Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

85 Rủi ro kiểm toán & quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.44 KB, 35 trang )

M ỤC L ỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................Error: Reference source not found
PHẦN I: LÍ LUẬN VỀ RỦI RO KIỂM TOÁN VÀ QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO
KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH....Error: Reference source not
found
1. Bản chất của rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính...Error:
Reference source not found
1.1. Khái niệm về rủi ro kiểm toán............Error: Reference source not found
1.2. Các loạn rủi ro kiểm toán...................Error: Reference source not found
1.2.1. Rủi ro tiềm tàng...............................Error: Reference source not found
1.2.2. Rủi ro kiểm soát (CR).....................Error: Reference source not found
1.2.3. Rủi ro phát hiện (DR)......................Error: Reference source not found
1.3. Mô hình rủi ro kiểm toán....................Error: Reference source not found
2. Quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC.............Error:
Reference source not found
2.1. Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn.Error: Reference source not
found
2.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng(IR).............Error: Reference source not found
2.3.Đánh giá rủi ro kiểm soát (CR)...........Error: Reference source not found
2.4.Xác định rủi ro phát hiện.....................Error: Reference source not found
PHẦN II: NHẬN XÉT CHUNG VỀ THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH.................Error: Reference source not found
1.Thực tế đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC Error: Reference
source not found
1.1. Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện BCTC.......Error: Reference
source not found
1.2. Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện số dư tài khoản và loại
nghiệp vụ...................................................Error: Reference source not found
2. Những hạn chế trong đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro
phát hiện.......................................................................................................27
1


3. Một số giải pháp hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong
kiểm toán BCTCO.....................................Error: Reference source not found
3.1. Hoàn thiện vấn đề đánh giá rủi ro kiểm soát Error: Reference source not
found
3.3. Hoàn thiện vấn đề đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện số dư tài
khoản và loại nghiệp vụ chi tiết cho từng cơ sở dẫn liệu......Error: Reference
source not found
PHẦN KẾT...........................................................................Error: Reference source not found
T ÀI LI ỆU THAM KH ẢO
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
BCTC : Báo cáo tài chính
HTKSNB : Hệ thống kiểm soát nội bộ
KTV : Kiểm toán viên
2
3
MỞ ĐẦU
Kiểm toán đang dần khẳng định vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam. Hiện nay dịch vụ kiểm toán BCTC vẫn là dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng doanh thu của các công ty kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Thực
hiện đánh giá rủi ro hiệu quả từ đó xác định một kế hoạch kiểm toán hợp lý là
một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả của
cuộc kiểm toán. Tuy nhiên trên thực tế công việc đánh giá rủi ro kiểm toán
trong kiểm toán BCTC của các công ty kiểm toán độc lập Việt Nam vẫn còn
nhiều điểm chưa hoàn thiện do đây là một công việc phức tạp đòi hỏi trình độ
cũng như phán đoán của KTV. Chính vì vậy việc tìm hiểu và hoàn thiện đánh
giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC là một vấn đề cần được quan tâm .
Do vậy em đã mạnh dạn chọn đề tài “ Rủi ro kiểm toán và quy trình đánh
giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính” cho đề án môn học
của mình nhằm góp phần giải quyết các vấn đề về lý luận và thực tiễn của
công tác đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC. Đề án được nghiên

