Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Đánh giá hiện trạng môi trường và định hướng phát triển bền vững làng nghề chạm bạc ở xã Lê Lợi tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 97 trang )

Đồ án tốt nghiệp
1

CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
1. 1 Đặt vấn đề
Kinh tế nông thôn có vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế
xã hội ở nước ta, bởi vì nông thôn Việt Nam chiếm hơn 70% lao động và gần 80% dân
số. Một trong những nội dung định hướng phát triển kinh tế nông thôn do đại hôi IX đề ra
là: mở mang các làng nghề (LN), phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
Phát triển các làng nghề nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập ở nông thôn, góp phần
xoá đói giảm nghèo, góp phần thực hiện chiến lược kinh tế hướng ngoại với sản phẩm mũi
nhọn là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản và cũng là thực hiện mục tiêu
“ly nông bất ly hương” ở nông thôn. LN ở Việt Nam trong đó một bộ phận quan trọng là
làng nghề thủ công truyền thống với sản phẩm đặc trưng là hàng thủ công mỹ nghệ tinh
xảo.
Theo số liệu điều tra hiện nay, tỉnh Thái Bình có hơn 200 làng nghề, xã nghề.
Trước đây, do hoạt động manh mún, nhỏ lẻ, khối lượng hàng hóa làm ra không nhiều,
làm ăn theo kiểu tự cung, tự cấp nên môi trường làng nghề ít chịu ảnh hưởng bởi sản
xuất. Trong thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, nhiều làng nghề Thái Bình nói
riêng và trong cả nước nói chung, nhiều làng nghề được khôi phục và phát triển với
quy mô ngày càng lớn. Bên cạnh thành tựu là tạo ra công ăn việc làm cho người nông
dân địa phương trong lúc nhàn rỗi, phát triển kinh tế thay đổi bộ mặt nông thôn là các
vấn đề môi trường phát sinh. Vấn đề ô nhiễm môi trường khá nghiêm trọng và ảnh
hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống trong các LN nói riêng và nông thôn nói chung.
Nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh trong làng nghề đã và đang tạo sức ép không nhỏ
đến môi trường sống của làng nghề và các cộng đồng xung quanh. Các làng nghề cần
được định hướng phát triển bền vững. Tại Thái Bình, chạm bạc Đồng Xâm là một trong
những làng nghề nổi tiếng nhất nước. Làng Đồng Xâm nằm trong quần thể khu vực ba xã Lê
– Hồng – Trà, chủ yếu ở xã Hồng Thái. Tuy nhiên, làng nghề chạm bạc thuộc xã Lê Lợi hiện
nay có quy mô lớn nhất và môi trường tự nhiên ở đây cũng ảnh hưởng nặng nhất. Tại đây


đang tồn tại một bài toán khó giải, đó là làm sao vừa phát triển kinh tế, ổn định xã hội mà
không làm ô nhiễm môi trường làng nghề chạm bạc Lê Lợi?
Đồ án tốt nghiệp
2
Vì vậy, người thực hiện chọn đề tài:
"
Đánh giá hiện trạng môi trường và định
hướng phát triển bền vững cho làng nghề chạm bạc ở xã Lê Lợi tỉnh Thái Bình” làm
đồ án tốt nghiệp của mình.
1.2 Nội dung nghiên cứu
 Khảo sát hiện trạng chất lượng nước sông, ao hồ, mương dẫn và nước ngầm tại
một số khu vực làng nghề chạm bạc xã Lê Lợi.
 Nghiên cứu áp dụng phát triển làng nghề chạm bạc theo hướng bền vững phù
hợp với điều kiện cụ thể.
 Nghiên cứu các phương pháp xử lý nước thải chứa kim loại nặng như Crom,
Cyanua.
 Điều tra, khảo sát tác động ô nhiễm nước đến con người và sinh vật trong làng
vùng lân cận.
 Nghiên cứu phương pháp cải thiện môi trường nước hiện tại tại làng nghề.
1.3 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu: Đánh giá được mức độ ô nhiễm môi trường (nước thải và không khí) tại
làng nghề Chạm bạc xã LL, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo vệ và cải án
thiện môi trường của làng nghề hướng tới sự phát triển bền vững.
1.4 Đối tượng và quy mô
Đối tượng: Nước thải làng nghề chạm bạc khu vực HTX Phú Lợi xã Lê Lợi huyện
Kiến Xương tỉnh Thái Bình.
Quy mô: Hợp tác xã Phú Lợi và các các cơ sở sản xuất làng nghề trong xã Lê Lợi.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Tóm tắt quy trình nghiên cứu:
Bước 1: Xác định mục tiêu và nội dung nghiên cứu

Bước 2: Tổng quan các vấn đề có liên quan đến đề tài
Bước 3: Phân tích hiện trạng sản xuất của làng nghề chạm bạc xã Lê Lợi và các
nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm môi trường.
Bước 4: Đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường của làng nghề.
Bước 5: Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm, hướng tới sự
phát triển bền vững cho làng nghề.
Các phương pháp nghiên cứu chính:
Đồ án tốt nghiệp
3
 Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu. Thu thập tài liệu sơ cấp: thu
thập số liệu bằng cách quan sát, theo dõi, phân tích và số liệu phỏng vấn. Thu thập tài
liệu thứ cấp: báo cáo, điều tra, thống kê của các sở ban ngành như sở TNMT tỉnh Thái
Bình, Sở công thương, các phòng TNMT, phòng công thương huyện Kiến Xương; các
báo cáo tổng kết của xã Lê Lợi.
 Phương pháp phân tích hệ thống: Đây là phương pháp chung cho nhiều ngành
khoa học. Mỗi hệ thống tự nhiên và kinh tế xã hội đều bao gồm nhiều bộ phận cấu
thành, chúng có mối liên hệ ràng buộc và tác động qua lại lẫn nhau. Người làm đề tài
đã sử dụng phương pháp này để phân tích các mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất
nghề chạm bạc với sự biến đổi của môi trường, với đời sống con người xung quanh
nơi sản xuất.
 Phương pháp chuyên gia: Người làm đề tài tham khảo ý kiến của các vị nghệ
nhân cao tuổi trong làng nghề chạm bạc.
 Phương pháp tham khảo ý kiến người dân: Nắm bắt được những suy nghĩ của
người dân sống trong làng đối với môi trường, biết được sự quan tâm của chính quyền
các ban ngành đối với môi trường nơi đây.
 Phương pháp thực địa: Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong hầu hết
các nghiên cứu khoa học, vì nó giúp thị sát tình hình thực tế, có cái nhìn khách quan
khi tiến hành nghiên cứu. Người làm đề tài đã tiến hành đi thực địa nhằm thu thập các
thông tin, lấy mẫu phân tích.
 Phương pháp phỏng vấn nhanh: Phương pháp này giúp thu thập, cập nhật thêm

