Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.98 KB, 20 trang )

Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI VỀ SỞ HỮU CHÉO NGÂN
HÀNG TẠI VIỆT NAM.
1.1. Lịch sử và phát triển của sở hữu chéo ngân hàng tại Việt Nam.
Vào năm 1990 khi Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính được ban hành, khu vực ngân hàng của Việt Nam chỉ có bốn ngân hàng
thương mại nhà nước (NHTMNN) là Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank),
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV), Ngân hàng Công thương (Vietinbank) và
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank). Nhưng những năm
đầu 90 đã chứng kiến một đợt sóng thành lập ngân hàng thương mại cổ phần
(NHTMCP) đô thị và nông thôn. Nhờ vậy, số lượng ngân hàng đã tăng từ 4 vào
năm 1990 lên 8 vào năm 1991, rồi 45 vào năm 1993 và đạt định cao là 56 vào năm
19971. Trong giai đoạn từ 1997 đến 2005, nhiều NHTM được tái cấu trúc, đóng của
và sáp nhập. Đến năm 2006, khu vực ngân hàng lại chứng kiến một đợt sóng thành
lập mới lần thứ hai với 10 NHTMCP nông thông được chuyển đổi thành NHTMCP
thành thị và 4 NHTMCP được thành lập mới.
Cùng với sự gia tăng số lượng, vốn của các NHTM cũng đã tăng lên mạnh
mẽ, đặc biệt là sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2006/NĐ-CP quy định
mức vốn pháp định tối thiểu của NHTMCP là 1.000 tỷ đồng với thời hạn đến cuối
năm 2008 và 3.000 tỷ đồng đến cuối năm 2010. Tổng vốn điều lệ của các NHTM
Việt Nam đã tăng từ 24.193 tỷ đồng năm 2004 lên 73.029 tỷ đồng năm 2007 và
250.585 tỷ đồng năm 2011. Quá trình tăng vốn nhanh chóng của các NHTMCP
trong thời gian ngắn đã hình thành cấu trúc sở hữu chéo và đa phương giữa ngân
hàng với doanh nghiệp và ngân hàng với ngân hàng. Rất nhiều doanh nghiệp lớn
không nằm trong lĩnh vực tài chính, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế nhà nước và các
tập đoàn cổ phần, hiện đang đầu tư dài hạn như những nhà sáng lập hoặc nhà đầu tư
chiến lược trong các NHTMCP.Các ngân hàng cũng sở hữu cổ phần lẫn nhau.
1
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
Vậy sở hữu chéo đơn giản là việc 2 tổ chức sở hữu cổ phần lẫn nhau, chẳng
hạn như công ty (Cty) A đầu tư vào Cty B, sau đó B lại đầu tư vào A. Ở Hàn Quốc,


sở hữu chéo được coi là đặc trưng nổi bật của các tập đoàn kinh doanh quy mô lớn
(Chaebol). Mối quan hệ sở hữu chéo không chỉ giữa các Cty thành viên trong nội bộ
Chaebol mà còn giữa các Chaebol với nhau.Luật Thương mại của Hàn Quốc quy
định rõ giới hạn cho phép đối với vấn đề này, theo đó, các Cty con không được
phép nắm giữ cổ phiếu của Cty mẹ và Cty mẹ cũng không được phép nắm giữ quá
40% cổ phần của Cty con. Tuy việc nắm giữ cổ phần chéo không được phép nhưng
một Cty vẫn có thể đầu tư vốn vào một Cty khác và sau đó chuyển vốn cổ phần
sang cho bên thứ 3. Hình thức này là hình thức đầu tư nội bộ, được gọi là “mô hình
kim tự tháp”.
1.2. Phân loại sở hữu chéo:
Cũng như ở Hàn Quốc, sở hữu chéo trong hệ thống NHTM Việt Nam đã có
từ khá lâu. Thời gian đầu chủ yếu do các ngân hàng quốc doanh góp vốn với tư cách
cổ đông Nhà nước với mục đích giúp Nhà nước kiểm soát hoạt động của các ngân
hàng cổ phần. Về sau, cùng với sự phát triển, các hình thức sở hữu chéo càng ngày
càng đa dạng và đến nay, sở hữu chéo trong hệ thống NHTM Việt Nam có thể chia
thành 6 nhóm.
- Ba nhóm tích cực:
(1) Sở hữu của các NHTM nhà nước và NHTM nước ngoài tại các Ngân hàng liên
doanh
(2) Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM
(3) Cổ đông tại các NHTM là các Công ty quản lý quỹ
- Ba nhóm đáng lo ngại:
(4) Sở hữu của NHTM nhà nước tại các NHTM cổ phần
(5) Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần
(6) Sở hữu NHTM cổ phần bởi các tập đoàn, tổng Công ty Nhà nước và tư nhân
(Nguồn: Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 của Ủy ban Kinh tế Quốc hội)
2
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG SỞ HỮU CHÉO TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng sở hữu chéo tại Việt Nam

