Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các trường mầm non khu vực tp hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.78 KB, 64 trang )

Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 1

CHƯƠNG : MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Trong xu thế phát triển kinh tế xã hội hiện nay, sự phát triển vượt bậc về
khoa học kỹ thuật. Chất lượng cuộc sống ngày càng cao, nhu cầu xã hội ngày
càng tăng và công nghiệp hóa – đô thị hóa đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trong
cả nước và Thành Phố Hồ Chí Minh là một trung tâm phát triển kinh tế mạnh
của đất nước. Cùng với xu hướng phát triển kinh tế thì vấn đề về môi trường và
bảo vệ môi trường thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng và điển hình tại
Thành Phố Hồ Chí Minh đang là vấn đề nóng bỏng và cần được quan tâm.
Bảo vệ môi trường hơn bao giờ hết đã trở thành nhiệm vụ cấp bách không
của riêng ai. Việt Nam hứng chịu hậu quả nặng nề từ biến đổi khí hậu gây ra.
Do đó, chúng ta cần phải có những hành động cụ thể để chung tay với thế giới
góp phần bảo vệ trái đất, môi trường sống của chúng ta.
Ngoài việc đưa ra Hiến pháp, Luật môi trường, các quy định, tiêu
chuẩn…thì việc giáo dục môi trường là một trong những biện pháp lâu dài và
rất quan trọng.
Trong khi đó nhận thức của người dân nói chung, học sinh nói riêng về bảo
vệ môi trường còn nhiều hạn chế.
Vì vậy cần phải giáo dục các em ngay từ nhỏ, từ khi trẻ bắt đầu đi học để
sau này khi lớn lên thì sẽ giúp trẻ hiểu được về môi trường, biết yêu môi
trường và hành động đúng đắn để bảo vệ môi trường và điều quan trọng nhất là
giúp trẻ hình thành một ý thức tốt đối với môi trường.
Giáo dục bảo vệ môi trường là một quá trình thông qua các hoạt động giáo
dục chính quy và không chính quy, giáo dục trong nhà trường và ngoài nhà trường
làm cho con người có được sự hiểu biết về môi trường, kỹ năng và giá trị về nhân
cách trong ứng xử với môi trường, tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển


một xã hội bền vững về sinh thái.
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 2

Để việc đưa giáo dục bảo vệ môi trường vào nhà trường đạt kết quả mong
muốn, quá trình triển khai sẽ thực hiện theo đường hướng được xác định và phải
đảm bảo theo nguyên tắc, mục tiêu, nội dung với những phương pháp thích hợp.
2. Lý do chọn đề tài
Từ khi xuất hiện trên trái đất, con người gắn bó với thiên nhiên, nhờ có lao
động con người đã chủ động khai thác tài nguyên thiên nhiên để duy trì cuộc sống
của mình. Trong quá trình sống và sản xuất con người đã cải tạo thiên nhiên,
nhưng ngược lại cũng tàn phá thiên nhiên như đốt rừng, gây ô nhiễm đến nguồn
nước, không khí, đất, tiêu diệt các loài động thực vật, sử dụng chất độc hoá học,
chất phóng xạ huỷ hoại thiên nhiên gây nên tình trạng khủng hoảng sinh thái.
Theo GS. Nguyễn Chấn Hùng, “chính loài người đã tạo ra vòng vây cho chính
mình”. Cần phải làm gì để ngăn chặn thực trạng trên cứu lấy con người và cuộc
sống muôn loài ?
Một khi con người đã có ý thức thì khó có thể tuyên truyền để thực hiện
việc bảo vệ môi trường một cách có hiệu quả. Vậy một trong những biện pháp có
hiệu quả lâu dài và rất quan trọng là phải giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho
thế hệ trẻ, những người chủ tương lai của đất nước, những học sinh đang ngồi trên
ghế nhà trường, đặc biệt là học sinh ở tuổi đi trường mầm non thì suy nghĩ của các
em thơ ngây như tờ giấy trắng chưa có vết bẩn và ta cần thấy rõ điều đó và định
hướng giáo dục cho trẻ ngay từ ban đầu và tiếp tục cho đến các lớp khác thì sau
này sẽ giúp trẻ có một ý thức tốt đối với môi trường .
Ở nước ta, vấn đề giáo dục môi trường cũng là mối quan tâm sâu sắc của
Đảng, nhà nước và hệ thống nhà trường. Nghị quyết IV của Ban chấp hành Trung
Ương Đảng khoá VII năm 1993 đã đề ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh giáo dục pháp
luật, đạo đức, thẩm mỹ, dân số rèn luyện thể chất cho học sinh”.

Vì vậy những hiểu biết cơ bản của các em được bồi dưỡng qua giáo dục
môi trường sẽ để lại dấu ấn sâu sắc trong toàn bộ cuộc đời sau này của các em.
Đồng thời các em ở lứa tuổi này có tính tích cực cao, dễ hưng phấn, hiếu động
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 3

nghịch ngợm nếu không được giáo dục sẽ dẫn tới những hành động làm tổn hại
môi trường một cách vô ý thức hoặc có ý thức.
Do đó để nâng cao hiệu quả giáo dục môi trường cho học sinh ở các trường
mầm non là phải hình thành cho học sinh những hiểu biết về môi trường, bảo vệ
môi trường. Xây dựng cho học sinh thái độ, hành vi cư xử đúng với môi trường là
vấn đề cần thiết hiện nay.
Xuất phát từ những vấn đề trên thì em chọn đề tài “Khảo sát nhận thức về
GDMT của CB - GV và định hướng GDMT cho học sinh ở một số trường Mầm
Non khu vực Tp Hồ Chí Minh” để mong muốn góp phần vào việc giáo dục tuyên
truyền ý thức bảo vệ môi trường cho các em sau này.
3. Mục tiêu của đề tài
Đánh giá nhận thức và công tác lồng ghép giáo dục môi trường tại một số
trường Mầm Non trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Xây dựng chương trình giáo dục môi trường cho học sinh Mầm Non điển
hình tại một số trường ở khu vực TP. Hồ Chí Minh.
4. Nội dung nghiên cứu
Khảo sát, đánh giá hiện trạng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp.Hồ Chí Minh và khảo sát ý kiến đóng góp từ các
thầy cô của các trường Mầm Non.
Đề xuất giải pháp nâng cao việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học
sinh các trường Mầm Non khu vực Tp.Hồ Chí Minh. Xây dựng các chủ đề giáo
dục môi trường cho các trường Mầm non và tổ chức dạy thí điểm ở một trường
Mầm non bất kỳ trong các trường khảo sát.

