Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
Lời mở đầu
1- Tính cấp thiết của đề tài:
Cơ sở hạ tầng gắn liền với mọi hoạt động kinh tế xã hội, là nhân tố thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Cho nên, để
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của bất kỳ một vùng lãnh thổ nào thì điều
kiện đầu tiên và trước hết phải bắt đầu từ phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng.
Hiện nay, phát triển kinh tế - xã hội của các vùng dân tộc miền núi của
6 tỉnh miền núi phía bắc nói chung, các vùng dân tộc miền núi của tỉnh Sơn
La nói riêng đang là vấn đề cấp bách đặt ra. Là một tỉnh vùng cao biên giới,
với một địa bàn nông thôn rộng lớn, nghèo nàn lạc hậu, kinh tế phát triển
chậm, đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của đồng bào còn hết sức khó
khăn, nhất là các xã vùng III. Điều đáng chú ý là một trong những điều kiện
để phát triển kinh tế xã hội là hệ thống cơ sở hạ tầng, cả phục vụ sản xuất và
dân sinh ở đây đều vô cùng yếu kém. Đây có thể coi là một nguyên nhân cơ
bản gây cản trở rất nhiều đến phát triển kinh tế xã hội ở vùng nông thôn miền
núi nghèo nàn này.
Thời gian qua, với chủ trương phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc
miền núi theo các cụm xã và trung tâm cụm xã, điều kiện cho phát triển hệ
thống cơ sở hạ tầng có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận. Song mặt khác tình trạng
đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng còn rất nhiều yếu kém: mức đầu
tư thấp, cơ cấu đầu tư không hợp lý lại yếu kém về trình độ quản lý và khai
thác. Nên vấn đề đặt ra cho tỉnh trong thời gian tới là cần phải nhanh chóng
khắc phục những yếu kém còn tồn tại trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để
khai thông các điều kiện cho thúc đầy phát triển kinh tế xã hội ở địa bàn này.
Trước thực tế đó, em quyết định chọn đề tài: “Thực trạng và một vài giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm
xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La”.
2 - Đối tượng và giới hạn nghiên cứu của đề tài:
11
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu về tình hình đầu tư cho phát triển
hệ thống cơ sở hạ tầng ở các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La.
3 - Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Mục đích chủ yếu được xác định là: Thông qua nghiên cứu đề tài góp
phần đánh giá tình hình và tìm ra những phương hướng và giải pháp chủ yếu
để đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng ở địa bàn cụm xã trọng điểm của tỉnh
Sơn La có hiệu quả hơn. Với mục đích trên, đề tài cần phải giải quyết những
nhiệm vụ sau:
- Khái quát những nhận thức về cơ sở hạ tầng và vai trò của nó với phát
triển kinh tế xã hội ở địa bàn nông thôn miền núi.
- Làm rõ thực trạng về đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng ở địa bàn
cụm xã trọng điểm nói riêng, tỉnh Sơn La nói chung.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn những cụm xã trọng điểm
này.
4. Kết cấu của đề tài:
Với mục đích và nhiệm vụ đặt ra, ngoài lời mở đầu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại
các cụm xã trọng điểm ở khu vực miền núi vùng cao.
Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã
trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La giai đoạn 1996-2001
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư
vào phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn
la.
22
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
Chương I
Một số vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã
trọng điểm ở khu vực miền núi vùng cao
I- Lý luận chung về đầu tư :
1. Khái niệm và bản chất của đầu tư phát triển :
Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động
nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn
lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền , tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí
tuệ...
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm tài sản tài chính ( tiền), tài sản
vật chất (nhà máy,...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn) và nguồn
nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền kinh tế xã hội.
Trong những kết quả này, những tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí
tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm đó có vai trò đặc biệt quan trọng nó đem lại
lợi ích không chỉ cho cá nhân người đầu tư mà cho cả nền kinh tế.
Trong nền kinh tế hoạt động đầu tư gồm 3 loại:
- Đầu tư tài chính: đây là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho
vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi xuất định trước hoặc lãi xuất
tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành.
Đặc điểm của đầu tư tài chính là không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế
mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức cá nhân đầu tư. Vốn bỏ ra
đầu tư được lưu chuyển dễ dàng khi cần có thể rút ra nhanh chóng điều này
khuyến khích người có tiền bỏ ra đầu tư. Người đầu tư có thể đầu tư vào
nhiều nơi và mỗi nơi có thể một ít tiền để phân tán rủi ro.
33
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
- Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua
hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá
khi mua và khi bán.
Đặc điểm của loại đầu tư này làm tăng giá trị tài sản tài chính của người
đầu tư trong quá trình mua đi bán lại. ở đây chỉ có sự chuyển giao quyền sở
hữu hàng hóa giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách
hàng của họ mà không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Thời gian thực hiện
đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn. Tính
chất bất định trong đầu tư không cao đễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính
xác cao.
- Đầu tư phát triển : là quá trình chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn hiện
vật, là quá trình chi dùng vốn nhằm tạo ra những yếu tố cơ bản của sản xuất
kinh doanh, dịch vụ đời sống, tạo ra những tài sản mới và năng lực sản xuất
mới cũng như việc duy trì những tiềm lực sẵn có của nền kinh tế.
Xem xét lại 3 loại đầu tư trên thì chỉ có đầu tư phát triển là quan trọng
nhất vì nó tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế và có thể duy trì tiềm lực hoạt
động của những tài sản sẵn có của nền kinh tế. Do đó để phát triển và tăng
trưởng kinh tế thì chỉ có hoạt động đầu tư phát triển còn 2 loại hoạt động đầu
tư trên thì có tác dụng hỗ trợ cho đầu tư phát triển: hoạt động đầu tư thương
mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát
triển tạo ra, còn hoạt động đầu tư tài chính là nguồn cung cấp vốn quan trọng
cho đầu tư phát triển.
Như vậy, ta có thể định nghĩa về đầu tư phát triển như sau:
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn
lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng sửa chữa nhà cửa và
cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi
dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với
sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ
sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và
nâng cao đời sống của mọi thành viên.
44
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
Tóm lại, muốn một đất nước, một vùng, một địa phương tăng trưởng và
phát triển thì cần phải quan tâm đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển. Trong
phạm vi đề tài này do vấn đề quan tâm là đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội
các vùng cụm xã thuộc miền núi vùng cao. Cho nên ta chỉ xem xét đến phạm
trù đầu tư phát triển.
2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển:
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm cơ bản sau:
- Trong đầu tư phát triển thì tiền vốn, vật tư lao động cần thiết cho các
công trình đầu tư thường rất lớn và nằm khê đọng trong suốt quá trình thực
hiện đầu tư.
- Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả
của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến
động xảy ra .