Hệ thống Ngân hàng đã hình thành một mạng lưới sở hữu chéo và cho vay
theo quan hệ rất phức tạp, nhằm mục đích thâu tóm ngân hang.Theo đó, rất nhiều
công ty lớn, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế Nhà nước và các tập đoàn cổ phần, dù
không thuộc lĩnh vực tài chính nhưng hiện đang đầu tư dài hạn với vai trò nhà sáng
lập, nhà đầu tư chiến lược trong các Ngân hàng thương mại. Chưa kể, các Ngân
hàng cũng sở hữu cổ phần lẫn nhau, cổ đông tại các Ngân hàng thương mại là các
công ty quản lý quỹ đầu tư vốn vào những Ngân hàng khác có tiềm năng. Hiện
không ít tập đoàn, tổng công ty Nhà nước và tư nhân cũng đang đầu tư, sở hữu chéo
khi họ có trong tay khá nhiều Ngân hàng.
Sở hữu của các NHTM nhà nước và NHTM nước ngoài tại các NH liên
doanh: Hiện tại có 6 NHLD trong hệ thống các tổ chức tín dụng của Việt Nam.
Thông thường một ngân NHLD được sở hữu bởi một ngân hàng nước ngoài và một
ngân hàng trong nước. Chẳng hạn ngân hàng Việt Thái là NHLD giữa 3 đối tác lớn:
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT), Ngân
hàng Thương mại Siam của Thái Lan và Tập đoàn Charoen Pokphand (CP) của
Thái Lan với tỉ lệ vốn góp tương ứng là 34%, 33% và 33%; ngân hàng Việt Nga là
liên doanh giữa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng
VTB (trước là Ngân hàng Ngoại thương Nga Vneshtorgbank) với mức góp vốn điều
lệ ngang nhau.
Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM, cả nhà nước lẫn cổ phần:
đứng trước nhu cầu thu hút vốn và kỹ năng quản trị từ các định chế tài chính có
kinh nghiệm nước ngoài, NHNN đã có chủ trương khuyến khích các NHTM trong
nước tìm kiếm các đối tác nước ngoài làm cổ đông chiến lược. Đến nay, có khoảng
10 NHTM có đối tác chiến lược là các tập đoàn tài chính nước ngoài.
3
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
Sở hữu của các NHTMN nhà nước: Ngoại trừ Agribank, cả bốn NHTMNN
còn lại đã thực hiện cổ phần hóa với tỷ lệ nắm giữ của Nhà nước lần lượt là 77,1%
ở VCB, 80,3% ở Vietinbank và 95,8% ở BIDV. NH Phát triển Nhà Đồng bằng
Sông Cửu Long (MHB) do chưa hoàn thành các thủ tục đăng ký sau khi phát hành

đại chúng (IPO) nên vẫn chưa thực sự trở thành NHTMCP. Minh họa 3 trình bày
cấu trúc sở hữu của các NHTMN
4
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
(Nguồn: FETP tổng hợp từ báo cáo tài chính của các ngân hàng, thời điểm tháng 6/2011)
/>Là NHTMNN đầu tiên cổ phần hóa, Vietcombank hiện nắm giữ 5,3% cổ
phấn của NHTMCP Sài Gòn Công thương (Saigon Bank), 8,2% cổ phần của
NHTMCP Xuất Nhập Khẩu VN (Eximbank), 11% cổ phần của NHTMCP Quân
Đội (MB) và 5,1% cổ phần của NHTMCP Phương Đông. Trước đó, trong năm
2010, Vietcombank đã bán toàn bộ 50% cổ phần trong NH Liên doanh
ShinhanVina. Mizuho, ngân hàng Nhật Bản, hiện đang nắm giữ 15% cổ phần của
Vietcombank. Vietinbank nắm giữ 11% cổ phần của NH Sài Gòn Công thương và
50% cổ phần tại NH Liên doanh Indovina. Ngược lại, Công ty Tài chính Quốc tế
(IFC), công ty con của Ngân hàng Thế giới, nắm giữ 6,7% cổ phần của Vietinbank.
BIDV có cổ phần tại ba NH liên doanh: 50% cổ phần của VID Public, 50% của Việt
Lào và 51% của Việt Nga.
(Nguồn: Reuters tổng hợp)
Agribank nắm giữ 15% cổ phần của NH Hàng Hải thông qua Công ty Chứng khoán
Agribank. Đồng thời, Agribank còn có 34% cổ phần tại NH Liên Doanh Việt Thái
(Vinasiam). Như vậy, các NHTMNN chỉ sở hữu một số NHTMCP hoặc NH liên
doanh và một số NHTMNN được sở hữu bởi các NH nước ngoài. Hơn thế nữa, việc
Vietcombank sở hữu Eximbank là do vào cuối thập niên 90 và đầu 2000,
5
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
Vietcombank được Chính phủ chỉ định tiếp quản Eximbank khi NHTMCP này gặp
khó khăn tài chính.
Nguồn: Fulbright.
( />ngan-hang-o-viet-nam-2859308.html).
Ngân hàng sở hữu ngân hàng : Trong Minh họa 6, cấu trúc sở hữu của các
NH Eximbank, Á Châu (ACB), Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) và nhiều ngân