5. Phương pháp nghiên cứu
a) phương pháp luận:
 Việc giáo dục môi trường phải gắn liền với các yếu tố môi trường xung
quanh, hình thành tình yêu đối với thiên nhiên, từng bước hình thành nề nếp sinh
hoạt vệ sinh và thói quen bảo vệ môi trường thông qua các thầy cô và gia đình
luôn quan tâm và nhắc nhở.
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 4

 Để vừa phát triển xã hội nhanh chóng đồng thời đảm bảo được khả năng
phát triển bền vững đang là vấn đề thách thức trên thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng. Sự gia tăng dân số nhanh chóng trong những năm gần đây, nhất là ở
nước ta, cùng với quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá đã làm cho môi trường
ngày bị tàn phá nặng nề.
 Vì vậy, hơn lúc nào hết việc giáo dục môi trường và bảo vệ môi trường
đang được các nước hưởng ứng như là một chiến lược toàn cầu trong những năm
gần đây. “ Hãy cứu lấy trái đất ” là một khẩu hiệu khẩn thiết kêu gọi mọi người
bảo vệ môi trường.
 Giáo dục môi trường là điều kiện tiên quyết, sống còn của chúng ta trong
việc bảo vệ môi trường.
 Tuy nhiên giáo dục bằng chương trình lên lớp là không hiệu quả mà ta phải
sử dụng hình thức truyền thông môi trường, lồng ghép việc giảng dạy ý thức
BVMT ở mọi lúc, mọi nơi, tăng cường các hoạt động ngoại khóa, tham quan tìm
hiểu môi trường xung quanh . Để giúp các em có thể nhanh tiếp thu, dễ hiểu và dễ
nhớ và quan trọng hơn nữa là dễ thực hiện.
 Xác định phương hướng đúng đắn để bảo vệ môi trường.
 Đề tài được thực hiện theo nhu cầu chung trong việc bảo vệ môi trường
theo chủ trương của Trung Ương và địa phương.
b. Phương pháp cụ thể

 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Sưu tầm, thu thập, tổng quan tài liệu.
Nghiên cứu những công trình nghiên cứu trước có những vấn đề liên quan
và định hướng để bổ sung làm mới từ những đề tài trước đó.
 Phương pháp khảo sát thực địa
Mục đích là để điều tra công tác giáo dục môi cho học sinh ở các trường
Mầm Non. Và khảo sát ý kiến về việc lồng ghép giáo dục môi trường cho các em
trong quá trình học tập trong trường.
Số phiếu khảo sát : 150 phiếu.
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 5

Nội dung của phiếu khảo sát:
- Hiện trạng môi trường ở các trường Mầm Non
- Hiện trạng giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ
- Ý thức của các cán bộ và giáo viên của một số trường Mầm Non
- Ý kiến đóng góp từ cán bộ và giáo viên về việc lồng ghép giáo dục trẻ
ý thức bảo vệ môi trường trong quá trình học tập.
 Phương pháp đánh giá tổng hợp
Thống kê, tổng hợp số liệu thu thập và phân tích. Xử lý số liệu và đánh giá dựa
và kết quả thống kê.
 Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia
Tham khảo ý kiến chuyên gia và các cán bộ, giáo viên để đưa ra các giải pháp
thích hợp để giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ một cách có hiệu quả.
6. Giới hạn của đề tài
Giới hạn về đối tượng nghên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số
vấn đề về môi trường và ý thức giáo dục cho trẻ của các cán bộ và giáo viên ở các
trường Mầm Non.
Giới hạn về phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu một số trường tại

khu vực Tp.Hồ Chí Minh.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài mang tính chất thử nghiệm nên kết quả sẽ rất khó xác định kết quả
nhưng với những nhu cầu mang tính cấp bách của xã hội về việc bảo vệ môi
trường và nâng cao chất lượng cuộc sống thì đề tài này hy vọng sẽ mang lại ý
nghĩa lớn cho thực tế. Tại Tp. HCM là một trung tâm phát triển mạnh của đất
nước và nhu cầu cuộc sống cũng ngày càng nâng cao và chất lượng về giáo dục
cũng càng đẩy mạnh. Vậy đề tài sẽ góp phần vào việc giáo dục môi trường cho
các em ngay từ bé và hình thành ý thức tốt đối với môi trường cho các em khi lớn
lên.


Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 6

8. Cấu trúc đồ án
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan tài liệu
Chương 2: Nội dung, phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết luận và kiến nghị
















Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 7

CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Lịch sử giáo dục môi trường
1.1.1. Sự phát triển về GDMT trên thế giới
1.1.1.1. Sự phát triển về GDMT trên thế giới
Môi trường là một vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm của toàn thế giới.
Trong mấy chục năm trở lại đây, sự phát triển kinh tế ồ ạt dưới tác động của cách
mạng khoa học kỹ thuật và sự gia tăng dân số quá nhanh đã làm cho môi trường
bị biến đổi chưa từng thấy. Nhiều nguồn tài nguyên bị vắt kiệt, nhiều hệ sinh thái
bị tàn phá mạnh, nhiều cân bằng trong tự nhiên bị rối loạn. Môi trường lâm vào
khủng hoảng với quy mô toàn cầu, trở thành nguy cơ thực sự đối với cuộc sống
hiện đại và sự tồn vong của xã hội trong tương lai.
Để bảo vệ cái nôi sinh thành của mình, con người phải thực hiện hàng loạt
các các vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề GDMT. GDMT là một trong những
biện pháp có hiệu quả nhất, giúp con người có nhận thức đúng trong việc khai
thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường.
Lần đầu tiên trong lịch sử, vào năm 1984, tại cuộc họp Liên hiệp quốc về
BVMT và tài nguyên thiên nhiên (TNTN) ở Pari, thuật ngữ “Giáo dục môi
trường” được sử dụng. Tiếp sau đó, có rất nhiều cố gắng để định nghĩa thuật ngữ

này.
IUNC, 1970 đã định nghĩa GDMT là quá trình nhận biết các giá trị và làm
sáng tỏ các khái niệm nhằm phát triển các kỹ năng và quan điểm cần thiết để hiểu
và đánh giá được sự quan hệ và tương tác giữa con người, nền văn hoá và thế giới
vật chất bao quanh GDMT đồng thời cũng thực hiện quyết định đưa ra bộ quy tắc
ứng xử với những vấn đề liên quan đến đặc tính môi trường.
Chương trình IEEP ( Chương trình GDMT quốc tế) ra đời taị một hội thảo
ở Belyrade năm 1972. Hội thảo đưa ra bản tuyên bố liên chính phủ lần đầu tiên
về GDMT. Các mục đích, mục tiêu, những khái niệm cốt yếu và những nguyên
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 8