- Thời gian cần hoạt động có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật
chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và
do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu
tố không ổn định về về tự nhiên, xã hội chính trị kinh tế...
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài
nhiều năm, có khi hàng trăm năm, có khi tồn tại vĩnh viễn . Điều này nói lên
giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển.
- Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình sẽ hoạt động
ngay tại nơi nó được tạo dựng nên . Do đó các điều kiện địa hình tại đó có
ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của
các kết quả đầu tư.
- Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh
hưởng nhiều của yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của
không gian.
Với những đặc điểm cơ bản như vậy đặt ra cho quá trình quản lý hoạt
động đầu tư phát triển phải chú ý quản lý về vốn, vật tư, lao động và thời gian
55
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
như thế nào và cần phải làm gì để khắc phục một số rủi ro trong quá trình tiến
hành hoạt động đầu tư.
3. Vai trò của hoạt động đầu tư với phát triển kinh tế - xã hội:
Từ việc tìm hiểu bản chất của đầu tư phát triển ta thấy đầu tư phát triển là
nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá cho sự tăng trưởng. Vai
trò của nó tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế xã hội nhưng trong khuôn
khổ của đề tài này xin được đề cập đến vai trò của đầu tư phát triển đối với sự
phát triển kinh tế của đất nước nói chung, của địa phương và vùng lãnh thổ
nói riêng.
Trước hết, đầu tư là yếu tố quyết định sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bởi
vì bản chất của đầu tư phát triển là tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế cho nên
khi nó tham gia vào quá trình sản xuất thì tạo ra các sản phẩm. Nên đứng
trên toàn bộ nền kinh tế thì đầu tư phát triển tác động trực tiếp và gián tiếp
đến sản lượng của nền kinh tế. Mà sản lượng của nền kinh tế lại chính là
thước đo của sự tăng trưởng. Do đó có thể nói: đầu tư phát triển là “cái hích
ban đầu” tạo đà cho sự tăng trưởng và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Thứ hai, đầu tư có vai trò thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế (gồm cơ
cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu kinh tế trung ương và địa phương, cơ cấu
thành phần kinh tế... ). Trong vấn đề này, cơ cấu đầu tư làm ảnh hưởng đến
cơ cấu kinh tế, nếu biết cách điều hoà các hoạt động đầu tư thì đây sẽ là một
công cụ hữu hiệu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật
phát triển và chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
+ Trong cơ cấu ngành đầu tư ảnh hưởng đến số lượng ngành và tỷ trọng
phát triển của ngành, góp phần phát huy nội lực của mỗi ngành, nên trên con
đường tất yếu để có tốc độ tăng trưởng nhanh là bằng cách tăng cường đầu tư
tạo sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Thứ ba, đầu tư góp phần tạo ra sự cân đối trên phạm vi toàn nền kinh tế
giữa các ngành, các vùng lãnh thổ. Điều này thể hiện rõ nhất trong việc tạo
lập sự phát triển cân đối giữa các vùng nông thôn và thành thị, những vùng
kém phát triển và phát triển. Đầu tư vào những vùng kém phát triển sẽ giúp
66
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
cho các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, giúp phát huy tối
đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, vị thế kinh tế , chính trị... giúp vùng
có khả năng phát triển. Tăng cường đầu tư cho những vùng khó khăn, những
vùng nông thôn kém phát triển sẽ giúp đẩy nhanh quá trình đô thị hoá nông
thôn, thu hút lao động tạo việc làm và nâng cao dần thu nhập cho nhân dân,
giảm dần khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị, thúc đẩy kinh tế
xã hội ở những vùng nghèo, ít lợi thế phát triển nhất.
Ngoài ra, đầu tư phát triển còn góp phần ổn định kinh tế - văn hoá - xã hội
cho nhân dân, đảm bảo cho kinh tế phát triển bền vững.
Vậy đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định tốc độ
phát triển kinh tế của đất nước, của vùng, của địa phương. Đầu tư phát triển
đúng hướng và có hiệu quả sẽ tạo ra năng lực mới làm chuyển dịch cơ cấu
các thành phần kinh tế, các vùng, các lãnh thổ theo hướng CNH-HĐH đất
nước.
4. Vốn và nguồn vốn đầu tư:
Đầu tư phát triển có vai trò vô cùng quan trọng nhưng để tiến hành các
hoạt động đầu tư thì cần thiết phải có vốn đầu tư. Theo nguồn hình thành và
mục tiêu sử dụng thì: Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản
xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ nước ngoài
cũng như từ các nguồn khác được đưa vào sử dụngtrong quá trình tái sản xuất
mở rộng của xã hội, nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền
sản xuất xã hội.
Nội dung của vốn đầu tư bao gồm:
- Chi phí để tạo ra các tài sản cố định mới hoặc bảo dưỡng sự hoạt động
của các tài sản cố định có sẵn.
- Chí phí để tạo ra hoặc tăng thêm các tài sản lưu động
-
Nguồn vốn đầu tư bao gồm vốn huy động từ trong nước và vốn huy
động từ nước ngoài. Hai nguồn này có vai trò quan trọng đối với thúc đẩy
phát triển kinh tế của một đất nước, vốn trong nước là chủ yếu, vốn nước
77
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
ngoài là quan trọng. Với một nước đang phát triển như nước ta thì giải quyết
tốt mối quan hệ giữa hai nguồn vốn này là cần thiết. Nguồn vốn trong nước
bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách liên tục, bền vững
và không phụ thuộc. Nguồn vốn nước ngoài là nguồn vốn quan trọng bù đắp
và bổ sung cùng vốn trong nước để tạo bước đà phát triển mạnh..
* Nguồn vốn trong nước bao gồm:
+ Vốn ngân sách Nhà nước : hiện nay gồm có hai loại chính là vốn đầu
tư trực tiếp từ ngân sách và vốn đầu tư qua tín dụng đầu tư của Nhà nước .
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ ngân sách Nhà nước chủ yếu được sử dụng
cho xây dựng các công trình văn hoá xã hội, các công trình công cộng không
có khả năng hay chậm thu hồi vốn, được dùng để đầu tư cho những vùng lãnh
thổ nghèo nàn khó khăn như vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới. Nguồn
này đặc biệt có vai trò quan trọng trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cả hạ
tầng kinh tế và hạ tầng xã hội. Còn vốn đầu tư của Nhà nước qua tín dụng
được thực hiện cho các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng thu hồi
vốn.
+ Vốn của các doanh nghiệp: vốn này được trích từ lợi nhuận để lại, vốn
khấu hao, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay, vốn liên doanh liên kết với
các tổ chức trong và ngoài nước,... Vốn này phục vụu cho sản xuất kinh
doanh của chính doanh nghiệp đó.