hàng có quy mô nhỏ hơn khác được trình bày một cách chi tiết. ACB, Eximbank và
Sacombank là ba NHTMCP hàng đầu, có cổ phiếu đều đã được niêm yết trên sàn
giao dịch chứng khoán và được thị trường xem là các trường hợp có thông tin tài
chính minh bạch hơn hẳn so với các NHTMCP khác. Trong đợt thâu tóm Eximbank
diễn ra vào đầu năm 2012, Eximbank, qua công ty Công ty cổ phần Đầu tư Sài Gòn
Exim, sở hữu 5,2% Sacombank. Tương tự là NH Phương Nam thông qua các công
6
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
ty liên quan là Công ty Chứng khoán Phương Nam và Công ty Vàng bạc Đá quý
Phương Nam để sở hữu Sacombank. Công ty cổ phần Đầu tư Tài chính Sài Gòn Á
Châu, một cổ đông lớn của ACB, cũng đầu tư 5% cổ phiếu của Sacombank.
Ngoài ra, ACB còn sở hữu 20% Eximbank và nhiều NHTMCP khác là Việt Nam
Thương tín (10%), Đại Á (10,8%), Kiên Long (6,1%).
Sở hữu của các NHTM cổ phần: Hiện tượng sở hữu lẫn nhau giữa các
NHTM cổ phần cũng khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Từ những thông tin công
bố của các ngân hàng, hiện có ít nhất sáu NHTM cổ phần có cổ đông là một NHTM
cổ phần khác. Chẳng hạn, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) đang sở hữu Ngân
hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), 6.1 % Kienlongbank ( ACBS
nắm giữ ),10.8 % Đại Á Bank và Vietbank, còn Eximbank hiện sở hữu 10,6% cổ
phần tại Sacombank, 8,5% cổ phần tại Ngân hàng Việt Á. Điều này cho thấy một
7
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
hiện tượng sở hữu chồng chéo lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại, tạo nên
tháp ngân hàng mà nguy cơ của nó có thể dẫn đến sự đổ vỡ của toàn hệ thống nếu
không được quản lý chặt chẽ.
Doanh nghiệp sở hữu các ngân hàng thương mại cổ phần : NH Quân Đội
được sở hữu bởi các cổ đông nhà nước là Tập đoàn Viễn thông Quân Đội (Viettel)
(10%), Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn (5,7%) và Tổng công ty Trực thăng VN
(7,2%). NH Hàng hải thuộc sở hữu của Agribank (15%), Tổng công ty Hàng Hải
(Vinalines) (5,3%) và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông VN (VNPT) (12,5%). Đồng

thời VNPT còn sở hữu 6% của NHTMCP Bưu Điện Liên Việt (LVB) thông qua
Tổng công ty Bưu điện Việt Nam và 6,1% cổ phần của NH Đông Nam Á
(SeABank) thông qua VMS (Mobifone). Tập đoàn Dầu khí (PetroVietnam) nắm giữ
20% cổ phần của NH Đại Dương, 3,2% cổ phần của NH Dầu khí Toàn cầu thông
qua Công ty Cổ phần Đầu tư Tài chính Công đoàn Dầu khí Việt Nam (PVFI) và
1,5% của NH Đông Nam Á thông qua Tổng công ty khí Việt Nam (PV Gas). Tập
đoàn Than Khoáng sản (TKV) và Tập đoàn Cao su đều sở hữu 9,3% NH Sài Gòn
Hà Nội, trong khi Tập đoàn Dệt may sở hữu 13,2% NH Nam Việt. Tập đoàn Điện
lực VN nắm giữ 25,4% cổ phần của NH An Bình. Tổng công ty Xăng dầu VN nắm
40% cổ phần của NH Xăng dầu (PG Bank). Các cơ quan Đảng và chính quyền địa
phương cũng sở hữu NH dù trực tiếp hay gián tiếp.
Có thể thấy, bản thân các tập đoàn DNNN, tư nhân đã bỏ vốn vào NH, nhưng
chính các NH cũng đang đầu tư chéo, sở hữu lẫn nhau. Điều đó làm cho hệ thống
NH VN như một mạng nhện bùng nhùng với những mảng đầu tư chồng chéo, sở
hữu lẫn nhau, khó mà phân định được ai là cổ đông chính, ai là cổ đông phụ
2.2. Tác động của sở hữu chéo đến hoạt động kinh doanh ngân hàng
2.2.1. Tác động tích cực:
Trong các mối quan hệ trên, ba nhóm sở hữu chéo đầu tiên có tính tích cực vì
các mối quan hệ này chủ yếu hướng đến việc tăng cường thúc đẩy hoạt động thương
mại giữa Việt Nam và quốc tế, nâng cao năng lực quản trị và thúc đẩy việc sử dụng
vốn một cách có hiệu quả. Nó góp phần làm tăng hiểu biết giữa ngân hàng với DN,
nâng cao năng lực quản trị, tài chính, công nghệ, nhân sự, mở rộng quy mô, thị
8
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
phần, cải thiện sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, nhất là đối với DN và NH
nhỏ; hình thành nên một cơ cấu sở hữu và quản trị ổn định trong các DN và NH.
Các ngân hàng có thể hỗ trợ nhau về mặt quản trị về mặt công nghệ, nhất là các
ngân hàng lớn, lâu năm có khả năng về vốn, khả năng quản trị tốt có thể thông qua
mua cố phiếu của một ngân hàng nhỏ khác tham gia vào quản trị ngân hàng đó giúp
ngân hàng phát triển tốt hơn. Ngân hàng Tokyo-Mitsubishi UFJ - thuộc tập đoàn tài

