Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Địa lý tự nhiên và địa mạo việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.6 KB, 18 trang )

Địa lý tự nhiên và địa mạo Việt Nam
I. Đặc điểm chung về điều kiện tự nhiên Việt Nam
1. Vị trí địa lý
Mọi người chúng ta thường hình dung lãnh thổ nước Việt Nam có hình chữ
S, nằm ở rìa đông của bán đảo Đông Dương thuộc lục địa Đông Nam Á cùng với
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ngoài khơi và hàng ngàn đảo quây quần trong
các vũng vịnh ven bờ. Lãnh thổ hình chữ S đó chỉ là hình ảnh phần đất liền của Tổ
Quốc, có diện tích khoảng 330 ngàn km
2

1)
(kể cả các đảo ven bờ). Với các tuyên bố
của Chính phủ Việt Nam năm 1977 và 1982 và phù hợp với công ước của Liên
Hiệp Quốc về Luật biển 1982, Việt Nam còn có một vùng nội thủy, nơi chủ quyền
quốc gia đầy đủ và tuyệt đối như trên đất liền, lại còn có vùng lãnh hải rộng 12 hải
lý, vùng tiếp giáp lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyền về kinh tế 200 hải lý tính từ
đường cơ sở và thềm lục địa với diện tích tổng cộng gần 1 triệu km
2
.
Tọa độ địa lý phần đất liền:
∗ Điểm cực bắc: 23
o
24’ vĩ Bắc, thuộc xã Lũng Cú, Đồng Văn, Hà Giang
∗ Điểm cực nam: 8
o
34’ vĩ Bắc, thuộc xã Đất Mũi, Ngọc Hiển, Cà Mau
∗ Điểm cực tây: 102
o
09’ kinh Đông, thuộc xã Sín Thầu, Mường Nhé, Điện
Biên
∗ Điểm cực đông: 109


o
28’ kinh Đông, thuộc xã Vạn Thạnh, bán đảo Hòn
Gốm, Khánh Hòa.
Như vậy phần đất liền phân bố kéo dài theo phương B-N là 14
o
50’ vĩ độ
(tương ứng khoảng 1630km), và theo phương Đ-T là 7
o
19’ kinh độ (khoảng
780km). Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phân bố rộng về phía đông Biển Đông
đến tận kinh tuyến 117
o
10’Đ, về phía bắc đến vĩ tuyến 17
o
15’B và về phía nam đến
vĩ tuyến 6
o
30’B, cũng có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa riêng.
Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài khoảng 4500km, tiếp giáp với
Trung Quốc ở phía bắc (1350km), với Lào ở phía tây (2067km) và với Campuchia
ở phía tây nam (1080km); còn biên giới trên biển tiếp giáp với Trung Quốc,
Philippin, Inđônêsia, Malaysia, Thái Lan và Campuchia.
2. Địa hình
Lãnh thổ đất liền Việt Nam là một xứ núi, với ¾ diện tích là núi đồi, thuộc 2
hệ thống núi chính. Phía đông thung lũng sông Hồng là những cánh cung núi và cao
nguyên đá vôi thuộc hệ núi Việt-Trung. Đặc trưng của các cánh cung này là có hình
rẻ quạt, mở ra về phía bắc, đông bắc và chụm lại ở vùng Tam Đảo-Thái Nguyên,
với các khối núi cao đến trên dưới 2000m (Tây Côn Lĩnh 2419m, Pia Oăc
1930m, ). Phía tây, tây nam thung lũng sông Hồng cho đến tận Nam Trung Bộ là

hệ núi Đông Đông Dương, gồm nhiều dải núi khác nhau: Tây Bắc Bộ, Bắc Trung
Bộ và Nam Trung Bộ. Các khối và dãy núi Tây Bắc Bộ (từ thung lũng sông Hồng
đến thung lũng sông Cả) song song và kéo dài theo phương TB-ĐN, với nhiều đỉnh
núi cao trên dưới 3000m (Phan Si Pan 3143m
2)
, Pu Si Lung 3076m, Phu Luông
2985m, ) và giới hạn bên trong nhiều lòng chảo giữa núi như Điện Biên, Than
Uyên, Nghĩa Lộ, Dãy núi Trường Sơn kéo dài từ thung lũng sông Cả đến thung
1
)
Tập Bản đồ hành chính Việt Nam năm 2005 (NXB Bản đồ): diện tích cả nước là 329.314,6km
2
2
)
Có tài liệu xác định là 3147,3m, 3148m hoặc 3148,3m
1
lũng sông Đà Rằng có phương chủ yếu TB-ĐN ở phía bắc, chuyển dần sang kinh
tuyến ở phía nam, với các đỉnh núi trên 2000m (Xai Lai Leng 2711m, Rào Cỏ
2235m, Ngọc Linh 2598m, ). Dãy núi này ở Bắc Trung Bộ gắn với đường biên
giới Việt-Lào, đến Trung Trung Bộ có hình cung ôm lấy ở phía tây các cao nguyên
Kon Tum và Plây Cu, đồng thời giới hạn ở phía sườn ĐB của nó là các đồng bằng
ven biển hẹp, ngăn cách với nhau bởi các mạch núi nhánh đâm ngang ra sát biển.
Phía nam thung lũng Đà Rằng đến Đông Nam Bộ là các dãy và khối núi Cực Nam
Trung Bộ, phương ĐB-TN và kinh tuyến, với các đỉnh cao trên dưới 2000m (Chư
Yang Sin 2405m, Lang Biang 2167m, Braian 1864m, ), ôm lấy các cao nguyên và
bình sơn rộng lớn ở phía tây bắc: cao nguyên Đắc Lắc, Mơ Nông, Di Linh và Lâm
Viên (cũng gọi là bình sơn Đà Lạt).
Đồng bằng Việt Nam đã được khai phá và cải tạo từ lâu đời gồm đồng bằng
hạ lưu sông Hồng và Mê Công rộng lớn, cùng các đồng bằng ven biển miền Trung,
nhỏ hẹp hơn. Đồng bằng sông Hồng (còn gọi là đồng bằng Bắc Bộ) có diện tích trên

15 ngàn km
2
, gồm đồng bằng thềm ở ven rìa cao 10-15m và đồng bằng châu thổ ở
trung tâm cao 2-5m.
Đồng bằng Nam Bộ gồm 2 phần, nửa phía ĐB là đồng bằng Đông Nam Bộ
tạo bởi các thềm phù sa cao 10-25m đến 100m xen các lớp phủ đá bazan, diện tích
khoảng 20 ngàn km
2
; nửa phía TN là đồng bằng châu thổ Cửu Long (Tây Nam Bộ),
diện tích gần 40 ngàn km
2
, cao trung bình 2-3m.
Biển Đông là một biển rìa trong chuỗi biển rìa Tây Thái Bình Dương gồm
biển Ôkhôt, Nhật Bản, Hoa Đông, Biển Đông và một số biển khác. Biển Đông có
diện tích khoảng 3,45triệu km
2
, sâu trung bình 1140m, nơi sâu nhất 5567m
3)
với
khối lượng nước 3,93triệu km
3
. Biển Đông trải dài theo phương ĐB-TN, dài khoảng
3100km, rộng 1000km với 2 vịnh lớn là vịnh Bắc Bộ (150.000km
2

4)
) và vịnh Thái
Lan (293.000km
2 4)
), ăn sâu vào lục địa Đông Nam Á. Từ độ sâu 200m trở xuống

Biển Đông có dạng một hình thoi với 2 cạnh trùng phương kinh tuyến (khoảng
109
o
Đ và120
o
Đ), có trục dài (ĐB-TN) 2200km và trục ngắn (TB-ĐN) 1250km.
Thềm lục địa bằng phẳng, sâu đến 200m, đôi nơi tới 400-500m hoặc hơn, trên đó
phân bố hệ thống đảo ven bờ. Tiếp đến là sườn lục địa, sâu từ 200m đến 3500-
4000m, có địa hình phân dị mạnh mẽ; đáy biển thẳm ở độ sâu 3500-4000m đến
5500m, địa hình khá bằng phẳng.
3. Khí hậu
Khí hậu Việt Nam (phần đất liền) thuộc nội chí tuyến (nhiệt đới) gió mùa
ẩm, ở phía nam chuyển dần sang tính chất á xích đạo. Nhiệt độ trung bình năm ở
phía Bắc (bắc đèo Hải Vân) là 22-25
o
C, còn ở phía Nam là 25
o
-27
o
C. Lượng mưa
trung bình năm ở các đồng bằng thường trên 1500mm, còn ở các vùng núi tới 2000-
3000mm, đôi nơi trên 3000mm (Hoàng Liên Sơn, Ngọc Linh, ). Một số nơi do địa
hình che khuất lượng mưa chỉ còn trên dưới 700mm (Mường Xén, Phan Rang).
Mưa rơi không đều trong năm, mùa mưa chiếm tới 80-85% lượng mưa cả năm.
Ở Việt Nam lượng bốc hơi trung bình năm khoảng 1000mm, nhưng cũng
phân hóa mạnh theo không gian. Phía bắc đèo Ngang (vĩ tuyến 18
o
B) lượng bốc hơi
năm nhỏ hơn 1000mm, trong khi về phía nam đèo này đều vượt quá 1000mm, cao
nhất là ở Cam Ranh (2326mm). Vùng núi Bắc Bộ có lượng bốc hơi thấp nhất,

