Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Luận văn tốt nghiệp rủi ro kiểm toán và đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.93 KB, 41 trang )

Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

LỜI MỞ ĐẦU
Từ những năm 1990 trờ về trước, hoạt động kiểm toán chưa phát triển ở nước
ta. Tuy nhiên trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nói
chung và của thị trường chứng khốn nói riêng đã đặt ra yêu cầu phải đảm bảo tính
trung thực và hợp lý của các thơng tin tài chính. Các loại hình kiểm toán từ kiểm
toán Nhà nước, kiểm toán độc lập đến kiểm tốn nội bộ phát triển nhanh chóng dưới
nhiều hình thức cung cấp dịch vụ kiểm tốn và tư vấn tài chính khác nhau. Trong đó
đặc biệt các kiểm tốn viên và các cơng ty kiểm tốn ln phải đứng trước yêu cầu
bức thiết là nâng cao chất lượng kiểm tốn các báo cáo tài chính.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới với nhiều thời cơ cũng như thách
thức hiện nay, chất lượng kiểm toán là vấn đề cơ bản có tính chất sống cịn của các
cơng ty kiểm tốn Việt Nam, đặc biệt khi các cơng ty kiểm tốn kiểm tốn nước
ngồi đang được phép tự do vào Việt Nam mà không gặp bất cứ trở ngại nào. Sự
cạnh tranh bằng chất lượng và sự phát triển những tiêu chuẩn ngày càng nghiêm
ngặt hơn đã buộc các cơng ty kiểm tốn phải phát triển những kỹ thuật kiểm tốn
vừa có hiệu quả cao vừa tiết kiệm chi phí. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi các
cơng ty kiểm tốn Việt Nam một mặt vừa phải tuân thủ đúng chuẩn mực, mặt khác
phải tự thiết kế những phương pháp và quy trình kiểm tốn đạt hiệu quả cao nhằm
nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp, tránh tình trạng “tự thua trên sân nhà”.
Như chúng ta đã biết, bất cứ lĩnh vực hay ngành nghề hoạt động nào cũng
chứa đựng rủi ro và kiểm toán cũng không phải là một ngoại lệ. Rủi ro kiểm tốn
cịn rất đặc biệt vì kiểm tốn là một lĩnh vực hoạt động đặc thù – lấy người sử dụng
báo cáo tài chính làm đối tượng phục vụ chính yếu. Kỹ thuật đánh giá rủi ro kiểm
toán là một kỹ thuật hiệu quả vừa giúp đảm bảo chất lượng kiểm tốn vừa tiết kiệm
được thời gian và chi phí.
Nhận thức được những vấn đề đó, em lựa chọn đề tài “Rủi ro kiểm toán và
đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm tốn Báo cáo tài chính". Sự hướng dẫn


nhiệt tình của thầy giáo ThS. Đinh Thế Hùng và nỗ lực hết sức của bản thân đã giúp


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

em hồn thành bản đề án này. Với bản đề án này ngoài phần mở đầu và kết luận thì
nội dung gồm 3 phần chính như sau:
Chương 1: Khái quát lý luận chung về rủi ro kiểm toán vá đánh giá rủi ro
kiểm toán trong kiểm tốn báo cáo tài chính.
Chương 2: Thực trạng đánh giá rủi ro kiểm tốn trên báo cáo tài chính
tại các cơng ty kiểm tốn ở Việt Nam và thế giới.
Chương 3 : Nhận xét và các giải pháp đề xuất.


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

CHƯƠNG 1
KHÁI QT LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO KIỂM TOÁN VÀ
ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TỐN TRONG KIỂM TỐN BÁO
CÁO TÀI CHÍNH
1.1.

Tổng quan về rủi ro kiểm tốn trong kiểm tốn báo cáo tài

chính:
1.1.1. Khái niệm rủi ro kiểm toán

Để tiếp cận nghiên cứu đánh giá rủi ro kiểm toán, chúng ta cần làm quen với
một số khái niệm cơ bản sau
Rủi ro ( Risk ) nói chung được hiểu là khả năng mà một sự kiện khơng thuận
lợi nào đó sẽ xuất hiện. Rủi ro xảy ra khi những mục tiêu đã đặt ra không đạt được
trong thực tế. Rủi ro được nhắc đến như một sự ám chỉ về một điều không chắc
chắn, một hậu quả với những tình huống khơng thể lường trước được, nó có thể xảy
ra, nếu xảy ra có thể khơng như chúng ta mong đợi, hoặc mang lại kết quả khơng
tốt đẹp. Đó có thể là những biến cố bất thường không mong muốn, không nằm
trong dự kiến, xảy ra một cách bất ngờ và gây ra thiệt hại về vật chất, tinh thần, tính
mạng, của cải…cho các đối tượng có liên quan. Về bản chất, rủi ro là sự sai khác
giữa những điều đã được dự kiến trước và những điều xảy ra trong thực tế.
Trong lịch sử có nhiều quan điểm tranh luận về rủi ro :
Rủi ro chỉ liên quan đến các thiệt hại (rủi ro không đối xứng)
Rủi ro liên quan đến cả thiệt hại và may mắn (rủi ro đối xứng)
Rủi ro là khả năng xảy ra sự cố không may
Rủi ro là sự kết hợp các nguy cơ
Rủi ro là sự khơng thể đốn trước được một tình huống, một khuynh
hướng dẫn đến kết quả thực tế khác kết quả dự đốn
Rủi ro là sự khơng chắc chắn về tổn thất
Những định nghĩa trên tuy khác nhau nhưng nghiên cứu kỹ cho thấy giữa
chúng có mối liên hệ logic với nhau. Các định nghĩa đều đề cập đến một sự không
chắc chắn mà chúng ta coi là bất ngờ trong tương lai. Bên cạnh đó, các định nghĩa
này cũng ám chỉ những cấp độ hay mức độ rủi ro khác nhau. Việc sử dụng các từ