tắc hướng dẫn của chương trình được đưa ra vào một văn kiện của hội thảo có tên
là: “Hiến chương Belyrade – một hệ thống nguyên tắc toàn cầu ”.
Tại Hội nghị liên chính phủ lần đầu tiên về GDMT do UNESCO tổ chức
tại Tbilisi, Liên Xô năm 1977 có 66 thành viên các nước tham dự. Hội nghị đưa
ra các ý kiến đóng góp cho việc áp dụng rộng rãi hơn nữa GDMT trong chương
trình giáo dục chính thức và không chính thức. Sự kiện quan trọng này và những
công bố liên tiếp theo dự kiến hội nghị đã tiếp tục đóng góp cho hệ thống nguyên
tắc của sự phát triển GDMT trên toàn thế giới ngày nay. Chiến lược bảo tồn thế
giới đã công bố (IUCN 1980). Văn kiện cốt yếu này nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc giữ gìn tài nguyên thông qua “sự phát triển mang tính chất duy trì” và ý
nghĩa của mối quan hệ tương tác giữa bảo tồn và phát triển.
Từ năm 1986 trở đi, các hoạt động quốc tế tiếp tục bổ sung, đóng góp cho
chiến lược bảo tồn thế giới, giải quyết các vấn đề về GDMT, đạo đức và văn hoá.
Năm 1987 đánh dấu 10 năm kỷ niệm hôi nghị Tbilisi đầu tiên và Hội nghị
này một loạt các vấn đề cơ bản được đưa ra thảo luận trong đó có tầm quan trọng
đặc biệt của GDMT, với nội dung: “Rút cục là sẽ không có gì giảm được mối đe
doạ mang tính khu vực và quốc tế đối với môi trường trừ khi ý thức của đại đa số

quần chúng về mối liên quan thiết yếu giữa đặc trưng môi trường và sự tiếp tục
thoả mãn các nhu cầu của con người được thức tỉnh. Hoạt động của con người
phụ thuộc vào động cơ, mà động cơ phụ thuộc vào sự hiểu biết của chúng”. Vì
thế chúng ta hiểu được tầm quan trọng tại sao mỗi người phải nhận thức môi
trường đúng đắn thông qua GDMT.
Cũng trong năm 1987, Uỷ ban thế giới về môi trường và sự phát triển đã có
báo cáo “Tương lai của chúng ta” (WCED 1987). Bản báo cáo đã đưa ra một
công bố chính “chương trình nghị sự toàn cầu” để nhất trí vấn đề môi trường với
sự phát triển, và vì thế đã tăng cường và mở rộng thực chất cuộc bảo tồn thế giới
1980. Giáo dục được coi là phần trọng tâm của chương trình này “Sự thay đổi
trong thái độ mà chúng ta cố gắng làm phụ thuộc các chiến dịch giáo dục lớn,
các cuộc thảo luận và sự tham gia của quần chúng” (WCED 1987).
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 9

Hội nghị thượng đỉnh diễn ra tại Rio de Janero năm 1992, hội thảo trên
một phạm vi rộng về các đề tài và vấn đề môi trường. Có nhiều công bố dành cho
GDMT thông qua suốt văn kiện. Một trong những kết quả chính của hội nghị là
sự nhất trí rằng phát triển và giáo dục và môi trường phải là một bộ phận thống
nhất của quá trình học tập ở cả hai dạng chính thức và không chính thức. Và một
dự kiến được đưa ra là mọi chính phủ phải nổ lực phấn đấu để cập nhập hóa hoặc
chuẩn bị các chiến lược nhằm mục đích kết hợp môi trường và phát triển thành
vấn đề trung tâm để đưa vào tất cả các cấp giáo dục.
1.1.1.2. Một số thành tựu về GDMT trên thế giới
Ở Đức, có chương trình “Tìm hiểu đất nước” trong bậc tiểu học. Các cấp
học từ trung học trở lên thì nội dung GDMT được gắn hữu cơ vào chương trình
Sinh học và Địa lí.
Ở Bungari, cấu tạo chương trình khoa học ở cấp 1 và học sinh ở cấp 2 và 3
theo tư tưởng chủ đạo “Con người và Môi trường”.

Ở Nhật, trọng tâm của GDMT là chống ô nhiễm và bảo vệ sức khỏe, nội
dung này đựơc lồng ghép vào các môn học đặc biệt là môn Sinh học và Địa lý.
Ở Indonesia, người ta đã thiết lập các trung tâm nghiên cứu về môi trường
trong các học viện. Các trung tâm này là nơi cung cấp các chuyên gia cho việc
nghiên cứu, đào tạo cho các công việc khác có liên quan đến khoa học môi
trường ở các cấp quốc gia và khu vực.
Ở Malaysia, các trường đại học đã có mối liên kết với các học viện trong
và ngoài nước để đào tạo các chuyên gia về môi trường. Một số trường đại học đã
tổ chức các khóa chính trị, các khóa học ngoại khóa về môi trường cho hầu hết
các sinh viên ở các ngành khác nhau.
Ở Singapore, các chương trình giảng dạy môi trường ở các trường đại học
tổng hợp, đại học bách khoa. Học viện giáo dục được tiến hành tốt nhất. Việc
giáo dục về môi trường được các quy định về pháp luật đi kèm. Ngoài ra, các
trường còn tập trung vào các “Dự án thành phố sạch và xanh”, “Nguồn gốc của ô
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 10

nhiễm không khí và sự kiểm soát nó”, “Quản lý chất thải nguy hiểm”, “Bảo quản,
lọc và xử lí nước thải”…
Ở Philipines, hầu hết các trường đại học đều có khoa học hay chỉ ít cũng có
một bộ môn môi trường (Hoặc Environmental Sciences hoặc Environmental
Study). Ở đây đào tạo cả chuyên ngành môi trường tài nguyên, môi trường sinh
thái lẫn công nghệ môi trường.
Ở Thái Lan, nơi có trường AIT là nguồn cung cấp và đào tạo các kỹ thuật
viên môi trường, giáo dục ở cấp học sau trung học bao gồm đào tạo chuyên
nghiệp và chuyên gia môi trường cũng được xúc tiến mạnh mẽ.
Tuy hình thức và phương pháp GDMT ở mỗi nước có khác nhau nhưng
đều đã khẳng định sự cần thiết và tính cấp bách của giáo dục môi trường trong
nhà trường và trong cộng đồng xã hội. Hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất họp tại