3
)
Có tài liệu ghi là 5016m, 5559m hoặc 5560m
4
)
Có tài liệu ghi là 126.250km2 và 462.000km2, có thể do cách xác định cửa vịnh khác nhau
2
khoảng 500-800mm/năm (Mường Khương 489mm, Hoàng Liên Sơn 494mm).
Độ ẩm tương đối ở Việt Nam thường trên 80%, ở miền Bắc khoảng 80-85%,
còn ở miền Nam thấp hơn, khoảng 78-83%, và cũng phân hóa theo vùng.
Khí hậu nước ta có 2 mùa mưa và khô rõ rệt. Miền Bắc, Nam Bộ và Tây
Nguyên có mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm
sau. Riêng vùng duyên hải Trung Bộ do yếu tố địa hình (dãy Trường Sơn) mà xuất
hiện mưa nhiều vào mùa đông, gió khô nóng (gió Lào) vào mùa hạ, nên mùa mưa
nằm lệch từ tháng 8 đến tháng 1 năm sau. Mùa bão thường trùng vào mùa mưa,
trung bình 3-4trận/năm, xuất hiện nhiều ở phía bắc từ tháng 7 đến tháng 11, nhiều
nhất vào tháng 9-10. Đặc biệt ở miền Bắc do tác động của khối không khí lạnh cực
đới từ phía bắc tràn xuống mà hình thành một mùa đông dài 3 tháng (từ tháng 12
đến tháng 2 năm sau) với nhiệt độ trung bình tháng xuống dưới 18
o
C, còn nhiệt độ
tối thiểu ở đồng bằng có thể xuống đến 2-3
o
C, ở trên núi có nơi xuống dưới 0
o
C và
có năm có tuyết rơi (Lạng Sơn, Sa Pa).
Nhiều tác giả coi ở Việt Nam (phần lục địa) có 2 đới tự nhiên mà ranh giới là
dãy Bạch Mã (vĩ tuyến 16
o

B): phía Bắc thuộc đới rừng chí tuyến gió mùa và phía
Nam là đới rừng á xích đạo gió mùa [7].
Có sự tương đồng giữa khí hậu trên lục địa và khí hậu trên Biển Đông Việt
Nam. Ngoài dải biển nông và các đảo ven bờ phụ thuộc khá chặt chẽ vào các vùng
khí hậu đất liền, khí hậu ngoài khơi Biển Đông được chia thành 2 miền: miền khí
hậu nhiệt đới (chí tuyến) đại dương Bắc Biển Đông và miền khí hậu á xích đạo đại
dương Nam Biển Đông, mà ranh giới giữa chúng là khoảng vĩ tuyến 14-15
o
B [1].
Đặc điểm của miền khí hậu Bắc Biển Đông là có nhiệt độ không khí trung bình năm
26,7
o
, tháng thấp nhất (tháng 1) 23,3
o
C và mùa hè tháng cao nhất (tháng 5) là 29
o
C;
lượng mưa nhỏ, khoảng 1100mm. Trong khi miền khí hậu Nam Biển Đông có nhiệt
độ không khí luôn cao, ổn định và biến thiên theo mùa không lớn: nhiệt độ trung
bình năm 27,9
o
C, có 2 cực đại vào tháng 5 (29,2
o
C) và tháng 8 (28,2
o
C) và cực tiểu
vào tháng 1 (26,8
o
C), biên độ nhiệt năm 2,5
o

C. Lượng mưa tương đối cao
(2000mm) và có sự phân chia mùa rõ rệt (mưa nhiều vào các tháng từ 9 đến 11).
Mùa đông trên biển có gió hướng đông bắc chiếm ưu thế từ tháng 10 đến
tháng 4 (tần suất 60-70%). Gió tây nam ưu thế từ tháng 5 đến tháng 9; tại Bắc Biển
Đông gió tây nam và nam cùng có tần suất khoảng 30%, trong khi ở Nam Biển
Đông gió tây nam mạnh hơn, tần suất 40%, còn gió nam 20%. Tốc độ gió trung
bình năm là 6,5m/s, mùa đông lớn hơn mùa hạ (7,0m/s so với 5,5m/s); gió trong bão
vượt quá 30-40m/s.
4. Thủy văn lục địa
Hình thái mạng lưới sông ngòi Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ vào cấu trúc địa
chất-địa mạo, nhất là các hệ thống đứt gãy, trong khi đó hoạt động của hệ thống
sông ngòi lại do điều kiện khí hậu quyết định, với sự phân hóa theo mùa và theo
lãnh thổ rất mạnh mẽ.
Hướng chảy chính của các hệ thống sông lớn là TB-ĐN và hình vòng cung.
Mạng lưới sông suối dầy đặc, mật độ trung bình gần 1km sông suối trên 1km
2
, dọc
bờ biển cứ khoảng 20km lại gặp 1 cửa sông. Có tất cả 2360 con sông (có 4 ở trên
đảo) dài trên 10km, chủ yếu là sông nhỏ; chỉ có 9 hệ thống sông có chiều dài dòng
chính trên 200km và diện tích lưu vực trên 10.000km
2
(Mê Công, Hồng, Đồng Nai,
Mã, Cả, Ba, Thái Bình, Kỳ Cùng-Bằng và Thu Bồn). Hàng năm sông ngòi Việt
3
Nam vận chuyển ra Biển Đông đến 839tỷ m
3
nước
5)
; trong đó hệ thống sông Mê
Công chiếm nhiều nhất, khoảng 507tỷ m

3
(60,4%), tiếp sau là hệ thống sông Hồng,
127tỷ m
3
(15,1%). Thành phần dòng chẩy mặt của tổng lượng nước trên là 76%
(637tỷ m
3
/năm); trong đó lượng nước được sản sinh tại nước ta là 226tỷ m
3
/năm
(35,5%), còn phần sinh từ bên ngoài lãnh thổ là 411tỷ m
3
/năm (64,5%) [5].
Sông ngòi Việt Nam có modul dòng chảy lớn, trên 30 l/s/km
2
, nhưng phân
bố không đều; lớp dòng chảy trung bình đạt 974mm/năm, với hệ số dòng chảy gần
0,50, tức gần bằng nửa lớp mưa năm.
Mùa lũ thường kéo dài 3 đến 6 tháng, trung bình 4 tháng/năm. Lượng mưa
mùa lũ chiếm từ 50-55% đến 85-90%, trung bình 70-75% tổng lượng nước cả năm.
Tháng có lưu lượng bình quân lớn nhất chiếm trung bình 26-28% tổng lượng nước
cả năm. Mùa lũ và tháng có lũ lớn nhất có xu hướng chậm dần từ Bắc vào Nam, từ
tháng 7-8 ở Bắc Bộ đến tháng 10-11 ở Nam Trung Bộ.
Tổng lượng cát bùn vận chuyển trong sông suối nước ta trên 200triệu
tấn/năm
6)
trong đó phần lưu vực bên ngoài lãnh thổ cung cấp 85% [5]. Lượng cát
bùn của sông Hồng (đo tại Sơn Tây) chiếm tới 114triệu tấn/năm (57%)
6)
, còn của

sông Mê Công (tại Nam Bộ) có 70triệu tấn/năm (35%)
6)
. Độ đục bình quân của
sông Hồng (tại Sơn Tây) trước khi thủy điện Hòa Bình vận hành là 1010g/m
3
và chỉ
còn 677g/m
3
sau đó; như vậy lượng bùn cát qua Sơn Tây chỉ còn 76,4triệu tấn/năm,
tức đã giảm đi 37,6triệu tấn, do chủ yếu được giữ lại tại hồ Hòa Bình
7)
.
5. Hải văn
Hoàn lưu nước mặt Biển Đông phản ánh tổng hợp chế độ gió mùa trên biển
và đặc điểm địa hình đáy biển và bờ biển, có ảnh hưởng quyết định đến chế độ nhiệt
và một phần chế độ muối lớp nước hoạt động của biển. Trong vịnh Bắc Bộ tồn tại
quanh năm 1 xoáy thuận của dòng chảy lớp nước mặt, trong khi ở vịnh Thái Lan lại
biến đổi theo mùa: mùa gió ĐB phát triển xoáy thuận, còn mùa gió TN-xoáy nghịch
[1]. Ngoài khơi có sự phân hóa rõ rệt giữa Bắc và Nam Biển Đông vào mùa gió ĐB
và cả mùa gió TN. Vào tháng 4 thời gian chuyển tiếp, hình thành 2 xoáy thuận ở
Bắc và Nam Biển Đông. Đến tháng 6-tháng 8 khi gió TN mạnh, tạo một xoáy
nghịch quy mô lớn ở Nam Biển Đông, và ranh giới phía bắc của xoáy này có đường
chia dòng TN-ĐB tại vĩ tuyến 14-15
o
B. Vào thời kỳ gió ĐB mạnh (tháng 12-tháng
2) trên Biển Đông phát triển một hoàn lưu xoáy thuận quy mô lớn, hoặc 2 xoáy
thuận đồng thời trên khu vực Bắc và Nam Biển Đông, và những xoáy nghịch quy
mô nhỏ ở phía Đông Nam (Calimantan) và Đông Bắc (Luxôn).
Theo các đặc trưng lý hóa (nhiệt độ và độ muối), nước Biển Đông có thể
chia thành 5 khối nước theo mặt cắt đứng: khối nước mặt, dưới tầng mặt, trung

gian, tầng sâu và khối nước đáy [1]. Dưới tác động của các khối nước bên ngoài
Biển Đông do chế độ gió mùa, đã tạo nên 3 loại cấu trúc nước của Biển Đông: cấu
trúc nhiệt đới, cấu trúc nhiệt đới biến tính và cấu trúc nhiệt đới xích đạo [1]. Chúng
có đặc điểm về nhiệt độ, độ muối khác nhau vào mùa đông và mùa hè và phân hóa
giữa Bắc và Nam Biển Đông với ranh giới là vĩ tuyến 14-15
o
B.
5
)
Có tài liệu: 880tỷ m
3