cứu trên cơ sở những kiến thức đã học và tham khảo thêm các tài liệu của các
công ty kiểm toán, các tài liệu tự sưu tầm cộng với việc phân tích tổng hợp
đánh giá, trên cơ sở đó đề ra những giả pháp nhằm hoàn thiện đánh giá rủi ro
kiểm toán trong kiểm toán BCTC. Nội dung của đề án gồm hai phần:
Phần 1: Lý luận về rủi ro kiểm toán và quy trình đánh giá rủi ro kiểm
toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
Phần 2: Nhận xét chung về thực trạng đánh giá rủi ro kiểm toán trong
kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty kiểm toán độc lập tại Việt Nam
4
PHẦN I
LÍ LUẬN VỀ RỦI RO KIỂM TOÁN VÀ QUY TRÌNH
ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1. Bản chất của rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.1. Khái niệm về rủi ro kiểm toán
Trong kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính nói riêng, rủi ro kiểm
toán là khái niệm quen thuộc gắn liền với trách nhiệm của kiểm toán viên. Vì
vậy, việc hiểu rõ và quản lý tốt rủi ro kiểm toán là yếu tố quyết định trong
việc hạn chế rủi ro kinh doanh của các công ty kiểm toán.
Để hiểu được khái niện rủi ro kiểm toán trước hết ta cần hiểu chung về khái
niệm rủi ro.Theo từ điển tiếng việt, “ Rủi ro là tính từ để chỉ việc không may xảy
ra” hoặc “rủi ro là điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến”. Như vậy rủi ro
là điều không mong muốn. Trong các lĩnh vực khác nhau thì rủi ro lại có những
đặc trưng riêng. Trong lĩnh vực kiểm toán rủi ro kiểm toán đã được định nghĩa
trong các văn bản hướng dẫn kiểm toán và chuẩn mực kiểm toán như sau
Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 25(IAG25) “Rủi ro kiểm toán là
những rủi ro mà kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra nhận xét không
xác đáng về các thông tin tài chính và đó là các sai phạm trọng yếu. Ví dụ,
KTV có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ về một BCTC mà không biết
rằng các báo cáo này có những sai phạm trọng yếu”

Cụ thể hơn, theo chuẩn mực kiểm toán việt nam số 400 định nghĩa về
rủi ro kiểm toán: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do KTV và công ty kiểm toán
đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi BCTC đã được kiểm toán còn
nhiều sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: Rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện”
Như vậy các hội nghề nghiệp về kế toán kiển toán đều có chung một
nhận định về rủi ro kiểm toán. Rủi ro kiểmtoán được hiểu là khả năng mà
KTV đưa ra ý kiến không chính xác về đối tượng được kiểm toán. Chẳng hạn
5
KTV đưa ra ý kiến rằng BCTC của đơn vị được kiểm toán đã trình bày trung
thực hợp lý xét trên các khía cạnh trọng yếu,tuy nhiên trên thực tế các báo cáo
đã được kiểm toán này vẫn tồn tại các sai phạm trọng yếu mà KTV không
phát hiện ra trong quá trình kiểm toán. Loại rủi ro như vậy luôn luôn có thể
tồn tại ngay cả khi cuộc kiểm toán được lập kế hoạch chu đáo và thực hiện
một cách thận trọng. Rủi ro này sẽ tăng lên nếu việc lập kế hoạch kiểm toán
không tốt và thực hiện thiếu thận trọng.
Trong mỗi cuộc kiểm toán, rủi ro kiểm toán được xem xét trong quan
hệ với kế hoạch kiểm toán, lấy mẫu kiểm toán và lựa chọn phép thử nên rủi ro
kiểm toán được hiểu là khả năng sai sót và việc đánh giá rủi ro tiến hành qua
ước tính theo tỷ lệ từ 0% đến 100% hoặc sử dụng các định tính: cao, trung
bình, thấp.
Rủi ro kiểm toán xuất phát từ các sai lệch tiềm ẩn trong BCTC đã vượt
qua HTKSNB của đơn vị và không bị các thử nghiệm cơ bảncủa kiểm toán
viên phát hiện. Trong thực tiễn thì rủi ro kiểm toán thường xảy ra do giới hạn
về quản lý, về kiểm toán mà trực tiếp là chi phí kiểm toán và có quan hệ với
lượng bằng chứng kiểm toán thu được. Rủi ro kiểm toán tỉ lệ nghịch với
lượng bằng chứng kiểm toán thu được. Tuy nhiên ngay cả khi đã thu thập
được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thì rủi ro kiểm toán vẫn tồn tại.
1.2. Các loạn rủi ro kiểm toán
1.2.1. Rủi ro tiềm tàng

