiện nay.
• Các nhân tố ảnh hưởng tới viêc xây dựng NTM:
Thực tế cho thấy, việc nghiên cứu các nhân tố có ảnh hưởng đến xây dựng
Chương trình NTM có vai trò rất quan trọng trong việc đề xuất các chính sách và giải
pháp thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Sự hình thành và phát triển của chương
trình NTM chịu sự ảnh hưởng của các nhóm nhân tố sau:
10

+ Điều kiện tự nhiên
Nhóm nhân tố điều kiện tự nhiên gồm các yếu tố như vị trí địa lý, đất đai, tài
nguyên, khí hậu, thời tiết Trong đó, đất đai là một trong những yếu tố quan trọng
nhất ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển nông nghiêp, nông thôn.
Trong nông nghiệp, đất đai là một loại hình tư liệu sản xuất đặc biệt và không
thể thay thế được. Với những nền kinh tế trong đó sản xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ
trọng lớn thì thu nhập từ nông nghiệp là hết sức quan trọng. Lịch sử phát triển của xã

hội loài người cho thấy, hầu hết các nước phát triển nông nghiệp, nông thôn và mối
quan hệ giữa con người với nông nghiệp mang tính đa chiều, nó vừa mang tính kinh tế,
vừa mang tính tình cảm và tâm lý sâu sắc. Cũng từ đó, quan hệ sở hữu đất đai đã trở
thành trung tâm của các mối quan hệ xã hội trong nông thôn.
Không chỉ ở khu vực nông thôn mà ngay ở thành thị, các công trình hạ tầng
KT-XH luôn gắn với những vị trí đất đai cụ thể. Đất đai là nguồn lực hết sức quan
trọng, nhận định này được xét trên hai góc độ:
+ Thứ nhất, đất đai tạo nền móng vật chất hữu hình cho hạ tầng KT-XH ở nông
thôn hình thành và phát triển. Muốn xây dựng hay mở rộng hệ thống đường giao thông
trước tiên cần phải có vị trí, diện tích đất đai để làm đường. Ngoài ra, đất đai còn là
nguyên vật liệu chính cho việc xây dựng nhiều công trình hạ tầng KT-XH, đặc biệt là
giao thông.
+ Thứ hai, đất đai còn là một tài sản rất có giá trị, quyền sở hữu và sử dụng đất
có thể chuyển hoá thành nguồn vốn vật chất hoặc bằng tiền cho sự phát triển xây dựng
NTM ở nông thôn, đặc biệt là hạ tầng KT-XH ở nông thôn. Đặc biệt, quỹ đất công ích
thông qua thị trường bằng phương thức “đổi đất lấy hạ tầng” đã trở thành nguồn vốn
đáng kể cho sự phát triển quy hoạch hạ tầng ở nông thôn.
Đồng thời, chủ trương, chính sách định hướng phát triển xây dựng NTM ít nhất
cũng phải dựa trên quỹ đất hiện có của xã nhà. Điều này quyết định đến sự phù hợp
hay không của đề án xây dựng NTM.
Ngoài đất đai, còn có các nhân tố khác như địa hình, khí hậu cũng có ảnh
hưởng nhất định đến quá trình thực hiện xây dựng NTM. Một mặt, nó liên quan đến
chi phí sản xuất, quản lý, vận hành, duy tu bảo dưỡng, mặt khác nó ảnh hưởng đến
11

lượng vật liệu tiêu hao, vốn đầu tư xây dựng và tính khả thi của dự án xây dựng NTM.
Những vùng có điều kiện tự nhiên, xã hội thuận lợi có thẻ mang lại hiệu quả cao đối
với các dự án phát triển nông thôn và ngược lại.
+ Điều kiện KT-XH:
- Dân cư và lao động:

Xây dựng nông thôn mới là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm làm
thay đổi bộ mặt của nông thôn cho phù hợp với thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn. Để thực hiện thành công chủ trương đó thì dân cư và lao động đóng một vai trò
rất quan trọng, trong đó nông dân là chủ thể quyết định. Sự nghiệp xây dựng nông
thôn mới với 19 tiêu chí sẽ không thực hiện được nếu không có sự tham gia đóng góp
của người nông dân.
Trong nền kinh tế ở nước ta, nông dân luôn là lực lượng lao động chủ yếu trong
ngành nông nghiệp, là nguồn nhân lực dồi dào, quan trọng, quyết định sự thành công
trong xây dựng nông thôn mới. Những năm gần đây, nhờ áp dụng những thành tựu
khoa học - kỹ thuật, nông dân đã sản xuất ra nông sản ngày càng nhiều, chất lượng cao
đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Qua đó, nông dân có điều
kiện nâng cao thu nhập, tích lũy vật chất, ổn định cuộc sống và góp phần làm cho bộ
mặt nông thôn có nhiều khởi sắc, tạo cơ sở cho việc chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp.
Nông dân là chủ thể tích cực trong xây đựng đời sống văn hóa mới, xây dựng
kết cấu hạ tầng; phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, làm cho mỗi
người được thụ hưởng một cách tốt nhất những giá trị vật chất và tinh thần. Công cuộc
xây dựng nông thôn mới khó khăn, lâu dài đòi hỏi sự đóng góp rất lớn của bà con nông
dân. Nông dân phải nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mình mới có thể kế
thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp và khắc phục những yếu tố lạc hậu, tiêu cực
ảnh hưởng tới quá trình phát triển để có thể xây dựng nông thôn Việt Nam hiện đại,
văn minh. Muốn xây dựng nông thôn mới đi đến thành công, người nông dân luôn giữ
một vị trí đặc biệt quan trọng. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và có những chính
sách phù hợp tạo điều kiện, cơ hội để thúc đẩy cho nông dân ý thức được vai trò của
mình, tiếp tục phát huy tính chủ động, sáng tạo trong xây dựng quê hương, đất nước.
Nông dân có vai trò quan trọng trong xây dựng nông thôn mới, cùng với các giai cấp,
12

tầng lớp khác phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam XHCN “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Nhân tố vốn

Vốn là nhân tố có vai trò vô cùng quan trọng và nhiều khi có ảnh hưởng mang
tính quyết định đến sự thành công của mô hình NTM. Thực tế cho thấy, việc thực hiện
các hạng mục của bộ tiêu chí NTM, nhất là các công trình giao thông, thuỷ lợi thường
đòi hỏi vốn lớn, trong khi đó, bản thân nông nghiệp, nông thôn khó có thể tự giàu có
để có nguồn tích luỹ lớn khi không có những yếu tố khác như khoa học kỹ thuật tiên
tiến, máy móc hiện đại tác động vào.
Vốn cho việc phát triển chương trình NTM có thể huy động từ nhiều nguồn:
Nguồn ngân sách nhà nước, nguồn vốn đóng góp của dân cư, nguồn vốn từ các doanh
nghiệp Và vốn ngân sách nhà nước luôn đóng vai trò rất quan trọng. Nguồn vốn này
được xem là nguồn “vốn mồi” để thu hút các nguồn vốn khác vào đầu tư xây dựng
NTM.
Ngoài ra, một nguồn vốn khá quan trọng nữa là nguồn vốn tín dụng của nhà
nước. Loại vốn này đã xuất hiện phổ biến và đóng góp đắc lực trong việc xây dựng
NTM.
Vốn tài trợ khác là nguồn vốn được vận động tranh thủ sự ủng hộ của các đơn
vị tổ chức và con em của quê hương thành đạt hướng về quê hương.
Hiện nay, đối với các nền kinh tế đang phát triển, nguồn vốn nước ngoài trong
một số trường hợp đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển nông thôn. Nguồn vốn
nước ngoài phổ biến là nguồn vốn ODA.
Với những khoản cho vay ưu đãi, thời gian dài thì hiện nay vốn ODA cũng
đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển nông thôn như nước ta hiện nay.Về
cơ bản, nguồn vốn ODA thường được ưu tiên cho phát triển cơ sở hạ tầng cho những
công trình trọng điểm như: Hệ thống thuỷ lợi; hệ thống GTNT; hệ thống cung cấp
nước sạch và ưu tiên những vùng đặc biệt khó khăn mà không có khả năng xây dựng
cơ sở hạ tầng bằng các nguồn vốn khác. Đây là một nguồn vốn mà các nước đang phát
triển thường tìm cách tập trung khai thác nhằm đầu tư phát triển hạ tầng KT - XH
nông thôn.
13

• Nhân tố về cơ chế, chính sách:

- Về phía Nhà nước: Cụ thể một số chính sách có ý nghĩa tích cực từ phía Nhà
nước có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng NTM như: chính sách quy hoạch phát
triển hạ tầng; chính sách hỗ trợ vốn của nhà nước; tạo vốn; huy động vốn; chính sách
khuyến khích ưu đãi đầu tư; Trong đó, chính sách hỗ trợ vốn của nhà nước đối với
các vùng nông thôn, đặc biệt là những vùng còn nhiều khó khăn về kinh tế, xã hội là
vô cùng cần thiết và thường được thực hiện thông qua các chương trình mục tiêu như:
Các chương trình kiên cô hoá kênh mương; kiên cô hoá đường GTNT; kiên cố hoá
trường học, cung câp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
- Về phía địa phương: Các địa phương đều quán triệt, triển khai nghiêm túc các
chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước về việc thực hiện xây dựng mô hình
NTM.
• Các nhân tố khác
- Trước hết là nhân tố tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ. Vì đây là nhân tố
có vị trí đặc biệt đối với tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn và có ảnh
hưởng đến quá trình phát triển hạ tầng KT-XH nông thôn. Nó cung cấp những luận cứ
khoa học cho việc hoạch định các chính sách phát triển cơ sở hạ tầng-xây dựng NTM,
tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh tế hạ tầng như: thuỷ lợi, giao thông, bưu chính
viễn thông trong việc trang bị các thiết bị máy móc hiện đại, sử dụng những vật liệu
mới Tuy nhiên việc áp dụng chuyển giao công nghệ trên địa bàn nông thôn còn hạn
chế do trình độ dân trí còn thấp, nguồn nhân lực khoa học còn ít, cơ chế chính sách
chưa đồng bộ, kinh phí đầu tư còn hạn chế
- Ngoài ra, để tạo ra sự thay đổi diện mạo của thôn xã theo mục tiêu của chương
trình xây dựng NTM thì cần phải chú ý đến nhân tố văn hoá. Đặc điểm trình độ dân trí,
văn hoá có ảnh hưởng nhiều đến tính khả thi của các công trình, dự án thông qua nhận
thức và sự đóng góp, ủng hộ về cả tiền vốn, sức lao động và tinh thần. Nêu dự án xây
dựng NTM phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của dân cư, phù hợp với văn hoá truyền
thống của làng, xã thì dự án xây dựng NTM đó sẽ được triển khai nhanh chóng và
mang lại hiệu quả sử dụng cao. Yếu tố văn hóa cũng ảnh hưỏng tới chât lượng, thời
14


gian và năng lực hoạt động của dự án thông qua ý thức giữ gìn, bảo vệ của cư dân, qua
đó ảnh hưởng tới nguồn vốn đầu tư, chi phí quản lý vận hành và hiệu quả khai thác.
1.1.1.2 Khái niệm hạ tầng KT-XH và vai trò của hạ tầng KT-XH trong
phát triển NTM:
• Khái niệm hạ tầng KT-XH
Cho đến nay, quan niệm về cơ sở hạ tầng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Theo
PGS.TS Nguyễn Ngọc Nông thì “Cơ sở hạ tầng là tổng thể các nghành kinh tế, các
ngành công nghệ dịch vụ” Cụ thể cơ sở hạ tầng bao gồm: Việc xây dựng đường xá,
kênh đào tưới nước, bãi cảng, cầu cống, sân bay, kho tàng, cơ sở cung câp năng lượng,
cơ sở kinh doanh, giao thông vận tải, bưu điện, cấp thoát nước, cơ sở giáo dục, khoa
học, y tế, bảo vệ sức khoẻ Còn theo PGS. TS Lê Du Phong cho rằng kêt cấu hạ tầng
là “tổng hợp các yếu tố và điều kiện vật chất – kỹ thuật được tạo lập và tôn tại trong
mỗi quốc gia, là nền tảng và điều kiện chung cho các hoạt động KT - XH ”
• Khái niệm hạ tầng KT-XH nông thôn
Theo PGS. TS Đỗ Hoài Nam thì hạ tầng KT - XH ở nông thôn là “Hạ tầng KT -
XH thuộc quyền sở hữu chung của làng, xã, do làng, xã sử dụng chung vì mục đích
phát triển KT - XH của làng” . Như vậy hạ tầng KT - XH nông thôn là những cơ sở vật
chất và thiết chế cung cấp dịch vụ cho sinh hoạt kinh tế, xã hội, dân sinh trong cộng
đồng làng xã và do làng xã quản lý, sở hữu và sử dụng, làm nền tảng cho sự phát triển
KT - XH nông thôn.
Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, hạ tầng KT - XH nông thôn là nhân tố quyết
định đến sự thành công hay thất bại của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
nói chung và xây dựng NTM nói riêng.
• Vai trò của hạ tầng KT-XH nông thôn:
- Hạ tầng KT - XH nông thôn hoàn thiện và đồng bộ sẽ giúp giảm giá thành sản
xuất, giảm chi phí vận chuyển, chi phí dịch vụ, giảm thiếu rời rạc trong các hoạt động
sản xuất kinh doanh nông nghiệp và các ngành liên quan trực tiếp tới nông nghiệp, góp
phần thúc đẩy lưu thông hàng hoá.
- Hạ tầng KT - XH nông thôn phát triển sẽ tác động đến sự phát triển khu vực
nông nghiệp và kinh tế nông thôn, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện

15

thu hút vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài vào thị trường nông nghiệp, nông
thôn. Qua đó, góp phần tạo thêm việc làm thu hút nguồn lao động dư thừa, tăng thêm
thu nhập cho cư dân ở các vùng nông thôn, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành
trong sản xuât. Ngoài ra nó còn tạo điều kiện cho người nông dân tiếp cận được với
tiến bộ khoa học –kỹ thuật tiên tiến, tiếp cận được với các dịch vụ chất lượng cao như
tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm
- Hạ tầng KT - XH nông thôn là điều kiện quan trọng tác động tới việc phân bố
lực lượng sản xuất theo lãnh thổ. Phát triển hạ tầng KT - XH nông thôn sẽ tạo điều
kiện phát triển đồng đều giữa các vùng, miền trong cả nước, góp phân thực hiện mục
tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội.
- Hạ tầng KT - XH nông thôn là điều kiện vật chất quan trọng, có tính quyết
định đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cũng như sự chuyển dịch cơ cấu
nội bộ ngành nông nghiệp. Ngân hàng thế giới cho rằng: “ Những trở ngại trong giao
thông vận tải thường là trở ngại chính đối với sự phát triển khả năng chuyên môn hàng
hoá sản xuất tại khu vực có tiềm năng phát triển nhưng không thể tiêu thụ được sản
phẩm hoặc không được cung cấp lượng thực một cách ổn định ” . Như vậy nếu không
có hạ tầng giao thông nói chung hay hạ tầng GTNT nói riêng thì không thể có giao lưu
hàng hóa nông sản với các hàng hoá khác, không thể tạo điều kiện phát triển nền nông
nghiệp hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
- Hạ tầng KT - XH phát triển sẽ tăng cường được khả năng giao lưu hàng hoá,
thị trường nông thôn được mở rộng, khơi thông sự ngăn cách giữa thị trường nông
thôn và toàn bộ nền kinh tế. Nhờ đó, kích thích sự phát triển kinh tế hộ gia đình, góp
phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, gia tăng thu nhập, nâng cao chât lượng
đời sống cư dân. Điều đó sẽ tạo ra sự thay đổi diện mạo KT - XH nông thôn, thu hẹp
khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, từng bước xoá bỏ sự ngăn cách
về không gian giữa thành thị và nông thôn.
- Phát triển hạ tầng KT - XH nông thôn sẽ tạo điều kiện tổ chức tốt đời sống xã
hội trên từng địa bàn, tạo một cuộc sống tốt hơn cho nhân dân, nhờ đó mà giảm bớt và

ngăn chặn tình trạng di cư tự do từ nông thôn ra thành thị
16

Nói tóm lại, phát triển hạ tầng KT - XH là nhân tố đặc biệt quan trọng, là khâu
then chốt để thực hiện các mục tiêu phát triển KT - XH nông nghiệp, nông thôn trong
tiến trình CNH, HDH. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
cùng quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng ngày nay,
để thực hiện thành công chương trình NTM và tạo diện mạo mới cho thôn nhà.
1.1.1.3 Các chỉ tiêu đánh giá quá trình xây dựng NTM:
Thể hiện ở Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM được thủ tướng Chính phủ ban
hành tại Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009. Dưới đây là 19 tiêu chí Quốc
gia về NTM áp dụng cho vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Cụ thể như sau:
A. Xã nông thôn mới
I. Quy hoạch
TT
Tên tiêu
chí
Nội dung tiêu chí
Chỉ
tiêu
chung
Vùng
Duyên hải
Nam TB
1
Quy
hoạch và
thực hiện
quy
hoạch