những thông tin chưa có tài liệu thống kê, hoặc muốn lấy ý kiến từ cộng đồng hoặc các
đối tượng có liên quan. Người làm đề tài đã sử dụng phương pháp này để thu thập các
thông tin liên quan đến sản xuất và vấn đề môi trường của xã Lê Lợi. Sau khi phỏng
vấn cần tiến hành phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin đã thu được.
 Phương pháp bản đồ, biểu đồ: Việc mô hình hóa các dữ liệu bằng các biểu đồ, sơ
đồ giúp các nội dung trình bày mang tính trực quan hơn, thể hiện rõ hơn mối liên hệ
giữa các yếu tố được trình bày. Phương pháp bản đồ được sử dụng để thể hiện một số
nội dung về mặt không gian như sự phân bố sản xuất, lộ trình của nước thải, các mức
độ ô nhiễm, tình trạng bệnh tật và ý thức của người dân về vấn đề môi trường làng
nghề.
Đồ án tốt nghiệp
4
 Phương pháp phân tích các thành phần môi trường: Người làm đề tài đã nhờ đến
các biện pháp đo và phân tích các mẫu nước, các mẫu khí từ các nguồn đáng tin cậy
nhằm thu thập kết quả về chất lượng các thành phần môi trường của làng nghề chạm
bạc Lê Lợi. Người làm đề tài đã tiến hành lấy 03 mẫu nước tại khu vực HTX Phú Lợi
để phân tích tại trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Thái Bình với 11 chỉ tiêu chính. Bên
cạnh đó, mẫu không khí và mẫu đất thu thập tài liệu từ các báo cáo của cơ quan
chuyên ngành.
1.6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Các kết quả nghiên cứu của đề tài về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, hiện
trạng xản xuất, hiện trạng ô nhiễm môi trường của làng nghề và một số giải pháp đề
xuất là tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác quản lý môi trường của làng nghề chạm
bạc xã Lê Lợi.
Việc nghiên cứu lý luận và gắn với thực tiễn của vùng nhằm hướng tới những
giải pháp mang tính khả thi sẽ có những ý nghĩa đáng kể cho định hướng quy hoạch
làng nghề nhằm bảo vệ môi trường.
Qua đề tài này, người làm đề tài mong sẽ tích lũy được thêm nhiều kiến thức
cũng như các bài học kinh nghiệm có liên quan đến việc đánh giá tác động môi trường,
xác định mức độ ô nhiễm môi trường, quy hoạch bảo vệ môi trường, kiến thức về làng

nghề cũng như các phương pháp nghiên cứu khoa học.
Đồ án tốt nghiệp
5

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
LÀNG NGHỀ VIỆT NAM
2.1 Một số vấn đề chung về phát triển bền vững
2.1.1 Quan niệm PTBV trên thế giới
Khái niệm phát triển bền vững (Sustainable development) xuất hiện lần đầu tiên
vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn thế giới được công bố bởi Hiệp hội
bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên Quốc tế với nội dung “Sự phát triển của
nhân loại không chỉ chú trọng đến phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu
cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học”.
Năm 1987 trong bài báo có tiêu đề Tương lai của chúng ta (Báo cáo Our
Common Future) của Hội đồng thế giới về Môi trường và phát triển, phát triển bền
vững được định nghĩa cụ thể hơn, đó là “Sự phát triển đáp ứng được những nhu cầu
hiện tại nhưng không trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu thế hệ mai sau”. Như vậy,
PTBV phải đảm bảo sự phát triển kinh tế có hiệu quả, xã hội phát triển công bằng, văn
minh và môi trường được bảo vệ. Để đạt được điều này, tất cả các chính quyền, các
thành phần kinh tế, cá nhân, tổ chức phải cùng nhau có trách nhiệm thực hiện nhằm
dung hòa giữa phát triển kinh tế – xã hội – bảo vệ môi trường. [1]
Năm 1992, khái niệm PTBV được khẳng định tại Hội nghị thượng đỉnh trái
đất Rio de Janeiro họp tại (Braxin) bàn về phát triển bền vững toàn cầu thông qua
chương trình nghị sự 21 với 179 nước tham gia Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Rio
de Janeiro về môi trường và phát triển bao gồm 27 nguyên tắc cơ bản và Chương trình
nghị sự 21 (Agenda 21) về các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế giới
trong thế kỷ.
Mười năm sau, tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ
chức năm 2002 ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi), 166 nước tham gia Hội nghị đã
thông qua Bản tuyên bố Johannesburg và Bản Kế hoạch thực hiện về phát triển bền

vững. Hội nghị đã khẳng định lại các nguyên tắc đã đề ra trước đây và tiếp tục cam kết
thực hiện đầy đủ Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững.
Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển được tổ chức
tại Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng
và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững cấp quốc gia và 6.416
Đồ án tốt nghiệp
6
Chương trình nghị sự 21 cấp địa phương, đồng thời tại các nước này đều đã thành lập
các cơ quan độc lập để triển khai thực hiện chương trình này. Các nước trong khu vực
như Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Malaysia đều đã xây dựng và thực hiện
Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững.
Các hội nghị đều khẳng định: “PTBV là quá trình phát triển có sự kết hợp
chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển. Đó là: phát t
r
iển kinh tế,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và một trong những nội dung cơ bản nhất là
con người, trung tâm của sự phát triển.
Mối quan hệ giữa 3 yếu tố này có thể được mô
hình hoá như sau:


Hình 2.1: Mô hình phát triển bền vững
PTBV về kinh tế: được hiểu là sự tiến bộ mọi mặt của nền kinh tế thể hiện ở
quá trình tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và sự thay đổi về chất của nền kinh tế,
gắn với quá trình tăng năng suất lao động. Mục tiêu của PTBV kinh tế là đạt được sự
tăng trưởng ổn định, với cơ cấu hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống
của người dân, tránh được sự suy thoái trong tương lai, tránh gây nợ nần cho thế hệ
mai sau.
PTBV về xã hội: Là quá trình phát triển ạt được kết quả ngày càng cao
trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đảm bảo chế độ dinh dưỡng và

chăm sóc sức khoẻ cho người dân, mọi người đều có cơ hội trong giáo dục, có việc
làm, giảm tình trạng đói nghèo, nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và
tinh thần cho mọi đối tượng, tầng lớp nhân dân trong xã hội.
PTBV về môi trường: Là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô
nhiễm môi trường.
Đồ án tốt nghiệp
7
Như vậy, điều kiện để PTBV là: Tăng trưởng kinh tế trong thời gian dài, tăng
trưởng kinh tế đi đôi giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ cải thiện môi trường và tăng
trưởng kinh tế vì con người. Tất cả các thế hệ đều có quyền như nhau trong việc thoả
mãn các nhu cầu phát triển của mình. Mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như nhau
trong việc bảo vệ môi trường sống.[1]
2.1.2 Phát triển bền vững ở Việt Nam
Phát triển bền vững trong điều kiện hội nhập kinh tế là vấn đề mang tính chất
toàn cầu và là mục tiêu phấn đấu của mọi quốc gia. Chiến lược phát triển bền vững ở
mỗi nước được xây dựng dựa trên điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước đó và
phải được thực hiện bằng các chiến lược phát triển kinh tế xã hội với tổng thể các giải
pháp và những bước đi phù hợp.
Việt Nam là một trong 200 nước có tham gia hội nghị thượng đỉnh trái đất
Rio de Janeiro. Tháng 9 năm 2002, Việt Nam đã giới thiệu dự thảo lần đầu phát triển
bền vững, tại hội nghị Thượng đỉnh về phát triển bền vững toàn cầu họp tại
Johanesburg (Cộng hòa Nam Phi).
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ký Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg phê
duyệt Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (Chương trình Nghị sự
21). Đây là một chiến lược khung bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý
để các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân phối hợp hành động nhằm đảm
bảo phát triển bền vững đất nước trong thế kỷ 21. Quyết định đã nêu ra 8 nguyên tắc
phát triển bền vững của Việt Nam:
1. Con người là trung tâm của phát triển bền vững.

2. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa
với phát triển xã hội, với khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên theo nguyên tắc : kinh tế, xã hội và môi trường cùng có lợi.
3. Bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là một yếu tố không thể tách rời
của quá trình phát triển, phải áp dụng đồng bộ các công cụ pháp lý và kinh tế, kết hợp
với tuyên truyền vận động.
4. Phát triển phải đảm bảo đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện
tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai.
5. Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước.
Đồ án tốt nghiệp
8
6. Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ,
ngành và địa phương, của cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân
cư và mọi người dân.
7. Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế.
8. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường với đảm bảo
quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Trên cơ sở 8 nguyên tắc, định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam gồm 5 phần:
Phần 1: Phát triển bền vững-con đường tất yếu của Việt Nam.
Phần 2: Những lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững.
Phần 3: Những lĩnh vực xã hội cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững.
Phần 4: Những lĩnh vực sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và kiểm
soát ô nhiễm cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững.
Phần 5: Tổ chức thực hiện phát triển bền vững.
Trong Luật bảo vệ môi trường của nước ta có quy định giải thích: Phát triển bền vững
là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả
năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà
giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.[4.2.3]

2.2 Phát triển bền vững làng nghề truyền thống
2.2.1 Một số vấn đề chung về làng nghề Việt Nam
2.2.1.1 Lịch sử làng nghề Việt Nam
Nghề thủ công ở nước ta đã xuất hiện từ rất lâu đời. Qua những di tích khảo cổ
tìm thấy tại Sông Mã, Quảng Bình thì công việc thủ công đầu tiên của tổ tiên chúng
ta là chế tạo búa dao bằng đá, dệt bằng vỏ cây và sau đó biết dùng đồng nguyên
chất gò thành đồ đựng, rồi biết đúc đồng thau bằng cách trộn đồng với thiếc.
Từ thời Hùng Vương, đúc đồng đã trở thành một nghề phát triển.
Khoảng 300 năm trước công nguyên chúng ta đã học được người Trung Quốc
cách dựng bàn quay làm đồ gốm. Đến khoảng thế kỷ II trước Công nguyên chúng ta đã
biết chế tạo vật dụng bằng sắt. Thời kỳ này đã có những người chuyên làm vũ
khí, trống đồng (trống đồng Ngọc Lũ).
Từ thế kỷ II sau Công nguyên, người ta đã biết sản xuất đường thạch mật
hay còn gọi đường giao chỉ. Thế kỷ III, con người đã biết làm giấy bản tốt bằng gỗ mật
Đồ án tốt nghiệp
9
hương gọi là mật hương chỉ. Ngoài ra trong thời gian này còn xuất hiện nghề làm thủy
tinh.
Thế kỷ V, nghề rèn sắt phát triển át hẳn nghề đúc đồng, kỹ thuật đồ gốm có tiến
bộ hơn cùng với sự xuất hiện nghề chạm bạc, nghề nung gạch ngói. Thế kỷ VII nghề
thủ công phát triển đặc biệt nghề dệt tơ lụa.
Thế kỷ X, nghề rèn sắt phát triển, vua Lê Hoàn đã cho mở xưởng đúc tiền
đồng, vũ khí. Ngoài ra cũng xuất hiện nghề đóng thuyền, nghề mộc phát triển, chạm
bạc hưng thịnh.
Dưới thời nhà Trần, tiểu thủ công nghiệp phát triển. Nhân dân ở kinh đô
Thăng Long chia thành 61 phường thợ thủ công, nhà buôn tùy theo nghề nghiệp. Có
nhiều tổ chức nghề nghiệp: kiến trúc, sơn, tô tượng, đúc chuông.
Trong thời kỳ đô hộ, thực dân Pháp hạn chế nghề thủ công ở Việt Nam, nhằm
đảm bảo lợi nhuận độc quyền. Có những lúc nghề dệt lụa, chế biến rượu bị đình đốn
trước các chính sách của thực dân. Vị trí của những người thợ thủ công trong các chế

độ cũ được xác định trong câu: sĩ, nông, công, thương, nhưng thu nhập của họ rất
thấp. Từ sau hòa bình cho đến năm 1960, các làng nghề truyền thống của Việt Nam
được phục hưng. Hàng thủ công mỹ nghệ được mang đi nhiều nước, đặc biệt là Liên
Xô cũ và Đông Âu. Thời kỳ này hình thành các hợp tác xã (HTX) tiểu thủ công
nghiệp.
Giai đoạn 1986 – 1992: Đây là giai đoạn quan trọng đối với sự phát triển của
làng nghề, nó được đánh dấu bằng sự chuyển đổi từ cơ chế quản lý bao cấp sang cơ
chế thị trường. Do sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam thường gặp nhiều khó khăn,
các sản phẩm nghề bị sa sút đáng kể về mẫu mã lẫn số lượng. Vì vậy một số làng nghề
bị mất đi, giảm thị trường tiêu thụ. Khi có cuộc cải tổ kinh tế (từ nền kinh tế tập trung
quan lieu bao cấp sang nền kinh tế thị trường) các làng nghề dần đi vào thế ổn định và
phát triển mạnh. Từ chỗ chỉ có khoảng 150 làng nghề năm 1990 thì đến nay có khoảng
hơn 2000 làng nghề. Không chỉ phát triển về số lượng mà chất lượng sản phẩm cũng
không ngừng tăng nhanh Các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách đổi mới quản
lý trong nông nghiệp và phát triển các thành phần kinh tế đã có tác động mạnh mẽ đến
sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung và với làng nghề nói riêng.
Trong giai đoạn này, nhiều làng nghề truyền thống đã được khôi phục và phát triển,
mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư vốn, kỹ thuật, hình thành nhiều cơ sở kinh doanh
Đồ án tốt nghiệp
10
mới, thu hút ngày càng nhiều lao động, tăng dần sản lượng và kim ngạch xuất khẩu…
Điển hình như làng gốm Bát Tràng, gốm Đồng Nai, chạm khắc Hà Tây, thêu ren Thái
Bình…
Năm 2005 Nhà nước thành lập “Hiệp hội làng nghề Việt Nam” có nhiều chính
sách nhằm khuyến khích làng nghề phát triển,bảo tồn, thúc đẩy sự phát triển làng
nghề.
Trong thời gian qua các làng nghề ở Việt Nam phát triển đáng kể cả về số
lượng và chất lượng. Làng nghề truyền thống chiếm khoảng 15% tổng số làng nghề
(khoảng 228 làng). Các làng nghề sản xuất ra khối lượng càng lớn, đóng góp ngày
càng nhiều cho nền kinh tế quốc dân.

Phát triển các làng nghề ở một số địa phương đã góp phần đáng kể hạn chế hiện
tượng di dân từ nông thôn ra thành phố, từ vùng này qua vùng khác. Công việc ổ định,
cuộc sống được đảm bảo, thu nhập làng nghề cao hơn làm nông nghiệp hay tranh thủ
làm lúc nông nhàn làm cho người dân không muốn rời đi nơi khác. Phương trâm “ly
nông bất ly hương” đã phát huy tác dụng dưới sự tác động của làng nghề. Đặc biệt,
khu vực kinh tế làng nghề còn có thể sử dụng được lao động già cả, khuyết tật, trẻ em
mà khác khu vực kinh tế khác không nhận.[5]
2.2.1.2 Khái niệm về làng nghề
Làng nghề là cấu thành của hai yếu tố: “làng” và “nghề”, tồn tại trong một
không gian địa lý nhất định. Xuất phát từ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân,
nghề thủ công xuất hiện với tư cách là nghề phụ trong các hộ gia đình nông dân và
nhanh chóng phát triển ở nhiều làng quê Việt Nam. Trong quá trình phát triển, các
nghề thủ công của các hộ tiểu nông dần dần tách khỏi nông nghiệp nhưng gián tiếp
hay trực tiếp vẫn liên quan đến nông nghiệp. Xu thế chung hiện nay là các ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp sẽ tách khỏi nông nghiệp và ngày càng trở thành ngành kinh tế
độc lập, chuyên môn hóa cao. Có nhiều định nghĩa về nghề và làng nghề truyền thống.
Làng nghề tiểu thủ công nghiệp: là một thiết chế kinh tế xã hội ở nông thôn, cụ
thể hơn là cụm những hộ dân cư sinh sống trong một thôn hoặc một làng, làm cùng
một nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm
phục vụ tiêu dùng cũng như bán ra thị trường để tăng thu nhập cho người dân và giải
quyết công ăn việc làm cho lao động nhàn rỗi.
Đồ án tốt nghiệp
11
Có rất nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau khi đề cập đến tiêu chí để một làng
ở nông thôn được coi là một làng nghề. Năm 2006, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đã ban hành Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18 tháng 12 năm 2006 quy
định nội dung và các tiêu chí công nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề
truyền thống.Theo đó:
Nghề truyền thống là nghề đã hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có
tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai

một, thất truyền.
Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc
hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành
nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau.
Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời.
Cũng theo Thông tư nói trên, các tiêu chí dùng để công nhận nghề truyền thống, làng
nghề và làng nghề truyền thống được quy định như sau:
Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 03 tiêu chí sau:
1. Nghề đă xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị công
nhận;
2. Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc.
3. Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.
Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau:
1. Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề
nông thôn.
2. Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 02 năm tính đến thời điểm đề
nghị công nhận.
3. Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Làng nghề truyền thống được công nhận phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một
nghề truyền thống theo quy định tại Thông tư này. Đối với những làng chưa đạt tiêu
chí công nhận làng nghề (theo tiêu chí 1 và 2 trên đây) nhưng có ít nhất một nghề
truyền thống được công nhận theo quy định của Thông tư này thì cũng được công
nhận là làng nghề truyền thống.
Đồ án tốt nghiệp
12
2.2.1.3 Phân loại các làng nghề
Làng nghề với những hoạt động và phát triển đã có những tác động tích cực và
tiêu cực đến nền kinh tế, đời sống xã hội và môi trường với những nét đặc thù rất đa
dạng. Vấn đề phát triển và môi trường của các làng nghề hiện nay đang có nhiều bất
cập và đang được chú ý nghiên cứu. Muốn có được những kết quả nghiên cứu xác

thực, đúng đắn và có thể quản lý tốt các làng nghề thì cần có sự nhìn nhận theo nhiều
khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau đối với làng nghề. Bởi vậy dựa trên một số tiêu chí
khác nhau có thể phân loại làng nghề như sau:
 Theo làng nghề truyền thống và theo làng nghề mới.
 Theo ngành sản xuất, loại hình sản phẩm.
 Theo quy mô sản xuất, quy trình công nghệ.
 Theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm.
 Theo mức độ sử dụng nguyên/nhiên liệu.
 Theo thị trường tiêu thụ sản phẩm, theo tiềm năng tồn tại và phát triển.
Mỗi cách phân loại trên có những đặc thù riêng và tùy theo lợi ích mà phân loại.
Trên cơ sở tiếp cận môi trường làng nghề, tùy theo loại hình sản xuất và loại hình sản
phẩm là phù hợp. Bởi vậy, hệ thống phân loại các làng nghề dựa trên các số liệu thông
tin điều tra, khảo sát là cơ sở khoa học cho nghiên cứu, quản lý hoạt động sản xuất
cũng như việc quản lý, bảo vệ môi trường làng nghề. Thực tế cho thấy, mỗi ngành
mỗi sản phẩm đều có những yêu cầu khác nhau về nguyên nhiên liệu, quy trình
sản xuất, nguồn thải khác nhau dẫn đến tác động đến môi trường cũng khác nhau.
Dựa trên các yếu tố về ngành sản xuất, sản phẩm, thị trường, có thể chia hoạt
động làng nghề nước ta thành sáu nhóm nghề chính, trong đó mỗi ngành lại có
nhiều ngành nhỏ.
1. Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm chăn nuôi và giết mổ: Có số lượng
làng nghề lớn, chiếm 20% tổng số các làng nghề, phân bố khác đều trên cả nước. thời
gian lao động là lúc nông nhàn, không yêu cầu trình độ cao và hình thức sản xuất còn
thủ công. Phần lớn các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm nước ta là các làng
nghề lớn như :nấu rượu, làm bánh đa nem, đậu phụ, bánh tráng, miến dong, bún, bánh
đậu xanh, bánh gai với nguyên liệu chính là gạo, ngô, khoai, sắn và thường gắn liền
với chăn nuôi trong gia đình.
Đồ án tốt nghiệp
13
2. Làng nghề dệt nhuôm, ươm tơ, thuộc da: nhiều làng có từ lâu đời, có các sản
phẩm mang tính lịch sử, đặc trưng của địa phương. Những sản phẩm như lụa tơ tằm,

dệt, thổ cẩm là những sản phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Quy trình sản xuất không
thay đổi nhiều với nhiều thợ có tay nghề cao. Tại các nhóm ngành nghề này, số lượng
làm nghề nhiều hơn làm nông nghiệp.
3. Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: Hình thành hàng trăm
năm nay, tập trung ở vùng có nguyên liệu cho hoạt động xây dựng. Lao động gần như
thủ công hoàn toàn, công cụ lao động thô sơ. Nghề khai thác đá cũng phát triển ở các
vùng gần đá vôi được cấp giấy phép khai thác, cung cấp vật liệu làm sản phẩm thủ
công mỹ nghệ và vật liệu xây dựng.
4. Làng nghề tái chế phế liệu: Chủ yếu là các làng nghề mới hình thành, số lượng
ít nhưng lại phát triển nhanh về quy mô và loại hình tái chế: chất thải nhựa, kim loại,
giấy… đa số các làng nghề này nằm ở phía bắc và đang được cơ giới hóa nhiều.
5. Làng nghề thủ công mỹ nghệ: Bao gồm ngành nghề gốm, sành sứ, thủy tinh
mỹ nghệ, chạm khắc đá, mạ vàng độc, làm nón, dệt chiếu thêu ren. Đây là nhóm nghề
chiếm tý trọng lớn về số lượng với 39%, sản phẩm có độ tinh xảo và mang đậm nét
văn hóa địa phương. Quy trình sản xuất không thay đổi, nhưng đòi hỏi tay nghề cao,
cần sự sáng tạo, đổi mới liên tục về mẫu mã.
6. Các nhóm ngành khác: bao gồm các làng nghề chề tạo nông cụ thô sơ như cày
bừa, mộc, đóng thuyền, đan dây thừng, đan vó, làm lưới, quạt giấy, đan vó, lưới
Những nhóm này xuất hiện từ lâu, sản phẩm phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của người
dân trong sinh hoạt và sản xuất. Lao động phần lớn là thủ công.[5]

Đồ thị 2.1: Phân loại làng nghề theo loại hình sản xuất
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường 2008)
Đồ án tốt nghiệp
14
2.2.1.4 Phân bố làng nghề trên cả nước
Theo kết quả điều tra của Tổ chức JICA (Nhật Bản) hiện nay VN có 2.017 làng
nghề, nhưng theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề VN, cả nước có 2.790 làng nghề,
nhiều làng nghề có bề dày lịch sử khoảng 300 năm. Đặc biệt trong năm 2010 với cuộc
vận động “Người VN ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, đại lễ 1.000 năm Thăng Long –

Hà Nội, các sản phẩm làng nghề VN ngày càng được nhiều người biết đến và tin dùng.
Hiện cả nước có 11 nhóm nghề chính như: sơn mài, gốm sứ, thêu ren, mây tre
đan, cói, dệt, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá trải dài từ Bắc vào Nam trong đó Bắc
chiếm khoảng (1594 làng nghề) 79% tổng số. Làng nghề phát triển chủ yếu ở hai bên
sông Hồng và khu vực lân cận, thu hút khoảng 20 triệu LĐ, trong đó 30% số LĐ
thường xuyên còn lại là LĐ thời vụ.[6]