chính Mitsubishi UFJ Financial Group Inc (MUFG),đã chi 60 tỷ Yên (tương đương
khoảng 720 triệu USD) để nắm 20% cổ phần của Vietinbank.
Hơn nữa, sở hữu chéo cho phép công ty khai thác được các cơ hội và tiềm
năng kinh doanh có lợi trên thị trường; đa dạng hóa hoạt động và phân tán rủi ro
kinh doanh; đồng thời, cho phép đạt hiệu quả khống chế, chi phối thị trường cao với
một lượng vốn cổ phần nhỏ theo “mô hình kim tự tháp”. Một ví dụ điển hình là
trường hợp của Masan và Techcombank. Xuất phát từ công ty hàng tiêu dùng sản
xuất mì ăn liền, nước chấm, với sự góp sức của các nguồn tài chính nước ngoài,
Masan đã mở rộng đa ngành với 3 lĩnh vực là hàng tiêu dùng, ngân hàng và khoáng
sản thông qua Masan Consumer (tiêu dùng), Ngân hàng Techcombank (tài chính)
và Masan Resources (khai thác khoáng sản). Sự gắn kết bền chặt này đã mang lại
lợi ích cho cả 2 bên. Techcombank là ngân hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh trong
giai đoạn hiện nay. Còn Masan phát triển mạnh mẽ với doanh thu Masan Consumer
năm 2011, trước khi mua Vinacafe, đạt 7.057 tỉ đồng, lợi nhuận 2.254 tỉ đồng.
2.2.2. Tác động tiêu cực
Vấn đề thứ nhất: Tình trạng nợ xấu
Ở tầm vi mô, sở hữu chéo ngân hàng là một trong những nguyên nhân quan
trọng nhất gây ra tình trạng nợ xấu hiện nay.
9
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
Xét về cơ cấu:
Qua biểu đồ trên cho thấy, thực trạng nợ xấu đang là vấn đề đáng lo ngại đối
với nền kinh tế của Việt Nam. Nhóm NHTMNN bao gồm 4 ngân hàng lớn nhưng
lại chiếm gần 1 nửa phần nợ xấu. Trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái, bong bóng
bất động sản bùng nổ thì tình trạng sở hữu chồng chéo trong hệ thống ngân hàng
Việt Nam là một trong những nguyên nhân chính làm cho nợ xấu ngày càng gia
tăng. Thị trường liên NH vốn là nơi vay mượn lẫn nhau giữa các NH, thường là NH
lớn cho NH nhỏ vay, nhất là các NH nhỏ thuộc sở hữu của chính những NH lớn
này. Sau đó, các NH nhỏ hơn sử dụng nguồn tài trợ thường xuyên từ thị trường liên
NH để cho những công ty ủy thác đầu tư vay (như các công ty đầu tư tài chính,

công ty quản lý quỹ, công ty chứng khoán ). Những công ty ủy thác đầu tư thì lại
chủ yếu thuộc sở hữu của các NH. Theo vòng luẩn quẩn này, dòng tiền cứ chảy lòng
vòng giữa các NH, công ty với nhau rồi tuồn vào bất động sản, chứng khoán… Đến
khi thị trường bất động sản đóng băng, chứng khoán sụt giảm mạnh và kéo dài cũng
là lúc các công ty ủy thác đầu tư thua lỗ, tạo ra những khoản nợ xấu cho chính các
10
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
NH. Nợ xấu hiện nay chiếm khoảng 10% trong toàn hệ thống, tương đương với
258.000 tỉ đồng (khoảng 12 tỉ USD); đây là một tỷ lệ rất cao và rủi ro.
Sở hữu chéo cũng cho phép ngân hàng A giấu nợ xấu của mình bằng cách
không khai báo nợ xấu mà nhờ ngân hàng B (mà ngân hàng A có sở hữu) cho vay,
qua đó giảm được mức nợ xấu phải khai báo và không phải trích dự phòng rủi ro
tương ứng. Thêm vào đó, các quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro
có thể bị làm sai lệch: Khi khách hàng không trả được nợ, thay vì xếp khoản vay
thành nợ xấu và trích dự phòng rủi ro theo quy định, ngân hàng A có thể cho vay
đảo nợ… Sở hữu chéo cũng cho phép ngân hàng A giấu nợ xấu của mình bằng cách
không khai báo nợ xấu mà nhờ ngân hàng B (ngân hàng A có sở hữu) cho vay, qua
đó giảm được mức nợ xấu phải khai báo và không phải trích dự phòng rủi ro tương
ứng. Đó cũng là một trong những lý do khiến NHNN khó nắm được chính xác số nợ
xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Theo số liệu của NHNN, đến ngày 20/8/2012,
tiền gửi vào ngân hàng tăng khá mạnh, tới 10,26%, nhưng dư nợ chỉ tăng 1,4%, vậy
tiền còn lại chạy vào đâu? Không ngân hàng nào dại ôm tiền vào cho vào tủ, rồi
cuối tháng lôi tiền đó ra trả lãi. Nhiều khả năng tiền đã chảy những doanh nghiệp
sân sau, thông qua công ty con để vay hàng nghìn tỷ đồng. Hoặc tiền chỉ chảy loanh
quanh trong thị trường 2 để các ngân hàng đảm bảo thanh khoản của nhau. Như vậy
là các NH vẫn tiếp tục huy động, nhưng để nuôi nợ xấu chứ không thể cấp vốn cho
sản xuất.
Như vậy, sở hữu chéo làm cho “bong bóng” nợ xấu ngày một phình to hơn
và nguy hiểm hơn là nó che giấu những con số thực về nợ xấu của các ngân hàng
thương mại, hệ lụy của nó là có thể làm đổ vỡ cả một hệ thống ngân hàng nếu như