Kiểm toán viên phải xem xét rủi ro tiềm tàng (IR). Theo từ điển Thuật
ngữ Kiểm toán – Kế toán Anh Việt: “ Rủi ro tiềm tàng là khả năng báo cáo tài
chính của doanh nghiệp chứa đựng các sai phạm trọng yếu trước khi xem xét
đến tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Các sai
phạm này có thể được xem xét khi đứng một mình hoặc được tập hợp với các
sai phạm khác trong các khoản cân đối trong tài liệu khác có liên quan”.
Theo nguyên tắc kiểm toán Quốc tế Số 25 – “ Trọng yếu và rủi ro”, Mục
13 quy định: “ Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài khoản hoặc
của một loại nghiệp vụ đối với những sai sót có thể là nghiêm trọng, những
sai sót này có thể là đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với sai sót ở các số dư, các
6
nghiệp vụ khác ( ở đây giả định rằng không có các quy chế kiểm soát nội bộ
có liên quan). Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh cũng như nằm trong bản chất
của các số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ.”
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 – “ Đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội bộ”, Mục 04 quy định: “ Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do
khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính
riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ”.
Như vậy, rủi ro tiềm tàng là khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu
trong BCTC bắt nguồn từ đặc tính của loại hình kinh doanh và năng lực nhân
viên của khách thể kiểm toán trước khi xem xét đến tính hữu hiệu của
HTKSNB. KTV không tạo ra và cũng không kiểm soát được rủi ro tiềm tàng,
họ chỉ có thể đánh giá chúng.
1.2.2. Rủi ro kiểm soát (CR)
Rủi ro kiểm soát là khả năng mà hệ thống kiểm soát nội bộ của khách
hàng kiểm toán không phát hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm
trọng yếu hoặc gian lận. Nguyên tắc kiểm toán Quốc tế số 25, Mục 14 quy
định: “ Rủi ro kiểm soát là rủi ro do xác định sai, có thể xảy ra với một số dư
tài khoản hoặc một loại nghiệp vụ và có thể là sai sót nghiêm trọng. Những

sai sót này xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót của các số dư, các
nghiệp vụ khác mà HTKSNB đã không ngăn chặn hoặc không phát hiện kịp
thời. Rủi ro kiểm soát sẽ luôn xuất hiện và khó tránh khỏi vì những hạn chế
có tính bản chất của bất cứ HTKSNB nào”.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 – “ Đánh giá rủi ro và kiểm soát
nội bộ”, Mục 05 quy định: “ Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu
trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng
rẽ hoặc tính gộp mà HTKSNB và hệ thống kế toán không ngăn ngừa hết hoặc
không phát hiện và sửa chữa kịp thời”.
Như vậy, rủi ro kiểm soát là khả năng HTKSNB của đơn vị kiểm
toán không phát hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm
trọng yếu. Cũng giống như rủi ro tiềm tàng, KTV không tạo ra rủi ro
7
kiểm soát và cũng không kiểm soát chúng. KTV chỉ có thể đánh giá
HTKSNB của đơn vị được kiểm toán và từ đó đưa ra mức rủi ro kiểm
soát dự kiến..
1.2.3. Rủi ro phát hiện (DR)
KTV phải xem xét rủi ro phát hiện. Một cách chung nhất, rủi ro phát
hiện là khả năng mà các thủ tục kiểm toán không phát hiện được các sai phạm
trọng yếu. Theo nguyên tắc kiểm toán Quốc tế số 25, Mục 15 ghi: “ Rủi ro
phát hiện là những rủi ro mà kiểm toán viên không phát hiện ra các sai sót
hiện có trong số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ. Những sai sót này có
thể là nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót trong các
số dư, các loại nghiệp vụ khác”.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 – “ Đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội bộ”, Mục 06 ghi: “ Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu
trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng
rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, KTV và công ty kiểm toán
không phát hiện được”.
Như vậy, rủi ro phát hiện là khả năng mà các thủ tục kiểm toán không