6
)
Số liệu về tổng lượng bùn cát rất khác nhau: có tác giả cho các con số tương ứng là 300triệu tấn (tổng
lượng) -130triệu tấn (sông Hồng)-100triệu tấn (Cửu Long); hoặc: 350triệu tấn (tổng lượng)-120triệu tấn
(sông Hồng)-170triệu tấn (Cửu Long). Lượng cát bùn của hệ thống Cửu Long lệch nhau quá lớn (70/170),
cần nghiên cứu tiếp
7
)
Có tài liệu ghi hàng năm hồ Hòa Bình giữ lại 48triệu tấn bùn cát, thậm chí đến 80triệu tấn
4
Sóng trên Biển Đông nhìn chung không lớn, phụ thuộc vào chế độ gió mùa,
với mùa gió ĐB sóng lớn hơn mùa gió TN. Vào mùa đông số ngày sóng cao hơn
cấp V (2,0-3,5m) chỉ chiếm 20-30%, trong khi mùa gió TN chỉ còn 10-20%. Trong
bão, sóng có thể cao tới 18m.
Thủy triều Biển Đông rất đặc sắc và có sự phân hóa mạnh [1]. Do đặc điểm
địa hình bờ và đáy biển, chế độ triều biển ven bờ Việt Nam rất đa dạng và có đủ 4
kiểu triều chính trên thế giới là nhật triều đều và không đều, bán nhật triều đều và
không đều, trong đó tính chất nhật triều chiếm ưu thế. Từ Bắc vào Nam chế độ triều

phân hóa thành 5 khu vực.
Vùng biển ven bờ từ Quảng Ninh đến Bắc Quảng Bình ưu thế là nhật triều,
trong đó khu vực Hòn Gai-Hòn Dấu thuộc chế độ nhật triều đều, độ cao triều đến
3,6m, cực đại của chu kỳ 19 năm đạt 4,35m.
Từ Nam Quảng Bình đến Bắc Quảng Nam chuyển sang chế độ bán nhật
triều với biên độ nhỏ, trong đó tại cửa Thuận An có chế độ bán nhật triều đều, độ
cao mực nước luôn nhỏ hơn 0,5m.
Từ Nam Quảng Nam đến Ninh Thuận, biển ven bờ lại thuộc chế độ nhật
triều không đều, độ cao triều kỳ nước cường chỉ 1,2-1,6m. Từ Bình Thuận đến mũi
Cà Mau chuyển lại chế độ bán nhật triều không đều, độ cao triều 2,0-3,5m. Khu
vực Cà Mau-Hà Tiên chuyển sang chế độ nhật triều không đều, độ cao nước triều
khoảng 1,0m.
Kết quả nghiên cứu của các nhà hải dương học Việt Nam [1] cho thấy trên
Biển Đông vùng nhật triều đều và không đều chiếm hầu khắp diện tích biển, với độ
lớn triều đáng kể ở vịnh Bắc Bộ (trên 5m) và độ lớn vừa phải (1-2m) ở các vùng
còn lại.
6. Thổ nhưỡng
Thổ nhưỡng phần đất liền và hải đảo Việt Nam mạng nặng tính địa đới nội
chí tuyến gió mùa ẩm, với sự hình thành phổ biến đất feralit đỏ vàng. Tuy nhiên do
các yếu tố thành tạo đất vốn đa dạng và phức tạp, trong đó phải kể điều kiện khí
hậu, thủy văn, đá mẹ, địa hình, và con người khai phá mạnh mẽ, mà thổ nhưỡng
Việt Nam đa dạng về kiểu loại và phức tạp về tính chất. Theo kết quả tổng hợp trên
lãnh thổ Việt Nam tồn tại 12 nhóm đất với 32 loại đất khác nhau [7].
Thuộc về đất địa đới có 5 nhóm, trong đó có 17 loại đất, gồm: nhóm đất
feralit đỏ vàng (có 5 loại đất); nhóm đất đen (4 loại); đất feralit nâu đỏ (5 loại); đất
xám (2 loại); đất xói mòn trơ sỏi đá (1 loại). Đất phi địa đới có 2 nhóm với 3 loại
đất: nhóm đất mùn feralit vàng đỏ trên núi thấp (1 loại); đất mùn alit trên núi trung
bình và núi cao (có 2 loại).
Đất nội địa đới (trên đất phù sa bồi tích) có 5 nhóm và 12 loại đất: nhóm đất
thung lũng (1 loại); nhóm đất phù sa (4 loại); đất phèn (2 loại); đất mặn (2 loại) và

đất cát (3 loại đất).
Do sự phân bố dạng khảm của nền địa chất, tính phân cắt mạnh mẽ của nền
địa hình, cùng sự phân hóa của điều kiện khí hậu mà thổ nhưỡng Việt Nam phân
hóa rất mạnh trong không gian. Trong công trình Bản đồ đất Việt Nam [6] đã tiến
hành phân vùng địa lý thổ nhưỡng Việt Nam với 4 cấp là miền, á miền, khu và
vùng. Phần lục địa Việt Nam có 2 miền địa lý thổ nhưỡng Bắc và Nam mà ranh giới
cũng đi qua Bạch Mã-Hải Vân. Kết quả đã chia ra 6 á miền và 16 khu thổ nhưỡng
và cuối cùng là 142 vùng thổ nhưỡng.
5
7. Sinh vật
Sinh vật trên lãnh thổ Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng, với hệ địa-
sinh thái rừng nội chí tuyến ẩm là hệ nguyên sinh đặc trưng của tự nhiên phần lục
địa và hải đảo nước ta. Theo thống kê, nước ta có tới 14.624 loài thực vật, trong đó
có 9.949 loài sống ở đai rừng nội chí tuyến gió mùa chân núi và 4.675 loài sống tại
các đai rừng á chí tuyến và ôn đới trên núi [7]. Về động vật có tới 11.217 loài và
phân loài, trong đó có 223 loài thú, 272 loài bò sát, 828 loài chim,
Trong Biển Đông Việt Nam đã biết có trên 530 loài thực vật phù du và trên
650 loài động vật phù du, khoảng 6000 loài sinh vật đáy; trong trên 2000 loài cá
biển có 50 loài có sản lượng đánh bắt cao, với trữ lượng khoảng 2,7triệu tấn. Cũng
đã biết có khoảng trên 200 loài tôm, khoảng 50 loài mực, trên 650 loài rong, và
khoảng 500 loài san hô đặc trưng cho vùng biển nội chí tuyến, phát triển phong phú
ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [1].
Trên phần đất liền đã chia ra 12 hệ địa-sinh thái chính [7], bao gồm rừng
rậm, rừng thưa, xa van nội chí tuyến; rừng rậm á chí tuyến, rừng ôn đới trên núi;
rừng ngập mặn, rừng tràm, cồn cát ven biển và cuối cùng là hệ địa-sinh thái nông
nghiệp.
Các hệ địa-sinh thái trên biển rộng lớn còn chưa được nghiên cứu hệ thống.
Như vậy những đặc trưng cơ bản của tự nhiên Việt Nam có thể ghi nhận:
∗ Việt Nam là một quốc gia nửa bán đảo và nửa quần đảo, thuộc đai nội chí
tuyến gió mùa ẩm.

∗ Tự nhiên Việt Nam phân hóa mạnh theo không gian và đa dạng, có lịch sử
phát triển lâu dài.
∗ Tự nhiên Việt Nam mang đậm dấu ấn hoạt động của con người.
II. Phân vùng tự nhiên Việt Nam
Để phân vùng địa lý tự nhiên Việt Nam (thống nhất cả lục địa và biển) chúng
tôi sử dụng 4 cấp phân vị chính là: Xứ, Miền, Khu và Vùng
8)
. Đây là một việc làm
mới mẻ, nhất là đối với Biển Đông Việt Nam, nơi tài liệu nghiên cứu địa lý còn hạn
chế và phương pháp luận phân vùng cho biển còn chưa thống nhất nên chỉ có tính
chất sơ bộ và gợi mở, và còn dựa nhiều vào yếu tố địa chất-địa mạo.
Trước hết là vấn đề định danh cho các phần lãnh thổ của Biển Đông
9)
. Đặc
điểm của Biển Đông là vực biển sâu nằm lệch hẳn về phía Đ và ĐB, như vậy trung
tâm Biển Đông cũng có xu hướng nằm lệch về Đ và ĐB. Chúng tôi đề nghị coi
điểm giao cắt của vĩ tuyến 14
o
B và kinh tuyến 115
o
Đ là trung tâm Biển Đông (hình
1). Như vậy, điểm trung tâm O của Biển Đông nằm cách bờ biển Việt Nam (OM)
612km, cách bờ Philippin (ON) 600km, cách bờ Trung Quốc (OP) 960km và cách
bờ Brunây (OQ) 1078km. Vĩ tuyến 14
o
B và kinh tuyến 115
o
Đ chia Biển Đông thành
4 phần, có thể được gọi là các khu vực (hoặc khu): Khu vực TB Biển Đông (A), ĐB
Biển Đông (B), ĐN Biển Đông (C) và TN Biển Đông (D).