1.1.Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho
phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ
1.2. Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội –
môi trường theo chuẩn mới
1.3. Quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và
chỉnh trang các khu dân cư hiện có theo hướng văn
minh, bảo tồn được bản sắc văn hóa tốt đẹp
Đạt Đạt
II. Hạ tầng kinh tế - xã hội
TT
Tên tiêu
chí
Nội dung tiêu chí
Chỉ
tiêu
chung
Chỉ tiêu
theo vùng
Duyên hải
Nam TB
2 Giao
thông
2.1. Tỷ lệ km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa
hoặc bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ
GTVT
100% 100%
2.2. Tỷ lệ km đường trục thôn, xóm được cứng hóa 70% 70%
17


đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ GTVT
2.3. Tỷ lệ km đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội
vào mùa mưa.
100%
100% (70%
cứng hóa)
2.4. Tỷ lệ km đường trục chính nội đồng được cứng
hóa, xe cơ giới đi lại thuận tiện
65% 70%
3 Thủy lợi
3.1. Hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản
xuất và dân sinh
Đạt Đạt
3.2. Tỷ lệ km trên mương do xã quản lý được kiên cố
hóa
65% 70%
4 Điện
4.1. Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của
ngành điện
Đạt Đạt
4.2. Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ
các nguồn
98% 98%
5
Trường
học
Tỷ lệ trường học các cấp: mầm non, mẫu giáo, tiểu
học, THCS có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia
80% 80%
6

Cơ sở vật
chất văn
hóa
6.2. Nhà văn hóa và khu thể thao xã đạt chuẩn của Bộ
VH-TT-DL
Đạt Đạt
6.3. Tỷ lệ thôn có nhà văn hóa và khu thể thao thôn
đạt quy định của Bộ VH-TT-DL
100% 100%
7
Chợ nông
thôn
Chợ đạt chuẩn của Bộ Xây dựng
Đạt Đạt
8 Bưu điện
8.1. Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông. Đạt Đạt
8.2. Có Internet đến thôn Đạt Đạt
9
Nhà ở
dân cư
9.1. Nhà tạm, dột nát Không Không
9.2. Tỷ lệ hộ có nhà ở đạt tiêu chuẩn Bộ Xây dựng
80% 80%
III. Kinh tế và tổ chức sản xuất
TT
Tên tiêu
chí
Nội dung tiêu chí
Chỉ
tiêu

chung
Chỉ tiêu
theo vùng
Duyên hải
Nam TB
10 Thu nhập
Thu nhập bình quân đầu người/năm so với mức bình
quân chung của tỉnh
1,4 lần 1,4 lần
11 Hộ nghèoTỷ lệ hộ nghèo < 6% 5%
12
Cơ cấu
lao động
Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực
nông, lâm, ngư nghiệp
< 30% 35%
13 Hình Có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả Có Có
18

thức tổ
chức sản
xuất
IV. Văn hóa – Xã hội – Môi trường
TT
Tên tiêu
chí
Nội dung tiêu chí
Chỉ
tiêu
chung

Chỉ tiêu
theo vùng
Duyên hải
Nam TB
14 Giáo dục
14.1. Phổ cập giáo dục trung học Đạt Đạt
14.2. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục
học trung học (phổ thông, bổ túc, học nghề)
85% 85%
14.3. Tỷ lệ lao động qua đào tạo > 35% > 35%
15 Y tế
15.1. Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm
y tế
30% 30%
15.2. Y tế xã đạt chuẩn quốc gia Đạt Đạt
16 Văn hóa
Xã có từ 70% số thôn, bản trở lên đạt tiêu chuẩn làng
văn hóa theo quy định của Bộ VH-TT-DL
Đạt Đạt
17
Môi
trường
17.1. Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh
theo quy chuẩn Quốc gia
85% 85%
17.2. Các cơ sở SX-KD đạt tiêu chuẩn về môi trường Đạt Đạt
17.3. Không có các hoạt động suy giảm môi trường và
có các hoạt động phát triển môi trường xanh, sạch,
đẹp
Đạt Đạt