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

“khả năng”, “khơng thể đốn trước được” để chỉ ra mức độ nào đó về sự khơng

chắc chắn do có mối ngờ vực nói trên. Ngồi ra các định nghĩa này đều nói đến hậu
quả do một hay nhiều nguyên nhân gây ra. Điều này dường như có mối quan hệ
chặt chẽ với định nghĩa mà chúng ta sử dụng trước đó, theo định nghĩa này, rủi ro
là sự không chắc chắn về hậu quả trong một tình huống cụ thể.
Từ điển Tiếng Việt giải thích: “Rủi ro là điều khơng lành, khơng tốt bất ngờ xảy
đến”. Chẳng hạn, một người nào đó đánh cuộc đua ngựa hay bóng đá, anh ta có thể
thua hoặc thắng tùy theo kết quả trận đấu. Khi anh ta thua nghĩa là rủi ro đã xảy ra.
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam thì “rủi ro là là hậu quả gây thiệt hại ít
nhiều có thể dự kiến được của một hành vi mà việc thực hiện không chỉ phụ thuộc
vào ý chí của các bên đương sự”.
Rủi ro ứng với sự sai lệch không ngờ tới giữa dự kiến, mong muốn với thực
tế. Vì vậy, rủi ro thường được hiểu là sẽ đem đến bất lợi cho các đối tượng phải
gánh chịu. Cũng vì thế mà khơng ai muốn mình gặp phải rủi ro cả. Nhưng vấn đề là
rủi ro thường mang tính bất ngờ, khó đốn trước và nằm ngồi dự kiến, nên dù
khơng muốn, con người vẫn ln phải đối mặt với nó trong mọi hoạt động và trên
mọi lĩnh vực như chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, kinh tế … Ứng với mỗi
lĩnh vực sẽ có những loại rủi ro khác nhau. Trên lĩnh vực kinh tế, rủi ro thường gặp
là rủi ro kinh doanh.
Rủi ro kinh doanh là loại rủi ro gắn với các loại tài sản, các dòng thu nhập và
chi phí. Đó là khả năng mà việc được nắm giữ các tài sản và được hưởng các nguồn
thu nhập dự kiến không xảy ra trong thực tế, hoặc là khả năng phải gánh chịu chi phí
thực tế cao hơn so với dự kiến vì những lý do nào đó. Đối với các nhà đầu tư, rủi ro
xảy ra khi doanh lợi thực tế sai khác so với doanh lợi dự kiến. Đối với các Ngân hàng,
tổ chức tín dụng, rủi ro xảy ra khi không thể thu hồi các khoản nợ và lãi vay tương
ứng, cũng như khi không thể huy động đủ tiền để trả cho các chủ nợ. Còn đối với các
doanh nghiệp, các đơn vị tiến hành sản xuất kinh doanh, cung cấp sản phẩm, dịch vụ ra
thị trường, rủi ro xảy ra khi mất doanh thu, lợi nhuận, tốn kém nhiều chi phí, mất khả
năng thanh toán, mất bạn hàng hoặc đứng trước nguy cơ phá sản … Rủi ro kinh doanh
ở trường hợp cực đoan thể hiện thành thất bại kinh doanh.



Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

Trong thực tế, mỗi hoạt động kinh tế đều gặp những rủi ro đặc trưng. Và kiểm
tốn cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Kiểm toán - hoạt động xác minh và bày tỏ
ý kiến cho các đối tượng quan tâm về thực trạng hoạt động cần kiểm toán - cũng là
một ngành nghề kinh doanh. Từ khi ra đời, dịch vụ kiểm toán và tư vấn tài chính đã
khơng ngừng phát triển về mọi mặt và đến nay dã trở thành một lĩnh vực kinh
doanh đặc biệt. Do đó, ngồi rủi ro kinh doanh, các cơng ty kiểm tốn cịn phải đối
mặt với rủi ro dặc thù của ngành nghề là rủi ro kiểm toán.
Rủi ro kiểm toán (Audit risk - AR) được hiểu là khả năng mà kiểm tốn viên
và cơng ty kiểm tốn đưa ra ý kiến khơng xác đáng về đối tượng được kiểm toán.
Chẳng hạn, kiểm toán viên đưa ra ý kiến rằng Báo cáo tài chính của đơn vị được
kiểm tốn đã trình bày trung thực và hợp lý dưới các khía cạnh trọng yếu, tuy
nhiên, trên thực tế các báo cáo đã được kiểm toán này vẫn tồn tại sai phạm trọng
yếu mà kiểm tốn viên khơng phát hiện ra trong q trình kiểm tốn.
Rủi ro kiểm tốn xuất phát từ các sai lệch tiềm ẩn trong Báo cáo tài chính đã
vượt qua hệ thống kiểm sốt nội bộ của đơn vị và không bị các thử nghiệm cơ bản
trong q trình kiểm tốn phát hiện. Trong thực tiễn, rủi ro kiểm toán xảy ra do
giới hạn về quản lý, về kiểm tốn và có quan hệ tỷ lệ nghịch với chi phí kiểm
tốn.
Như trên đã trình bày, rủi ro kiểm toán là nguyên nhân và đồng thời cũng là
biểu hiện của rủi ro kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ kiểm toán
và tư vấn tài chính. Rủi ro kiểm tốn lại là vấn đề khơng thể tránh được đối với
kiểm tốn viên và cơng ty kiểm toán. Rất hiếm khi nào kiểm toán viên có thể
kiểm tra được hết tất cả các bút tốn trong các sổ sách kế tốn và vì vậy bao giờ
cũng có mối nghi ngờ nhất định về vấn đề Báo cáo tài chính có phản ánh trung
thực và khách quan hay khơng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là kiểm toán viên cần xác

định được mức rủi ro kiểm tốn có thể chấp nhận được, thơng qua việc xem xét
và đánh giá các yếu tố cấu thành của rủi ro kiểm toán.