Vĩ tuyến 14
o
B chia Biển Đông thành 2 phần Bắc và Nam, còn kinh tuyến
115
o
Đ cũng chia Biển Đông thành 2 phần Đông và Tây.
Để xác định vị trí tương đối các đối tượng trên biển thuận tiện hơn nữa có thể
8
)
Theo các chỉ tiêu được các nhà địa lý thường sử dụng. Bán đảo Đông Dương và Biển Đông thuộc cấp phân
vị Xứ
9
)
Trên đất liền từ lâu việc định danh đã tương đối thống nhất: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ; và các cấp nhỏ
hơn: Đông Bắc Bộ, Tây Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan cũng đã thống nhất, tuy
rằng ranh giới cửa vịnh là còn khác nhau.
6
quy định thêm một không gian bao quanh điểm trung tâm, gọi là khu giữa Biển
Đông (G), nằm giữa quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, có diện tích khoảng
281.000km
2
(tọa độ: 12
o
B-16
o
B và 112
o
Đ-118
o
Đ). Như vậy Biển Đông có 11 khu

vực đã được định danh.
Ngoài ra các khu vực biển nông trên thềm lục địa cũng thường được gọi là
các vùng biển ven bờ và gắn với tên các tỉnh tiếp giáp; TD: vùng biển ven bờ Quảng
Nam-Quảng Ngãi.
Phần lục địa Việt Nam được chia thành 2 miền địa lý tự nhiên với ranh giới
qua dãy Bạch Mã-Hải Vân (vĩ tuyến 16
o
B).
Miền địa lý tự nhiên Biển Đông được chia ra chủ yếu dựa vào sự phân hóa
của điều kiện khí hậu, hoàn lưu nước mặt và tính chất nhiệt-muối của khối nước
mặt. Có 2 miền là miền Bắc và Nam Biển Đông mà ranh giới giữa chúng là vào
khoảng vĩ tuyến 14-15
o
B. Đó là sự phân hóa có tính chất địa đới nhưng đã chịu ảnh
hưởng sâu sắc của các điều kiện phi địa đới (biển rìa, lục địa, quần đảo, đáy biển,
bờ). Còn các khu và vùng địa lý tự nhiên Biển Đông được hình thành do sự phân
hóa các yếu tố phi địa đới địa chất-địa mạo, kết hợp với các yếu tố lý-hóa, sinh học
và động lực của khối nước biển.
Toàn bộ lãnh thổ lục địa và biển Việt Nam (và vùng biển lân cận) thuộc 2 xứ
và có thể phân chia thành 4 miền, 15 khu và 47 vùng địa lý tự nhiên (bảng 1, hình
2).
Bảng 1. Phân vùng địa lý tự nhiên Việt Nam
Xứ Miền Khu Vùng
A.
Bán
đảo
Đông
Dương
A1.
Miền

Bắc
Việt
Nam
trong
đới rừng
nhiệt
đới gió
mùa
I. Khu Bắc
và Đông
Bắc Bộ
1. Vùng Bắc Hà-Đồng Văn, núi và cao nguyên.
2. Vùng Lô-Gâm, núi đồi
3. Vùng Ngân Sơn-Bắc Sơn, núi cánh cung
4. Vùng Đông Triều-Cao Xiêm, núi cánh cung
II. Khu
Tây Bắc và
Cực Bắc
Trung Bộ
5. Vùng Mường Tè, núi
6. Vùng Điện Biên-Sơn La, núi và cao nguyên
7. Vùng Hoàng Liên Sơn, núi
8. Vùng Hòa Bình, núi
9. Vùng Tây Thanh-Nghệ, núi
10. Vùng Sông Hồng, đồng bằng
11. Vùng Mã-Cả, đồng bằng
III. Khu
Bắc Trung
Bộ
12. Vùng Trường Sơn Bắc, núi

13. Vùng Đồng Hới-Huế, đồng bằng
A2.
Miền
Nam
Việt
Nam
trong
đới rừng
á xích
đạo gió
IV. Khu
Trung
Trung Bộ
14. Vùng Ngọc Linh-Kon Ka Kinh, núi
15. Vùng Nam-Ngãi, núi-đồng bằng
16. Vùng Bình-Phú, núi-đồng bằng
17. Vùng Kon Tum-PlâyCu, núi và cao nguyên
18. Vùng Đắc Lắc, cao nguyên và đồng bằng cao
V. Khu
Cực Nam
Trung Bộ
19. Vùng Đắc Nông-Di Linh, núi và cao nguyên
20. Vùng Lâm Viên, núi và bình sơn
21. Vùng Bình Thuận, núi và đồng bằng
7
mùa
VI. Khu
Nam Bộ
22. Vùng Bình Phước-Đồng Nai, cao nguyên và
đồng bằng cao

23. Vùng Tây Ninh-Bình Dương, đồng bằng
thềm
24. Vùng Cửu Long, đồng bằng châu thổ
B.
Biển
Đông
B1.
Miền
Bắc
Biển
Đông
nhiệt
đới đại
dương
I. Khu
Vịnh Bắc
Bộ
1. Vùng Tây Vịnh Bắc Bộ, thềm lục địa-đảo
2. Vùng Trung tâm Vịnh Bắc Bộ, thềm lục địa
3. Vùng Đông Vịnh Bắc Bộ, thềm lục địa
II. Khu
Đông
Trung Bộ
4. Vùng Đông Nam-Ngãi, thềm lục địa
5. Vùng Đông Bình-Khánh, thềm lục địa-đảo
III. Khu
Đông Hải
Nam-Trạm
Giang
6. Vùng Đông Nam Trạm Giang, thềm lục địa

7. Vùng Đông Hải Nam, thềm lục địa
IV. Khu
Hoàng Sa
8. Vùng Bắc Hoàng Sa, máng trũng
9. Vùng Hoàng Sa, cao nguyên và đảo
10. Vùng Đông Nam Hoàng Sa, sườn và diềm
lục địa
V. Khu
Đông Bắc
Biển Đông
11. Vùng Tây Luxôn, trũng biển thẳm
12. Vùng Giữa-Bắc Biển Đông, trũng biển thẳm
B2.
Miền
Nam
Biển
Đông á
xích đạo
đại
dương
VI. Khu
Giữa-Nam
Biển Đông
13. Vùng Giữa-Nam Biển Đông, trũng biển thẳm
VII. Khu
Trường Sa
14. Vùng Đông Nam Trung Bộ, đồng bằng sườn
và diềm lục địa
15. Vùng Tây Trường Sa, gò đồi sườn và diềm
lục địa

16. Vùng Trường Sa, cao nguyên và núi, đảo
17. Vùng Đông Nam Trường Sa, máng trũng
18. Vùng Nam Trường Sa, đồng bằng sườn lục
địa
VIII. Khu
Tây Nam
Biển Đông
19. Vùng Côn Sơn-Phú Quý, thềm lục địa-đảo
20.Vùng Cảnh Dương-Tư Chính, thềm lục địa-
cao nguyên
21. Vùng Nam Đông Sơn, thềm lục địa-đồng
bằng
IX. Khu
Vịnh Thái
Lan
22. Vùng Phú Quốc-Thổ Chu, thềm lục địa-đảo
23. Vùng Trung tâm vịnh Thái Lan, thềm lục địa
III. Vài nét về đặc điểm địa mạo lãnh thổ Việt Nam
Như trên đã trình bày lãnh thổ Việt Nam bao gồm khoảng 330 ngàn km
2
đất
liền và gần 1 triệu km
2
nội thủy, lãnh hải và vùng đặc quyền về kinh tế. Đặc điểm
8
chung nhất của địa hình Việt Nam là tính đa dạng và sự phân hóa sâu sắc theo
không gian. Những đặc điểm đó sẽ được xem xét tách riêng thành 3 phần: địa mạo
phần lục địa; đảo và quần đảo; và địa mạo đáy biển.
A. Địa mạo phần lục địa
Có thể nêu 4 đặc điểm cơ bản của địa mạo phần lục địa Việt Nam: phản ánh

rõ rệt các yếu tố địa chất-kiến tạo; cũng phản ánh sâu sắc tính chất khí hậu nội chí
tuyến; phân hóa mạnh mẽ trong không gian; đồng thời có một lịch sử phát triển lâu
dài.
1. Phản ánh yếu tố địa chất-kiến tạo
Nét đặc trưng về sơn văn của bán đảo Đông Dương là sự phân bố của các hệ
núi ở ven rìa bao quanh các cao nguyên thấp và đồng bằng ở trung tâm, thể hiện nét
chung nhất về đặc điểm Tân kiến tạo khu vực, nhất là những tác động tương hỗ giữa
bán đảo này với các lãnh thổ lân cận trong quá trình dịch ngang (trượt, xoay) [3].
Một trong các đặc điểm của địa hình lãnh thổ lục địa là tính phân bậc rất rõ
rệt dù bị phân cắt mạnh mẽ, với 9 bậc chính: 0-100, 100-300, 300-600, 600-900,
900-1200, 1200-1600, 1600-2000, 2000-2500 và > 2500m. Chúng phản ánh các giai
đoạn san bằng địa hình và tính phân dị mạnh của các hoạt động nâng hạ Tân kiến
tạo.
Các dãy núi và cao nguyên và kể cả các bồn trũng giữa núi và trước núi
thường có dạng khối tảng, khống chế bởi các hệ thống đứt gãy trẻ (thường là kế
thừa), là các tuyến, đới bị dập vỡ thuận lợi cho các hệ thống sông suối đặt lòng theo.
Điều đó cắt nghĩa hầu hết các đứt gãy quan trọng trên lãnh thổ Việt Nam đều mang
tên sông: Sông Hồng, Sông Chảy, Sông Lô, Sông Đà, Sông Mã, Sông Cả, Sông
Hậu,
Trên địa hình, phân biệt rất rõ 3 kiểu mặt san bằng (MSB), đó là mặt đỉnh
các khối núi (mặt khởi thủy), MSB chưa trọn vẹn trên sườn và các mặt ven thung
lũng [3].
Mặt đỉnh vốn là các phần sót lại của một peneplen rộng lớn tuổi Paleogen
Trung (E
2
), được gọi là bề mặt Đông Dương. MSB chưa trọn vẹn là các pediplen, có
dạng cao nguyên, bình sơn, ở các độ cao khác nhau từ 300-400m đến 1400-1800m,
có tuổi Neogen, được gọi là bề mặt Đà Lạt (N
1
) và bề mặt Tây Nguyên (N