17.4. Nghĩa trang được xây dựng theo quy hoạch Đạt Đạt
17.5. Chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo
quy định
Đạt Đạt
V. Hệ thống chính trị
TT
Tên tiêu
chí
Nội dung tiêu chí
Chỉ
tiêu
chung
Chỉ tiêu
theo vùng
Duyên hải
Nam TB
18 Hệ thống
tổ chức
chính trị
xã hội
18.1. Cán bộ xã đạt chuẩn Đạt Đạt
18.2. Có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở
theo quy định.
Đạt Đạt
18.3. Đảng bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “trong
sạch, vững mạnh”
Đạt Đạt
19

vững

mạnh
18.4. Các tổ chức đoàn thể chính trị của xã đều đạt
danh hiệu tiên tiến trở lên
Đạt Đạt
19
An ninh,
trật tự xã
hội
An ninh, trật tự xã hội được giữ vững Đạt Đạt
B. Huyện nông thôn mới : có 75% số xã trong huyện đạt nông thôn mới
C. Tỉnh nông thôn mới: có 80% số huyện trong tỉnh đạt nông thôn mới.
1.1.2 Cơ sở thực tiễn
1.1.2.1 Kinh nghiệm xây dựng NTM ở mốt số nước:
• Mô hình nông thôn mới ở Hàn Quốc (Saemaul Undong- SMU)
Từ năm 1970, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện mô hình “Nông thôn mới”
(Saemaul Undong- SMU), với mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông thôn.
Mô hình này thực hiện 16 dự án mà mục tiêu chính là cải thiện môi trường sống cho
người dân nông thôn như: Mở rộng đường giao thông, hoàn thiện hệ thống nước thải
sinh hoạt, xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng, trồng thêm cây xanh và xây dựng sân
chơi cho trẻ em… Cải thiện môi trường sống cho người dân nông thôn được coi là nền
tảng để bắt đầu cho quá trình phát triển nông thôn. Chính phủ đã liên tục điều chỉnh
chính sách hỗ trợ phát triển để phù hợp với tình hình thực tiễn.
20

Bốn mục tiêu trụ cột của chương trình “Nông thôn mới” ở Hàn Quốc là:
- Tăng thu nhập cho nông dân
- Cải thiện môi trường sống cho người dân nông thôn
- Nâng cấp kết cấu hạ tầng nông thôn
- Khuyến khích phát triển đời sống tinh thần và quan hệ xã hội ở nông thôn
Để đạt 4 mục tiêu trên, Hàn Quốc đã áp dụng các phương pháp thực hiện

sau:
- Kích thích sự tham gia của người dân bằng những lợi ích thiết thực
- Phát triển cộng đồng xã hội
- Phân cấp phân quyền quản lý và thực hiện dự án
- Tăng cường năng lực của lãnh đạo địa phương
- Phát huy dân chủ, sức sáng tạo của nhân dân
Chính phủ Hàn Quốc đã vực dậy nông thôn bắt đầu bằng việc cải thiện dân sinh
và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thay đổi lớn nhất là việc thay đổi vật liệu làm
nhà từ rơm rạ sang các vật liệu công nghiệp (xi măng, tôn…). Các nguồn năng lượng
phục vụ cho sinh hoạt của cư dân nông thôn được thay thế theo hướng hiện đại, thay
ẢNH 1: Cựu chủ tịch Park Chung-Hee tại một công
trường xây dựng của làng thôn Hàn Quốc
21

bếp và gần 100% dân nông thôn được dùng điện. Các giống lúa mới có năng suất cao
được đưa vào sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Một tác động to lớn nhất của xây dựng NTM là làm tăng thu nhập của người
dân nông thôn. Năm 1970, thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn mới chỉ
đạt 824 USD/người. Nhưng đến năm 1976, đã tăng lên 3000 USD/người. Đó là một sự
chuyển biến rất nhanh chóng và rõ nét nhất.
Đến đầu những năm 1980, bộ mặt của nông thôn Hàn Quốc đã thay đổi toàn
diện. Quá trình hiện đại hoá nông thôn đã được hoàn thành. Chính phủ điều chỉnh
chiến lược phát triển sang một giai đoạn mới.
• Mô hình nông thôn mới ở Nhật Bản (One village, one product - OVOP)
Từ năm 1979, Tiến sĩ Morihiko Hiramatsu đã khởi xướng và phát triển phong
trào "Mỗi làng, một sản phẩm" (One Village, one Product - OVOP) với mục tiêu phát
triển vùng nông thôn của khu vực này một cách tương xứng với sự phát triển chung
của cả Nhật Bản. Phong trào "mỗi làng một sản phẩm" dựa trên 3 nguyên tắc chính là:
- Địa phương hóa rồi hướng tới toàn cầu
- Tự chủ, tự lập, nỗ lực sáng tạo