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

1.1.2. Các loại rủi ro kiểm toán
1.1.2.1. Rủi ro tiềm tàng ( Inherent risk)
Rủi ro tiềm tàng là khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu trong bản thân các
đối tượng kiểm toán (chưa tính đến sự tác động của bất cứ hoạt động kiểm toán nào
kể cả kiểm soát nội bộ)
Theo IAG số 25 về “ Trọng yếu và rủi ro kiểm toán “ thì : “ Rủi ro tiềm tàng là
những yếu điểm của số dư tài khoản hoặc của một loại nghiệp vụ đối với những sai
sót có thể là nghiêm trọng, những sai sót này có thể đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với
các sai sót ở các số dư, các nghiệp vụ khác (ở đây là giả định rằng khơng có các qui
chế kiểm sốt nội bộ có liên quan ). Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức năng hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh cũng như nằm
trong bản chất của các số dư tài khoản hoặc các nghiệp vụ “.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 về “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội
bộ “ cũng định nghĩa về rủi ro tiềm tàng: “ Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn vốn có
do khả năng từng nghiệp vụ và từng khoản mục trong BCTC chứa đựng sai sót
trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mặc dù có hay khơng có HTKSNB “.
Mức độ rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của khách thể kiểm
tốn, loại hình kinh doanh và cả năng lực nhân viên của khách thể kiểm tốn. Kiểm tốn
viên khơng tạo ra và cũng khơng kiểm sốt rủi ro tiềm tàng, họ chỉ có thể đánh giá chúng.
Để đánh giá rủi ro tiềm tàng kiểm tốn viên có thể dựa vào nhiều nguồn
thơng tin khác nhau. Chẳng hạn, kiểm tốn viên có thể dựa vào kết quả kiểm tốn
năm trước hoặc thông qua thu thập các thông tin về ngành nghề kinh doanh của

khách thể kiểm tốn, về chính sách kinh tế tài chính kế tốn của đơn vị được kiểm
toán…để hiểu được bản chất kinh doanh của đơn vị, tính chất phức tạp của nghiệp
vụ, và từ đó có thể đưa ra dự đốn của mình về rủi ro tiềm tàng.

1.1.2.2. Rủi ro kiểm soát (Control risk)
Rủi ro kiểm soát là khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị kiểm tốn
khơng phát hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm trọng yếu.


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

Theo IAG số 25 về “ Trọng yếu và rủi ro kiểm tốn “ thì : “ Rủi ro kiểm soát là rủi
ro do xác định sai, có thể xảy ra với một số tài khoản hoặc một loại nghiệp vụ và có thể
là sai sót nghiêm trọng. Những sai sót này xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai
sót của các số dư, các nghiệp vụ khác mà HTKSNB đã khơng ngăn chặn hoặc khơng
phát hiện kịp thời “.
Cịn theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 về “Đánh giá rủi ro và kiểm sốt
nội bộ “ thì : “ Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ,
từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng lẻ hoặc tính gộp mà hệ thống kế tốn và
HTKSNB khơng ngăn ngừa hết hoặc khơng phát hiện và sửa chữa kịp thời “.
Kiểm tốn viên khơng tạo ra rủi ro kiểm sốt và cũng khơng kiểm sốt chúng. Họ
chỉ có thể đánh giá hệ thống kiểm soát của đơn vị được kiểm toán từ đó đưa ra mức rủi
ro kiểm sốt dự kiến.

1.1.2.3. Rủi ro phát hiện (Detection risk)
Theo IAG số 25 về “ Trọng yếu và rủi ro kiểm tốn “ thì “ Rủi ro phát hiện là
những rủi ro mà KTV không phát hiện ra các sai sót hiện có trong các số dư tài
khoản hoặc những loại nghiệp vụ. Những sai sót này có thể là nghiêm trọng, xảy ra

đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót trong các số dư, các loại nghiệp vụ. Mức
độ rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp với phương pháp kiểm toán của KTV “.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam cũng đưa ra định nghĩa về rủi ro phát hiện
như sau : “ Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ,
từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong q trình
kiểm tốn, KTV và cơng ty kiểm tốn khơng phát hiện được”.
Rủi ro phát hiện là khả năng mà các thủ tục kiểm tốn khơng phát hiện được
các sai phạm trọng yếu. Ngược lại với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, kiểm
toán viên phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm
toán nhằm quản lý và kiểm sốt đối với rủi ro phát hiện.

1.1.3. Mơ hình rủi ro kiểm toán
Do tồn tại độc lập, khách quan với các thơng tin tài chính, các thử nghiệm của
kiểm tốn viên nên rủi ro kiểm soát và rủi ro tiềm tàng khác biệt với rủi ro phát
hiện. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt ln tồn tại trong hoạt động và môi


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

trường kinh doanh của đơn vị bất chấp kiểm tốn viên có tiến hành kiểm tốn hay
khơng. Trong khi đó, rủi ro phát hiện có thể được điều chỉnh thông qua việc thiết kế
các thủ tục kiểm toán để đưa rủi ro kiểm toán về mức yêu cầu.
Rủi ro kiểm toán liên quan đến xác suất của đại lượng ngẫu nhiên và là xác
suất có điều kiện nên quan hệ giữa các loại rủi ro trên có thể được phản ánh qua mơ
hình rủi ro sau đây:
AR = IR x CR x DR
Với mơ hình này, kiểm tốn viên có thể sử dụng nó để điều chỉnh rủi ro phát
hiện dựa trên các loại rủi ro khác đã được đánh giá nhằm đạt được rủi ro kiểm toán

ở mức thấp như mong muốn.
DR = AR / (IR x CR)
Đây là những mơ hình rủi ro có tính đơn giản nhưng nó có ý nghĩa rất to lớn
cho kiểm toán viên trong việc lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán sao cho hợp lý
và đủ để duy trì rủi ro phát hiện ở mức thấp cho phép. Tuy nhiên, khi sử dụng mơ
hình rủi ro này, kiểm toán viên cần chú ý một số điểm sau:
Đây khơng phải là những cơng thức tốn học thuần túy nhân chia mà rủi ro
liên quan đến xác suất của đại lượng ngẫu nhiên
Kiểm tốn viên khơng thể giả sử rằng rủi ro tiềm tàng là bằng 0 để khơng cần
đến các bước thu thập bằng chứng kiểm tốn
Kiểm tốn viên cũng khơng thể đặt niềm tin tuyệt đối vào hệ thống kiểm sốt
nội bộ để khơng cần đến thu thập bằng chứng kiểm tốn
Kiểm tốn viên khơng thể được xem là đã thận trọng nghề nghiệp thích đáng
nếu như rủi ro của việc không phát hiện các sai phạm trọng yếu trong đối tượng
kiểm toán ở mức quá cao.