2
). Bề mặt
ven thung lũng, có độ cao từ 100-200m đến 600-700m, là các pedimen và pediplen,
tuổi Q
1
1-2
, được gọi là bề mặt Ea Súp [3].
Đặc điểm biến dạng các MSB nêu trên phản ánh chuyển động kiến tạo chủ
yếu trong Neogen-Đệ tứ, nhất là từ Pliocen.
Nâng mạnh nhất là các dãy núi địa lũy ở Tây Bắc Bộ (Pu Si Lung, Phan Si
Pan) với di tích MSB Paleogen trên độ cao 2000-2500m. Ở Bắc Bắc Bộ nâng vòm-
khối tảng mạnh (Quản Bạ, Đồng Văn), MSB Paleogen có độ cao 1500 đến 2000m.
Trường Sơn Bắc có dạng một địa lũy-vòm kéo dài, mặt Miocen nghiêng từ 1200
xuống 400m. Khối Ngọc Linh là một vòm-khối tảng lớn có sườn đông dốc, ở trung
tâm mặt Paleogen cao 2000-2100m, hạ thấp dần về nam tới 1500m. Khối Lâm Viên
cũng có cấu tạo vòm-khối tảng, phía tây bắc có khối địa lũy Chư Yang Sin (mặt
Paleogen cao tới 2000m), phía sườn đông là một vách kiến tạo-xâm thực lớn
(Krông Pha), với mặt Pliocen đổ rất dốc từ độ cao 800m xuống 200m.
Cấu trúc địa hình của các cao nguyên bazan phân bố rộng rãi ở miền Nam
9
cũng phản ánh rất rõ các đặc điểm địa chất-kiến tạo
10)
. Phun trào bazan bắt đầu từ
Miocen
11)
, gồm 2 kiểu: kiểu khe nứt và kiểu trung tâm. Vào Neogen bazan trào lên
theo khe nứt khi mặt địa hình đã được san phẳng (với đồng bằng bóc mòn, bóc
mòn-tích tụ) tạo lớp phủ rộng lớn. Còn từ cuối Pliocen-Pleistocen bazan phun trào
trên địa hình về cơ bản đã được nâng lên và phân cắt.
Điều kiện địa chất-kiến tạo phức tạp và đa dạng của nền móng lãnh thổ cũng

được thể hiện ở sự phong phú của các kiểu kiến trúc hình thái (KTHT), là các dạng
địa hình mà sự sinh thành chúng có vai trò chủ đạo của các yếu tố nội sinh. Đã chia
ra 3 nhóm KTHT chính là KTHT gây dựng, KTHT phá hủy và KTHT trung gian
[3].
Trong nhóm KTHT gây dựng trước hết có kiểu magma sinh, gồm các núi
vòm-khối tảng và khối tảng tạo bởi đá xâm nhập (vòm Sông Chảy, Phu Hoạt, ),
các cao nguyên tạo bởi đá phun trào bazan (Kon Ha Nừng, Mơ Nông, ). Các núi
địa lũy, núi khối tảng, khối tảng-vòm, khối tảng-uốn nếp, trên các đá biến chất, trầm
tích tuổi khác nhau (Tú Lệ, Tam Đảo, Cao Xiêm, Trường Sơn Bắc, Ngọc Linh, )
thuộc kiểu kiến tạo sinh. Các bình sơn khối tảng (cao nguyên) trên đá carbonat
(Đồng Văn, Mộc Châu, ) và các bình sơn khối tảng-uốn nếp trên các kiến trúc
không đồng nhất (Đà Lạt, ) thuộc kiểu bóc mòn-kiến tạo sinh. KTHT phá hủy gồm
các đồng bằng ven rìa và trung tâm võng giữa núi thuộc kiểu kiến tạo sinh (đồng
bằng Bắc Bộ và Nam Bộ); các lòng chảo và thung lũng giữa núi cũng như các đồng
bằng ven biển rìa võng thuộc kiểu bóc mòn-kiến tạo sinh (Cao Bằng, Nghĩa Lộ,
Sông Ba, Huế, ). KTHT trung gian gồm đồng bằng bóc mòn trước núi dạng lượn
sóng trên kiến trúc không đồng nhất (Ea Súp).
Như vậy phần đất liền của Việt Nam thuộc xứ núi tái sinh, phát triển liên
quan với cấu tạo khối tảng của vỏ Trái đất, với phân bố rộng rãi nhất là các KTHT
địa lũy, khối tảng, khối tảng-vòm, với hình thái trên bình đồ dạng tuyến thẳng, vòng
cung hoặc đẳng thước.
2. Phản ánh tính chất khí hậu nội chí tuyến gió mùa
Tính chất khí hậu nội chí tuyến được thể hiện trước hết ở tốc độ và đặc điểm
của các quá trình phong hóa và xói mòn lãnh thổ [3].
Nghiên cứu cường độ bóc mòn miền đồi núi Việt Nam chứng tỏ lãnh thổ này
bị phá hủy bề mặt mạnh mẽ. Từ vĩ tuyến 14
o
30’B (Nam Quảng Ngãi) trở ra Bắc
phần lớn diện tích thuộc cấp bóc mòn mạnh (0,30-0,40mm/năm) đến cực mạnh
(>0,50mm/năm).

Tốc độ phong hóa đá bazan ở Nam Việt Nam là lớn, 0,03-0,05mm/năm kể từ
đầu Q
1
2
. Để so sánh có thể thấy thời gian tạo vỏ phong hóa bauxit ở Việt Nam ngắn
hơn ở Ấn Độ và ở Tây Phi đến 15-20 lần, một phần do yếu tố gió mùa quyết định
12)
.
Chính khí hậu nội chí tuyến gió mùa đã tạo ra cho Việt Nam phong phú các
dạng địa hình nguồn gốc ngoại sinh, còn gọi là chạm trổ hình thái (CTHT), tạo nên
sự đa dạng của cảnh quan.
Trước hết là địa hình karst nhiệt đới đã được nhiều chuyên khảo mô tả. Với
diện tích khoảng 55.000 km
2
chủ yếu ở phía Bắc, karst nhiệt đới Việt Nam có phong
10
)
Hình thái cao nguyên bazan với lớp vỏ phong hóa dầy lại phản ánh điều kiện khí hậu nội chí tuyến-gió
mùa
11
)
Trong các bồn trũng thềm lục địa, phun trào bazan từ Oligocen
12
)
Điều này được chúng tôi giải thích còn do yếu tố nội sinh: tốc độ nâng kiến tạo của các cao nguyên bazan
Nam Việt Nam cao gấp đến 10 lần các địa phương đó, đã thúc đẩy quá trình tạo vỏ phong hóa
10
phú các di sản địa chất-địa mạo, đã tạo ra nhiều thắng cảnh nổi tiếng trong nước và
thế giới với 2 di sản thiên nhiên thế giới (Hạ Long
13)

và Phong Nha-Kẻ Bàng), bởi
tính độc đáo của cảnh quan núi sót, tháp, nón, các hang động với măng đá, chuông
đá, rèm đá, hồ nước, phễu ngầm, sông ngầm và các vi dạng địa hình carư, mũi đá,
rãnh đá, lưỡi đá, Karst nhiệt đới Việt Nam còn quý giá ở chỗ cùng lúc thể hiện
đầy đủ các giai đoạn phát triển, các thế hệ khác nhau, từ sơ sinh cho đến già nua.
Hình thái các cao nguyên bazan đồi thoải với vỏ phong hóa rất dầy và thưa
dòng chảy mặt cũng là một sản phẩm của khí hậu nội chí tuyến khác hẳn với bề mặt
đá gốc bazan lởm chởm vùng ôn đới. Căn cứ vào đặc điểm vỏ phong hóa và tính
chất phân cắt của dòng chảy người ta có thể phân biệt tuổi tương đối của các lớp
phủ bazan. Các cao nguyên bazan cổ (N) với vỏ phong hóa laterit cứng và dầy,
thường bị các sông suối cấp 4, 5 cắt rất sâu để lộ móng đá gốc, trong khi các vòm
bazan trẻ (Q) chưa hoặc mới bị phân cắt nông bởi các suối cấp 1, 2, mà vỏ phong
hóa thường mỏng hơn và tơi xốp.
Ở Việt Nam, rất phong phú các núi sót, tạo bởi các đá magma, biến chất hoặc
đá carbonat. Chúng cũng là sản phẩm của khí hậu nhiệt đới, có độ cao từ vài trăm
đến 700-800m. Trên núi sót đá granit, rất phổ biến ở đới ven biển Nam Trung Bộ,
thường gặp sườn “trọng lực nhiệt đới” với hai phần: phía trên là các vách khối đá
gốc, bên dưới là các khối đá khá tròn cạnh nằm lăn chồng chất trên sườn phong hóa
sét dốc 20-30
o
(kiểu Đèo Cả).
Địa hình đồi phân bố rộng rãi ở phần chuyển tiếp giữa đồng băng với núi
thấp (vùng trung du)
14)
, mà điển hình nhất là ở vùng Phú Thọ, cũng không thể khác
hơn là sản phẩm của chế độ khí hậu nhiệt đới ẩm. Nó phản ánh quá trình xâm thực
rửa trôi trên một vỏ phong hóa sét rất dầy tại nơi nền địa chất bình ổn (hoặc nâng
nhẹ) dưới tác động của những trận mưa rào.
Mật độ rậm rạp của sông suối (1 km/1 km
2