Rio Janeiro (Braxin) năm 1992 đã xác định chiến lược hành động cho loài người
về môi trường và phát triển môi trường ở thế kỷ 21, trong đó có hành động xem
xét lại tình hình GDMT và đưa GDMT vào chương trình giáo dục cho tất cả mọi
lớp và ở các cấp học. Đây cũng là một trong những mục tiêu chủ yếu của chương
trình GDMT quốc tế (IEEP) của UNESCO và UNEP. Sau hội nghị này tất cả các
nước xem lại tình hình GDMT ở quốc gia mình vả xây dựng những mô hình giáo
dục mới phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả.
1.1.2. Sự phát triển về GDMT ở Việt Nam
1.1.2.1. Tình hình GDMT ở Việt Nam
Ở Việt Nam, từ năm 1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào
Tết trồng cây để giữ gìn và làm đẹp môi trường sống. Cho đến nay phong trào
này vẫn được duy trì và phát triển mạnh mẽ.
Năm 1991, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có chương trình trồng cây phát triển
giáo dục – đào tạo và BVMT (1991 – 1995).
Trong kế hoạch hành động quốc gia về môi trường và phát triển bền vững
của Việt Nam giai đoạn 1996 – 2000, GDMT được ghi nhận như một bộ phận
cấu thành.
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 11

Từ năm 1995, Dự án GDMT trong nhà trường phổ thông Viêt Nam (VIE
95/041) của Bộ Giáo dục và Đào tạo do UNDP tài trợ đã nhắm vào mục tiêu cơ
bản:
 Hổ trợ xây dựng một chính sách và chiến lược thực hiện quốc gia về
GDMT tại Việt Nam.
 Tăng cường năng lực của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc truyền đạt
những nội dung và phương pháp GDMT vào các chương trình đào tạo giáo viên.
 Xây dựng các hoạt động GDMT cụ thể để thực hiện ở cấp Tiểu học và
Trung học.

Các mục tiêu trên đã thực hiện ở mức chi tiết và cụ thể hơn trong thực tiễn
thông qua dự án VIE98/018.
Đặc biệt gần đây nhất, tháng 8 – 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết
định số 153/2004/ QĐ – TTg về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển
bền vững ở Việt Nam .
Ở các trường Đại học, GDMT được coi như một nội dung quan trọng trong
các giáo trình Con người và môi trường; Dân số, tài nguyên, môi trường. Ở các
khoa: Sinh học, Địa lí, Hoá học của các trường Đại học Sư phạm (Hà Nội, Huế,
Tp. HCM…) đã có các môn học về môi trường.
Ngày 17 tháng 10 năm 2001 Thủ tướng Chính Phủ đã có Quyết định số
1363/QĐ– TTG về việc phê duyệt đề án “Đưa nội dung BVMT vào hệ thống giáo
dục quốc dân”.
1.1.2.2. Một số thành tựu về GDMT ở Việt Nam
Bậc mầm non: Từ năm 1985, các trường đã tổ chức biên soạn, thử nghiệm
tài liệu GDMT theo phương thức lồng ghép, tích hợp vào các môn học hoặc có
môn riêng như: “làm quen với môi trường xung quanh”.
Bậc phổng thông:
 Ngay từ năm 1960, vấn đề bảo vệ môi trường được đặt ra một cách nghiêm
túc và đã được nghiên cứu để tích hợp vào chương trình dạy học ở các
trường phổ thông nhưng mức độ triển khai còn hạn chế.
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 12

 Đầu thập kỹ 80, trong quá trình triển khai cải cách giáo dục và thế sách
giáo khoa, Bộ Giáo dục đã bước đầu nêu ra các định hướng vể GDMT ở
các trường học.
 Từ đó đến nay, nội dung GDMT đã được tích hợp vào chương trình giảng
dạy các môn như: địa lý, sinh học, kỹ thuật nông nghiệp, giáo dục công
dân Chương trình giảng dạy ở bậc tiểu học, trung học đã bước đầu biên

soạn và thử nghiệm ở một số đại phương.
Ở bậc đại học:
 Ở các trường sư phạm: đã tiến hành thử nghiệm bước đầu đưa GDMT vào
nội dung đào tạo và bồi dưỡng với các phương pháp tiếp cận cơ bản như:
giáo dục vì sự phát triển bền vững, phương pháp tiếp cận tổng thể - nhà
trường, GDMT ngoài lớp học, GDMT thông qua việc giải quyết vấn đề
cùng cộng đồng ( Hoàng Đức Nhuận, 1998).
 Các tài liệu bồi dưỡng giáo viên các cấp đã được biên soạn như: “ GDMT
trong nhà trường phổ thông qua môn Địa lý”,“Bảo vệ môi trường ” cho
giáo viên sinh học.
 Các trường đại học: sinh viên đã được học giáo trình đại cương “Con người
và môi trường ”. Ngoài ra, tùy từng khoa, từng trường lại có các giáo trình
riêng. Hiện nay đã có chuyên nghành riêng về môi trường trong nhiều
trường đại học và cao đẳng.
Song song với việc giảng dạy trong nhà trường, nhiều đề tài nghiên cứu
khoa học về GDMT cấp nhà nước và cán bộ quản lý, nhiều đề tài luận án phó tiến
sĩ và thạc sĩ đã và đang được thực hiện, có tác dụng mở rộng nội dung và nâng
cao hiệu quả của việc GDMT.
1.1.2.3. Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và ngành
Giáo dục – Đào tạo về BVMT và GDMT
a) NGHỊ QUYẾT 41 – NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ NGÀY 15/11/2004
VỀ “BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước”
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 13

A-Một số nội dung quan trọng của Nghị quyết NQ/TW
Nghị quyết đã nêu ra 5 quan điểm
1. BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố

đảm bảo sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng
vào việc phát triển Kinh tế – Xã hội, ổn định chính tri, an ninh quốc gia và thúc
đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
2. BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của
PTBV, phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát
triển Kinh tế – Xã hội của từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng
chỉ chú trọng phát triển Kinh tế – Xã hội mà coi nhẹ BVMT. Đầu tư cho BVMT
là đầu tư cho PTBV.
3. BVMT là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của
mỗi người, là biểu hiện của nếp sống văn hoá, đạo đức, là tiêu chí quan trọng của
xã hội văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hoà với
tự nhiên của ông cha ta.
4. BVMT phải theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu
đối với môi trường là chính, kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải
thiện môi trường và Bảo tồn thiên nhiên; kết hợp giữa sự đầu tư của Nhà nước
với đẩy mạnh huy động nguồn lực trong xã hội và mở rộng hợp tác quốc tế; kết
hợp giữa công nghệ hiện đại với các phương pháp truyền thống.
5. BVMT là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên
vùng rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ Đảng; sự
quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân.
B - Mục tiêu
1- Ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường
do hoạt động của con người và tác động của tự nhiên gây ra. Sử dụng bền vững
tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 14