phát hiện được các sai phạm trọng yếu. Nếu như rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát tồn tại một cách độc lập, KTV không can thiệp được mà chỉ có
thể đánh giá chúng thì ngược lại, KTV phải có trách nhiệm thực hiện các
thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán quản lý và kiểm soát đối với rủi
ro phát hiện..
1.3. Mô hình rủi ro kiểm toán
Thực chất rủi ro kiểm toán xảy ra khi BCTC chứa đựng các sai phạm
trọng yếu nhưng KTV lại nhận xét rằng chúng được trình bày trung thực, hợp
lý. Rủi ro này xuất phát từ các sai lệch tiềm ẩn trong BCTC ( rủi ro tiềm tàng)
đã vượt qua HTKSNB của đơn vị ( rủi ro kiểm soát) và không bị các thử
nghiệm kiểm toán của KTV phát hiện ( rủi ro phát hiện ). Do đó rủi ro kiểm
toán là tổng hợp của ba loại rủi ro: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro
phát hiện. Mục 07 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 – “ Đánh giá rủi
ro và kiểm soát nội bộ” và Nguyên tắc kiểm toán Quốc tế số 19 – “ Lấy mẫu
8
kiểm toán” đều khẳng định: “ Rủi ro kiểm toán gồm ba bộ phận: rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện”. Để phục vụ cho quá trình đánh giá
rủi ro kiểm toán, các nhà chuyên môn thường sử dụng mô hình sau để biểu
diễn mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và các bộ phận cấu thành:
AR = IR.CR.DR (1)
Trong đó:
- AR: Rủi ro kiểm toán
- IR: Rủi ro tiềm tàng
- CR: Rủi ro kiểm soát
- DR: Rủi ro phát hiện
Mô hình này được KTV sử dụng để đánh giá tính hợp lý của kế hoạch
kiểm toán. KTV có thể sử dụng mô hình này để điều chỉnh rủi ro phát hiện
dựa trên các loại rủi ro khác đã được đánh giá nhằm đạt được rủi ro kiểm toán
ở mức thấp mà KTV kì vọng. Có thể xét ví dụ minh họa sau:
KTV chuẩn bị tiến hành một cuộc kiểm toán. KTV kì vọng rủi ro kiểm

toán ở mức tương đối thấp, khoảng 0,03 ( có nghĩa là bình quân có khoảng
3% các quyết định của KTV là không xác đáng). Rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát đã được KTV đánh giá dựa trên kinh nghiệm, óc xét đoán nghề
nghệp và có minh chứng cụ thể. Giả sử KTV cho rằng lĩnh vực kinh doanh
của khách hàng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao nên rủi ro tiềm tàng được đánh giá
ở mức 0,9 và HTKSNB của doanh nghiệp hoạt động hữu hiệu nhưng với thái
độ nghi ngờ thích đáng, KTV đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức 0,7. Khi đó
KTV phải điều chỉnh sao cho rủi ro phát hiện không vượt quá mức 0,047 để
đảm bảo rủi ro kiểm toán ở mức 0,03 như kỳ vọng.
Mô hình (1) ít được sử dụng vì rủi ro kiểm toán thường được KTV
xác định trước và khó thay đổi trong một cuộc kiểm toán. Do vậy, KTV
mong muốn xác định rủi ro phát hiện để lập kế hoạch kiểm toán hơn là
điều chỉnh rủi ro phát hiện theo rủi ro kiểm toán( AR). Mặt khác, rủi ro
tiềm tàng (IR) và rủi ro kiểm soát ( CR) luôn có tính chất cố hữu, KTV
chỉ có thể đánh giá chứ không thể tác động vào chúng. Vì vậy, mô hình
(1) không thể hiện tính chất “tác động được” của KTV đối với rủi ro phát
9
hiện. Do đó, để phục vụ tốt hơn cho việc lập kế hoạch kiểm toán và xét
trong mối quan hệ với bằng chứng kiểm toán, mô hình rủi ro kiểm toán
thường được sử dụng dưới dạng thứ hai:
AR
DR =
IR.CR
Với mô hình (2), rủi ro phát hiện(DR) là đối tượng chính quan tâm của
KTV. Mô hình này thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa rủi ro kiểm toán (AR)
và rủi ro phát hiện (DR) cũng như tính chất tác động “ tác động được” của rủi
ro phát hiện (DR). Mặt khác, mô hình (2) còn biểu hiện được mối quan hệ
giữa rủi ro phát hiện (DR) và số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập
trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán. Vẫn xét ví dụ ở mô hình (1): Giả thiết
rủi ro tiềm tàng (IR) và rủi ro kiểm soát (CR) không thay đổi, KTV có thể