+ Vốn huy động của dân cư: vốn này có thể là tiền gửi tiết kiệm qua
ngân hàng hay tiền, sức người, nguyên vật liệu... được nhân dân đóng góp khi
tham gia các dự án có lợi ích thiết thực cho nhân dân. Những khoản đóng góp
này có vai trò khá quan trọng và cần thiết đối với các dự án xây dựng công
trình phúc lợi công cộng, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng nhất là ở địa bàn
nông thôn, vốn này đặc biệt tỏ ra có hiệu quả khi mà người dân nhận thức
được lợi ích kinh tế của họ gắn với các loại dự án đó.
* Vốn huy động từ nước ngoài: gồm vốn đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp.
+ Vốn đầu tư gián tiếp: đây là nguồn vốn đầu tư dưới dạng viện trợ
( hoàn lại và không hoàn lại) hoặc cho vay ( cho vay ưu đãi và cho vay thông
88
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
thường) của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ.
Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc
giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của các nước nhận
đầu tư. Tiếp nhận đầu tư gián tiếp thường gắn với sự trả giá về mặt chímh trị
và tình trạng nợ nần chồng chất nếu không thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả
nợ.Tuy nhiên, trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các
vùng nông thôn thì vốn này nhất là vốn ODA (viện trợ phát triển không chính
thức của các nước công nghiệp phát triển) lại có vai trò khá quan trọng thông
qua việc hỗ trợ đầu tư qua các dự án phát triển nông - lâm - ngư nghiệp và
kinh tế nông thôn, các chương trình hỗ trợ cho các lĩnh vực xã hội. Đặc biệt
là các khoản hỗ trợ hoàn lại trong ODA được sử dụng chủ yếu cho các
chương trình và dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như: giao thông
vận tải, thuỷ lợi, ytế, giáo dục đào tạo, cấp thoát nước...
+ Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài: là vốn của các doanh nghiệp và cá
nhân người nước ngoài đầu tư sang và họ trực tiếp tham gia quản lý quá trình
sử dụng và thu hồi vốn. Với vốn đầu tư loại này nước nhận đầu tư có thể tiếp
thu được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh
của nước ngoài, giúp khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giúp sử
dụng vốn có hiệu quả và nâng cao tốc độ phát triển kinh tế. Nhưng vốn đầu tư
này thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội
của đất nước lại tập trung mạnh ở các vùng đô thị, các vùng phát triển năng
động còn các vùng nông thôn, vùng cao miền núi thì không đáng kể.
5. Dự án và chu kỳ dự án:
Qua nghiên cứu khái niệm và đặc điểm của hoạt động đầu tư có thể
khẳng định lại rằng hoạt động đầu tư phát triển là việc bỏ một lượng vốn rất
lớn vào thực hiện một hoạt động nào đó trong một thời gian tương đối dài để
kỳ vọng có được lợi ích lớn hơn, trong quá trình thực hiện nó chịu sự tác
động của nhiều yếu tố từ môi trường bên ngoài. Mà hoạt động đầu tư lại là
hoạt động cho tương lai, do đó bản thân hoạt động đầu tư này chứa đựng rất
nhiều yếu tố bất định, đó là những yếu tố làm cho hoạt động đầu tư thất bại,
99
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
làm xuất hiện rủi ro và không chắc chắn. Vì vậy, để tiến hành một công cuộc
đầu tư phải có sự chuẩn bị đầy đủ trên nhiều khía cạnh khác nhau, phải phân
tích một cách đầy đủ các thông tin về hoạt động sẽ được đầu tư, cả những
thông tin về quá khứ, hiện tại cũng như dự kiến tương lai. Quá trình chuẩn bị
này chính là việc soạn thảo dự án đầu tư , sự thành công hay thất bại của mỗi
công cuộc đầu tư sẽ được quyết định từ việc phân tích này chính xác hay
không. Cho nên, để đảm bảo sự thành công cao nhất thì mọi công cuộc đầu tư
đều phải được thực hiện theo dự án.
Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau:
Xét về mặt hìmh thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày
một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo kế hoạch để
đạt được những kết quả và thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương
lai.
Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng
vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế - xã hội trong
một thời gian dài.
Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là công cụ thể hiện kế hoạch
chi tiết của một công cuộc sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội,
làm căn cứ cho việc ra các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án là một hoạt
động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói
chung.
Về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động cụ thể có
liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được những mục tiêu đã
định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông
qua việc sử dụng các nguồn lực xác định.
Dự án đầu tư là một công cụ để tiến hành các hoạt động đầu tư, do đó nó
phải chứa đựng bên trong nó các yếu tố cơ bản của hoạt động đầu tư. Nó phải
phản ánh các nhân tố cấu thành nên hoạt động đầu tư như: mục tiêu đầu tư là
gì, nguồn lực và cách thức để đạt được mục tiêu đó, các kết quả cụ thể phải
đạt được là gì. Để thực hiện tốt các công cuộc đầu tư thì khi lập dự án phải trả
lời tốt các câu hỏi này.
1010
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
Chu kỳ dự án đầu tư: là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án
phải trải qua bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án hoàn thành
chấm dứt hoạt động.
Quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư thường trải qua 3
giai đoạn: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư.
Nội dung các bước công việc ở mỗi giai đoạn của các dự án đầu tư không
giống nhau tuỳ thuộc vào lĩnh vực đầu tư, vào tính chất tái sản xuất, đầu tư
dài hạn hay ngắn hạn... Nhưng một dự án đầu tư đầy đủ phải có các bước như
theo bảng 1.
Các bước công việc, các nội dung nghiên cứu ở các giai đoạn được tiến
hành tuần tự nhưng không biệt lập mà đan xen gôí đầu cho nhau, bổ sung cho
nhau nhằm nâng cao dần mức độ chính xác của các kết quả nghiện cứu và tạo
điều kiện tiến hành nghiên cứu ở các bước sau.
Bảng 1: Các bước công việc của một dự án đầu tư
Chuẩn bị đầu tư
Thực hiện đầu tư
Vận hành kết
quả đầu tư
Nghiên
cứu
phát
hiện
các cơ
hội đầu
tư
Ngh
iên
cứu
tiền
khả
thi
sơ
bộ
lựa
chọ
n
dự
án
Ngh
iên
cứu
khả
thi
(lập
dự
án,
LC
KT
KT)
Đán
h
giá
và
quy
ết
định
(thẩ
m
định
dự
án)
Hoà
n
tất
các
thủ
tục
để
triể
n
khai
thực
hiện
Thiết
kế và
lập
dự
toán
thi
công
xây
lắp
công
trình
Thi
côn
g
xây
lắp
côn
g
trìn
h
Chạ
y
thử
và
nghi
ệm
thu
sử
dụn
g
Sử
dụn
g
chư
a
hết
côn
g
suất
Sử
dụn
g
côn
g
suất
ở
mức
cao
nhất
Côn
g
suất
giả
m
dần
và
than
h
lý
1111
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
đầu
tư
Trong 3 giai đoạn trên, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết
định sự thành công hay thất bại ở 2 giai đoạn sau, đặc biệt là đối với giai
đoạn vận hành các kết quả đầu tư. Cho nên công tác lập dự án là vô cùng
quan trọng và phải thực hiện nghiêm túc. Trong giai đoạn 2, thì vấn đề thời
gian là quan trọng nhất, tình trạng ứ đọng và tổn thất vốn có nguy cơ diễn ra
mạnh trong giai đoạn này nên vấn đề quản lý quá trình thực hiện đầu tư này
có vai trò đặc biệt quan trọng, làm tốt giai đoạn này là điều kiện cần thiết để
giai đoạn 3 hoạt động phát huy hiệu quả.