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

Như vậy kiểm tốn viên cần xác định rủi ro kiểm toán mong muốn ở mức cho
phép, dựa trên đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát để xác định ra mức rủi
ro phát hiện cần đảm bảo, từ đó thiết kế các thủ tục kiểm toán cần thiết.

1.2.

Đánh giá rủi ro kiểm tốn trong kiểm tốn Báo cáo tài chính:

1.2.1. Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn

Rủi ro kiểm toán mong muốn là rủi ro được xác định một cách chủ quan mà
kiểm toán viên sẵn sàng cho rằng Báo cáo tài chính khơng được trình bày trung
thực sau khi cuộc kiểm tốn được hồn thành và đi đến một chấp nhận hồn tồn.
Khi kiểm tốn viên quyết định một tỷ lệ rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn,
điều đó có nghĩa kiểm tốn viên muốn được chắc chắn hơn các Báo cáo tài chính
khơng bị sai phạm trọng yếu. Trong một cuộc kiểm toán, giả sử kiểm tốn viên cảm
thấy tỷ lệ % rủi ro thích hợp là 1% thì rủi ro kiểm tốn mong muốn là 1%.
Trong hầu hết các trường hợp, kiểm tốn viên ln tìm cách đưa ra một tỷ lệ
rủi ro kiểm tốn mong muốn ở mức thấp hợp lý, tạo “an toàn” cho cả người sử dụng
lẫn kiểm toán viên. Tuy nhiên việc đưa ra được một tỷ lệ rủi ro mong muốn thấp
đến mức nào để đảm bảo “an tồn” thì lại là một việc không hề đơn giản chút nào.
Rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định ngay trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm
tốn, nó được xác định một cách chủ quan và phụ thuộc và hai yếu tố cơ bản:
Thứ nhất, mức độ mà theo đó những người sử dụng bên ngoài tin vào các báo
cáo. Khi những người sử dụng bên ngoài đặt nặng tin tưởng vào các Báo cáo tài
chính thì tỷ lệ rủi ro kiểm toán phải ở mức thấp mới đảm bảo. Kiểm toán viên nên
căn cứ vào các dấu hiệu sau để phán đốn về mức độ tin tưởng của ngườì sử dụng
đối với các báo cáo:
- Quy mô của công ty khách hàng: Quy mơ càng lớn thì hệ thống báo cáo
càng được sử dụng rộng rãi, rủi ro kiểm toán mong muốn càng phải thấp.
- Sự phân phối quyền sở hữu: Các báo cáo của các công ty sở hữu công cộng
thường được nhiều người sử dụng tin tưởng hơn các cơng ty có quyền sở hữu hẹp hơn.


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

- Bản chất và quy mô của công nợ: Khi báo cáo bao gồm một số lượng lớn các
cơng nợ sẽ có nhiều khả năng được sử dụng rộng rãi hơn bởi các chủ nợ và do đó

yêu cầu rủi ro phát hiện được cũng phải ở mức thấp hơn.
Thứ hai, khả năng tiếp tục hoạt động về mặt tài chính của cơng ty khách hàng sau
khi báo cáo kiểm tốn được cơng bố, tức là nếu một khách hàng buộc phải phá sản hoặc
phải chịu một sự thiệt hại nhất định sau khi cuộc kiểm tốn hồn thành thì có lẽ họ sẽ
khơng muốn tiến hành cuộc kiểm toán, hoặc là sẽ đệ đơn kiện cơng ty kiểm tốn. Trong cả
hai trường hợp này, kiểm toán viên sẽ được yêu cầu bảo vệ chất lượng kiểm tốn nhiều
hơn so với khi khách hàng khơng gặp khó khăn về tài chính. Khi những thất bại về mặt tài
chính hoặc thiệt hại đối với khách hàng sau cuộc kiểm tốn là cao thì đồng thời rủi ro kinh
doanh đối với cơng ty kiểm tốn cũng tăng lên. Để hạn chế rủi ro kinh doanh, kiểm toán
viên cần xác định một mức rủi ro kiểm toán mong muốn ở mức thấp hợp lý.
Đối với kiểm toán viên, dự đốn sự thất bại về mặt tài chính khi nó chưa xảy
ra là điều khó khăn, song kiểm tốn viên có thể dựa vào một số dấu hiệu sau:
- Khả năng chuyển hóa thành tiền mặt của cơng ty khách hàng thường xuyên
trong tình trạng yếu kém.
- Các khoản lãi giảm nhanh và các khoản lỗ tăng nhanh trong vài năm, khả
năng thanh toán gặp vấn đề.
- Các phương pháp tài trợ như tăng nợ, vay mượn, chiếm dụng vốn nhiều… sẽ
làm tăng khó khăn về mặt tài chính của công ty khách hàng.
- Bản chất kinh doanh của khách hàng tiềm tàng nhiều rủi ro về mặt tài chính.
- Năng lực và các biện pháp điều hành của ban quản trị…
Ngồi ra cịn có một số nhân tố khác ảnh hưởng đến việc xác định mức rủi ro
kiểm tốn mong muốn:
- Chi phí kiểm tốn: liên quan đến khả năng cạnh tranh với các cơng ty kiểm tốn
khác. Có một sự mâu thuẫn xảy ra là rủi ro kiểm tốn mong muốn càng thấp thì chi phí


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn


kiểm tốn lại càng cao và khả năng cạnh tranh bằng giá cả càng hạn chế. Kiểm toán
viên cần cân nhắc mối quan hệ này trong xác định rủi ro kiểm tốn mong muốn.
- Trình độ nghiệp vụ của kiểm toán viên, sự thành thạo, kinh nghiệm thực
tiễn, sự thận trọng nghề nghiệp, đánh giá chủ quan của kiểm tốn viên cũng có ảnh
hưởng đến rủi ro kiểm toán mong muốn. Trong nhiều trường hợp, cơng ty kiểm
tốn nên cố một số quy định về mức rủi ro kiểm toán mong muốn để đảm bảo chất
lượng dịch vụ và uy tín cho cơng ty kiểm tốn.
Nói chung, trong q trình lập kế hoạch, kiểm tốn viên cần điều tra công ty
khách hàng, đánh giá tầm quan trọng của từng yếu tố đối với mức độ tin tưởng vào Báo
cáo tài chính của các đối tượng, xem xét khả năng tiếp tục hoạt động liên tục của công
ty khách hàng và cân nhắc đến các yếu tố chi phí kiểm tốn, rủi ro kinh doanh, quy
định của cơng ty kiểm tốn … để xác định mức rủi ro mong muốn phù hợp.