) là sản phẩm trực tiếp của khí
hậu, nhưng không chỉ có thế, mà trắc diện dọc của chúng cũng nói lên điều đó:
sông ngòi nhiệt đới ẩm phải mang nặng bùn cát (sản phẩm của vỏ phong hóa hóa
học dầy) không còn đủ lực và phương tiện (cuội, tảng) để bào phẳng đáy sông. Hiện
tượng đó, cùng với đặc điểm phong hóa chọn lọc do thạch học khác nhau của đá
nền, đã tạo cho lòng sông suối lắm thác ghềnh, nhất là ở phần thượng lưu. Hệ thống
sông Đồng Nai có rất nhiều thác trong đó có những thác đẹp nổi tiếng: Liên
Khương, Gù Gà, Pông Qua; sông Cả từ Cửa Rào trở lên có đến trên 100 thác.
Các đồng bằng châu thổ rộng lớn Bắc Bộ và Nam Bộ, và ngay cả các đồng
bằng nhỏ hẹp ven biển Trung Bộ đều có bề mặt bằng phẳng, cấu tạo bởi thành phần
hạt mịn (sét, bùn cát) và đa nguồn gốc, nhất là luôn có yếu tố sinh vật (rừng ngập
mặn và lợ). Các đặc điểm đó đều nói lên xuất xứ nhiệt đới ẩm của chúng. Cũng
tương tự như vậy vùng bờ biển nhiệt đới Việt Nam thường gặp kiểu bờ cấu tạo bởi
vách mài mòn và thềm đá san hô và carbonat, hoặc bờ bãi triều rừng ngập mặn sú
vẹt; và nhìn chung ở vùng nhiệt đới Việt Nam bờ tích tụ luôn vượt trội so với bờ
mài mòn. Vài chục năm gần đây bờ tích tụ nhiều nơi bị xói lở nghiêm trọng, do
nhiều nguyên nhân (nước biển dâng, chế độ khí tượng hải văn biến động mạnh, ).
3. Đặc điểm phân hóa địa hình trong không gian
13
)
Tạo nên kiểu karst nhiệt đới Hạ Long, với nón tháp karst bị biển tràn ngập
14
)
Nhiều nhà địa lý đã coi vùng trung du Bắc Bộ là một bán bình nguyên (peneplain), thậm chí có tuổi Trung
sinh! Thật ra vùng này có nhiều nguồn gốc: một phần do bóc mòn núi thấp, một phần do phân cắt thềm sông,
một phần là pediplain; chúng đều có tuổi Đệ tứ
11
Do cấu trúc phức tạp của địa hình núi và độ kéo dài tương đối lớn của đất
nước theo chiều kinh tuyến nên đã xảy ra sự phân dị khá rõ của các quá trình ngoại
sinh và các dạng địa hình do chúng tạo ra (tức CTHT) theo phương Bắc-Nam và

theo đai cao. Đặc điểm khác nhau của CTHT ở Bắc và Nam lãnh thổ đất liền, ngoài
chế độ khí hậu còn liên quan với sự khác nhau về lịch sử địa chất, kiến tạo, hoạt
động magma và quá trình trầm tích. Nếu như ở miền Bắc phát triển rộng rãi địa hình
karst, địa hình dãy núi cao kéo dài song song, sườn dốc, thung lũng địa hào, địa
hình đồi điển hình, đồng bằng bóc mòn-tích tụ xâm thực bị phân cắt thì ở miền Nam
lại phong phú địa hình cao nguyên bazan, bình sơn dạng “xếp tầng”, khối núi và núi
sót, cũng như đồng bằng bóc mòn-tích tụ rộng rãi, phân cắt yếu.
Cũng quan sát thấy phân dị địa hình theo đai cao, do tác động tương hỗ của
các quá trình nội sinh và ngoại sinh khác nhau.
Ở đai thấp (dưới 600-800m), trong điều kiện nâng kiến tạo yếu và vừa, khí
hậu nội chí tuyến, đã xảy ra quá trình tạo vỏ phong hóa mạnh mẽ, trong khi quá
trình bóc mòn và vận chuyển lớp phủ còn chưa đủ mạnh. Đó là tiền đề bảo tồn trong
đai này các mỏ vỏ phong hóa và sa khoáng.
Ở đai trung bình (600-800m đến 1800-2000m) nơi nâng kiến tạo mạnh, trong
điều kiện nhiệt độ không khí hạ thấp và lượng mưa tăng lên, quá trình tạo vỏ đã yếu
đi nhưng hoạt động phá hủy địa hình lại tăng lên; hình thành các đỉnh và sống núi
đá sắc nhọn.
Ở đai núi cao (trên 2000m) có khí hậu lạnh, ẩm, mưa giảm, quá trình phong
hóa hóa học yếu đi, có tích tụ mùn và rửa trôi bề mặt, bóc mòn cũng yếu đi, tuy
rằng quá trình sườn trọng lực vẫn phát triển mạnh mẽ, chủ yếu do sự thúc đẩy từ các
đai dưới.
Như vậy nếu như phân dị địa hình theo phương nằm ngang (B-N) được xác
định chủ yếu bởi sự khác biệt của cấu trúc địa chất thì sự biến đổi của nó theo đai
cao có liên quan chủ yếu với yếu tố khí hậu.
4. Địa hình lãnh thổ có lịch sử phát triển lâu dài
Địa hình phần đất liền của Việt Nam được hình thành trong giai đoạn lớn
Mesokainozoi, từ cuối Permi đến nay (còn gọi là giai đoạn địa mạo), gồm 2 giai
đoạn tạo địa hình khác nhau [3].
Giai đoạn trước (cuối P
2

-E
2
) là một đại chu kỳ đã hoàn tất, khoảng 200 triệu
năm, kết thúc bằng việc hình thành MSB khu vực rộng lớn-peneplen Đông Dương.
Đại chu kỳ này gồm 4 chu kỳ, đều bắt đầu bằng thời kỳ kiến tạo phân dị, tạo núi và
kết thúc bởi quá trình san bằng địa hình.
Giai đoạn sau (E
3
đến nay) là một đại chu kỳ chưa kết thúc, dài khoảng 34
triệu năm, có thể gọi là giai đoạn tạo núi sau nền, hay giai đoạn Tân kiến tạo. Chính
trong giai đoạn này xảy ra trượt bằng trái cự ly rất lớn của vi mảng Đông Dương so
với vi mảng Việt-Trung và hình thành Biển Đông, có tác động mạnh mẽ đến thành
tạo địa hình Việt Nam. Giai đoạn này gồm 2 chu kỳ: chu kỳ sớm (E
3
-N
2
1
) đặc trưng
bởi nâng phân dị khối tảng mạnh, kèm theo sụt võng rift và phun trào bazan; tạo
một loạt MSB chưa trọn vẹn (pediplen Đà Lạt và Tây Nguyên); chu kỳ muộn (N
2
2
-
Q), nâng khối tảng mạnh mẽ ở ven rìa vi mảng Đông Dương, xuất hiện địa hình núi
cao, phun trào bazan rầm rộ, tạo pedimen, pediplen, thềm sông và thềm biển, xẩy ra
liên tiếp các đợt biển tiến Thuận Hải (Q
1
2-3a
), Cà Ná (Q
1

3b
) và Hậu Giang (Hải Hưng)
(Q
2
1-2
).
12
B. Địa hình các đảo và quần đảo
Trên Biển Đông Việt Nam có khoảng gần 3000 hòn đảo ven bờ trên thềm lục
địa, tổng diện tích trên 1720 km
2
; và có 41 đảo và trên 330 ám tiêu san hô thuộc
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phân bố trên sườn lục địa [4].
1. Địa mạo các đảo ven bờ
Thống kê cho thấy có 84 đảo có diện tích trên 1 km
2
, trong đó có 24 đảo trên
10 km
2
và chỉ có 3 đảo trên 100 km
2
(Cái Bầu, Cát Bà và Phú Quốc); và cũng chỉ có
8 đảo có độ cao trên 400m, 7 đảo cao 300-400m. Các đảo tập trung chủ yếu ở ven
bờ Bắc Bộ và phía tây Nam Bộ.
Địa hình các đảo ven bờ có nhiều điểm tương đồng như trên đất liền, như sự
phụ thuộc của chúng vào các yếu tố địa chất-kiến tạo và khí hậu; điều khác biệt ở
đây là yếu tố biển.
Nhiều nhà địa chất, địa lý đã nhận ra rằng hình thái bên ngoài của các đảo có
thể nói lên một phần cấu trúc và thành phần đá của đảo, như cấu trúc đơn nghiêng
(Phú Quốc), nếp lồi (Chàng Tây), đá magma xâm nhập (Hòn Khoai), đá bazan (Lý