Để quá trình soạn thảo các dự án đầu tư được tiến hành nghiêm túc và
có chất lượng, quá trình thực hiện dự án thuận lợi và có hiệu quả kinh tế xã
hội cao. Đòi hỏi phải làm tốt công tác tổ chức, phân công, giám sát các bộ
phận có liên quan trong quá trình thực hiện dự án, tức là phải làm tốt công tác
quản lý dự án ở tất cả các mặt chất lượng, tiến độ, chi phí trong mỗi giai đoạn
dự án.
II- Cơ sơ hạ tầng và vấn đề phát triển kinh tế - xã hội miền núi vùng cao:
1. Vài nét về việc xây dựng các trung tâm cụm xã :
1.1. Khái niệm và sự cần thiết phải hình thành các trung tâm cụm xã:
1.1.1. Khái niệm:
Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, việc đẩy mạnh
phát triển kinh tế xã hội ở các tỉnh miền núi vùng cao là một yêu cầu cấp
bách. Nhưng miền núi nhất là những vùng cao vùng sâu vùng xa thì điều kiện
phát triển lại vô cùng khó khăn. Do đó, tìm một hướng đi đúng đắn cho phát
triển kinh tế miền núi không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội mà còn có
ý nghĩa về chính trị quốc phòng an ninh.
1212
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
* Miền núi: Đại bộ phận đất đai là núi cao dốc, có nơi rất dốcvà cao
nguyên, địa hình đa dạng phức tạpcó nhiều sông suối tạo thành độ chia cắt
lớn, là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Tiêu thức xác định:
- Hai phần ba( 2/3 ) diện tích đất đai có độ dốc 25
0
trở lên (là rừng và đất)
- Kinh tế xã hội chậm phát triển so với đồng bằng
- Đất đai sản xuất vừa có ruộngnước vừa sản xuất trên đất dốc
- Đời sống có nhiều khó khăn , giao thông đi lại không thuận lợi như
đồng bằng
- Cư dân là dân tộc thiểu số và dân tộc đa số sống xen ghép hoặc chỉ các
dân tộc thiểu số sống xen ghép hay sống riêng từng dân tộc trên địa bàn
miền núi.
* Vùng cao
:
Đất đai đại bộ phận thuộc độ cao trên dưới 600m trở lên so
với mặt biển, cư dân sống trên đó chủ yếu là dân tộc thiểu số.
Tiêu thức xác định:
- Hai phần ba( 2/3 ) diện tích đất đai thuộc độ cao trên dưới 600m trở lên
so với mặt biển
- Kinh tế xã hội chậm phát triển so với vùng thấp.
- Sản xuất chủ yếu trên đất dốc, có nơi còn du canh du cư, phá rừng làm
nương rẫy.
- Đời sống có nhiều khó khăn , đường giao thông chưa phát triển, đi lại
có nhiều khó khăn so với vùng thấp, khí hậu khắc nghiệt, còn nhiều bệnh
tật.
- Cư dân chủ yếu là dân tộc thiểu số.
Do yêu cầu khách quan về phát triển kinh tế xã hội tiểu vùng, khu vực và
giao lưu văn hoá xã hội mà ở những khu vực miền núi, vùng cao này đã dần
hình thành các tụ điểm thu hút dân cư. Sự xuất hiện các tụ điểm thu hút dân
cư này đã vạch ra cho quá trình thúc đẩy kinh tế - chính trị -xã hội một hướng
đi để phát triển bền vững và hiệu quả, đó là phát triển theo các cụm xã (gồm
nhiều xã tập trung thành một cụm xã ). Nhưng do hình thành một cách tự
nhiên nên các cụm xã này không hoàn chỉnh về mặt xây dựng kết cấu hạ
1313
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
tầng, các xã phát triển phân tán vụn vặt, kinh tế của vùng cụm xã chỉ có thể
phát triển một cách manh mún nhỏ bé và lạc hậu. Nếu muốn thúc đẩy kinh tế
ở đây thì cần phải có kế hoạch quy hoạch lại, nhất là việc xây dựng hệ thống
cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh. Mà để các cụm xã này phát triển toàn diện thì cần
phải có một khu động lực để thúc đẩy, tức là cần phải có một điểm kinh tế
đóng vai trò là hạt nhân cho phát triển kinh tế vùng cụm - Khu động lực cần
thiết này chính là khu trung tâm cụm xã. Đây sẽ là điểm khởi động kinh tế
chính yếu của vùng cụm và có ảnh hưởng lan rộng đến các xã trong cụm
cùng phát triển.
Quyết định số 35/ TTg ngày 13 tháng 1 năm 1997của Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt về việc xây dựng các trung tâm cụm xã miền núi, vùng cao.
Với mục tiêu:
- Huy động mọi nguồn lực tại chỗ, phối hợp lồng ghép các chương trình
trên địa bàn để xây dựng cơ sơ hạ tầng chủ yếu ở mỗi trung tâm cụm xã,
nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền
núi, góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng.
- Thúc đẩy các hoạt động văn hoá xã hội trong tiểu vùng, tạo sự giao lưu
giữa các bản làng và giữa các cụm xã với các đô thị để phát huy sức mạnh
cộng đồng, quản lý mọi hoạt động kinh tế xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc
dân tộc, góp phần xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc và miền núi.
( Trích : mục I - Quyết định 35/ TTg - ngày 13 tháng 1 năm 1997 )
Theo quyết định số 197/1999/QĐ- TTg ngày 13 táng 9 năm 1999 về quản
lý chương trình xây dựng trung tâm cụm xã miền núi vùng cao thì:
“ Trung tâm cụm xã miền núi vùng cao là điểm giao lưu kinh tế, sinh
hoạt văn hoá của đồng bào các dân tộc trong vùng, là tiền đề phát triển
thành các thị trấn, thị tứ khu vực miền núi,vùng đồng bào dân tộc.”