Đồ thị 2.2: Hiện trạng phân bố làng nghề trên cả nước
(Nguồn: Số liệu từ Báo cáo Môi trường quốc gia 2008 –
Môi trường làng nghề)
Vùng đồng bằng Bắc Bộ có mật độ làng nghề truyền thống khá cao, chiếm 2/3
tổng số làng nghề cả nước với những sản phẩm nổi danh như: Lụa Vạn Phúc, đồ gỗ
Đồng Kỵ, đồ đồng Đại Bái, tranh Đông Hồ, gốm Bát Tràng, cốm Vòng
Miền Trung có điêu khắc Mỹ Xuyên, tranh làng Sình, nón Phú Cam, đá Non
Nước, gốm Thanh Hà ở các tỉnh phía Nam, ven các con sông và ngoại vi thành phố
cũng hình thành những làng nghề, khu dân cư với các nghề thủ công lâu đời như đá
Bửu Long, gốm Tân Vạn, sơn mài Tương Bình Hiệp, các làng nghề nhân giống, chiết
cành, tạo dáng bonsai nổi tiếng ở Sài Gòn, Bến Tre, An Giang
Cả nước hiện có khoảng 13% số hộ nông dân chuyên sản xuất nghề, 27% hộ
nông dân sản xuất nông nghiệp có tham gia nghề. Trong số hơn 40 ngàn cơ sở sản xuất
ở các làng nghề, 80% là các hộ cá thể, gần 6% là các hình thức hợp tác xã.
Đồ án tốt nghiệp
15
2.2.1.5 Đặc điểm phát triển nghề và làng nghề
Điều kiện sản xuất kinh doanh gắn bó với hộ gia đình nông thôn và ngành nông
nghiệp. Nghề thủ công truyền thống bắt nguồn từ nông nghiệp mà ra và gắn liền
với sự phân công lao động ở nông thôn. Các nghề thủ công truyền thống ra đời nhằm
phục vụ nhu cầu sinh hoạt tự cung tự cấp của người nông dân và chủ yếu phục vụ
nông nghiệp. Không những vậy, nghề truyền thống còn dựa vào nông nghiệp để phát
triển. Nông nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu, nguồn nhân lực, nguồn vốn chủ

yếu và là thị trường tiêu thụ rộng lớn.
Lao động: Lao động trong các LN chủ yếu là những người nông dân, địa điểm
sản xuất là tại gia đình họ. Họ tự quản lý, phân công lao động, thời gian cho phù
hợp với cả việc sản xuất nông nghiệp những lúc mùa vụ và với nghề thủ công những
lúc nông nhàn.
Sản phẩm: Các sản phẩm làng nghề bộc lộ những nét tinh xảo điêu luyện, đạt tới
đỉnh cao nghệ thuật trang trí. Các sản phẩm mang tính chủ quan sáng tạo, hoàn toàn
phụ thuộc bàn tay người thợ. Cũng vì thế ở các LN sản phẩm phụ thuộc trình độ người
thợ, phụ thuộc thị hiếu, mức tiền người tiêu dùng. Do đặc điểm điều kiện sản xuất
kinh doanh, sản phẩm thủ công in đậm dấu ấn người thợ nên khó sản xuất đại trà, mà
chỉ sản xuất đơn chiếc. Nhược điểm về sản phẩm như vậy làm cho LN khó đáp ứng
được những đơn hàng lớn, chất lượng sản phẩm không đồng đều.
Kỹ thuật sản xuất: đặc trưng về kỹ thuật trong LN là công cụ thủ công, công
nghệ mang tính cổ truyền do lịch sử để lại và do chính người lao động trong làng nghề
tạo ra. Kỹ thuật đặc biệt nhất của LN là đôi bàn tay vàng của người thợ được tích
luỹ qua nhiều thế hệ, giữ được tính chất bí truyền của nghề, không có máy móc
nào thay thế bàn tay thợ lành nghề. Nhược điểm kỹ thuật của LN không tổng kết thành
lý luận, không được ghi chép, truyền miệng trong gia đình, trong dòng họ, trong làng
nên trong lịch sử nhiều bí quyết đã bị mai một.
Đồ án tốt nghiệp
16
Bả n g 2 . 1 : Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề hiện nay
(Nguồn: Đặng Kim Chi, 2005)
Tổ chức sản xuất kinh doanh:
Hộ gia đình: là mô hình sản xuất truyền thống chiếm hơn 90% các mô hình tổ
chức sản xuất kinh doanh trong các làng nghề hiện nay. Là mô hình tổ chức sản xuất
phù hợp nhất với cơ sở vật chất ở làng nghề hiện nay: Tận dụng, tranh thủ mọi thời
gian lao động, linh hoạt trong sản xuất kinh doanh, hiệu quả kinh tế được hạch toán cụ
thể, kịp thời, kích thích sản xuất nhanh nhất và có sự phù hợp giữa qui mô, năng lực
sản xuất với trình độ quản lý.

Hạn chế: Các chủ hộ không có kiến thức về quản lý kinh tế, khó tiếp cận và
chậm ứng dụng khoa học công nghệ; năng lực sản xuất hạn chế. Một ưu điểm và
cũng là nhược điểm là mọi độ tuổi đều có thể tham gia lao động tạo ra thu nhập cho
gia đình nên hiện tượng bỏ học sớm để làm kinh tế là phổ biến ở một số làng nghề.
Tổ sản xuất: Xuất hiện do các chủ thể kinh tế ñộc lập liên kết lại nhằm
nâng cao hiệu quả kinh tế, thỏa mãn lợi ích kinh tế chung. Hợp đồng lao động giữa
các bên lao động chủ yếu là truyền miệng.
Hợp tác xã: Trước giai đoạn đổi mới, các hợp tác xã thủ công nghiệp là
mô hình sản xuất quan trọng nhất trong các làng nghề. Các hợp tác xã thủ công
nghiệp được thực hiện dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động bằng cách
chấm công. Hợp tác xã kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, có đủ tư cách pháp
nhân để giao dịch về xuất nhập khẩu.
Trình độ
kỹ thuật

Chế biến nông
– lâm – thủy
sản
Thủ công mỹ nghệ và
vật liệu xây dựng
Các
ngành
dịch vụ
Các
ngành
khác
Thủ công bán
cơ khí (%)
61.51
70.69

43.90
59.44
Cơ khí (%)
38.49
29.31
56.10
40.56
Tự động hóa (%)
0
0
0
0
Đồ án tốt nghiệp
17
2.2.2 Vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế - xã hội
2.2.2.1 Vai trò làng nghề trong xóa đói giảm nghèo
Tại các làng nghề, đa số dân cư làm thủ công nhưng vẫn tham gia sản xuất nông
nghiệp. Tại nhiều làng nghề, trong cơ cấu kinh tế địa phương, tỷ trọng ngành công
nghiệp dịch vụ đạt 60 – 80% còn ngành nông nghiệp đạt 20 – 40%. Trong những năm
gần đây, số hộ và cơ sở nghề ở nông thôn ngày càng tăng lên với tốc độ từ 8.8 – 9%.
Kinh ngạch xuất khẩu các làng nghề ngày càng tăng nhanh.
Đối với các làng nghề sản xuất thời vụ thường chỉ sản xuất lúc nông nhàn. Tuy
nhiên ở các vùng sản xuất lớn hiện nay hầu như các lao động làm việc quanh năm và
quy mô lớn hơn. Hiện nay các làng nghề, trung bình mỗi cơ sở doanh nghiệp tư nhân
chuyên làm nghề tạo việc làm ổn định cho hơn 27 lao động thường xuyên và 8 – 10
lao động thời vụ. Hộ cá thể có 4 – 6 lao động thường xuyên và 2 – 5 lao động thời vụ.
Đặc biệt ở cơ sở mây tre đan, thêu, có thể tới 200 – 300 lao động. Mức thu nhập người
lao động cao hơn từ 3 – 4 lần so với thu nhập nghề nông. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình
trong số hộ sản xuất thủ công nghiệp là 3.7% thấp hơn nhiều so với mức trung bình cả
nước là 10.4%.[7.8]