chấp nhận rủi ro kiểm toán mong muốn ở mức 0,05, khi đó rủi ro phát hiện
(DR) được tính ra theo công thức ở mô hình (2):
DR =
0,05
0,8
0,9 0,7x
=

Do đó khố lượng công việc và số lượng bằng chứng kiểm toán mà
KTV cần thu thập ít hơn so với trường hợp rủi ro kiểm toán mong muốn ở
mức 0,03. Với mô hình (2), rủi ro kiểm toán thường được xác định trước cuộc
kiểm toán theo tiêu chuẩn của từng công ty kiểm toán và được gọi là rủi ro
kiểm toán mong muốn ( DAR – Designed Audit Risk). Vì vậy mô hình (2)
thường được thể hiện dưới dạng:
DR =
DAR
IR x CR
Trong một cuộc kiểm toán, rủi ro không bao giờ được loại trừ một cách
chắc chắn. Vì vậy, khái niệm rủi ro kiểm toán mong muốn thể hiện mức độ kỳ
vọng của KTV đối với một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Rủi ro kiểm
toán mong muốn được xác định một cách chủ quan theo kinh nghiệm và óc
xét đoán nghề nghiệp của KTV. Khi KTV cho rằng rủi ro kiểm toán mong
muốn (DAR) bằng 0 có nghĩa là KTV tin tưởng BCTC của khách hàng không
tồn tại bất cứ sai phạm trọng yếu nào. Đây là trường hợp lý tưởng cho mọi
cuộc kiểm toán nhưng không bao giờ xảy ra. Lĩnh vực kiểm toán là một lĩnh
10
vực tương đối hơn tuyệt đối, vì vậy KTV chỉ có thể kết luận BCTC đã được
trình bày, trung thực hợp lý xét trên các khía cạnh trọng yếu chứ không thể
khẳng định chắc chắn trung thực, hợp lý xét trên mọi khía cạnh. Ngược lại,
khi rủi ro kiểm toán ở mức 1 hay 100%, KTV cho rằng BCTC của khách hàng

đã bị làm sai lệch nghiêm trọng trên nhiều khía cạnh trọng yếu. Vì vậy, biên
độ giao động của rủi ro kiểm toán mong muốn biến đổi từ 0 đến 1 hay từ 0%
đến 100%.
Việc đưa ra mức rủi ro kiểm toán mong muốn mang tính chủ quan của
KTV. Tuy nhiên, mức rủi ro kiểm toán mong muốn mà KTV đưa ra phải đủ
thấp để những người quan tâm có thể sử dụng BCTC đã kiểm toán của khách
hàng làm cơ sở ra quyết định, hạn chế các loại rủi ro trong kinh doanh.
Quá trình nghiên cứu về các loại rủi ro đã chỉ ra mối quan hệ qua lại
chặt chẽ giữa chúng. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khác rủi ro phát hiện
và rủi ro kiểm toán ở chỗ: chúng tồn tại độc lập, khách quan với các thông tin
tài chính, không phụ thuộc vào ý muốn và ý chí của KTV, KTV cũng không
thể tác động để làm thay đổi hai loại rủi ro này. Mối quan hệ qua lại giữa các
loại rủi ro trong kiểm toán tài chính đã được ghi rõ trong Mục 16, Nguyên tắc
kiểm toán Quốc tế số 25: “ Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khác với rủi ro
phát hiện ở chỗ các rủi ro này tồn tại độc lập với các thông tin tài chính. Rủi
ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh
và môi trường quản lý của doanh nghiệp cũng như trong bản chất của số dư
tài khoản, các loại nghiệp vụ cho dù việc kiểm toán có tiến hành hay không.
Thậm chí các rủi ro này không được KTV kiểm tra đến. KTV có thể đánh giá
các rủi ro này và thiết kế các phương pháp kiểm toán cơ bản để hạn chế rủi ro
phát hiện đến mức có thể chấp nhận được. Bằng cách đó mà giảm rủi ro kiểm
toán đến mức có thể chấp nhận được”. Cách xác định quan hệ này được xây
dựng theo mô hình rủi ro kiểm toán thứ nhất (mô hình 1), tức là rủi ro kiểm
toán bị điều chỉnh bởi rủi ro phát hiện, chưa thể hiện được tính chất phụ thuộc
của rủi ro phát hiện vào rủi ro kiểm toán mong muốn và rủi ro tiềm tàng cũng
như rủi ro kiểm soát.