Như vậy, chủ trương của Đảng và Nhà nước là trong một cụm xã dân cư
sinh sống thì tiến hành xây dựng một khu trung tâm, khu này là hạt nhân phát
triển chính của vùng cụm. Sự ra đời của các trung tâm cụm xã sẽ tạo điều
kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở miền núi ; thu hút và phát triển các
1414
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
thành phần kinh tế nhằm đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tiểu
vùng. Trung tâm cụm xã tạo tiền đề cho các đô thị (thị tứ) ra đời và phát triển
thực hiện đường lối xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc miền núi theo
hướng CNH-HĐH, từng bứơc giảm dần sự chênh lệch quá lớn giữa thành thị
và nông thôn.
1.1.2. Những căn cứ pháp lý để xây dựng các trung tâm cụm xã miền núi:
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình xây dựng trung tâm cụm
xã miền núi vùng cao tại quyết định số 35/TTg ngày13/01/1997. Mục tiêu
của chương trình là xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu ở trung tâm cụm xã để
tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi nhằm góp
phần đảm bảo an ninh quốc phòng, thúc đẩy các hoạt động văn hoá , xã hội
trong tiểu vùng .
Để hỗ trợ cho chương trình, ngày 23 tháng 7 năm 1998 Thủ tướng chính
phủ ra Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg quy định về việc phê duyệt chương
trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghẻo trong giai đoạn 1998-2000.
Ngày 31 tháng 7 năm 1998 ra Quyết định số 135/ 1998/QĐ- TTg về việc phê
duyệt chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền
núi, vùng sâu, vùng xa.
Ngày 30/09/1999 Thủ tướng Chính phủ có quyết định số 197/1999/QĐ-
TTg về quản lý đầu tư và xây dựng trung tâm cụm xã theo cơ chế quản lý của
chương trình 135 (Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó
khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa). Đây thực chất là chương trình xây dựng
trung tâm cụm xã được vận hành theo cơ chế quản lý của dự án xây dựng cơ
sở hạ tầng. Theo quyết định 197/1999/QĐ-TTg trong điều 2 đã quy định:
“Trước mắt ưu tiên xây dựng một số công trình như đường giao thông,
trường học, phòng khám đa khoa, trạm khuyến nông, khuyến lâm, chợ, tạo
điều kiện mặt bằng và tổ chức cho các thành phần dân cư đầu tư vốn xây
dựng nhà ở, phát triển sản xuất, các ngành nghề dịch vụ .”
Từ năm 2001, các chương trình phát triển kinh tế xã hội ở các xã vùng dân
tộc miền núi được thực hiện theo Quyết định số 138/ 2000/ QĐ- TTg ngày 29
1515
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng chính phủ về việc hợp nhất dự án định
canh định cư, dự án hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn, chương trình xây dựng
các trung tâm cụm xã miền núi. vùng cao vào chương trình phát triển kinh tế
xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa.
Như vậy, trong giai đoạn này chủ trương xây dựng và phát triển các trung
tâm cụm xã miền núi đã được tập trung đẩy mạnh, được hướng dẫn và quản
lý chặt chẽ.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của các trung tâm cụm xã:
* Trung tâm cụm xã làm chức năng của một tụ điểm kinh tế, kỹ thuật, dịch
vụ thương mại, văn hoá, y tế, giáo dục của tiểu vùng, là nơi dung nạp và thu
hút các thành phần kinh tế trong và ngoài tiểu vùng đến với trung tâm.
* Trung tâm cụm xã làm tiền đề cho việc đô thị hoá nông thôn, đưa khoa
học, kỹ thuật và văn hoá đến với nông thôn, từng bước hình thành thị tứ, thị
trấn ở các vùng nông thôn.
* Trung tâm cụm xã không phải là đơn vị hành chính cấp trên của xã
nhưng được vận hành dưới sự chỉ đạo của huyện, của các ngành về các
chương trình kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng .
* Trung tâm cụm xã là nơi tổ chức hướng dẫn, tập huấn chuyển giao công
nghệ khoa học kỹ thuật, khuyến nông-lâm-ngư, cung ứng vật tư nông nghiệp,
tổ chức phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, chỉ
đạo nông dân phát triển sản xuất, bảo vệ rừng và môi trường...
* Trung tâm cụm xã gắn liền với văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội, nâng cao
dân trí cho dân cư trong vùng, xây dựng các điểm dịch vụ y tế, khám chữa
bệnh, trung tâm kế hoach hoá gia đình, văn hoá, thể thao, đào tạo giáo dục,
phát thanh truyền hình, tổ chức lễ hội văn hoá vui chơi...
1.3. Cơ sở để hình thành các trung tâm cụm xã ở miền núi vùng cao :
Với chức năng và nhiệm vụ như đã đề cập để đảm bảo cho các trung tâm
cụm xã có thể phát huy tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, khi xây dựng
các trung tâm cụm xã phải lưu ý:
1616
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
+ Tuỳ thuộc vào đặc điểm tự nhiên, dân sinh kinh tế , tập quán sản xuất,
tâm lý xã hội ( chủ yếu là các dân tộc có mối quan hệ xã hội gần nhau) gần
giống nhau gồm một số xã tiếp giáp nhau để hình thành cụm xã( từ 3-5 xã)
tuỳ theo diện tích tự nhiên, số dân, đường xá thuận lợi cho giao lưu kinh tế,
văn hoá, xã hội.
+ Trung tâm cụm xã được lựa chọn là một địa điểm thuận lợi nhất như đầu
nút các điểm giao thông( ngã ba, ngã tư...) gần dân cư của một xã, khoảng
cách từ trung tâm cụm xã này đến các xã trong tiểu vùng không quá xa, đảm
bảo đi lại thuận lợi nhất.
+ Căn cứ vào các điều kiện cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông thuận lợi
không bị khống chế bởi phạm vi hành chính trong huyện hay ngoài huyện,
miễn là thuận lợi, là điểm phát triển nhất so với các vùng khác trong phạm vị
cụm xã.
Xây dựng trung tâm cụm xã đặc biệt chú ý đến các mối quan hệ giữa trung
tâm cụm xã với các xã trong cụm, đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội trên
toàn địa bàn. Trung tâm cụm xã là hạt nhân, là động lực thúc đẩy kinh tế -
văn hoá đời sống của bản làng ở trong cụm phát triển, còn các bản làng trong
cụm xã phát triển thúc đẩy mọi hoạt động của trung tâm diễn ra sôi nổi, nhộn
nhịp phong phú, sầm uất và hấp dẫn làm cho trung tâm nhanh chóng trở
thành thị tứ, thị trấn giữ được vai trò trung tâm kinh tế- văn hoá- xã hội của
tiểu vùng.
1.4. Vai trò của việc xây dựng các trung tâm cụm xã :
Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta là một
đòi hỏi cấp bách song là một sự nghiệp hết sức khó khăn. Bởi lẽ, bên cạnh
những đô thị sầm uất, phát triển nhanh mạnh nổi bật thì những vùng nông
thôn của nước ta, nhất là nông thôn miền núi còn quá nghèo nàn và lạc hậu.