- Phát triển nguồn nhân lực
Trong đó, nhấn mạnh đến vai trò của chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ
kỹ thuật, quảng bá, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm được xác định là thế mạnh. Mỗi địa
phương, tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mình lựa chọn ra những sản phẩm độc
đáo, mang đậm nét đặc trưng để phát triển. Đến Oita - một tỉnh của Nhật Bản, người ta có
thể kể ra những sản phẩm truyền thống như nấm Shitake, các sản phẩm từ sữa bò, hàng gỗ
mỹ nghệ ở thị trấn Yufuin, cam, cá khô ở làng Yonouzu, chè và măng tre ở làng Natkatsu
luôn được lãnh đạo tỉnh và nhà nước đặc biệt quan tâm trong việc tìm kiếm thị trường.
Sau 20 năm áp dụng OVOP, Nhật Bản đã có 329 sản phẩm đặc sản địa phương
có giá trị thương mại cao như như nấm hương Shitake, rượu Shochu lúa mạch, cam
Kabosu đã giúp nâng cao thu nhập của người dân địa phương.
• Mô hình nông thôn mới ở Thái Lan (One Tambon one Product - OTOP)
Tại Thái Lan, thông qua mô hình OVOP của Nhật Bản, Chính phủ Thái Lan đã
xây dựng dự án cấp quốc gia "mỗi xã, một sản phẩm" (One Tambon one Product -
22

OTOP) nhằm tạo ra sản phẩm mang tính đặc thù của địa phương có chất lượng, độc
đáo, bán được trên toàn cầu. Sản phẩm của OTOP được phân loại theo 4 tiêu chí:
- Có thể xuất khẩu với giá trị thương hiệu
- Sản xuất liên tục và nhất quán
- Tiêu chuẩn hóa
-
Đặc biệt, mỗi sản phẩm đều có một câu chuyện riêng. Các tiêu chí trên đã tạo
thêm lợi thế cho du lịch Thái Lan vì du khách luôn muốn được tận mắt chứng kiến quá
trình sản xuất sản phẩm, từ đó có thể hiểu biết thêm về tập quán, lối sống của người
dân địa phương. Kết quả nông thôn Thái Lan đã có những bước chuyển biến rõ rệt, các
sản phẩm của Thái Lan có được chỗ đứng nhất định trên thị trường thế giới.
• Mô hình NTM ở Trung Quốc:
Ảnh 2: Cơ giới hóa sản xuất NN tại
Thái Lan

Ảnh 3.Thủ công và dịch vụ tại
Thái Lan
ẢNH 4: Trồng rau sạch tại Trung Quốc
23

Theo các nhà nghiên cứu ở Trung Quốc cho biết thì vấn đề cốt lõi của chính
sách “Tam nông” chính là giải quyết chênh lệch thu nhập giữa cư dân thành thị và
nông thôn.
Trung Quốc luôn coi trọng các chính sách dành cho “Tam nông”. Nguồn kinh
phí xây dựng NTM tập trung từ nguồn ngân sách nhà nước và địa phương, một phần là
của dân và huy động các nguồn lực xã hội khác.
Theo GS-TS Lý Ninh Huy, công cuộc cải cách nông thôn của Trung Quốc qua
nhiều dấu mốc. Trong đó, những mốc quan trọng là xóa bỏ công xã nhân dân; xác lập
thể chế kinh doanh hai tầng kết hợp, lấy kinh doanh bao thầu gia đình làm cơ sở; mở
cửa toàn diện thị trường nông sản; xóa bỏ thuế nông nghiệp, và thực hiện trợ cấp trực
tiếp cho nông dân. Trung Quốc thực hiện nội dung hai mở, một điều chỉnh, là mở cửa
giá thu mua, thị trường mua bán lương thực; một điều chỉnh là chuyển từ trợ cấp gián
tiếp qua lưu thông thành trợ cấp trực tiếp cho nông dân trồng lương thực.
Chẳng hạn, thời điểm sản lượng lương thực giảm trong 5 năm liên tiếp, đến
năm 2004, Trung Quốc đã thực hiện trợ cấp trực tiếp giống, mua máy móc, dụng cụ
nông nghiệp, trợ cấp giá bảo đảm để nông dân trồng lương thực có lãi. Hay khi giá vật
tư nông nghiệp, phân hóa học, thuốc trừ sâu…biến động, Chính phủ nước này trợ cấp
trực tiếp cho vật tư sản xuất.
Theo các nhà khoa học Trung Quốc, vấn đề thu hồi đất nông nghiệp của nước
này được quy định rất ngặt nghèo. Nếu chuyển đổi mục đích sử dụng đất, phải đúng
với chiến lược lâu dài của vùng đó và phải nằm trong chỉ giới đỏ, đảm bảo cả nước
luôn duy trì 1,8 tỷ mẫu đất nông nghiệp trở lên.
Hiện ở Trung Quốc, nhiều địa phương thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
công nghiệp, đã phải trả lại cho nông dân sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, nước này
cũng đang nghiên cứu nông dân có thể dùng đất canh tác thế chấp ngân hàng vay vốn.