2.2.2.2 Vai trò của làng nghề trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Trong tiến trình “công nghiệp hóa”, các nghề thủ công sử dụng máy móc đang
ít nhiều mất đi sự tinh xảo vốn có. Phần lớn các sự kiện văn hóa lịch sử, được “gửi”
vào sản phẩm và kỹ xảo độc đáo của nghề, của làng nghề mà ít được ghi chép, lưu giữ
bằng văn bản. Các bậc nghệ nhân với những bí quyết, kinh nghiệm dân gian, kỹ xảo
truyền thống ngày càng ít dần, trong khi giới trẻ làng nghề ngày nay trong vòng quay
của cơ chế thị trường, tổ chức sản xuất hàng loạt, nên sản phẩm mang dấu ấn riêng
không còn được chú trọng. Nhiều người thợ làng nghề hôm nay không hiểu rằng, hàng
thủ công mỹ nghệ của làng được thị trường trong, ngoài nước ưa chuộng đã có độ tuổi
hàng trăm năm, là bởi giá trị của nghệ thuật thủ công, ở bản sắc văn hóa, ở tính độc
đáo, trở thành sản phẩm văn hóa chứ không đơn thuần là sản phẩm tiêu dùng.
Ngày nay, cùng với thúc đẩy phát triển kinh tế, các làng nghề truyền thống còn
có trách nhiệm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong công cuộc hội nhập
quốc tế. Chỉ có giữ gìn được thương hiệu đích thực của mỗi làng nghề thì làng nghề
mới được củng cố và phát triển không ngừng.[9]
Đồ án tốt nghiệp
18
2.2.2.3 Vai trò của làng nghề trong phát triển du lịch
Lợi ích của việc phát triển làng nghề không chỉ ở kinh tế, giải quyết việc làm
cho lao động địa phương mà còn góp phần bảo tồn giá trị văn hóa lâu dài. Điểm chung
của nhiều làng nghề là nằm trên trục giao thông đường bộ hay đường thủy. Đây là điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển các tuyến hay điểm du lịch. Theo tiến sĩ Nguyễn
Trung Lương thì “Làng nghề truyền thống được xem như một dạng tài nguyên du lịch
nhân văn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng”[27]. Bởi các sản phẩm du lịch làng nghề
luôn bao hàm trong nó cả những giá trị vật thể và phi vật thể”. Ngoài những lợi thế
như cảnh quan thiên nhiên, vị trí địa lý, nét đặc sắc văn hóa, đến với mỗi làng nghề
khách tham quan còn được tận mắt theo dõi quá trình làm ra một sản phẩm thủ công,
thậm chí tham gia một khâu sản xuất. Chính điều này tạo nên sức hấp dẫn làng nghề
du lịch.[5]
2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự PTBV LN

2.2.3.1 Khái niệm phát triển bền vững làng nghề (PTBV LN)
Khái niệm về phát triển bền vững LNTT không thể tách rời khái niệm về phát
triển bền vững. Theo đó:
Phát triển bền vững làng nghề truyền thống chính là quá trình ph
á
t triển
sản xuất, kinh doanh của các
LNTT.
Nhằm thoả mãn nhu cầu đa d

ng và ngày
càng phát triển của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến
k
h

năng đáp ứng
nhu cầu đó của các thế hệ tương l
a
i. Trên cơ sở đó, một LN sẽ phát triển bền vững
nếu đảm bảo được các nội dung:
a. Phát triển bền vững làng nghề truyền thống về kinh tế
Phát triển LN, ngành nghề nông thôn được coi là giải pháp trực tiếp giải
quyết việc làm tại các địa phương, đóng vai trò quyết định trong xóa đói giảm nghèo.
PTBV LN về
kinh tế là tăng năng suất lao động, gia t
ă
ng giá trị sản lượng, thu
hút lao động vào ngành nghề phi nông nghiệp, n
â
ng cao thu nhập, thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu, thay đổi mô hình sản xuất tiêu dùng theo hướng PTBV.
b. PTBV LNTT về xã hội
Là sự đóng góp cụ thể của làng nghề cho việc phát triển xã hội, đảm bảo sự
công bằng trong phát triển. Sự phát triển làng nghề tránh cho người dân dời bỏ thôn
xóm đi làm ăn nơi khác. PTBV làng nghề phải đảm bảo tạo công ăn việc làm cho mọi
đối tượng, sử dụng diện tích đất cho nghề thủ công ít hơn cho nông nghiệp.
PTBV LN
Đồ án tốt nghiệp
19
về xã hội là tạo việc làm, thu nhập ổn định cho người lao động, xóa đói giảm
nghèo, tăng quỹ phúc lợi, nâng cao trình độ dân trí, xây dựng nông thôn mới, bảo
tồn văn hóa vùng miền ở làng nghề, vùng nghề.
c. Phát triển bền vững làng nghề truyền thống về môi t
r
ường
PTBV LN
về môi trường là giảm thiểu tác hại ô nhiễm môi trường do quá
trình sản xuất kinh doanh nghề truyền thống gây ra. Có kế hoạch, quy hoạch khai
thác, sử dụng tiết kiệm nguồn nguyên liệu hoặc kiếm nguyên liệu thay thế, phòng
ngừa các bệnh nghề nghiệp gây ra.
2.2.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững làng nghề
 Nhân tố thị trường
 Nhân tố lao động
 Nhân tố vốn và cơ sở thiết bị, hạ tầng
 Khoa học kỹ thuật nâng cao tay nghề và giảm sức lao động
 Nguồn nguyên liệu
 Nhân tố thể chế kinh tế, chính sách kinh tế và sự quản lý c

a
nhà


ớc
2.2.4. Kinh nghiệm phát triển bền vững làng nghề một số nước
2.2.4.1 Kinh nghiệm phát triển bền vững làng nghề các nước tiêu biểu
+ Nhật
B

n
Nhật Bản tiến hành CNH từ một nước có nền nông nghiệp cổ truyền, sản
xuất manh mún. Trong quá trình CNH họ ñã có những sáng tạo, những ngành nghề
tiểu thủ công truyền thống không bị mất ñi mà là một trong những nội dung của
CNH là: duy trì các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp cổ truyền ở nông thôn. Tại Nhật
Bản có hơn 867 nghề truyền thống bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau như chế tác
kim hoàn, sơn mài, chế biến lương thực phẩm trong quá trình CNH đã hiện đại hoá
kỹ thuật công nghệ và tác ñộng của ñời sống văn minh công nghiệp đã làm thay đổi
một số thói quen trong sinh hoạt của người dân. Vì thế một số nghề thủ công truyền
thống đã bị mất đi còn một số nghề được duy trì phát triển. Nhật Bản đã chú trọng
phát triển loại hình xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở các gia đình làm nghề thủ
công nghiệp.
Nghề rèn có lịch sử phát triển hơn 700 - 800 năm, Nhà nước chú trọng khâu hiện
đại hoá kỹ thuật, các tập đoàn sắt thép giúp đỡ khâu sản xuất phôi thép. Vì vậy, sản lượng
Đồ án tốt nghiệp
20
nông cụ xuất khẩu ngày càng tăng và có uy tín trong khu vực.
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, ở tỉnh OITA (miền tây - nam Nhật Bản) đã
có phong trào "mỗi thôn làng một sản phẩm" do đích thân tỉnh trưởng phát động và tổ
chức nhằm phát triển nghề thủ công truyền thống. Kết quả ngay năm đầu tiên họ ñã
tạo ra 143 loại sản phẩm, thu nhập 358 triệu USD. Năm 1992 sản xuất được 1,2 tỷ
USD trong đó có 378 triệu USD bán rượu đặc sản Sake của địa phương,114 triệu
USD các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Phong trào "mỗi thôn làng một sản phẩm"