11
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát thường biến đổi cùng chiều với nhau và do
vậy thường được đánh giá chung khi đánh giá rủi ro kiểm toán. Nếu doanh nghiệp

hoạt động tronh lĩnh vực kinh doanh mang tính mạo hiểm cao, rủi ro tiềm tàng
lớn, mặc dù HTKSNB của doanh nghiệp hoạt động hữu hiệu nhưng rủi ro kiểm
soát phải luôn được đánh giá ở mức trung bình hoặc trên mức trung bình vì những
hạn chế cố hữu của HTKSNB và vì rủi ro kiểm soát luôn luôn tồn tại.
Ngược lại với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, KTV có thể tác động
vào rủi ro kiểm toán và rủi ro phát hiện. Trong từng hoàn cảnh cụ thể, KTV sẽ
dự kiến mức rủi ro kiểm toán mong muốn trên cơ sở đảm bảo tính đáng tin
cậy của BCTC sau khi kiểm toán và chi phí kiểm toán. Rủi ro phát hiện được
tính toán theo mô hình (2) sau khi đã xác định được rủi ro kiểm toán mong
muốn và đánh giá được rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Vì vậy, KTV
không những nhận thức được mà còn có thể tác động vào rủi ro phát hiện.
Với một mức rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định trước, từ mô hình
(2) có thể rút ra kết luận: rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, do vậy, rủi ro phát hiện cũng tỷ lệ nghịch với số
lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Nếu như rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát được đánh giá cao thì rủi ro phát hiện được tính toán sẽ thấp, khi đó số lượng
bằng chứng kiểm toán cần thu thập nhiều, phạm vi kiểm toán mở rộng và khối
lượng công việc kiểm toán tăng. Ngược lại khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát
được đánh giá thấp thì rủi ro phát hiện cao, khi đó KTV chỉ cần thu thập số lượng
bằng chứng kiểm toán nhỏ hơn cũng đủ cơ sở đưa ra kết luận kiểm toán.
Bảng 1.1. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
với số lượng bằng chứng kiểm toán
AR IR CR DR
Số lượng bằng
chứng cần thu thập
Cao Thấp Thấp Cao Thấp
Thấp Thấp Thấp Trung bình Trung bình
Thấp Cao Cao Thấp Cao
Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình
Cao Thấp Trung bình Trung bình Trung bình