2- Khắc phục ô nhiễm môi trường, trước hết ở những nơi đã bị ô nhiễm

nghiêm trọng, phục hồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái, từng bước nâng cao chất
lượng môi trường.
3- Xây dựng nước ta trở thành một nước có môi trường tốt, có sự hài hoà giữa
tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường;
mọi người đều có ý thức bảo vệ môi trường, sống thân thiện với thiên nhiên.
C - Nhiệm vụ
1 - Các nhiệm vụ chung
a) Phòng ngừa và hạn chế các tác động xấu đối với môi trường
b) Khắc phục các khu vực môi trường đã bị ô nhiễm, suy thoái
c) Điều tra nắm chắc các nguồn tài nguyên thiên nhiên và có kế hoạch bảo
vệ, khai thác hợp lý, bảo vệ đa dạng sinh học
d) Giữ gìn vệ sinh, bảo vệ và tôn tạo cảnh quan môi trường
đ) Đáp ứng yêu cầu về môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế
2 - Nhiệm vụ cụ thể
- Đối với vùng đô thị và vùng ven đô thị
- Đối với vùng nông thôn
D – Giải pháp
 “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách
nhiệm BVMT”. Đây là nội dung rất quan trọng, tăng cường đa dạng hoá các hình
thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, chủ trương, pháp luật và các thông tin về
môi trường và PTBV cho mọi người, đặc biệt là trong thanh niên, thiếu niên; nhất
là: Đưa nội dung GDMT vào chương trình, sách giáo khoa của hệ thống giáo dục
quốc dân, tăng cường thời lượng và tiến tới hình thành môn học chính khoá đối
với các cấp học phổ thông.
 “Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về BVMT” trong đó chú ý đến
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về BVMT, tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát, sớm xây dựng, ban hành quy định giải quyết bồi thường thiệt
hại về môi trường.
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh

Trang 15

 “Đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động BVMT” trong đó chú trọng tạo cơ sở
pháp lý và cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức và cộng đồng tham
gia công tác BVMT, xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước, cam kết về
BVMT của cộng động dân cư.
 “Áp dụng các biện pháp kinh tế tromng BVMT; tạo sự chuyển biến cơ
bản trong đầu tư BVMT”, ngân sách Nhà nước sẽ có mục chi riêng cho sự nghiệp
môi trường và tăng dần mức đầu tư hàng năm để đến năm 2006 đạt ít nhất 1%
tổng chi ngân sách Nhà nước. Ngoài đầu tư của Nhà nước, sẽ có chính sách
khuyến khích các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đầu tư BVMT.
 “Tạo sự chuyển biến cơ bản trong đầu tư bảo vệ môi trường”
Phát triển các tổ chức tài chính, ngân hàng, tín dụng về môi trường nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư bảo vệ môi trường.
 “Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ và đào tạo nguồn
nhân lực về môi trường”.
Nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học phục vụ công tác hoạch định chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường trong phát triển
bền vững.
Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, quan trắc, dự báo, cảnh báo về tài
nguyên và môi trường.
 “Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về môi trường”
Tham gia tích cực vào các hoạt động quốc tế và khu vực về môi trường; thực
hiện đầy đủ các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, các cam kết quốc tế,
chương trình, dự án song phương và đa phương về bảo vệ môi trường phù hợp với
lợi ích quốc gia.
b) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 1363/QĐ – TTG ngày 17/10/2001
về việc phê duyệt dự án “Đưa nội dung BVMT vào hệ thống giáo dục quốc dân”
 Mục tiêu của đề án
 Giáo dục Học sinh, sinh viên các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo trong

hệ thống giáo dục quốc dân có hiểu biết về pháp luật và chủ trương chính
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 16

sách của Đảng, Nhà nước về BVMT, có kiến thức về môi trường để tự giác
thực hiện BVMT.
 Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giảng dạy, giáo viên, cán bộ nghiên cứu khoa
học – công nghệ và cán bộ quản lý về BVMT.
 Nội dung, phương thức giáo dục bảo vệ môi trường.
 Nội dung, phương thức giáo dục BVMT
 Nội dung giáo dục BVMT phải đảm bảo tính giáo dục toàn diện:
 Đối với giáo dục mầm non: cung cấp cho trẻ em hiểu biết ban đầu về môi
trường sống của bản thân nói riêng và của con người nói chung, biết cách
sống tích cực với môi trường, nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của
cơ thể và trí tuệ.
 Đối với giáo dục tiểu học: trang bị kiến thức cơ bản phù hợp với độ tuổi
và tâm lý của học sinh về các yếu tố của môi trường, vai trò của môi
trường đối với con người và tác động của con người đối với môi trường;
giáo dục học sinh có ý thức BVMT; phát triển kỹ năng bảo vệ và giữ gìn
môi trường.
 Đối với giáo dục trung học cơ sở và trung học phổ thông: trang bị
những kiến thức về sinh thái học, mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên; trang bị kỹ năng bảo vệ và giữ gìn môi trường, biết ứng xử tích cực
với môi trường sống xung quanh. Việc GDMT chủ yếu đựơc thực hiện
theo phương thức khai thác triệt để tri thức về môi trường hiện có ở các
môn học trong nhà trường.
 Nội dung, phương thức đào tạo cán bộ BVMT
 Nội dung chính của đào tạo cán bộ về BVMT bao gồm: những kiến thức cơ
bản liên quan đến môi trường, kỹ năng nắm bắt các vấn đề môi trường, kỹ

năng dự báo, phòng ngừa và giải quyết những sự cố môi trường và những
nội dung cần thiết về pháp luật BVMT.
 Việc đưa các nội dung trên vào chương trình đào tạo cán bộ BVMT phải
căn cứ đặc điểm ngành, nghề, trình độ đào tạo để thiết kế chương trình và
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 17