1.2.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng (rủi ro cố hữu)
Rủi ro cố hữu là tính nhạy cảm của các Báo cáo tài chính đối với các sai sót
nghiêm trọng, với giả sử khơng có q trình kiểm sốt nội bộ. Nếu kiểm tốn viên
kết luận là có khả năng sai sót rất cao và lờ đi q trình kiểm sốt nội bộ, kiểm tốn
viên có thể sẽ kết luận là rủi ro cố hữu rất cao. Mối quan hệ giữa rủi ro cố hữu với
rủi ro phát hiện và bằng chứng dự trù là rủi ro cố hữu tỷ lệ nghịch với rủi ro phát
hiện và bằng chứng kiểm tốn. Nếu một cơng ty khách hàng có nhiều khoản phải
thu là của những khách hàng sắp bị phá sản do các điều kiện kinh tế không thuận lợi
trong ngành hoạt động của công ty khách hàng thì kiểm tốn viên kết luận là rủi ro
cố hữu cao, rủi ro phát hiện cần tìm thấp và số lượng bằng chứng cần dự trù cao.
Thông qua mơ hình rủi ro kiểm tốn thì rủi ro cố hữu là ước tính sai số được
đánh giá trước khi xem xét ảnh hưởng của các kiểm soát nội bộ. Việc đưa rủi ro cố
hữu vào mơ hình kiểm tốn ngụ ý kiểm toán viên phải cố gắng dự đoán nơi nào trên
Báo cáo tài chính có nhiều khả năng sai sót nhất và ít khă năng sai sót nhất. Các
thơng tin này có ảnh hưởng đến tổng số bằng chứng cần thu thập và cách thức phân
bổ các bằng chứng cần thu thập cho các khoản mục các nghiệp vụ.



Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

Rủi ro cố hữu phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của kiểm toán viên. Có
nhiều yếu tố có thể làm thay đổi mức rủi ro có hữu. Khi đánh giá rủi ro cố hữu
kiểm toán viên cần xem xét một số yếu tố chủ yếu sau:
- Bản chất công việc kinh doanh của khách hàng: Có một số tài khoản nhất định
bị ảnh hưởng bởi bản chất công việc kinh doanh của khách hàng. Ví dụ các khoản nợ
phải thu ở một cơng ty cho vay nhỏ thì khả năng thu hồi thấp hơn các khoản nợ phải thu
ở ngân hàng, các doanh nghiệp có nhiều nghiệp vụ liên quan đến các tài khoản như tiền
mặt, phiếu nợ, vật thế chấp, ký gửi…rủi ro cố hữu sẽ lớn hơn.
- Tính liêm chính của ban quản trị: Khi ban quản trị bị khống chế bởi một hoặc
một số ít cá nhân thiếu liêm chính khả năng các Báo cáo tài chính bị sai sót nghiêm
trọng tăng lên rất cao. Kiểm toán viên chịu rủi ro nghề nghiệp và rủi ro pháp lý cao khi
thực hiện các cuộc kiểm tốn cho các khách hàng thiếu tính liêm chính, các cơng ty
kiểm tốn cần cân nhắc có nên thực hiện kiểm tốn cho những khách hàng đó khơng.
Thơng thường ban quản trị có một mức độ liêm chính hợp lý nhưng kiểm
tốn viên khơng thể xem là hồn tồn trung thực trong mọi cách xử sự. Cơng ty
kiểm tốn trước hết phải đánh giá xem cơng ty có muốn thực hiện kiểm tốn cho
những khách hàng như vậy hay khơng. Nếu đồng ý thì phải xác định mức rủi ro cố
hữu cao cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của hợp đồng và phải khảo sát về tính khả
dĩ của những sai phạm có chủ định.
- Động cơ của khách hàng: Trong nhiều tình huống ban quản trị tin tưởng
rằng sẽ có lợi nếu báo cáo sai. Ví dụ như báo cáo lợi nhuận thấp để giảm thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp nên họ sẽ lập các Báo cáo tài chính sai. Kiểm tốn
viên cần nhận định rõ động cơ của khách hàng khi tiến hành kiểm tốn để xác định
các khoản mục có rủi ro tiềm tàng cao.
- Kết quả của các lần kiểm tốn trước: Những sai số được tìm thấy trong các

lần kiểm tốn của năm trước có khả năng cao sẽ xuất hiện trở lại trong lần kiểm
toán năm nay. Điều này là vì rất nhiều loại sai sót có bản chất hệ thống, các đơn vị
không thể thay đổi kịp thời để loại trừ chúng. Kiểm toán viên cần xem xét kết quả