tình trạng này không được giải quyết kịp thời.
Vấn đề thứ hai :vốn ảo
Sở hữu chéo không chỉ khiến vốn trong các ngân hàng (NH) – cũng là tiền
gửi bị “ tuồn” ra “sân sau” của các cổ đông lớn.Nghiêm trọng hơn, nó tạo ra một
dòng vốn ảo trong hệ thống NH.
11
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
Từ “ ma trận” vốn ảo của các NHTM, gây ra sự mù mờ vè sở hữu thực, làm
sai lệch việc đánh giá rủi ro của hệ thống ngân hàng, vì có rất nhiều chỉ số dựa trên
số vốn sở hữu mà ngân hàng đang nắm, trong khi vốn đó là vốn ảo. Các chỉ số
không chính xác sẽ dẫn đến những sai lệch, cả về quản trị ngân hàng lẫn giám sát hệ
thống tài chính.
Sở hữu chéo và lợi ích nhóm làm ra đời các thế lực độc quyền. Cộng đồng
doanh nghiệp thì từ lâu đã hiểu rõ lợi ích của sở hữu chéo giữa tài chính- ngân hàng
và sản xuất-thương mại. Nhóm doanh nghiệp nhận được dòng vốn lớn với chi phí
thấp sẽ có năng lực cạnh tranh vượt trội mà không cần tới bất kỳ cải thiện nào trong
quản lý, hay tiến bộ trong công nghệ sản xuất. Cùng lúc đó, phần còn lại của nền
kinh tế phải gánh chịu chi phí vốn cao và bị bào mòn năng lực cạnh tranh. Tựu
chung lại, sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế suy giảm. Để bù đắp năng lực kinh
doanh yếu, nhóm doanh nghiệp thân hữu ngày càng đòi hỏi lượng vốn đầu vào lớn
hơn. Điều này khiến nguồn vốn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất-
kinh doanh với phần còn lại của xã hội trở nên khan hiếm và đẩy chi phí vốn lên cao
hơn. Trong vòng xoáy này, đại bộ phận doanh nghiệp đi tới chỗ không thể đạt được
hiệu suất lợi nhuận đủ trang trải chi phí đầu vào (trong đó, chi phí vốn có tỷ trọng
đáng kể nhất). Hệ quả là tình trạng co hẹp sản xuất, thua lỗ và phá sản tràn lan. Lúc
này xuất hiện cơ hội để các doanh nghiệp dồi dào tài chính triển khai mạnh mẽ các
hoạt động thâu tóm. Các thế lực độc quyền ra đời. Như vậy, sở hữu chéo gây ra sự
bất bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hình thành nên các thế lực
độc quyền đồng thời làm phá sản các doanh nghiệp nhỏ, gây ra những bất ổn trong
nền kinh tế hiện nay và khiến cho những đồng vốn trong nền kinh tế không được sử

dụng một cách hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực của đất nước.
Vấn đề thứ ba: thâu tóm ngân hàng: Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) Nguyễn Văn Bình, qua kết quả NHNN thanh tra 27 tổ chức tín dụng trong
năm 2012, nhiều tổ chức tín dụng bị chi phối bởi một nhóm cổ đông, thông qua sự
chi phối ở các khoản vay, ở nhiều ngân hàng có 70 - 90% dư nợ là để phục vụ cho
nhóm cổ đông đó. Các cá nhân, nhóm cổ đông thâu tóm ngân hàng không phải bằng
tiền thật của mình mà dùng các khoản đi vay để thâu tóm ngân hàng khác sẽ gây
nên những hệ quả vô cùng lớn như méo mó trong nên kinh tế, gây nên những tiêu
12
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
cực dư luận trong xã hội. Sở hữu chéo còn khiến dòng vốn huy động đi lòng vòng
giữa các ngân hàng, mà không tới nơi cần thiết phục vụ mục tiêu của Chính phủ và
yêu cầu phát triển bền vững và là một trong những công cụ để một số cá nhân tổ
chức thu lợi riêng cho mình. Ví dụ những gói cứu trợ mà nhà nước tung ra để hỗ trợ
các doanh nghiệp, nhưng có bao nhiêu phần trong số đó đến tay các doanh nghiệp
có khả năng nhưng lại thiếu vốn. Đó là nạn tham nhũng mà sở hữu chéo đang góp
phần che đậy thực tế đó.
Một rủi ro khá lớn khác là khi các ngân hàng hình thành một “mạng nhện”
thì sẽ nảy sinh sự độc quyền nhóm và thâu tóm hệ thống ngân hàng. Liên minh ngân
hàng này có thể đủ sức mạnh để chi phối lãi suất, tỷ giá và kể cả chính sách. Điều
này có thể gây xáo trộn trên thị trường và thiệt hại cho nền kinh tế, đồng thời gây
rủi ro cho thị trường tài chính, điều đó có tác động đến sự bất ổn kinh tế vĩ mô.
2.3. Nguyên nhân của sở hữu chéo tại Việt nam
Sở hữu chéo có nguyên nhân khách quan và cả chủ quan, do yêu cầu có thực
của đời sống kinh tế - xã hội và còn do cả những kẽ hở của luật định.
Nguyên nhân thứ nhất: Sự quản lý lỏng lẻo của cơ quan giám sát và những lỗ
hổng trong luật quản lý ban hành.
Chính sách quản lý và hệ thống thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng
chưa có hiệu quả và hiệu lực cao trong bối cảnh các TCTD phát triển nhanh về số
lượng và quy mô, đồng thời hội nhập quốc tế sâu rộng. Nhiều quy định, chuẩn mực