môn học. Đối với một số ngành đào tạo, có thể biên soạn nội dung về
BVMT thành các môn học riêng
 Các hoạt động thực hiện đề án
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực
hiện các dự án thành phần như sau:
 Xây dựng chương trình, giáo trình, bài giảng về giáo dục BVMT cho các
bậc học, cấp học và trình độ đào tạo.
 Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên về BVMT.
 Tổ chức chỉ đạo việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học và quản lý về lĩnh
vực môi trường để đảm bảo nguồn nhân lực cho việc nghiên cứu, quản lý và thực
hiện công nghệ BVMT, PTBV đất nước.
 Tăng cường cơ sở vật chất cho việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa
học và chuyển giao công nghệ về môi trường trong các trường học
 Thông tin giáo dục BVMT trong nước, khu vực và trên thế giới.
 Để thực thi Nghị quyết của Chính phủ, ngày 31/01/2005, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chỉ thị số 02/2005/CT – BGD&ĐT về việc tăng
cường công tác giáo dục BVMT.
1.2. Giáo dục môi trường
Giáo dục BVMT là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính
quy và không chính quy, giáo dục trong nhà trường và ngoài nhà trường làm cho
con người có sự hiểu biết về môi trường, kỹ năng và giá trị về nhân cách trong ứng
xử với môi trường, tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội bền

vững về sinh thái.
Để việc đưa giáo dục BVMT vào nhà trường đạt kết quả mong muốn, quá
trình triển khai sẽ thực hiện theo phương hướng được xác định và phải đảm bảo
nguyên tắc, mục tiêu, nội dung với những phương pháp thích hợp.
1.2.1. Định nghĩa về GDMT
Có nhiều định nghĩa về GDMT, điều này cho thấy GDMT không nhất thiết
là một khái niệm khoa học, mà nó mang đặc tính của một chương trình hành động.
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 18

Dưới đây là một số khái niệm về GDMT:
 “GDMT giúp con người hiểu biết về thế giới tự nhiên và biết sống hòa hợp
với thiên nhiên” (Cứu lấy Trái Đất).
 “GDMT là một quá trình nhận ra các giá trị làm sáng tỏ các quan điểm để
phát triển các kỹ năng và thái độ cần thiết, nhằm hiểu và đánh giá đúng đắn mối
tương quan giữa con người, môi trường, văn hóa và môi trường xung quanh.
GDMT cũng đòi hỏi thực hành (áp dụng vào thực tiễn) trong việc đưa ra các quyết
định và tự xây dựng quy tắc hành vi về các vấn đề có liên quan đến chất lượng môi
trường” (Hội nghị Quốc tế về Giáo dục Môi trường ở trường học – Paris,
UNESCO,1970).
 “GDMT là một bộ phận hữu cơ của quá trình giáo dục. Nó nên được tập
trung vào những vấn đề thực tiễn và mang tính chất liên thông. Nó nên nhằm vào
xây dựng giá trị, đóng góp vào sự nghiệp phồn vinh của cộng đồng và liên quan
đến sự sống còn của nhân loại” (Hội nghị Giáo dục Môi trường ở Tbilisi,1977 ).
 Trong khuôn khổ của việc GDMT thông qua các môn học ở nhà trường,
có thể hiểu GDMT theo định nghĩa là một quá trình tạo dựng cho con người những
nhận thức và mối quan tâm đến môi trường và các vấn đề về môi trường. GDMT
gắn liền với việc học kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ và lòng nhiệt
tình để hoạt động một cách độc lập hoặc phối hợp nhằm tìm ra giải pháp cho

những vấn đề môi trường hiện tại và ngăn chặn những vấn đề mới có thể xảy ra
trong tương lai.
1.2.2. Tầm quan trọng của giáo dục BVMT
Con người là một thành phần của môi trường và là chủ thể BVMT. Ý thức,
thái độ, hành vi ứng xử với môi trường là một trong các yếu tố nhân cách của
người lao động. Chức năng chủ tổng quát nhất và cao quý nhất của giáo dục là
“trồng người”, rèn luyện phát triển nhân cách người lao động.
Đặc biệt là giáo dục môi trường có hệ thống trong nhà trường đóng vai trò
quyết định đối với việc hình thành tư cách công dân, cách ứng xử đối với xã hội,
đối với môi trường của mỗi cá nhân. Một khi con người có những hiểu biết về mối
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 19

quan hệ nhân quả giữa môi trường và phát triển kinh tế - xã hội, giữa môi trường
với sự tồn tại của xã hội, giữa môi trường với chính cuộc sống của mình thì trong
mọi hành động thì họ sẽ nâng niu và ứng xử thân thiện với môi trường vì mục tiêu
PTBV.
Mọi thành viên trong cộng đồng xã hội đều có quan hệ với nhau và quan hệ
trực tiếp tới môi trường. Tất cả đều có trách nhiệm trước môi trường. Tuy nhiên,
chỉ có giáo dục, với hệ thống nhà trường của tất cả các cấp học, bậc học, với thiết
chế chặt chẽ mới có thể tác động một cách rộng rãi lên các thành viên của xã hội.
Chính vì vậy, giáo dục là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất, kinh tế nhất
và có tính bền vững trong các biện pháp để thực hiện mục tiêu BVMT và PTBV
đất nước.
Đích quan trọng của giáo dục BVMT không chỉ làm cho mọi người hiểu rõ
sự cần thiết phải BVMT mà quan trọng là phải có thói quen, hành vi ứng xử thân
thiện, văn minh, lịch sự với môi trường. Điều này phải trong một quá trình lâu dài
và phải bắt đầu ngay từ tuổi thơ ấu, từ gia đình tới nhà trường, từ trường mầm non
cho đến những năm học ở nhà trường phổ thông, các học sinh luôn được tiếp xúc

với thiên nhiên sinh động, tươi đẹp,…
Các thầy cô giáo cần nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục
BVMT cho học sinh, có trách nhiệm triển khai giáo dục BVMT phù hợp với điều
kiện của nhà trường và địa phương. Để đảm bảo hiệu quả giáo dục BVMT, những
người làm công tác giáo dục cần phải hiểu đươc sự cần thiết của việc giáo dục
BVMT, đồng thời cần có kỹ năng sâu trong việc thực hiện giáo dục BVMT cho
các em học sinh.
1.2.3. Định hướng giáo dục BVMT trong nhà trường
Giáo dục BVMT cần nhìn nhận môi trường trong tính toàn bộ của nó,
nghĩa là trong môi trường cần phải xem xét tất cả các mặt tự nhiên, sinh thái, chính
trị, kỹ thuật và xã hội, cần khám phá môi trường cả ở khía cạnh chất lượng vật chất
của mối quan hệ con người và môi trường lẫn khía cạnh tinh thần của mối quan hệ
này. Tuy nhiên, để xác định phạm vi và đối tượng giáo dục nhằm tăng hiệu quả
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 20