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

kiểm tốn lần trước, tìm hiểu các sai sót trong các năm qua khi tiến hành khảo sát
kiểm toán để xác định mức rủi ro cố hữu hợp lý.
- Loại hợp đồng kiểm toán: Đối với các hợp đồng kiểm toán năm đầu, kiểm
toán viên thường thu thập được ít thơng tin và hiểu biết về khách thế kiểm toán, nên
kiểm toán viên cần xây dựng một mức rủi ro tiềm tàng cao trong những năm đầu và
giảm dần trong những lần kiểm toán tiếp theo.
- Các bên đối tác có liên quan: các nghiệp vụ kinh tế giữa công ty bố mẹ và
công ty con và các nghiệp vụ giữa Ban quản trị với đơn vị sáp nhập thường không
xảy ra một cách độc lập với nhau. Do đó, Báo cáo tài chính của họ tồn tại khả năng
sai sót cao tương ứng rủi ro tiềm tàng cũng cao.
- Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên: Các nghiệp vụ kinh tế không
thường xuyên đối với khách hàng có nhiều khả năng bị vào sổ sai hơn là các nghiệp
vụ hàng ngày vì khách hàng thiếu kinh nghiệm khi vào sổ chúng. Kiểm toán viên
cần đặc biệt lưu ý các khoản mục có liên quan đến các nghiệp vụ đặc biệt này.
- Phán xét cần thiết để ghi sổ chính xác các số dư tài khoản và các nghiệp vụ kinh tế.
Thực tế, rất nhiều số dư tài khoản và những phán xét của Ban quản trị là những ước
tính như các khoản dự phòng, hao mòn và khấu hao tài sản cố định…Việc vào sổ
đúng đắn những khoản mục này đòi hỏi cả kiến thức, kinh nghiệm của kế toán cùng
với sự trung thực của Ban quản trị công ty khách hàng. Do vậy kiểm toán viên nên
đặt rủi ro cố hữu trong trường hợp này ở mức cao.
- Tính nhạy cảm với sự tham ô của nhân viên trong công ty khách hàng: Kiểm

toán viên phải quan tâm đến rủi ro của khả năng tham ô trong những trường hợp
tương đối dễ chuyển đổi tài sản của công ty qua sử dụng cá nhân. Đó là những
trường hợp cơng ty khách hàng khơng có những kiểm sốt chặt chẽ và thực sự có
hiệu lực đối với hàng tiền mặt, hàng tồn kho, các tài sản khác. Khả năng tham ơ
càng cao thì rủi ro tiềm tàng càng cao.


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

- Quy mơ của các số dư tài khoản: Các khoản mục có quy mơ số tiền lớn thì
khả năng sai sót thường cao hơn, do đó rủi ro cố hữu sẽ cao hơn và số lượng bằng
chứng cần thu thập cũng lớn hơn.
- Quy mô tổng thể: Quy mô tổng thể là số lượng các khoản mục trong tổng
thể. Nếu quy mô tổng thể càng lớn thì những sai sót dự kiến sẽ cao hơn, rủi ro cố
hữu cao sẽ là thích hợp.
- Cấu tạo của tổng thể: Có một số khoản mục, nghiệp vụ cá biệt tạo thành tổng
thể thường ảnh hưởng đến q trình ước tính của kiểm tốn viên về sai sót trọng
yếu như khoản mục hàng tồn kho, các khoản tiền nợ nhân viên, các khoản chi tiền
mặt, các khoản phải thu… Kiểm toán viên nên thận trọng đánh giá, đặt ra mức rủi
ro tiềm tàng cao cho các khoản mục này.
Tóm lại, kiểm tốn viên phải đánh giá các yếu tố trên và quyết định yếu tố rủi ro cố
hữu thích hợp đối với từng bộ phận của cuộc kiểm toán. Khi làm điều này, một số yếu tố,
như tính liêm chính của Ban quản trị sẽ ảnh hưởng đến nhiều hoặc có thể đến tất cả các
bộ phận, trong khi những yếu tố khác, thí dụ như những nghiệp vụ không thường xuyên,
sẽ chỉ ảnh hưởng đến bộ phận đặc thù. Mặc dù vậy, ngành nghề không xây dựng các
chuẩn mực hoặc sự chỉ đạo để thành lập rủi ro cố hữu. Hầu hết các kiểm toán viên
thường xây dựng rủi ro cố hữu dựa trên phán đoán chủ quan và kinh nghiệm của bản
thân kiểm toán viên. Thơng thường, để chắc chắn, kiểm tốn viên sẽ thành lập mức rủi ro

tiềm tàng khoảng trên 50%, cả trong trường hợp tốt nhất, và ở mức 100% khi có bất kỳ
khả năng hợp lý hóa sổ sách nào của các sai sót đáng kể. Việc xây dựng rủi ro cố hữu ở
mức tương đối cao sẽ đảm bảo “an tồn” cho các cơng ty kiểm tốn.

1.2.3. Đánh giá rủi ro kiểm soát
Rủi ro kiểm soát cho biết cơ cấu kiểm sốt nội bộ của khách hàng có hiệu quả
đối với việc ngăn chặn hoặc phát hiện các sai sót hay khơng, và mục đích của kiểm
tốn viên là đánh giá rủi ro kiểm soát ở một mức thấp hơn mức tối đa khi lập kế
hoạch kiểm toán. Nếu kiểm toán viên kết luận là cơ cấu kiểm soát nội bộ hồn tồn
khơng hiệu quả đối với việc ngăn ngừa và phát hiện sai sót, do đó kiểm tốn viên sẽ


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

phân bổ 100% yếu tố rủi ro cho rủi ro kiểm soát. Cơ cấu kiểm sốt nội bộ càng hiệu
quả, yếu tố rủi ro có thể được phân bổ cho rủi ro kiểm soát càng thấp.
Như rủi ro cố hữu, mối quan hệ giữa rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện là quan
hệ nghịch trong khi mối quan hệ giữa rủi ro kiểm soát và bằng chứng là quan hệ thuận.
Nếu hệ thống kiểm sốt nội bộ hoạt động có hiệu quả, rủi ro phát hiện tăng và số lượng
bằng chứng kiểm toán giảm xuống. Do đó kiểm tốn viên có thể tăng mức rủi ro phát
hiện khi khách hàng có hệ thống kiểm sốt nội bộ hoạt động hiệu quả vì một hệ thống
kiểm soát nội bộ hiệu quả sẽ làm giảm khả năng sai sót trong các Báo cáo tài chính.
Để có thể đánh giá được rủi ro kiểm sốt, kiểm tốn viên cần tìm hiểu và đánh
giá hệ thống kiểm sốt nội bộ của khách hàng
Tìm hiểu các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm sốt nội bộ
Mơi trường kiểm soát: Bao gồm các nhân tố bên trong và bên ngồi đơn vị có
tính mơi trường, tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ liệu của các loại
hình kiểm sốt nội bộ.