Sơn), đá carbonat (Hạ Long), Một điều lý thú là tồn tại một tương quan tuy không
thật chặt giữa độ cao và độ lớn của đảo, trong đó các đảo đá magma xâm nhập có độ
cao gấp trên 2 lần đảo đá trầm tích có cùng cấp diện tích. Số lượng các đảo tăng
nhanh theo độ cao giảm dần của đảo: có 25 đảo ở cấp độ cao 300-200m; 115 đảo ở
cấp 200-100m; 279 đảo ở cấp 100-50m và đến 374 đảo ở cấp 50-0m (thống kê các
đảo có ghi độ cao). Nhìn chung các đảo ven bờ có địa hình núi thấp, dạng chỏm sót
là phổ biến, đa số ở độ cao dưới 100m (73,5%).
Ngoại trừ các đảo đá carbonat với địa hình karst, các đảo tạo bởi đá khác có
một nét chung nhất về hình thái là đều có cấu tạo 3 thành phần: phần đỉnh, sườn và
phần chân. Phần đỉnh thường có một diện tích chia nước khá bằng phẳng (mặt san
bằng 100, 200, 300m); sườn thường dốc với các bồn thu nước lồng vào nhau và bị
biến cải mạnh do tác động của các đợt biển tiến; chân đảo gồm các dạng do biển
tạo, như các vách, thềm mài mòn, tích tụ, đụn cát, Các đảo lớn có ưu thế về các
dạng địa hình nguồn gốc bóc mòn và xâm thực, trong khi ở các đảo nhỏ và rất nhỏ
số lượng dạng địa hình rất hạn chế, mà chủ yếu chỉ có nguồn gốc biển.
Số lượng các dạng địa hình tích tụ trên đảo giảm nhanh theo diện tích của
đảo: đảo càng nhỏ càng bị bóc mòn mài mòn là chủ yếu, và điều đó có nghĩa đảo
càng nhỏ càng bị thu hẹp diện tích nhanh.
Dựa vào đặc điểm đá nền, các nhân tố nội và ngoại sinh, kết hợp với các chỉ
tiêu về hình thái, đã chia ra 10 kiểu nguồn gốc-hình thái đảo ven bờ, trong đó có 1
kiểu trên đá carbonat, 4 kiểu trên đá trầm tích sét bột kết, 3 kiểu trên đá magma, 1
kiểu trên đá bở rời và 1 kiểu chỏm sót trên các đá khác nhau.
Các đảo ven bờ được hình thành từ Miocen (23 triệu năm) nhưng giai đoạn
phát triển đảo chính thức chỉ từ kỳ biển tiến Q
1
2-3
.
2. Địa mạo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Địa hình các quần đảo ngoài khơi Biển Đông là một hình mẫu đầy đủ của
vùng biển nội chí tuyến, với các atol (cấu trúc rạn san hô hình vòng) kích thước

khác nhau và các đảo san hô trên sườn lục địa.
Theo số liệu ban đầu [4] ở vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa có 41 đảo
(trong đó 1 đảo là bazan, còn lại là san hô), 135 rạn san hô (RSH) nổi, 196 RSH
13
chìm và 16 bãi ngầm
15)
. Về nền móng của đảo, có 32 đảo phân bố trên đê viền của
atol phức, 4 đảo trên đê viền của atol đơn và 5 đảo trên RSH dạng mặt bàn. Theo
thống kê có 18 atol phức, 29 atol đơn và 14 RSH mặt bàn. Atol phức cực lớn (Bãi
Cỏ Rong) có trục dài 185 km, hướng ĐB 37
o
, chân atol ở độ sâu 1000-1500m; có đê
viền vành khăn không liên tục ở độ sâu 27m, 14m, 9m, bao quanh một đầm lớn có
đáy ở độ sâu 80-100m. Các atol phức có trục dài trung bình 42 km, hướng ĐB (30-
70
o
); đê viền hình vành khăn bao quanh đầm thường không khép kín, ở độ sâu 4-5m
đến 20m; đáy đầm sâu 30-85m. Các atol đơn kích thước nhỏ hơn, trung bình 11 km
trục dài, định hướng ĐB, đê viền quanh đầm thường là RSH nổi, khép kín hoặc có
cửa nhỏ để đầm thông với biển mở; đáy đầm nông hơn atol phức, thường 10-20m.
Rạn san hô mặt bàn có kích thước rất nhỏ, trục dài từ 1,1 đến 2,5 km. Chúng phát
triển độc lập trên các đồng bằng đáy biển ở độ sâu 1500 đến 2500m, hoặc gắn với
chân các atol ở độ sâu 500 đến 1000m.
Các đảo san hô đa số có hình bầu dục, diện tích nhỏ và rất nhỏ. Các đảo
tương đối lớn tập trung ở vùng biển Hoàng Sa: Phú Lâm 1700m x 1200m
16)
, Linh
Côn 2300m x 750m, Tri Tôn 2000m x 1000m. Ở Trường Sa, các đảo có diện tích
nhỏ hơn, lớn nhất có Ba Bình 1400m x 400m, Thị Tứ 800m x 500m, Trường Sa
650m x 350m,

Đa số các đảo có trục dài định hướng ĐB (64,5%), số còn lại định hướng
Đông Nam. Gần như một quy luật, hầu hết các đảo có trục dài định hướng theo
hướng chiều dài của nền ám tiêu san hô mà đảo phân bố trên đó. Đại đa số các đảo
phân bố về phía Bắc và Đông Bắc của các atol, phía có gió và sóng mạnh hơn.
Các đảo thường có độ cao 2-4m, cấu tạo trên mặt bởi cát, sỏi vụn san hô bở
rời tuổi Holocen, phủ lên các trầm tích sỏi dăm san hô phân lớp và đá vôi san hô tái
kết tinh rắn chắc tuổi Pleistocen. Đảo Đá thuộc atol phức Phú Lâm có độ cao 15m,
cấu tạo bởi đá vôi san hô phân lớp tuổi Q
1
3
(C
14
: 27.000±610 năm). Ở Trường Sa, độ
cao của Song Tử Tây lớn hơn cả, đến 6 m, cấu tạo trên mặt bởi cát sạn san hô với
nhiều vỏ sinh vật bở rời. Cần ghi nhận là nếu ở Hoàng Sa (tại đảo Đá) đá san hô
cuối Pleistocen được nâng lên tạo thềm (15m) thì ở Trường Sa (tại Song Tử Tây) đá
đó bị sụt lún khá sâu (ở độ sâu 43,6m, C
14
: 23.980±145 năm). Xen kẽ trong các trầm
tích Holocen và Pleistocen là các lớp ổ tích tụ chứa phôtphorit nguồn phân chim và
các mặt bóc mòn bị chôn vùi, liên quan với các giai đoạn hạ thấp mực nước đại
dương. Các đảo trong quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thường xuyên bị tác động
của quá trình mài mòn, xói lở và tích tụ, hàng năm thường thay đổi hình thái bờ
theo mùa. Một số đảo đang bị mài mòn xói lở mạnh, cần được bảo vệ bởi các công
trình nhân tạo.
C. Địa mạo đáy biển
Đáy Biển Đông Việt Nam và lân cận về mặt địa mạo được chia thành 2 đơn
vị lớn (KTHT bậc II) là rìa lục địa và đáy biển thẳm, trong đó rìa lục địa gồm 3 đơn
vị cấp nhỏ hơn (KTHT bậc III) là thềm lục địa, sườn lục địa và diềm lục địa. Hơn
cả trên đất liền, địa hình đáy biển phản ánh đầy đủ và rõ ràng cấu trúc sâu của vỏ

Trái đất, với cấu trúc vỏ kiểu lục địa tương ứng với thềm lục địa, cấu trúc vỏ kiểu
đại dương tương ứng với đáy biển thẳm và cấu trúc vỏ trung gian-thuộc sườn và
diềm lục địa.
15
)
RSH nổi: mặt lộ ra khi triều thấp; RSH chìm: mặt ở độ sâu 1-2m đến 10-15m; bãi ngầm: mặt sâu từ 10-
20m đến 100-200m; đảo: khoảnh đất đá tự nhiên khi triều cao nhất vẫn còn lộ ra
16
)
là kích thước của trục dài và trục ngắn
14
1. Thềm lục địa là phần kéo dài của cấu trúc địa chất lục địa, có bề mặt
nghiêng thoải (thường <1
o
) bằng phẳng, tiếp với sườn lục địa bên dưới qua mép
thềm lục địa, có độ sâu khác nhau. Ở cửa Vịnh Bắc Bộ mép thềm lục địa phân bố ở
độ sâu 170-200m, từ Quảng Ngãi đến Nam Bộ mép thềm lục địa xuống độ sâu 300-
370m, còn ở vùng Tư Chính-đến độ sâu 400-500m và có thể hơn.
Trên thềm lục địa phát triển xen kẽ tuần tự các vùng nâng và hạ Tân kiến tạo.
Vùng nâng tạo cơ sở cho hình thành hệ thống đảo ven bờ (Bạch Long Vĩ, Cù Lao
Chàm, Côn Sơn, ), còn vùng hạ tạo các bồn trũng lớn Kainozoi (bể Sông Hồng,
Cửu Long, Nam Côn Sơn) với bề dày trầm tích rất lớn (8-15 km). Trong phạm vi
thềm lục địa ở phía Nam phát triển rộng rãi các hoạt động núi lửa bazan nhiều pha,
bắt đầu từ Oligocen cho đến hiện đại. Thềm lục địa Việt Nam có 5 mực địa hình
chính, ở các độ sâu: 3-5m, 10-15m, 25-30m, 40-60m và 100-150m, bao gồm chủ
yếu là các đồng bằng tích tụ và mài mòn-tích tụ.
2. Sườn và diềm lục địa phân bố từ độ sâu 170-500m đến 3500-4000m, có
hình thái địa hình rất phức tạp, độ dốc đáy biển dao động mạnh, trung bình 2-4
o
, có