Đối với những khoản tiền thu được từ phát triển công nghiệp (sau khi lấy đất
nông nghiệp) được chuyển về chính quyền thôn xã. Việc lấy đất nông nghiệp có thể
thực hiện theo hình thức đất đổi đất, do chính quyền địa phương thực hiện trong quy
hoạch, tùy thuộc vào chất lượng, vị trí đất như thế nào.
24

Cùng đó, Trung Quốc cũng tập trung xây dựng cơ chế hướng nghiệp, đào tạo kỹ
năng làm việc, đặc biệt là lao động trẻ.
Ngoài ra, bên cạnh giảm thu phí và thuế với nông dân, Trung Quốc còn có chủ
trương, đảm bảo trong vòng 3 năm xóa bỏ tình trạng các xã, thị trấn không có dịch vụ
tài chính tiền tệ cơ bản. Đồng thời, thúc đẩy việc mua đồ gia dụng, ô tô, xe máy tại các
xã, bằng cách nhà nước trợ cấp 13% trên tổng giá trị hàng hoá khi nông dân mua sản
phẩm (do nhà nước định hướng).
Cũng theo GS-TS Lý Ninh Huy, từ năm 1978, Trung Quốc đã thực hiện nhiều
chính sách cải cách ở nông thôn. Đến năm 2009, thu nhập bình quân của cư dân nông
thôn, lần đầu tiên đạt mức trên 5.000 NDT, tăng 8,5% so với năm trước. Cũng trong
năm 2009, Trung Quốc đầu tư làm mới và sửa chữa khoảng 300.000 km đường bộ
nông thôn; hỗ trợ trên 46 triệu người nghèo đảm bảo đời sống tối thiểu cho người dân.
1.1.2.2. Khái quát về mô hình nông thôn mới ở nước ta
Xuất phát từ những khó khăn thực tế của người dân nông thôn Việt Nam, cùng
với việc học tập, tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ các nước phát triển, nước ta
cũng tiến hành chương trình xây dựng nông thôn mới, phù hợp với những điều kiện cụ
thể của từng địa phương.
Bắt đầu tiến hành xây dựng mô hình nông thôn mới, nhà nước ta đã tiến hành
thí điểm 11 xã trên phạm vi cả nước, 11 xã được chọn thí điểm xây dựng mô hình
nông thôn mới bao gồm: Thanh Chăn (huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên), Tân Thịnh
(Lạng Giang - Bắc Giang), Hải Đường (Hải Hậu - Nam Định), Gia Phổ (Hương Khê -
Hà Tĩnh), Tam Phước (Phú Ninh - Quảng Nam), Tân Hội (Đức Trọng - Lâm Đồng),
Tân Lập (Đồng Phú - Bình Phước), Định Hòa (Gò Quao - Kiên Giang), Mỹ Long Nam
(Cầu Ngang - Trà Vinh), Tân Thông Hội (Củ Chi - TPHCM) và Thụy Hương (Chương

Mỹ - Hà Nội). Từ đó, chúng ta có thể rút ra nhiều kinh nghiệm thiếu xót từ lý thuyết
đến thực tiễn. Tiếp đó, chúng ta thí điểm các xã trên phạm vi tỉnh, vừa thực hiện vừa
điều chỉnh những sai xót, để đạt được mục đích cuối cùng.
Sau 2 năm thực hiện thí điểm mô hình xây dựng nông thôn, 11 xã điểm đã có
những chuyển biến rõ nét, nhất là về thu nhập của người dân. Trong năm 2012, theo
báo cáo tại hội nghị tổng kết ngành Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn 2012 do
25

×