- Đặc thù quản lý: những quan điểm của nhà quản lý điều hành hoạt động
trong đơn vị (là mạo hiểm hay thận trọng) sẽ ảnh hưởng đến tính chặt chẽ của hệ
thống kiểm soát nội bộ.
- Cơ cấu tổ chức: nếu tổ chức hợp lý sẽ tạo ra mơi trường kiểm sốt tốt, hạn
chế rủi ro kiểm soát. Cơ cấu tổ chức hợp lý phải tuân thủ các nguyên tắc quản lý
toàn diện nhưng không chồng chéo, đảm bảo sự phân công phân nhiệm rành mạch
và sự độc lập tương đối giữa các bộ phận.
- Chính sách nhân sự: đội ngũ nhân viên của công ty khách hàng là chủ thể trực tiếp
thực hiện các thủ tục kiểm soát tại đơn vị. Nếu cơng ty khách hàng có đội ngũ cán bộ nhân
viên có năng lực, đáng tin cậy, đồng thời nhà quản lý có những chính sách cụ thể và rõ ràng
về tuyển dụng, đào tạo, sắp xếp, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật nhân viên hợp lý, khuyến
khích được nhân viên thì khả năng xảy ra sai sót sẽ thấp hơn, rủi ro kiểm soát sẽ thấp hơn.


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

- Cơng tác kế hoạch: Nếu việc lập và thực hiện kế hoạch được tiến hành khoa học
và nghiêm túc thì đó sẽ là cơng cụ kiểm soát hữu hiệu giảm thiểu rủi ro kiểm soát.
- Ủy ban kiểm soát: bao gồm các chuyên gia am hiểu về lĩnh vực kiểm soát và
những người trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của một đơn vị nhưng không kiêm nhiệm
các chức vụ quản lý. Ủy ban kiểm sốt có các nhiệm vụ: Giám sát sự chấp hành luật
pháp ở đơn vị, kiểm tra và giám sát kiểm tốn viên nội bộ, giám sát tiến trình lập Báo
cáo tài chính và dung hịa những bất đồng nếu có giữa ban giám đốc và kiểm tốn viên
bên ngồi. Ủy ban kiểm soát hoạt động hiệu quả, rủi ro kiểm sốt sẽ thấp hơn.
- Mơi trường bên ngồi: Bao gồm các yếu tố có ảnh hưởng đến thái độ và phong
cách của nhà quản lý cũng như sự thiết kế và vận hành của các quy chế và thủ tục kiểm
soát nội bộ. Nếu các cơ quan chức năng kiểm sốt thường xun, mơi truờng pháp lý
chặt chẽ và hồn thiện, hệ thống kiểm sốt nội bộ của đơn vị khách hàng cũng phải được

chú trọng hơn, do đó rủi ro kiểm sốt cũng khơng có cơ hội ở mức cao.
Hệ thống kế toán
Hệ thống kế toán bao gồm hệ thống chứng từ, hệ thống tài khoản kế toán, hệ
thống sổ kế toán, hệ thống bảng tổng hợp cân đối kế tốn. Trong hệ thống kế tốn
thì q trình lập và lưu chuyển chứng từ đóng vai trị quan trọng trong cơng tác
kiểm sốt nội bộ của đơn vị. Hệ thống kế toán hữu hiệu phải đảm bảo các mục tiêu
kiểm sốt chi tiết, bao gồm tính hiện hữu, tính trọn vẹn, sự phê chuẩn, tính giá, sự
phân loại, tính đúng kỳ, tính chính xác số học…Hệ thống kế toán hoạt động hiệu
quả sẽ thực hiện được chức năng vốn có là thơng tin và kiểm tra, hạn chế khả năng
tồn tại của rủi ro kiểm soát.
Các thủ tục kiểm soát
Thủ tục kiểm soát do đơn vị thiết lập nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ thể.
Các thủ tục kiểm soát chủ yếu bao gồm: các thủ tục về lập, kiểm tra, so sánh và phê
duyệt các số liệu, tài liệu liên quan đến đơn vị; các quy định giới hạn quyền tiếp cận
đối với tài sản và kế toán. Các thủ tục kiểm soát được thiết lập trên ba nguyên tắc:
nguyên tắc phân công phân nhiệm, nguyên tắc bất kiêm nhiệm và nguyên tắc ủy


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

quyền, phê chuẩn. Kiểm tốn viên cần đánh giá các thủ tục này trên cả ba mặt: sự
tồn tại của các thủ tục, hiệu lực của các thủ tục và tính liên tục của các thủ tục. Khi
cả ba mặt trên đều thỏa mãn thì các thủ tục kiểm soát đạt hiệu quả cao nhất, rủi ro
kiểm soát ở mức thấp.
Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là bộ phận độc lập được thiết lập trong đơn vị để tiến hành
công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu của quản trị nội bộ.
Bộ phận kiểm toán nội bộ sẽ phất huy tác dụng khi đủ hai điều kiện:

-Về tổ chức: kiểm toán nội bộ phải trực thuộc một cấp lãnh đạo cao để phạm
vi kiểm tốn khơng bị giới hạn, được giao quyền tương đối rộng rãi và hoạt động
tương đối độc lập với phịng kiểm tốn và các bộ phận được kiểm tra
-Về nhân sự: Bộ phận kiểm tốn nội bộ phải tuyển chọn các nhân viên có
năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp phù hợp với quy định hiện hành.
Tuy nhiên không phải đơn vị nào cũng có bộ phận kiểm tốn nội bộ. Kiểm
tốn viên nên lưu ý xem xét để bổ sung hiểu biết của mình về hệ thống kiểm sốt
nội bộ, từ đó có thể đánh giá chính xác hơn rủi ro kiểm sốt.
Trình tự đánh giá hệ thống kiểm sốt nội bộ
Để có được những đánh giá cụ thể và chính xác về rủi ro kiểm soát, kiểm toán
viên cần tiến hành đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ theo các bước sau:
Bước 1: Thu thập hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ. Kiểm toán viên thu thập
hiểu biết về thiết kế hệ thống kiểm soát nội bộ (về các thủ tục kiểm soát và bộ máy kiểm
soát) và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ xem có hiệu quả khơng. Cách thức
giúp kiểm tốn viên thu thập hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm:
- Dựa vào nghiệm trước đây của kiểm toán viên tiền nhiệm
- Thẩm vấn các nhân viên của đơn vị được kiểm toán
- Xem xét các sổ tay về chế độ, thể lệ, thủ tục của đơn vị được kiểm toán