nơi đến 10
o
, chưa kể các vách cao nguyên dốc đứng. Cũng trong phạm vi sườn và
diềm lục địa phát triển các vách sườn dốc; các dãy núi ngầm; các cao nguyên khối
tảng cao đến trên 2000m-2500m; các cao nguyên san hô thường nằm trên một nền
móng nâng cao tương đối; các đồng bằng tích tụ kiểu giữa núi, độ sâu 1500m đến
3500m; các đồng bằng tích tụ kiểu lòng máng sâu 2500m (Palawan).
Khác hẳn với sơ đồ đáy biển kiểu Đại Tây Dương, tại đáy biển rìa Biển
Đông, thuộc cung Tây Thái Bình Dương, phát triển các dải núi ngầm quy mô lớn
bao quanh đồng bằng biển thẳm; có dải dài đến trên 500km, rộng 50km, cao tương
đối (so với đáy biển thẳm) trên 2000m (được gọi là vòng cung Đông Trung Bộ)
cùng các dải núi thấp hơn ở đông Hoàng Sa và bắc Trường Sa, thuộc về diềm lục
địa.
Địa hình tại miền sườn và diềm lục địa cũng có tính phân bậc rõ ràng. Mặt
đỉnh các cao nguyên san hô có 2 bậc chính 4-10m đến -4-20m; còn trên sườn của
chúng có các bậc: -8-15m, -30-40m, -60-80m và -220-270m. Bề mặt đỉnh các núi
ngầm ở các bậc độ sâu 400-500m, 900-1000m, 1200-1400m và 1600-1800m. Bề
mặt đáy các đồng bằng và trũng chậu ở các bậc độ sâu: 1000-1500m, 1500-2000m,
2500m, 3000-3500m.
Các đá vôi san hô cấu tạo nên các cao nguyên san hô và núi ngầm có tuổi N-
Q (có nơi từ E
3
) phủ trực tiếp trên các đá móng (magma, biến chất hoặc trầm tích)
tuổi trước KZ hoặc trên đá trầm tích Paleogen. Tốc độ tích tụ đá vôi san hô khoảng
0,12-0,15mm/năm trong N-Q. Căn cứ vào bề dày trầm tích và tuổi tuyệt đối của
chúng (C
14
) có thể sơ bộ xác định tại vùng Song Tử Tây từ 24.000 năm đến nay tốc
độ tích tụ đá vôi san hô thay đổi từ 6,43mm/năm (24.000-20.000 năm), đến
1,15mm/năm (20.000-10.000 năm) và 0,69mm/năm (Holocen) phụ thuộc vào điều

kiện hạ lún nhanh, nâng nhẹ và sụt nhẹ tương ứng trong các thời đoạn đó, trong bối
cảnh dao động mực biển từ cuối biển thoái chuyển sang biển tiến.
3. Đáy biển thẳm có độ sâu 3500-4500m ở phía bắc và 4000-5500m ở phần
trung tâm và phía nam, được hình thành trong quá trình tách giãn vỏ Trái đất từ 32
đến 15 triệu năm trước, có dạng hình thoi với trục dài phương ĐB-TN. Địa hình đáy
biển thẳm đơn giản, lớp phủ N-Q mỏng, nhiều nơi lộ đá bazan. Tại phần trung tâm
15
địa hình gồ ghề với các đồi và cao nguyên bazan ngầm, tuổi Miocen, phân bố dọc
theo các hệ thống đứt gãy ĐB-TN và TB-ĐN. Phía đông bắc và tây nam địa hình
lượn sóng với rải rác các vòm bazan nhỏ.
Tuổi của địa hình đáy biển hiện chỉ có thể xác định sơ bộ. Bề mặt thềm lục
địa được hình thành chủ yếu trong Pleistocen-hiện đại (riêng tuổi địa hình của các
đảo ven bờ từ Miocen-đầu Pliocen); bề mặt sườn lục địa và diềm lục địa thành tạo
chủ yếu từ cuối Miocen-đầu Pliocen, trong khi đáy biển thẳm được xác lập từ
Miocen.
D. Phân loại địa hình Việt Nam
Để hệ thống hóa các mô tả khái quát ở trên có thể phân loại địa hình Việt
Nam theo 3 cấp là hệ, lớp, và kiểu địa hình. Theo đó toàn bộ địa hình đất liền và
biển Việt Nam có 2 hệ, 7 lớp và 51 kiểu địa hình chính.
Hệ lục địa có 4 lớp địa hình là: lớp núi (có 12 kiểu địa hình); lớp cao nguyên
và bình sơn (có 5 kiểu); lớp đồi (2 kiểu) và lớp đồng bằng (7 kiểu).
Hệ biển có 3 lớp địa hình là: thềm lục địa (có 14 kiểu địa hình); sườn và
diềm lục địa (có 8 kiểu) và lớp đáy biển thẳm (có 3 kiểu).
Văn liệu
1. Biển Đông, 2003: Tập I&II, NXB ĐHQGHN, Hà Nội.
2. Lê Bá Thảo, 1998: Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, 607tr, NXB Thế giới,
Hà Nội.
3. Lê Đức An, 1985: Địa mạo Việt Nam, luận án TSKH (tiếng Nga) 430tr,
Matxcơva.
4. Lê Đức An, 2002: Đặc điểm khái quát về địa mạo các đảo trên vùng biển Việt

Nam, T/c KH&CN Biển, T.2, 2, tr.1-11, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Âu, 1997: Sông ngòi Việt Nam, 260tr, NXB ĐHQGHN, Hà Nội.
6. Tôn Thất Chiểu (chủ biên), 1996: Bản đồ đất Việt Nam, tỉ lệ 1:1.000.000, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
7. Vũ Tự Lập, 1999: Địa lý tự nhiên Việt Nam, 346tr, NXB Giáo dục, Hà Nội.
16
17
ấn độ
m i a n m a
vịnh
thái lan

băng cốc
b i ể n
a n đ a m a n
t h á i l a n
l

viêng chăn

rangun
e
o

giacacta


n






đ







d



ơ

n

g
Xunđa
t
v
i

à
tp. hồ chí minh


phnôm pênh

campuchia
cualalămpơ
xingapo
malaixia
malaixia


banđa xêri bêgaoan
e
o

M
a
l
ă
c
c
a
n
a
m
o
b








i















n











đ








ô







n







g
e
o

Đ
à
i


L
o
a
n
t r u n g q u ố c

Hà Nội
v

n
h

b

c

b

b i ể n
i n đ ô n ê x i a
brunây

x u l a v ê d i
biển
môluc
e
o

M
a

c
a
x
a
Đ
ôn
g
T
i
m
o

Đili
b i ể n g i a v a
biển bali
biển
phloret
biển
xavu

p h i l i p p i n
manila
b i ể n
x u l u
a
g
(

v


i



t



n

a

m

)
m
Q

Đ

.



H

o

à


n

g



S

a
Q





Đ

.



T





r


















n





g












S





a
(

v

i



t



n

a

m

)
o

d
c
n
q
b
p
0
100
110
120
118
118
118
118
118
118
118
118
118
12
10
10
14
16
112
112
112
112
112
112

112
112
112
115
115
115
115
115
115
115
115
115
-10
20
Hình 1. Việt Nam trong Đông Nam và sơ đồ định danh các phần của Biển Đông
á
Tỷ lệ 1/ 250.000
Ghi chú
O - Trung tâm Biển Đông
A, B, C, D - Các khu vực của Biển Đông: TB, ĐB, ĐN và TN
G - Khu giữa Biển Đông
A+B - Khu Bắc Biển Đông
C+D - Khu Nam Biển Đông
A+D - Khu Tây Biển Đông
B+C - Khu Đông Biển Đông
Ranh giới Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan
Giới hạn các eo biển
Nguồn: Tập bản đồ Thế giới và các châu lục
NXB GD, 2002
18

Chú giải
Ranh giới miền địa lý tự nhiên
Ranh giới khu
Ranh giới vùng
O
I, II, III,
A1, B1,
1, 2, 3,
điểm Trung tâm Biển Đông
Ký hiệu miền địa lý tự nhiên
Số hiệu các khu
Số hiệu các vùng
21
IX
23
22
VI
24
19
20
VIII
23
22
21
IV
V
19
20
16
18

17
18
15
17
16
VII
B
2
5
II
6
7
2
1
108
iii
12
9
11
1
I
A
3
1
4
13
II
4
I
2

3
A
15
2
14
5
8
7
6
III
14
13
9
IV
10
1
B
o
VI
12

11
V
s
g
.

t
i


n
phú quốc
rạch giá
s
g
.

h

u
V
à
m
C

cam pu chia
sông
Chu
vinh
s
ô
n
g

C

s
ô
n
g


M
ã
hòn ng
h


S
ô
n
g

Đ
à
hải phòng
hà nội
S
ô
n
g

H

n
g
S
ô
n
g


Đ
à
hồ Thác Bà
S
g
.

L

c

N
a
m
S
g
.

K


C
ù
n
g
s
ô
n
g


G
â
m
c

a

T
r
a
n
h

Đ

côn đảo
c

a

C
u
n
g

H

u
đà nẵng
huế

cồn cỏ
cửa Thuận An
thai lan
lào
Đ
ô
n
g
T
â
y
V
à
m
C

hồ Dầu Tiếng
S
g
.

Đ

n
g

N
a
i
tp.hồ chí minh

vũng tàu
hồ Trị An
hòn dấu
bạch long vĩ
cô tô
cửa Ba Lạt
cửa ông
phú quý
nha trang
S
g
.

Đ
à

R

n
g
quy nhơn
lý sơn
g
trung quốc
hoàng sa
q
đ.
h
q
đ

.
tr ờng sa
o
à
n
a
s
T
r


n
g
s
a
400km
10
0 200
15
20
105
110 115
Hình 2. Phân vùng địa lý tự nhiên Việt Nam và lân cận
115
110
55
105
10
20
15

×