về an toàn hoạt động ngân hàng đã được đổi mới theo hướng tiếp cận các chuẩn
mực quốc tế, tuy nhiên vẫn còn rất chậm so với các hệ thống ngân hàng trong khu
vực và tụt hậu so với sự tiến bộ của các chuẩn mực quốc tế. Các tiêu chuẩn cấp
phép, các chuẩn mực an toàn chưa chặt chẽ, chưa kiềm chế mức độ rủi ro gia tăng
trong hoạt động ngân hàng và chưa được bảo đảm tuân thủ nghiêm đã thúc đẩy quy
mô hệ thống các TCTD tăng nhanh cùng với sự tích lũy ngày càng lớn rủi ro.
Riêng phần giám sát và hành pháp thì còn rất sơ sài và vì vậy đã có những lỗ
hổng lớn. Sở dĩ Luật các tổ chức tín dụng và thông tư quy định giảm tỷ lệ sở hữu cá
nhân và tổ chức xuống là nhằm làm cho ngân hàng có tính đại chúng hơn. Ngoài ra,
13
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
các nhà quản lý lo ngại sự mất an toàn của hệ thống do tình trạng sở hữu chéo hoặc
khi một cá nhân hoặc tổ chức sở hữu tỷ lệ lớn có thể lũng đoạn ngân hàng. Tuy
nhiên, luật vẫn còn những lỗ hổng chưa chắt chẽ, vì những người muốn sở hữu tỷ lệ
lớn hơn quy định không khó. Người chủ sở hữu thực sự có thể không cần đứng tên
mà vẫn chi phối ngân hàng thông qua một người thứ ba.
Bên cạnh những lỗ hổng về luật quản lý là sự mập mờ về thông tin sở hữu
trên sổ sách của ngân hàng, việc tìm thông tin về các tổ chức tín dụng mua cổ phần
của các tổ chức tín dụng khác là điều hết sức khó. Rất ít ngân hàng công khai tỷ lệ
đầu tư vào các tổ chức tín dụng khác. Những trường hợp công bố chính thức như
Vietcombank, Vietinbank không nhiều. Không những vậy, những con số cũng có
thể chưa phản ánh hết thực tế việc sở hữu giữa các ngân hàng.
Nguyên nhân thứ hai : đó là do nạn tham nhũng móc ngoặc, nạn tư bản thân
tộc bao che cho nhau.
Các nhà quản lý nắm trong tay quyền lực kinh tế chính trị phân vùng kinh
doanh với nhau và chi phối các tập đoàn kinh tế nhà nước. Các tập đoàn đó có thể
lập ra ngân hàng thương mại cổ phần với danh hiệu là tư nhân mà về thực chất thì
do một tay chân thân tín của lãnh tụ đứng làm chủ. Các cá nhân làm chủ ngân hàng
này mới lại lập thêm các công ty đầu tư hay cơ sở tài chính để đứng tên vay tiền của
ngân hàng mẹ. Bước kế tiếp, công ty đầu tư hay cơ sở tài chính mới đi tìm các dự án

tài trợ thật ra có sẵn trên giấy. Đây là loại dự án ảo về chế biến, thương mại hay bất
động sản với trị giá được ước tính rất cao để vay tiền thật nhiều mà giá trị kinh tế
hay kinh doanh thì rất đáng ngờ. Để rồi, cuối cùng những khoản tiền đầu tư ấy lại
quay trở lại túi của những cá nhân nắm quyền lực kinh tế chính trị này.
Nguyên nhân thứ ba: Ngân hàng trong những năm qua là ngành có tốc độ
phát triển nhanh đã thu hút các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước đầu tư vốn
kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng. Đặc biệt, nhiều tập đoàn kinh tế và tổng
công ty nhà nước đầu tư, nắm giữ cổ phiếu và là cổ đông lớn hoặc chủ sở hữu
của ngân hàng và TCTD phi ngân hàng
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ VÀ GIẢI PHÁP
14
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
3.1. Bài học từ sở hữu chéo ở Nhật Bản.
Cho tới năm 1997, Chính phủ Nhật bản đưa ra một chương trình cải tổ sâu
rộng (Big Bang), đặc biệt việc cải tổ hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và các
chuẩn mực kế toán, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Điểm
nhấn của chương trình này là cải tổ thể chế và hệ thống pháp lý.
Thứ nhất, thay đổi của hệ thống pháp lý
Đối với hệ thống pháp lý, các quy định đã được điều chỉnh theo hướng xa
dần với năm cấu thành truyền thống của nền kinh tế Nhật bản trong suốt năm mươi
(50) năm sau chiến tranh.: (i) một hệ thống tài chính, bao gồm cả thị trường vốn ,
dựa trên nền tảng là hệ thống ngân hàng; (ii) một cấu trúc doanh nghiệp dựa trên
nền tảng các quan hệ sở hữu chéo, tuy nhiên chủ yếu tập trung xung quanh hệ thống
ngân hàng - keiretsu; (iii) thủ tục hành chính; (iv) mô hình điều hành quản lý doanh
nghiệp, bao gồm chủ yếu là các thành viên là người có liên quan; (v) vai trò giám
sát độc lập của bên thứ ba, đối với hoạt động quản trị điều hành doanh nghiệp, chưa
được chú trọng.
Hệ thống pháp lý đối với hoạt động doanh nghiệp được sửa đổi, bổ sung
nhiều nội dung và được coi là cuộc cải tổ sâu rộng nhất kể từ sau thế chiến thứ II.
Một mục tiêu rõ rang của hệ thống pháp lý mới là giảm dần mức độ sở hữu chéo.

Điều đó được thực hiện như sau:
 Năm 2002, Nhật bản ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp mới, theo
đó yêu cầu các cổ phiếu sở hữu chéo (bao gồm cả các hạng mục đầu tư vào công ty
con, công ty lien doanh, lien kết) phải được định giá theo phương pháp giá trị hợp
lý, thay vì hạch toán theo giá gốc;
 Năm 2002, Uỷ ban Giám sát Tài chính Nhật bản (FSA) cũng ban hành
quy định về an toàn vốn , trong đó buộc các ngân hàng phải bán bớt lượng cổ phiếu
đang sở hữu, bao gồm cả các cổ phiếu do người có liên quan phát hành (cổ phiếu sở
hữu chéo), bảo đảm tổng giá trị cổ phiếu có trong danh mục đầu tư không vượt quá
15
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
vốn tự có cấp 1 (tier – 1) của ngân hàng. Việc bán bớt phần vượt trội này được thực
hiện trong vòng bốn (04) năm, cho tới tháng 9/2006.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế và các giải pháp khác
Việc hoàn thiện thể chế, hỗ trợ cho khung pháp lý mới nhằm mục tiêu giảm
dần tỷ lệ sở hữu chéo cũng được Nhật bản tính đến. Các thể chế này được thiết lập
nhằm giảm tác động tiêu cực khi các doanh nghiệp thoái vốn từ các công ty con,
công ty lien doanh, lien kết, cụ thể là hấp thụ được lượng cổ phiếu mà các doanh
nghiệp thoái ra mà không làm sụt giảm TTCK. Đã có một số giải pháp được áp
dụng trong thời kỳ đó, cụ thể:
 Khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện việc mua cổ phiếu quỹ
(mua lại cổ phiếu do mình phát hành và đang được các tổ chức là người có lien
quan nắm giữ);
 Cho phép thành lập các quỹ phúc lợi và hưu trí tự nguyện dành cho
người lao động và tạo cơ chế (tại các quy định về kế toán) cho phép các doanh
nghiệp (người sử dụng lao động) chuyển các cổ phiếu sở hữu chéo vào các quỹ này;
 Khuyến khích thành lập các quỹ hoán đổi danh mục (ETF): Nhật bản
cho phép hình thành các quỹ ETF và các quỹ đầu tư bất động sản từ năm 2002, thực
chất là việc chứng khoán hóa các tài sản (nợ xấu, sở hữu chéo) trong hệ thống ngân
hàng và các doanh nghiệp nói chung. Những nỗ lực của Chính phủ Nhật bản đã đạt