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

- Kiểm tra các chứng từ, sổ sách đã hoàn tất
- Quan sát hoạt động của đơn vị
Sau khi thu thập hiểu biết về hệ thống kiểm sốt nội bộ, kiểm tốn viên mơ tả
hệ thống kiểm sốt nội bộ trên giấy làm việc thơng qua việc sử dụng một hoặc kết
hợp các phương pháp sau:
- Lập bảng câu hỏi về kiểm soát nội bộ

- Bảng tường thuật về kiểm soát nội bộ
- Vẽ lưu đồ
Bước 2: Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm sốt để lập kế hoạch kiểm tốn
Sau khi có được những hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên
đưa ra đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát theo từng mục tiêu kiểm toán chi tiết cho
từng loại nghiệp vụ, từng chu trình cụ thể. Công việc này bao gồm các bước:
- Nhận diện các mục tiêu kiểm sốt
- Nhận diện các q trình kiểm soát đặc thù
- Nhận diện các nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ
- Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát
- Xác định các phép thử nghiệm cần áp dụng
Khi hệ thống kiểm sốt nội bộ khơng hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả
hoặc không liên tục thì rủi ro kiểm sốt được đánh giá ở mức độ cao nhất, kiểm toán
viên cần thực hiện thử nghiệm cơ bản. Khi rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức thấp
hơn mức tối đa, kiểm toán viên sẽ dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ để giảm bớt
phạm vi các thử nghiêm cơ bản và thiết kế các thử nghiệm tuân thủ cần áp dụng.
Bước 3: Thực hiện các thử nghiệm kiểm soát (thử nghiệm tuân thủ)


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

Mục tiêu của thử nghiệm kiểm sốt là thu thập bằng chứng về tính hiệu quả
của quy chế và thủ tục kiểm soát để giảm bớt các thử nghiệm cơ bản trên số dư và
nghiệp vụ.
Thử nghiệm kiểm soát được thực hiện theo những phương pháp khác nhau
tùy trường hợp cụ thể
- Nếu thủ tục kiểm soát để lại dấu vết trên tài liệu kế tốn như chữ ký phê
duyệt, chữ ký tắt thì phương pháp kiểm tra tài liệu sẽ được áp dụng.

- Nếu thủ tục kiểm sốt khơng để lại dấu vết trên tài liệu, kiểm tốn viên có
thể quan sát các hoạt động kiểm soát, phỏng vấn nhân viên về thủ tục kiểm soát hay
thực hiện phương pháp làm lại (walk through)
Bước 4: Lập bảng đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Các thông tin trong
bảng bao gồm:
- Mục tiêu của kiểm soát nội bộ đối với từng khoản mục, chu trình
- Thơng tin về thực trạng mà kiểm tốn viên thu thập được
- Bản chất và tính hệ trọng của rủi ro tương ứng với thực trạng đó
- Đánh giá của kiểm toán viên về kiểm soát nội bộ đối với từng khoản mục
hay chu trình.

1.2.4. Đánh giá rủi ro phát hiện
Việc đánh giá rủi ro phát hiện rất quan trọng bởi vì dựa vào mức rủi ro được
xác lập, KTV sẽ lựa chọn quy mô, phạm vi, thời gian thực hiện thử nghiệm cơ bản
về nghiệp vụ và số dư cũng như số lượng bằng chứng cần thu thập.
Khi rủi ro phát hiện được đánh giá là cao, nghĩa là KTV chấp nhận khả năng
không phát hiện được các sai phạm cao nên sẽ tiến hành thu hẹp số lượng thử
nghiệm cơ bản. Khi rủi ro phát hiện được đánh giá là thấp, KTV không chấp nhận
những rủi ro của những bằng chứng khơng phát hiện sai sót và cần phải thu thập
một số lượng bằng chứng đáng kể.


Đề án mơn học

Khoa: Kế tốn

Việc đánh giá rủi ro phát hiện phụ thuộc rất nhiều vào mức độ đánh giá rủi ro
tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro kiểm tốn có thể chấp nhận được. Theo VSA
400: “Kiểm toán viên phải dựa vào đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát để xác định nội dung, lịch trình và phạm vi thử nghiệm cơ bản để giảm rủi ro

phát hiện và giảm rủi ro kiểm tốn xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được.”
Rủi ro phát hiện là rủi ro mà kiểm tốn viên sẵn sàng chấp nhận vì việc khơng tìm
thấy các sai sót nghiêm trọng trong các Báo cáo tài chính bằng các thể thức kiểm tốn,
với giả sử hệ thống kiểm sốt nội bộ đã khơng phát hiện và sửa chữa chúng. Đó là rủi ro
mà các phương pháp của kiểm tốn viên sẽ khơng phát hiện ra các sai phạm tồn tại riêng
rẽ hay mang tính hệ thống trong Báo cáo tài chính hay trong các giao dịch. Rủi ro phát
hiện được tính ra từ ba rủi ro kia trong mơ hình rủi ro kiểm tốn.
DR = AR / (IR x CR)
Rủi ro phát hiện tỉ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Khi rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá cao thì rủi ro phát hiện cần xác định ở
mức thấp để duy trì rủi ro kiểm tốn ở mức thấp có thể chấp nhận được. Ngược lại,
khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá thấp thì có thể chấp nhận mức
rủi ro phát hiện cao hơn nhưng vẫn đảm bảo rủi ro kiểm tốn ở mức có thể chấp nhận
được.
Sự biến động của rủi ro phát hiện dựa theo đánh giá của KTV về rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát được thực hiện trong bảng



×