Việc phát triển toàn diện nông thôn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển
kinh tế của cả nước. Kinh nghiệm thế giới cho thấy nếu không chú ý phát
triển nông thôn thì không một nước nào có thể phát triển bền vững với tốc độ
cao một cách lâu dài đựoc. Việc tập trung xây dựng phát triển các trung tâm
1717
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
cụm xã ở miền núi chính là một giải pháp cơ bản để phát triển toàn diện
nông thôn miền núi nhằm thực hiện thành công sự nghiệp CNH- HĐH đất
nước .
Vậy tại sao có thể khẳng định như vậy? Đó là do trung tâm cụm xã có vai
trò vô cùng quan trọng trong việc đẩy mạnh CNH- HĐH nông thôn nhất là ở
địa bàn miền núi , tạo điều kiện cho sự nghiệp CNH-HĐH đi đến thành công.
Cụ thể:
Tạo điều kiện cho người dân tham gia vào đời sống kinh tế xã hội, tăng
cường năng lực vươn lên thoát đói nghèo.
Hãy thử tưởng tượng xem, các hộ gia đình ở các xã miền núi, vùng sâu,
vùng xa ( chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số ) trình độ dân trí thấp,
điều kiện kinh tế khó khăn, sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi vớí
phương thức canh tác truyền thống lạc hậu, cái họ làm ra không đủ đáp ứng
bữa ăn hàng ngày. Tuy có trao đổi hàng hoá nhưng rất ít, rất hãn hữu, sự mua
bán chỉ nhằm cải thiện những nhu cầu cần thiết trong sinh hoạt đời sống chứ
không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Ví dụ: họ có thể bán con gà, đấu
thóc ..., để mua lít dầu, mảnh vải, cân muối...Việc mua bán diễn ra đơn thuần
ngay tại chợ làng. ốm đau bệnh tật thì cầu cứu thần linh không thì đành bất
lực, tiến bộ hơn họ đi chữa bệnh thì trạm xá ở xa, không có hoặc có nhưng
thiếu thốn phương tiện. Con cái họ sinh ra lại xa vào cái vòng luẩn quẩn của
đói nghèo, dốt nát không có điều kiện về kinh tế và tài chính để đến trường
hoặc có điều kiện nhưng lại ở xa trường lớp.
Họ muốn một cuộc sống khá hơn? trung tâm cụm xã với đầy đủ cơ sở hạ
tầng ( ít nhất là thiết yếu ) là điều kiện để họ tham gia vào đời sống kinh tế -
xã hội , con cái họ được đi học và mở mang kiến thức, có các cơ sở khuyến
nông - khuyến lâm giúp họ cải tạo điều kiện sản xuất, phương thức canh tác,
tăng gia phát triển sản xuất vươn lên thoát đói nghèo.
1818
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
Tạo ra cụm kinh tế - xã hội - văn hoá để đồng bào các dân tộc thuộc tiểu
vùng giao lưu trao đổi hàng hoá, từng bước xoá dần sự cách biệt giữa nông
thôn và thành thị.
Tác dụng tích cực này được phản ánh rõ nét qua sự hình thành các trung
tâm cụm xã. Tức là, vì mục đích trao đổi hàng hoá mà trung tâm cụm xã ra
đời với: điện , đường, trường, trạm ,.. được xây dựng tại các trung tâm cụm
xã và nhờ thế kinh tế hàng hoá có điều kiện phát triển hơn , người dân ở đây
có nhiều cơ hội để mở mang giao tiếp, trao đổi với thành thị và các vùng kinh
tế khác không chỉ về kinh tế , kinh nghiệm, công nghệ mới cho sản xuất mà
cả về văn hoá lối sống. Bởi vậy người dân dễ dàng hơn khi dứt bỏ cuộc sống,
phong tục lạc hậu để tiếp cận hoà nhập với cuộc sống văn minh hiện đại, họ ý
thức được vấn đề đẩy mạnh sản xuất, làm kinh tế buôn bán và trao đổi hàng
hoá, kinh tế hàng hoá phát triển sẽ đưa kinh tế tiểu vùng phát triển và đời
sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện, tiểu vùng có cơ hội khắc
phục phần nào tình trạng tụt hậu ngày càng xa so với các vùng đô thị khác.
Là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ở vùng dân tộc.
Như đã đề cập trung tâm cụm xã suy cho cùng là một hình thức đô thị
được xây dựng ở khu vực miền núi vùng cao, nên khi được xây dựng và phát
triển nó trở thành một trọng điểm kinh tế có tác dụng tạo động lực lan toả cho
phát triển kinh tế các xã lân cận. Trung tâm cụm xã chính là phương tiện để
thực hiện đô thị hoá các vùng nông thôn miền núi, nhằm thúc đẩy kinh tế ở
đây phát triển .
Mà phát triển kinh tế có nghĩa là phải làm thay đổi được cơ cấu kinh tế.
Cụ thể ở đây là thay đổi cơ cấu ngành sản xuất, cơ cấu vùng lãnh thổ ở những
nông thôn nghèo nàn. Xây dựng một trung tâm cụm xã là xây dựng một đô
thị mới có điều kiện đầy đủ nhất để phát triển sản xuất, xây dựng đời sống
dân cư. Cho nên có thể nói trung tâm cụm xã làm thay đổi cơ cấu ngành từ
sản xuất nông nghiệp thuần tuý nghèo nàn chuyển dần sang cân đối phát
triển thêm ngành công nghiệp và dịch vụ, bước đầu là công nghiệp dịch vụ ở
1919
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
nông thôn, đưa dần các ứng dụng của công nghiệp vào phát triển nông
nghiệp. Cung ứng thêm các hoạt động dịch vụ phục vụ cho nhân dân, nhằm
nâng cao dân trí để họ tiếp cận dần với lối sống công nghiệp.
Như vậy, dù với hình thức một đô thị sơ khai nhưng đó là cần thiết để bắt
đầu một bước phát triển tiến bộ về kinh tế - văn hoá - xã hội ở những vùng
nông thôn này.
Xây dựng các trung tâm cụm xã còn phát huy được tiềm lực kinh tế tại
chỗ, thu hút mọi tiềm lực sẵn có để mở mang phát triển các ngành nghề
kinh tế . Tận dụng mọi nguồn lực sẵn có tại cụm xã, trung tậm cụm xã được
xây dựng sẽ tạo điều kiện để các ngành nghề phát triển nhất là các ngành
nghề truyền thống như : thêu thùa , dệt vải ...hay tận dụng được nguồn lao
động. Thực hiện ổn định phát triển sản xuất, hạn chế tình trạng du canh du cư
, phá rừng làm rẫy, huỷ hoại môi truờng sinh thái và tài nguyên. Thuận lợi
cho việc phổ biến các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và phát triển
kinh tế (như kinh tế trang trai, kinh tế vườn rừng) kinh tế hàng hoá có điều
kiện phát triển, góp phần tích cực vào quá trình xây dựng nông thôn mới ở
vùng miền núi dân tộc.
Đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc .
- Phát triển trung tâm cụm xã góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng các
vùng biên giới của đất nước.
Đa số địa bàn trung tâm cụm xã là vùng miền núi biên giới nhiều dân tộc,
có vị trí sung yếu về an ninh quốc phòng nên đây là vùng mà kẻ thù thường
hay lợi dụng để chống phá nhất. Do đó xây dựng thành các trung tâm cụm xã
giúp đảm bảo đời sống vật chất văn hoá tinh thần cho đồng bào, giúp động
bào ổn định sản xuất, nâng cao trình độ nhận thứcvà sự hiểu biết và tin vào
Đảng vào chế độ, nhất là chú ý xây dựng trung tâm cụm xã ở các vùng tiếp
giáp biên giới vững mạnh toàn diện, là cị trí kinh tế, chính trị làm cơ sở nền
tảng cho bảo đảm an ninh, toàn vẹn lãnh thổ khu vực giáp danh biên giới.
2020
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
- Phát triển trung tâm cụm xã góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc.
Xây dựng trung tâm cụm xã sẽ làm cho đời sống vật chất, văn hoá, tinh
thần của nhân dân vùng cụm xã có điều kiện tăng lên. Khi đời sống văn hoá
tinh thần được cải thiện, mặt bằng dân trí và nguồn nhân lực được nâng lên
một bước thì bản sắc văn hoá của các dân tộc sẽ có điều kiện được phát huy,
điều kiện sống của mỗi dân tộc được cải thiện, bình đẳng giữa các dân tộc
được thực hiện toàn diện hơn cả về chính trị kinh tế văn hoá; vị trí của từng
dân tộc trong cộng đồng sẽ ngày được phát huy.
Ngoài ra, xây dựng trung tâm cụm xã còn tạo điều kiện thuận lợi cho
việc chỉ đạo, quản lý của tỉnh huyện và trung ương với các vùng cụm xã sát
sao kịp thời. Thuận lợi cho việc đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng thiết
yếu về kinh tế, xã hội do tập trung được nguồn vốn. Đưa nhanh tiến bộ khoa
học kỹ thuật, các hoạt động thông tin về kinh tế - văn hoá - xã hội và chính trị
đến gần nơi các dân tộc đang cư trú. Tạo điều kiện thực hiện đường lối CNH-
HĐH của Đảng, nhằm củng cố và nâng cao lòng tin của đồng bào các dân tộc
với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước . Tăng cường đoàn kết các
dân tộc anh em.
2. Cơ sở hạ tầng với phát triển kinh tế xã hội :
2.1.Khái niệm về cơ sở hạ tầng:
Nền tảng kinh tế, bao gồm toàn bộ quan hệ sản xuất của xã hội phù hợp
với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, trong quan hệ
với kiến trúc thượng tầng chính trị, tư tưởng ,...xây dựng trên những nền tảng
đó. Đây được gọi là hệ thống cơ sở hạ tầng. Vậy:
Cơ sở hạ tầng là một hệ thống các công trình vật chất, kỹ thuật được tổ
chức thành các đơn vị sản xuất và dịch vụ, các công trình sự nghiệp có
chức năng đảm bảo các luồng thông tin, các luồng vật chất, nhằm phục vụ
nhu cầu có tính xã hội của sản xuất và đời sống dân cư.
2121
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
Theo cách hiểu này, ta thấy cơ sở hạ tầng chính là tổng thể các điều kiện
về cơ sở vật chất- kỹ thuật và kiến trúc được hình thành theomột kết cấu nhất
định và đóng vai trò làm nền tảng cơ bản cho các hoạt động kinh tế, xã hội
diễn ra trên đó một cách bình thường.
Toàn bộ cơ sở hạ tầng được chia theo lĩnh vực như :
- Cơ sở hạ tầng phục vụ kinh tế : giao thông , thông tin liên lạc...
- Cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động xã hội: các cơ cở giáo dục, ytế, nghỉ
ngơi...
- Cơ sở hạ tầng phục vụ an ninh quốc phòng
Việc phân loại như trên chỉ mang tính tương đối, trên thực tế ít có loại kết
cấu hạ tầng nào hoàn toàn chỉ phục vụ hoạt động kinh tế mà không phục vụ
hoạt động xã hội và ngược lại. Ngay hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ an
ninh quốc phòng cũng vậy, trừ những công trình chuyên dụng cho an ninh
quốc phòng, nhiều cơ sở vẫn có thể phục vụ các hoạt động kinh tế xã hội.
Hay có thể phân chia hệ thống cơ sở hạ tầng theo các ngành của nền kinh
tế như:
- Kết cấu hạ tầng nông nghiệp
- Kết cấu hạ tầng công nghiệp
- Kết cấu hạ tầng giao thông vận tải
- Kết cấu hạ tầng trong hoạt động ytế, giáo dục, văn hóa,xã hội
- Kết cấu hạ tầng trong hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
_ .v.v..
Kết cấu hạ tầng mỗi ngành, bao gồm những công trình đặc trưng cho hoạt
động của ngành và những công trình liên ngành đảm bảo sự hoạt động đồng
bộ của toàn hệ thống. Chẳng hạn, kết cấu hạ tầng trong công nghiệp bao gồm
toàn bộ nhà cửa vật kiến trúc phục vụ trong sản xuất công nghiệp (hệ thống
điện, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống vận tải...), kết cấu hạ tầng giao thông
vận tải bao gồm hệ thống đường xá, cầu cống, thông tin tín hiệu đảm bảo
giao thông, nhà ga, bến bãi...
Tuy vậy có thể chia cơ sở hạ tầng thành hai nhóm chủ yếu sau, gồm cơ sở
hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội
2222
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
* Cơ sở hạ tầng kỹ thuật: bao gồm các công trình và phương tiện là điều
kiện vật chất cho sản xuất và sinh hoạt của xã hội . Đó là công trình và
phương tiện của hệ thống giao thông vậntải, bưu chính viễn thông, cung cấp
điện nước , chợ và các trung tâm buôn bán...
* Cơ sở hạ tầng xã hội: bao gồm các công trình và phương tiện là điều
kiện để duy trì và phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện và đảm bảo
đời sống tinh thần cho các thành viên trong xã hội. Đó là các công trình và
phương tiện của các cơ sở giáo dục đầo tạo, các cơ sở khám chữa bệnh, văn
hoá văn nghệ, thể dục thể thao, các cơ sở đảm bảo an ninh xã hội...