được những thành tựu quan trọng, giá trị tài sản của các quỹ ETF tăng mạnh qua
các năm, góp phần xử lý một khối lượng lớn tài sản đọng trong hệ thống ngân hàng.
 Thành lập Công ty mua các tài sản tài chính của ngân hàng (''Banks'
Shareholdings Purchase Corporation (BSPC): Ngày 30/1/2002,tổ chức nêu trên
được thành lập với mục tiêu duy nhất: Mua lại các cổ phiếu thuộc sở hữu của ngân
hàng nhằm đáp ứng các quy định về an toàn vốn mới theo giá thị trường. Các doanh
nghiệp khác, nếu có và muốn bán cổ phiếu ngân hàng cho BSPC thì cũng được thực
hiện, tuy nhiên với điều kiện, nếu như các ngân hàng đã đăng ký bán cổ phiếu ngân
hàng cho BSPC, thì BSPC chỉ mua lại từ các doanh nghiệp khác tối đa là bằng với
16
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
lượng cổ phiếu ngân hàng đã thu mua từ các ngân hàng (trước đó thì lượng mua tối
đa từ các doanh nghiệp khác là không vượt quá 50%).
 Ngân hàng Trung ương (BOJ) Nhật bản cũng thực hiện chương trình
mua cổ phiếu do các ngân hàng phát hành kể từ tháng 11/2002.
3.2. Một số đề xuất nhằm hạn chế tác động tiêu cực của sở hữu chéo:
Thứ nhất, bổ sung thuật ngữ sở hữu chéo vào trong Thông tư 13/2010/TT-
NHNN đồngthời hình sự hóa các vấn đề liên quan đến sở hữu chéo để ngăn ngừa tối
đa hành vi này (Bổ sung vào Luật Hình sự). Các cơ quan quản lý cần thường xuyên
giám sát, yêu cầu các TCTDtuân thủ nghiêm Điều 55 của Luật các TCTD năm 2010
về quy định giới hạn sở hữu cổ phầncủa cổ đông cá nhân, cổ đông pháp nhân và
những người có liên quan, bao gồm cả phần cổphần ủy thác cho cá nhân, tổ chức
khác đứng tên. Nếu vi phạm, các cá nhân và người đứngđầu tổ chức phải chấp nhận
bị xử lý theo luật hình sự.
Thứ hai, các quy định về kế toán, hệ thống các quy định an toàn cần được
liên tụcnâng cao tính minh bạch, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế. Chẳng hạn
để loại trừ tínhnhiễu của sở hữu chéo trong vốn tự có như đã đề cập ở trên, khoản
đầu tư của TCTD nàyvào TCTD khác phải được xác định rõ và loại trừ khỏi vốn
cấp 1 của tổ chức được góp vốn khi tính hệ số an toàn vốn (CAR) của tổ chức này,
tránh tình trạng vốn chảy lòng vòng trong hệthống dẫn tới việc tăng vốn không thực

chất.Đặc biệt, các quy định về phòng chống rửa tiền cũng phải được thực thi một
cách nghiêm túc.Ví dụ, các cổ đông đi vay tiền hoặc các nguồn tiền để góp vốn
thành lập ngân hàng không minh bạch thì phải được phát hiện và xử lý nghiêm
minh.
Thứ ba, cần nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp trong nội bộ ngân hàng,
yêu cầu ban kiểm soát (BKS) phải thực sự độc lập với HĐQT và có quyền phủ
quyết các quyếtđịnh có ảnh hưởng tiêu cực hoặc rủi ro cao đối với quyền lợi của các
nhà đầu tư nhỏ lẻ; phảican thiệp, ngăn chặn, phát hiện, báo cáo với cơ quan quản lý
nhà nước trong trường hợpHĐQT có những quyết định trái pháp luật. Bên cạnh đó,
vai trò của thành viên độc lập trongHĐQT phải thực sự độc lập, có tiếng nói, ngăn
17
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
chặn, thể hiện quan điểm của mình trongtrường hợp những quyết định của HĐQT
gây bất lợi cho các cổ đông nhỏ lẻ hoặc phục vụcho lợi ích nhóm.
Thứ tư, quy định cấm hiện tượng tình trạng đầu tư “lòng vòng” giữa các ngân
hàngvới nhau (theo kiểu ngân hàng A đầu tư vào ngân hàng B, ngân hàng B đầu tư
vào ngân hàng C và ngân hàng C lại quay lại đầu tư vào ngân hàng A). Nếu hiện
tượng này bị phát hiện, cầncó các chế tài theo hướng xử lý hình sự. Trong đó để xử
lý các mối quan hệ sở hữu chéo hiệntại, phần sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng
có thể được nhượng lại cho các trung gian độc lập,trong đó ưu tiên đầu tư của các
định chế tài chính, ngân hàng nước ngoài.
Thứ năm, hoàn thiện luật thuế thu nhập cá nhân, đặc biệt trong vấn đề kê
khai thuế và tăng mạnh cũng như hình sự hóa chế tài phạt các vi phạm trốn thuế thu
nhập cá nhân.Thực hiện được điều này sẽ giảm thiểu vấn đề các cá nhân sử dụng
tên của người khác hoặc tổ chức khác để từ đó sở hữu và chi phối nhiều ngân hàng.
Vì xét cho cùng, các cá nhân đầu tưsẽ phải tìm mọi cách đưa lợi ích về cho mình và
với một mức thuế cao đánh chính xác vàonhững thu nhập”thực” của họ, các cá nhân
trên sẽ tự điều chỉnh hành vi phù hợp với lợi íchcủa chính mình, từ đó tạo lợi ích
cho toàn thị trường
Đề xuất lập công ty xử lý sở hữu chéo ngân hàng: Trên thế giới, Nhật Bản