đã lan rộng ra cả nước.[10]
+Thái
L
a
n.
Chương trình “Mỗi làng một sản phẩm” (One Tambon One Product viết
tắt: OTOP) do Chính phủ Thái Lan thực hiện với mục tiêu nâng cao thu nhập, phát
triển khả năng sáng tạo của cộng đồng. Chương trình là cơ hội để các LNTT có lịch
sử hàng trăm năm khôi phục. Tháng 11-2001 chính phủ lập ủy ban quốc gia. Nhằm
ban hành chính sách, vạch kế hoạch cụ thể, có các biện pháp trợ giúp kịp thời về kinh
phí ban đầu, kỹ thuật, thuế ưu đãi. Xây dựng ba nguyên tắc để thực hiện chương trình:
 Thúc đẩy sản phẩm nổi bật của địa phương.
 Tăng cường sức sáng tạo và tính tự lập của cộng đồng.
 Phát triển nguồn nhân lực.
Giai đoạn đầu tiên, chương trình tuyên truyền các hoạt động nhằm làm cho cộng đồng
hiểu biết về mục tiêu chương trình, để họ lựa chọn quyết định sản phẩm nổi bật của địa
phương mình tham gia chương trình.
Giai đoạn tiếp theo lập danh sách các sản phẩm tham gia chương trình, dự tính
kinh phí, tiến hành sản xuất và tiếp thị sản phẩm.Việc lựa chọn sản phẩm của các
làng nghề không mấy khó khăn do nhân dân họp bàn quyết ñịnh.
Khâu quản lý sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mới là vấn đề cần có sự trợ giúp
của Chính phủ. Nhà chức trách địa phương đã tìm đến những người cao tuổi, nghệ
nhân và nhất là những người tình nguyện đi đầu trong sản xuất.
Chính phủ hỗ trợ một phần nguồn vốn và kết nối các địa phương với thị
trường thế giới.Sau đó địa phương đó phải tự hình thành xưởng sản xuất, ban đầu tập
hợp những người theo nghề tận dụng nguyên liệu và cơ sở vật chất có sẵn của địa
phương. Tiếp đó thu hút lao động trong làng chủ yếu là nữ.
Từ xưởng sản xuất đã làm cho tình làng nghĩa xóm và trật tự cộng đồng được
Đồ án tốt nghiệp
21

thiết lập và củng cố.
Khó khăn là tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm, sản xuất nhỏ, chất lượng sản phẩm
chưa đáp ứng một số tiêu chuẩn, bao bì chưa được quan tâm đúng mức, chưa tỏ sức
hấp dẫn. Nên các sản phẩm của chương trình mới chỉ có mặt tại các cửa hàng tạp
hóa nhỏ, quầy bán xăng dầu, bến xe, nhà ga, chưa đặt chân vào siêu thị, cửa hàng lớn.
Chính phủ đã kêu gọi sự trợ giúp của các tổ chức nước ngoài trong nghiên cứu
thiết kế, tiêu chuẩn hóa sản phẩm trong tiếp thị và tổ chức các kênh phân phối trong
ngoài nước. Ngoài ra còn có hàng loạt các cuộc hội thảo phục vụ chương trình “mỗi
làng một sản phẩm”. Giúp LNTT tiêu thụ sản phẩm, Thái Lan đã tìm ra giải pháp:
- Chính phủ Thái Lan đã tổ chức hội chợ quốc tế lần thứ nhất về sản phẩm truyền
thống với sự có mặt của Thủ tướng ThakSin Shinawatra và sự tham gia của 16 quốc
gia trong khu vực và thế giới. Sau đó một thời gian một hội chợ tương tự như vậy
được tổ chức tại Trung Quốc đã quảng bá mạnh mẽ các sản phẩm thủ công của Thái
Lan. Hàng hóa thủ công mỹ nghệ được bày bán phần lớn ở các chợ đêm., chú trọng
xây dựng tuor du lịch LNTT.
Khách tham quan các loại nguyên liệu, những loại cây, con để làm sản phẩm thủ công.
Tham quan công đoạn sản xuất, quan sát việc xử lý nguyên liệu, hoàn thiện sản phẩm,
nếu du khách có nhu cầu có thể trực tiếp tham gia một số công đoạn. Thợ thủ công
ngồi đan hoặc hoàn thiện những công đoạn cuối cùng trên lối đi vào khu trưng bày
sản phẩm nên du khách có thể xem, xin làm thử hoặc được hỏi ý nghĩa văn hóa
tượng trưng của sản phẩm. Quy định ở những khu vực này rất chặt chẽ nên tuyệt nhiên
không có hiện tượng chèo kéo khách mua hàng.
Tới khu trưng bày du khách được lịch sự hướng dẫn tìm hiểu mua các sản
phẩm, giới thiệu lịch sử văn hóa, con người Thái Lan qua các nét văn hóa truyền thống
trên sản phẩm.
Tổng kết giai đoạn đầu chương trình đã thu lợi hơn 32,5%. Doanh số bán sản
phẩm thủ công năm 2003 của Thái Lan đạt trên 30 tỷ Bạt, tăng 13% so với năm 2002.
2.2.4.2 Kinh nghiệm
rút ra
cho Việt N

a
m
Một là: Tất cả các nước ở châu Á trong quá trình CNH, trong hoạch định chương
trình phát triển kinh tế đất nước đều chú trọng phát triển LNTT. Coi ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp là một nội dung phát triển kinh tế quan trọng.
Hai là: Kh ẳ n g đ ị n h vai trò nhà nước trong việc đề ra các chính sách, quan
Đồ án tốt nghiệp
22
tâm đến nghề truyền thống. Khuyến khích giúp đỡ, hỗ trợ làng nghề dưới những hình
thức, các lĩnh vực khác nhau như bằng cơ chế, chính sách tín dụng, kỹ thuật,
marketing… kịp thời cho các ngành nghề, cho các hộ thủ công. Các chính sách đã
được xuyên suốt từ trung ương đến các địa phương, bao gồm tổng thể các giải
pháp để hỗ trợ phục hồi, phát huy tiềm năng các làng nghề. Trong đó thiết thực nhất
là trợ giúp tài chính.
Ba là: Song song với hệ thống chính sách nhà nước còn hiện đại hoá kỹ thuật
sản xuất nghề thủ công theo phương châm nhà nước hỗ trợ khoa học công nghệ,
thành lập các trung tâm nghiên cứu trợ giúp kỹ thuật, còn vốn thì nhà nước và nhân
dân cùng làm.
Bốn là: Phân loại những ngành nghề truyền thống có khả năng tồn tại phát
triển, lựa chọn tìm những sản phẩm đặc trưng để đầu tư, những ngành có nguy cơ đào
thải có quyết sách phù hợp. Tổ chức hội chợ, triển lãm, kết hợp làng nghề với các tuor
du lịch, phối hợp chặt chẽ ban ngành để tìm giải pháp cho đầu ra của sản phẩm.
Năm là: Tôn vinh, đề cao các nghệ nhân trong làng nghề, mở lớp đào tạo dạy
nghề với lớp trẻ.
Sáu là: Tập trung, đột phá khâu thiết kế sản phẩm. Coi đó là chiến lược
cạnh tranh bền vững, bởi sự khác biệt với sản phẩm nước ngoài giúp bảo vệ thị trường
sản phẩm LN.
Bảy là: Giải pháp để phát triển bền vững môi trường trong sản xuất nghề
thủ công là đa dạng hóa nguồn nguyên liệu, thay thế nguyên liệu tự nhiên bằng
nguyên liệu tổng hợp (đá, gỗ, sợi nhân tạo…).

2.3 Tổng quan về ô nhiễm làng nghề Việt Nam
2.3.1 Các loại hình ô nhiễm trong làng nghề
Các chất thải phát sinh tại nhiều làng nghề đã và đang gây ô nhiễm và làm suy
thoái môi trường nghiêm trọng, tác động trực tiếp hay gián tiếp đến sức khoẻ người
dân và ngày càng trở thành vấn đền bức xúc. Ô nhiễm môi trường làng nghề có một số
đặc điểm sau:
Ô nhiễm môi trường làng nghề là dạng ô nhiễm phân tán trong phạm vi một khu
vực (nông thôn, làng, xã…). Do quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, đan xen với khu sinh
hoạt nên đây là loại hình ô nhiễm khó quy hoạch và kiểm soát.
Đồ án tốt nghiệp
23
Ô nhiễm môi trường tại làng nghề mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản xuất
theo ngành nghề và loại hình sản phẩm và tác động trực tiếp đến môi trường nước, đất,
khí trong khu vực.
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề thường khá cao tại khu vực sản xuất và
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người lao động.
Môi trường không khí ô nhiễm bụi, ô nhiễm mùi và khí SO2. Bụi phát sinh
nhiều nhất ở các làng nghề gốm sứ, vật liệu xây dựng, khai thác đá, đồ gõ mỹ nghệ, và
các làng nghề tái chế (đặc trưng nổi bật nhất là phát sinh một lượng lớn bụi kim loại
nặng và bụi vật liệu độc hại). Ô nhiễm mùi tại các làng nghề chế biến lương thực, thực
phẩm, chăn nuôi và giết mổ. Còn ô nhiễm khí độc SO2 xảy ra chủ yếu ở các làng nghề
mây tre đan ở khâu tẩy màu.
Về môi trường nước gồm ô nhiễm chất hữu cơ và ô nhiễm vô cơ. Ô nhiễm chất
hữu cơ tại các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ là loại
hình sản xuất có nhu cầu nước rất lớn và nước thải có độ nhiễm chất hữu cơ rất cao,
nhất là sản xuất tinh bột từ sắn và dong giềng. Ô nhiễm chất vô cơ tại các làng nghề
dệt nhuộm, tái chế giấy tạo ra nước thải có hàm lượng kim loại nặng độc hại vượt
TTCP hàng chục lần.
Chất thải rắn: hầu hết các làng nghề vẫn chưa được thu gom và xử lý tập trung
mà do thói quen sinh hoạt nông thôn đều thải ra đường đi, bờ sông, bờ ao…