Các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật là hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu
phục vụ cho sản xuất và đời sống. Đây là yếu tố mở đường, là động lực và là
một bộ phận cấu thành của phát triển kinh tế xã hội. Còn các cơ sở hạ tầng xã
hội là hệ thống cơ sở phục vụ dân sinh, phát triển văn hoá xã hội. Đây là yếu
tố bổ sung cho phát triển kinh tế xã hội.
2.2 Vai trò của cơ sở hạ tầng trong phát triển kinh tế -xã hội :
Cơ sở hạ tầng gắn liền với mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội , đây là
yếu tố cơ bản cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Nó vừa là nhân tố thúc đẩy
kinh tế xã hội phát triển vừa là nhân tố phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh
tế xã hội của quốc gia đó . nên có thể nói rằng : cơ sở hạ tầng có vai trò vô
cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, nhất là
các nước đang phát triển.
Một là: Cơ sở hạ tầng là yếu tố đảm bảo các điều kiện về vật chất cho hoạt
động sản xuất dịch vụ.
Thực vậy bằng hệ thống các công trình vật chất kỹ thuật nó đảm bảo cho
cơ sở sản xuất và dịch vụ hoạt động được và hoạt động có hiệu quả.
+ Giao thông : đây là hệ thống huyết mạch của nền kinh tế nó không
những trực tiếp tham gia vào các quá trình kinh tế - xã hội mà còn có tác
dụng mở đường, là khâu đột phá để thực hiện phân bố lại lực lượng sản xuất
xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, giao thông vừa tham gia tạo thị trường,
2323
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
vừa là nhân tố quyết định mở mang giao lưu hàng hoá giữa các vùng, thiếu
giao thông kinh tế hàng hoá không có cơ hội phát triển được.
+ Điện: Sự phát triển của hệ thống điện cũng có ý nghĩa rất quan trọng.
Bởi nó là cơ sở cho sự hình thành các xí nghiệp công nghiệp, nhất là trong
quá trình CNH- HĐH nông thôn điều này càng khẳng định rõ: Điện vừa góp
phần mở mang công nghiệp, tạo điều kiện để phát triển nông nghiệp, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Điện còn thúc đẩy nhanh quá trình ứng dụng
khoa học công nghệ kỹ thuật trong sản xuất, còn là cơ sở cho sự ra đời và
phát triển nhanh chóng của nhiều ngành kinh tế xã hội khác như thông tin
liên lạc, thương mại, du lịch văn hoá ...và góp phần cải thiện, nâng cao đời
sống nhân dân.
+ Hệ thống thủy lợi : Nước là một trong bốn điều kiện cơ bản để năng cao
năng suất và chất lượng cây trồng , vật nuôi. Phát triển hệ thống thủy lợi gắn
liền với sản xuất nông nghiệp , nó luôn là biện pháp kỹ thuật hàng đầu và chi
phối phần nhiều kết quả sản xuất nông nghiệp. Đối với sản xuất nông nghiệp
hàng hoá, thủy lợi càng có vai trò quan trọng hơn. Nên phát triển thủy lợi là
quan trọng và không thể thiếu nhất là phục vụ cho CNH- HĐH nông nghiệp
và phát triển nông thôn.
+ Cơ sở hạ tầng thương mại như chợ trung tâm giao dịch buôn bán, hệ
thống kho chứa, cửa hàng... và thông tin, liên lạc ngày càng có vai trò quan
trọng đối với kinh tế hàng hoá. Nó là điều kiện cần để thực hiện trao đổi hàng
hoá.
Như vậy, chỉ cần một trục trặc trong một khâu nhất định của một loại hoạt
động do sự yếu kém của hệ thống kết cấu hạ tầng gây ra như cung cấp năng
lượng, cấp thoát nước, giao thông ... thì lập tức sẽ gây sự cố cho hoạt động
của các cơ sở sản xuất và dịch vụ khác. Ngược lại, một hệ thống cơ sở hạ
tầng đồng bộ sẽ tạo điều kiện rút ngắn chu kỳ sản xuất và lưu thông sản
phẩm, giảm bớt chi phí sản xuất và góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm
làm cho các sản phẩm hàng hoá mang tính cạnh tranh hơn.
Hai là: Cơ sở hạ tầng quyết định sự tăng trưởng và phát triển nhanh của
các ngành các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ.
2424
Trần Thị Ánh Tuyết - KTĐT 40 B - ĐH Kinh tế quốc dân-Hà Nội
Tăng trưởng kinh tế là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch
vụ mà nền kinh tế tạo ra, còn cơ sở hạ tầng lại là điều kiện vật chất cho sản
xuất tiến hành. Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông,
thông tin liên lạc là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế. Lịch sử nhân loại
đã cho thấy, vận tải hàng hoá và đi lại bằng hệ thống giao thông đường sắt
xuyên quốc gia, liên lạc thông tin bằng điện thoại và vô tuyến điện đã đánh
dấu một bước nhảy vọt về trình độ kinh tế từ xã hội phong kiến sang xã hội
tư bản. Rõ ràng điều kiện về cơ sở hạ tầng càng tốt, tính hữu ích trong việc
thúc đẩy sản xuất càng cao, các ngành sẽ phát triển càng nhanh.
Ba là: Cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho sử dụng tốt tiềm năng của
đất nước.
Đất đai, lao động, tài nguyên khó có thể phát huy hết lợi ích của mình khi
mà không có đầy đủ điều kiện để khai thác và sử dụng, cơ sở hạ tầng chính là
chìa khoá để mở những tiềm năng đó. Chẳng hạn như nước ta có nhiều tài
nguyên khoáng sản nhưng nhiều nơi ta chưa có điều kiện khai thác được do
khó khăn về nguồn lực nhưng quan trọng đáng kể là vấn đề cơ sở hạ tầng của
ta ở những vùng này còn quá yếu kém, giao thông không thuận lợi. Cơ sở hạ
tầng nói chung, giao thông vận tải nói riêng mà yếu kém là trở ngại lớn đến
việc khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Bốn là: Tạo điều kiện để phát triển kinh tế xã hội đồng đều giữa các vùng ,
sự phát triển rộng khắp theo vùng lãnh thổ làm giảm bớt sự khác biệt về dân
trí, mức sống giữa các vùng.
Điều này được thể hiện rõ nhất giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng
bằng và miền núi, sự cách biệt về thu nhập, mức sống trình độ hiểu biết của
dân cư các vùng này là do điều kiện cơ sơ hạ tầng. Cơ sở hạ tầng được phát
triển và hiện đại sẽ tạo điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế, xã hội giữa nông
thôn và thành thị, giữa các vùng với nhau, kích thích kinh tế hàng hoá phát
triển đồng đều và phát triển ngay ở những vùng kém phát triển.
Năm là : Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố để thu hút vốn đầu tư .
Các nhà đầu tư khi đầu tư vào một vùng nào đó thường quan tâm rất nhiều
đến cơ sở hạ tầng.
2525