đã áp dụng thành công mô hình công ty chuyên mua cổ phần ngân hàng có tên tiếng
Anh là “Bank’s shareholding purchase”. Dự kiến, công ty xử lý sở hữu chéo ngân
hàngđược lập dưới dạng trách nhiệm hữu hạn Nhà nước hai thành viên, có vốn điều
lệ khoảng 1.000 tỷ đồng, do Nhà nước sở hữu 50% vốn, phần còn lại đến từ vốn
góp của các ngân hàng thương mại quốc doanh được chỉ định. Theo kinh nghiệm
của Nhật Bản, nước đã xử lý sở hữu chéo thành công với mô hình trên, ngân hàng
trung ương cần đóng vai trò chính và nhân sự cần tới từ lĩnh vực ngân hàng, có kinh
nghiệm đầu tư chứng khoán. "Do cơ quan thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đang
giám sát tỷ lệ sở hữu cổ phần tại các tổ chức tín dụng nên việc giao cơ quan này
trực tiếp quản lý sẽ tăng hiệu quả cho việc mua bán cổ phần".
18
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
Nói tóm lại, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nói chung và công tác xử lý các
ảnhhưởng tiêu cực của hiện tượng sở hữu chéo nói riêng là chặng đường gian nan
với nhiều khókhăn, thách thức đòi hỏi nỗ lực của tất cả các bên liên quan. Khi thực
hiện các giải pháptrong quá trình này, các cơ quan quản lý cần chú ý đến các yếu tố
có thể có ảnh hưởng đếnhiệu quả của quá trình, bao gồm: (1) Chi phí và nguồn lực
cho việc xử lý sở hữu chéo; (2)Trách nhiệm và sự phối hợp của các cơ quan liên
quan; (3) Phản ứng của các nhóm lợi ích.Kinh nghiệm quốc tế của nhiều quốc gia
đã cho thấy sự thành công của quá trình minh bạchhóa cấu trúc sở hữu hệ thống
ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS. NGUYỄN VĂN TIẾN,GIÁO TRÌNH NGUYÊN LÝ NGHIỆP VỤ
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI- 2013-NXB THỐNG KÊ.
2. TÔ NGỌC HƯNG ,GIÁO TRÌNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI-2009-NXB
THỐNG KÊ.
3. VŨ DŨNG-CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT.(
/>cheo-van-phuc-tap/ ).
4. KÊNH TRUYỀN HÌNH VITV,CHƯƠNG TRÌNH TẠP CHÍ NGÂN HÀNG-
THỰC TRẠNG SỞ HỮU CHÉO TRONG CÁC NGÂN HÀNG

( />5. ỦY BAN KINH TẾ QUỐC HỘI,BÁO CÁO TC VĨ MÔ 2012,CHƯƠNG 3,TRANG
157( />ItemID=23)
6. TỪ THỰC TRẠNG SỞ HỮU CHÉO Ở CHAEBOL ĐẾN THỰC TẾ Ở CÁC
NHTM VIỆT NAM ( />huu-cheo-tai-chaebol-den-thuc-te-nhtm-viet-nam.html).
19
Thực trạng và một số giải pháp cho vấn đề sở hữu chéo tại Việt Nam
7. THANH LAN LAN-ĐỀ XUẤT THÀNH LẬP CÔNG TY XỬ LÝ VẤN ĐỀ SỞ
HỮU CHÉO Ở VIỆT NAM ( />ly-so-huu-cheo-ngan-hang-757-319460.htm).
8. THỰC TRẠNG SỞ HỮU CHÉO TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT
NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KHUYẾN
NGHỊ( />thong-ngan-hang-viet-nam-hien-nay-va-mot-so-khuyen-nghi.1100/)
9. NGUYỄN HIỀN,ĐANG TỒN TẠI 6 CẶP NGÂN HÀNG SỞ HỮU CHÉO
( />802207.htm )
10. LÊ ĐĂNG DOANH,GỠ MỠ BONG BÓNG SỞ HỮU CHÉO
( />cheo ).
11. THANH THANH LAN-MÊ CUNG SỞ HỮU CHÉO Ở VIỆT NAM
( />ngan-hang-o-viet-nam-2859308.html ).
12. TS. NGUYỄN ĐỨC TRUNG & THS. PHẠM MẠNH HÙNG – HỌC VIỆN
NGÂN HÀNG, THỰC TRẠNG SỞ HỮU CHÉO TRONG HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
( />thong-ngn-hng-viet-nam-hien-nay-v-mot-so-khuyen-nghi/ ).
13. THANH PHONG,SỞ HỮU CHÉO NGÂN HÀNG VÀ DOANH
NGHIỆP( />hang-va-dn-moi-tinh-do-dang.aspx )
20

×