2.3.2. Những tồn tại của làng nghề tác động đến môi trường
Bên cạnh mặt tích cực, sự phát triển của làng nghề cũng đem lại nhiều khó khăn
về vấn đề môi trường và xã hội. Sự tồn tại và phát triển nghề trong những năm qua
cũng được coi là một trong những nguyên nhân làm cho ô nhiễm môi trường nông
thôn ngày càng trở nên nghiêm trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng tới phát triển bền vững
mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế cả nước. Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là:
Quy mô sản xuất nhỏ, phần lớn ở quy mô hộ gia đình (chiếm 72% số cơ sở
sản xuất): quy mô sản xuất tại nhiều làng nghề là quy mô sản xuất nhỏ, khó phát triển
vì mặt bằng sản xuất chật hẹp xen kẽ với khu vực sinh hoạt. Sản xuất càng phát triển
thì nguy cơ lấn chiếm khu vực sinh hoạt, phát thải ô nhiễm tới khu dân cư ngày càng
lớn, dẫn đến chất lượng môi trường khu vực ngày càng xấu đi.
Nếp sống tiểu nông của người sản xuất nhỏ có nguồn gốc nông dân đã ảnh
hưởng mạnh đến sản xuất, làm tăng mức độ ô nhiễm môi trường: do không nhận thức
Đồ án tốt nghiệp
24
được tại hại ô nhiễm, chỉ quan tâm đến lợi nhuận trước mắt, các chủ sản xuất thường
chọn quy trình sản xuất thô sơ, tập trung nhiều lao động trình độ thấp. Hơn thế nhằm
cạnh tranh, hạ gí thành sản phẩm, nhiều cơ sở còn sử dụng các nguyên liệu, nhiên liệu
rẻ tiền, hóa chất độc hại, không đầu tư phương tiện, dụng cụ bảo hộ lao động, không
đảm bảo điều kiện lao động nên làm tăng mức độ ô nhiễm hiện nay.
Quan hệ sản xuất mang đặc thù của quan hệ họ hàng, gia truyền. Nhiều nghề,
đặc biệt các làng nghề truyền thống , sản xuất theo kiểu bí truyền, giữ bí mật cho dòng
họ không cải tiến áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật nên cản trở việc áp dụng
những giải pháp kỹ thuật, không khuyến khích sang tạo mang hiệu quả BVMT với
người lao động.
Công nghệ sản xuất lạc hậu: Kiến thức về tay nghề không cao dẫn đến tiêu
hao nhiều nguyên liệu, làm tăng phát thải các chất ô nhiễm môi trương ảnh hưởng đến
giá thành sản phẩm và chất lượng môi trường. Trình độ kỹ thuật ở các làng là bán cơ
khí, thủ công.Vốn đầu tư tại các cơ sở làng nghề quá thấp, khó có điều kiện phát triển
hoặc đổi mới công nghệ thep hướng than thiện với môi trường.Sản xuất mang tính tự

phát, không có kế hoạch lâu dài nên khó đầu tư tài chính và vay vốn ngân hàng. Do
đó, khó chủ động trong đổi mới kỹ thuật và công nghệ, không thể đầu tư cho môi
trường.
Trình độ người lao động, chủ yếu là lao động thủ công, học nghề, văn hóa
thấp : theo điều tra của Bộ NN& PTNT thì chất lượng chuyên môn kỹ thuật các làng
nghề nhìn chung còn thấp, chủ yếu là lao động phổ thông. Mặt khác đa số người dân
chưa có ý thức về môi trường lao động, chỉ cần việc làm có thu nhập cao hơn làm
nông và có việc làm trong lúc nhàn rỗi.
Nhiều làng nghề chưa quan tâm đến đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng BVMT
làng nghề. Việc cạnh tranh trong một số loại hình sản xuất đã thúc đẩy các chủ cơ sở,
doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, kỹ thuật sản xuất. Hầu hết các làng nghề
không đầu tư cho hệ thống xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường. Không có hệ
thống xử lý nước thải làng nghề, bãi chôn lấp chất thải rắn. Để giải quyết vấn đề này
cần công nghệ, vốn của các cấp, ngành chính quyền.[31]
2.3.3 Xu hướng phát triển làng nghề đến năm 2015
Các yếu tố chính ảnh hưởng đến phát triển làng nghề như yếu tố chủ quan như
nôi lực sản xuất và yếu tố khách quan: như chính sách, công nghệ… các yếu tố này
Đồ án tốt nghiệp
25
được lượng hóa bằng ý kiến các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực và cho biết xu hướng
phát triển của các loại hình, làng nghề. Vì có quá nhiều nhân tố không thể lượng trước
được nên kết quả dự đoán sẽ là xu thế trong một tương lai gần với một số giả thiết
nhất định.
Có thể thấy rằng số lượng các làng nghề ở những vùng nói chung có xu hướng tăng
lên, trừ ngành VLXD có xu thế giảm mạnh một chút so với sản phẩm sản xuất công
nghiệp. Số lượng làng nghề ở các khu vực như là ĐB sông Hồng, trung bộ, nam bộ có
xu hướng tăng lên nhiều so với các tỉnh Tây Bắc và Đông Bắc.
Bảng 2.2: Dự báo phát triển làng nghề đến năm 2015
Vùng kinh tế
Dệt

nhuộm,
ươm tơ,
thuộc da
Chế biến
LT-TP chăn
nuôi, giết
mổ
Tái
chế
phế
liệu
Thủ công
mỹ nghệ
Sản xuất
VLXD,
khai thác đá
ĐB sông Hồng
2
1
2
2
-1
Đông Bắc
1
1
0
1
0
Tây Bắc
1

1
0
1
0
Bắc Trung Bộ
1
2
1
2
1
Nam Trung Bộ
2
2
1
2
1
Tây Nguyên
1
0
0
2
1
Đông Nam bộ
1
1
1
2
-1
ĐB sông Cửu Long
1

1
1
2
-1
(Nguồn Đề tài KC08/09/2005, PGS.TS Đặng Kim Chi)
Ghi chú:
Suy thoái
-1
Duy trì
0
phát triển vừa
1
Phát triển mạnh
2
Lương thực thực phẩm
LTTP
Vật liệu xây dựng
VLXD

2.3.4 Tác hại của ô nhiễm môi trường làng nghề
 Ô nhiễm làng nghề ảnh hưởng tới bệnh tật và tuổi thọ.
Trong thời gian gần đây số người mắc bệnh, đặc biệt số người trong nhóm độ tuổi lao
động đang có xu hướng tăng cao. Theo các kết quả nghiên cứu cho thấy, tuổi thọ của
người dân tại các làng nghề ngày càng giảm đi, thấp hơn 10 lần so với tuổi thọ trung
bình toàn quốc và so với làng không có nghề cũng thấp hơn từ 5 – 10 năm. Tỷ lệ người

×