12
2. Quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC
Theo chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 về “ Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ” thì: Khi xác định phương pháp tiếp cận kiểm toán, KTV
phải quan tâm đến những đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm
soát để xác định mức độ rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được cho cơ sở dẫn
liệu của BCTC và xác định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục cơ
bản cho cơ sở dẫn liệu đó”.
Như vậy, mục đích của việc đánh giá rủi ro kiểm toán là để xác định
mức rủi ro phát hiện làm cơ sở cho lập kế hoạch các thử nghiệm kiểm toán sẽ
áp dụng. Từ mô hình rủi ro kiểm toán, ta thấy rủi ro phát hiện được xác định
trên cơ sở những đánh giá về rủi ro kiểm toán mong muốn, rủi ro tiềm tàng và
rủi ro kiểm soát.
2.1. Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn
Rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định ngay trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán, nó được xác định một cách chủ quan và phụ thuộc vào hai
yếu tố cơ bản:
Một là, mức độ mà theo đó người sử dụng bên ngoài tin vào BCTC
Trong cơ chế thị trường, có rất nhiều người quan tâm đến tình hình tài
chính và sự phản ánh của nó trong tài liệu kế toán mà trực tiếp là BCTC.
Những người quan tâm này có thể là: các cơ quan Nhà nước ( cần có thông tin
trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế) ; các nhà đầu tư ( cần có thông tin
trung thực để có hướng đầu tư đúng đắn, điều hành sử dụng vốn đầu tư và ăn
chia phân phối kết quả đầu tư); các nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà quản
lý khác ( cần thông tin trung thực để có quyết định kinh doanh đúng đắn);
người lao động, khách hàng, nhà cung cấp...
Khi nhiều người sử dụng bên ngoài đặt niềm tin vào các BCTC thì những
sai lệch trọng yếu trên BCTC dễ gây tác hại trên phạm vi rộng. Do vậy, trong
trường hợp này KTV cần xác định một mức rủi ro kiểm toán thấp, từ đó tăng

số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập và tăng độ chính xác trong các
kết luận đưa ra của mình.
13
Một số yếu tố chỉ ra mức độ mà theo đó các BCTC được người sử dụng
bên ngoài tin tưởng là:
Thứ nhất, quy mô của đơn vị được kiểm toán: quy mô của đơn vị có thể
được đo bằng tổng tài sản, tổng doanh thu, hoặc tổng thu nhập. Quy mô càng
lớn thì BCTC càng được sử dụng rộng rãi và rủi ro kiểm toán mong muốn cần
đánh giá ở mức thấp hơn
Thứ hai, quyền sở hữu: Nếu quyền sở hữu doanh nghiệp thuộc về
nhiều bên tham gia hơn thì sẽ có nhiều người quan tâm đến BCTC hơn và
rủi ro kiểm toán mong muốn cũng cần được đánh giá ở mức thấp hơn và
ngược lại
Thứ ba, bản chất và quy mô của công nợ. Các khoản công nợ là những
khoản chắc chắn có liên quan tới một bên thứ ba cho vay, cho nợ. Các chủ nợ
hiện tại và tiềm năng thường quan tâm đến tình hình tài chính của công ty đặc
biệt là khả năng thanh toán để xem xét có tiếp tục duy trì và cho doanh nghiệp
vay tiếp hay không. Vì thế, khi BCTC bao gồm một số lượng lớn các khoản
công nợ hoặc các khoản công nợ có quy mô lớn thì chúng có khả năng được
sử dụng rộng rãi hơn.
Hai là, khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo
kiểm toán công bố
Nếu khách hàng gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm toán
được công bố thì khả năng KTV sẽ liên quan tới các vụ kiện của các bên do
sử dụng BCTC được kiểm toán là rất lớn. Chính vì thế, trong trường hợp này,
KTV phải thiết lập ngay từ đầu một mức rủi ro kiểm toán mong muốn thấp
hơn để đề phòng các trường hợp bị các bên có liên quan kiện. Trường hợp này
sẽ dẫn đến chi phí kiểm toán cao hơn nhưng KTV vẫn phải xác định rủi ro
kiểm toán ở mức thấp hợp lý.
Việc dự đoán khả năng thất bạim khó khăn của đơn vị được kiểm toán

trong tương lai là một vấn đề rất phức tạp. Tuy nhiên, KTV có thể dựa vào
một số yếu tố sau để dự đoán sự kiện này:
Thứ nhất, khả năng hoán chuyển thành tiền mặt. Nếu một doanh nghiệp
thường xuyên thiếu tiền và vốn lưu động thi có thể doanh nghiệp sẽ gặp khó
14

×