của giáo dục BVMT trong nhà trường, cần thiết phải tập trung hơn vào nội dung
giáo dục BVMT tự nhiên và mối quan hệ tương hổ của nó với các hoạt động của
con người.
Giáo dục BVMT là một lĩnh vực giáo dục liên ngành, vì nội dung giáo dục
có thể tìm thấy trong nhiều môn học và hoạt động. Trong các chương trình giáo
dục của nhà trường Việt Nam hiện nay, giáo dục BVMT hiện nay chưa phải là một
môn học riêng mà được triển khai bằng phương thức tích hợp vào các môn học và
theo tinh thần xuyên bộ môn. Điều đó có nghĩa là không thể thực hiện giáo dục
BVMT chỉ qua một môn học hoặc một hoạt động mà cần có sự liên kết giữa
chúng trong quá trình giáo dục mới có thể đảm bảo thực hiện được mục tiêu giáo
dục BVMT.
Giáo dục BVMT cần phải chú ý khai thác tình hình thực tế môi trường gần
gũi với học sinh, từ khuôn viên của nhà trường đến môi trường của địa phương,

khu vực, đất nước,… coi đó là chất liệu để giáo dục, là môi trường để giáo dục và
là mục đích cụ thể giáo dục BVMT, theo phương châm “Suy nghĩ toàn cầu, hành
động địa phương”. Giáo dục BVMT quan tâm đến cả môi trường toàn cầu và môi
trường địa phương. Một mặt giúp cho học sinh có cái nhìn toàn cầu đối với các
vấn đề môi trường, mặt khác coi trọng giáo dục BVMT ở địa phương. Đích cụ thể
mà giáo dục BVMT cần đạt tới là sự quan tâm đến môi trường địa phương, lời cam
kết và những hành động dù nhỏ nhưng thiết thực, góp phần cải thiện môi trường
địa phương, tạo thói quen ứng xử đúng đắn với môi trường.
Phương thức tiếp cận cơ bản của GDMT là Giáo dục về môi trường, trong
môi trường và vì môi trường, đặc biệt là giáo dục vì môi trường, coi đó là thước đo
cơ bản hiệu quả của giáo dục BVMT:
 Giáo dục về môi trường: Trang bị các kiến thức về môi trường, các
thành phần môi trường và mối quan hệ giữa chúng với nhau, cung cấp
những hiểu biết về hệ thống tự nhiên và hoạt động của nó, những hiểu biết
về tác động của con người tới môi trường.
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 21

 Giáo dục trong môi trường: Xem môi trường thiên nhiên hoặc nhân
tạo như một địa bàn, một phương tiện để giảng dạy, học tập, nghiên cứu. Với
cách tiếp cận này, môi trường sẽ trở thành “Phòng thí nghiệm thực tế” đa
dạng, sinh động cho người dạy và người học, học sinh hứng thú hơn, hiệu quả
học tập sẽ cao hơn.
 Giáo dục vì môi trường: Trên cơ sở các tri thức được trang bị đi tới
xây dựng ý thức quan tâm và trách nhiệm, hình thành các quan niệm giá trị
nhân cách, đạo đức đúng đắn, thái độ ứng xử tích cực, xây dựng động cơ và
kỹ năng tham gia cải thiện môi trường.
1.2.4. Nguyên tắc giáo dục BVMT trong nhà trường
 Đảm bảo mục tiêu giáo dục BVMT phải phù hợp với mục tiêu đào tạo của

cấp học, bậc học, góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo của giáo dục nói chung.
 Phải hướng việc giáo dục BVMT tới việc cung cấp cho học sinh những
kiến thức về môi trường và kỹ năng BVMT phù hợp với tâm, sinh lý từng lứa tuổi.
 Nội dung giáo dục BVMT phải chú trọng các vấn đề thực hành, trên cơ sở
đó hình thành các kỹ năng, phương pháp hành động cụ thể để học sinh có thể tham
gia có hiệu quả vào các hoạt động BVMT của địa phương, của đất nước phù hợp
với lứa tuổi.
 Phương pháp giáo dục BVMT nhằm tạo điều kiện cho người học chủ động
tham gia vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho học sinh phát hiện các vấn đề môi
trường và tìm ra hướng giải quyết vấn đề dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo
viên.
 Tận dụng các cơ hội để giáo dục BVMT nhưng phải đảm bảo kiến thức cơ
bản của môn học, tính logic của nội dung và không làm quá tải kiến thức và tăng
thời gian của bài học.
1.2.5. Yêu cầu của GDMT
 Kết hợp trang bị tri thức với giáo dục đạo đức môi trường.
 Đặt GDMT trong mối quan hệ đa ngành, giải quyết vấn đề dưới sự kết hợp
đa lĩnh vực.
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 22

 Hình thức giáo dục phải đa dạng, phong phú, kết hợp chặt chẽ giữa lý
thuyết và minh họa thực tế, mô hình, hình thức phù hợp lứa tuổi, nhận thức, kết
hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
 Đảm bảo giáo dục ứng xử môi trường theo quy định của pháp luật và các
công ước quốc tế về BVMT.
 Đảm bảo kết hợp các yếu tố kinh tế, xã hội và chính trị trong GDMT, xem
môi trường như một tổng thể tự nhiên và có một mối quan hệ chặt chẽ với các yếu
tố kinh tế và xã hội. Đặt sự phát triển của cá nhân và cộng đồng trong môi trường

tự nhiên trong lành.
 Xem xét các vấn đề môi trường theo nhiều phạm vi: địa phương, quốc gia
và toàn cầu.
 Chú trọng vào môi trường hiện hữu cũng như những thay đổi trong tương
lai. Động viên sự kết hợp hành động BVMT địa phương và sau đó là những đóng
góp giải quyết các vấn đề môi trường ở tầm quốc gia và toàn cầu. Chú ý khía cạnh
môi trường trong giáo dục phát triển.
1.2.6. Mục tiêu giáo dục BVMT trong nhà trường
Hội nghị quốc tế về giáo dục BVMT của Liên hợp quốc tổ chức tại Tbilisi
năm 1977 xác định mục tiêu của GDMT như sau: “Làm cho các cá nhân và các
cộng đồng hiểu được bản chất phức tạp của môi trường tự nhiên và môi trường
nhân tạo là kết quả tương tác của nhiều nhân tố sinh học, lý học, xã hội, kinh tế và
văn hóa, đem lại cho họ kiến thức, nhận thức về giá trị, thái độ và kỹ năng thực
hành để họ tham gia một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong phòng ngừa và
giải quyết các vấn đề môi trường và quản lý chất lượng môi trường”.
Từ tuyên ngôn ban đầu đó, mục tiêu của GDMT đã được cụ thể hóa và
triển khai ở các quốc gia và trong tất cả các cấp, bậc học. Nhìn chung, GDMT
nhằm vận dụng những kiến thức và kỹ năng của mỗi cá nhân, cộng đồng vào giữ
gìn, bảo tồn, sử dụng môi trường, đảm bảo môi trường bền vững cho cả thế hệ hiện
tại và tương lai. Ở Việt Nam, giáo dục BVMT trong các nhà trường cần đem lại
cho người học các nội dung:
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 23

 Có kiến thức, hiểu biết về môi trường: Các thành phần của môi trường,
tính phức tạp và mối quan hệ nhiều chiều giữa các thành phần của môi trường,
tính hạn chế của TNTN, khả năng chịu tải của môi trường, quan hệ chặt chẽ
giữa môi trường với sự phát triển của kinh tế – xã hội trong phạm vi địa
phương, quốc gia, khu vực và trên toàn cầu.

 Xây dựng thái độ: Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của các vấn
đề môi trường như nguồn lực để sống, lao động, phát triển cá nhân, cộng đồng,
xã hội. Từ đó có thái độ, cách ứng xử đúng đắn trước các vấn đề môi trường,
có trách nhiệm đối với môi trường, có quan niệm đúng về các giá trị nhân cách
đối với môi trường.
 Trên nền tảng của tri thức, kỹ năng, phương pháp hành động BVMT,
người học tự nâng cao khả năng lựa chọn cách sống phù hợp với việc sử dụng
hợp lý và khôn ngoan các nguồn TNTN, góp phần tham gia hiệu quả vào việc
phòng ngừa và giải quyết các vấn đề môi trường tại nơi ở và nơi làm việc của
mỗi cá nhân.
 Hình thành và phát triển năng lực phân tích đánh giá những vấn đề có liên
quan đến môi trường và khả năng giải quyết các vấn đề môi trường ở phạm vi
cá nhân, địa phương và cộng đồng.
 Giáo dục BVMT được đưa vào toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Ở
mỗi cấp, bậc học, tùy theo khả năng tiếp nhận tri thức và thực hiện các hành vi
BVMT của học sinh mà lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học cho phù
hợp.
Mục tiêu giáo dục BVMT ở cấp trường Mầm Non:
 Việc tạo ra phản xạ, thói quen đầu tiên về việc bảo vệ MT sống của mỗi cá
nhân, từ đó xây dựng quan niệm, nhận thức, kiến thức và kỹ năng BVMT cho các
bậc học sau này là nội dung chủ yếu của GDBVMT trong GD Mầm Non.
 Hiểu biết về môi trường sống của bản thân nói riêng và con người nói
chung.
 Biết cách sống tích cực trong MT và thân thiện với MT.
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 24

 Về kiến thức:
Dạy cho các bé nhận biết được các thành phần môi trường và mối quan hệ

giữa chúng. Con người – dân số – môi trường: Biết đựơc vai trò của môi trường
đối với con người và tác động của con người đối với môi trường. Giải thích được
những hiện tượng bất thường của môi trường xảy ra trong tự nhiên.
 Về thái độ, tình cảm
 Có tình cảm yêu quý, tôn trọng thiên nhiên.
 Có tình yêu quê hương, đất nước, tôn trọng di sản văn hoá.
 Có thái độ thân thiện với môi trường và ý thức được các hành động trước
vấn đề môi trường nảy sinh.
 Có ý thức:
 Quan tâm thường xuyên đến môi trường sống của cá nhân, gia đình, cộng
đồng.
 Bảo vệ ĐDSH, bảo vệ rừng, đất đai, nguồn nước và không khí.
 Giữ gìn vệ sinh, an toàn thực phẩm, an toàn lao động.
 Ủng hộ, chủ động tham gia các hoạt động BVMT, phê phán hành vi gây
hại cho môi trường.
 Có kỹ năng phát hiện vấn đề môi trường và ứng xử tích cực với các vấn đề
môi trường nảy sinh.
 Có hành động cụ thề BVMT.
 Tuyên truyền ý thức BVMT trong gia đình, nhà trường và xã hội.
1.2.7. Nội dung giáo dục BVMT trong các trường Mầm Non
Môi trường là sự tổng hợp nhiều thành phần: thiên nhiên, dân số, kinh tế –
xã hội, văn hóa,… Trong nhà trường, chúng ta quan tâm chủ yếu đến môi trường
tự nhiên và tác động qua lại, chặt chẽ của nó với các hoạt động của con người.
Việc giáo dục về môi trường, trong môi trường phải nhằm tới giáo dục vì môi
trường. Vì vậy, nhà trường phải cung cấp đầy đủ những kiến thức về môi trường
cho học sinh.
Khảo sát nhận thức và định hướng giáo dục môi trường cho học sinh ở các
trường Mầm Non khu vực Tp Hồ Chí Minh
Trang 25


Song đó mới chỉ là một mặt của mục tiêu giáo dục BVMT. Điều cần đạt là
học sinh từ sự hiểu biết đó, tùy theo độ tuổi và mức độ tham gia vào các hoạt động
tác động đến môi trường, cần có thái độ ứng xử thân thiện với môi trường, có kỹ
năng thực hành, phương pháp hành động độc lập, khả năng ra quyết định phù hợp,
ứng xử có hiệu quả vấn đề môi trường. Qua đó hình thành và phát triển giá trị nhân
cách, đạo đức trong thái độ ứng xử và hành động trước vấn đề môi trường.
1) Quan điểm lựa chọn và thiết kế nội dung khối kiến thức
Nội dung khối kiến thức được thiết kế theo hướng tích hợp lấy bản thân trẻ
làm trung tâm với các mối quan hệ với con người - hệ thống tự nhiên; con người
– văn hóa xã hội; con người - địa danh; con người - nguồn nhân lực tác động.
2) Nội dung khối kiến thức
 Hiểu biết về bản thân và gia đình.
- Cung cấp những kiến thức về cấu tại cơ thể và các nhu cầu cần thiết của
con người và gia đình.
- Giáo dục trẻ nhận biết tình cảm của bản thân và mọi người xunh quanh.
 Con người - địa danh
- Giúp trẻ làm quen với các địa danh gần gũi và quan trọng trong khu vực trẻ
ở.
- Hình thành kỹ năng giao tiếp, biểu cảm, hành vi ứng xử đúng đắn, phù hợp
với địa danh.
 Con người và thiên nhiên
Cung cấp kiến thức sơ đẳng về MT thiên nhiên, giáo dục trẻ có thái độ tốt
và biết bảo vệ môi trường.
 Con người – văn hóa xã hội
- Giáo dục về vị trí, vai trò của bản thân trong gia đình và trong môi trường
xã hội.
- Giáo dục trẻ kỹ năng sống trong nhóm bạn bè, tôn trọng người khác.
 Môi trường – con người – thời gian và sự thay đổi

×