Câu 1: Anh chị hãy nêu nhận xét của mình về thế giới quan và nhân sinh quan Phật
giáo. Và cho ý kiến của mình về vấn đề tôn giáo ở địa phương ?
Phật giáo là một trong những học thuyết triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế giới và đã tồn tại
rất lâu đời với hệ thống giáo lý rất đồ sộ. Phật giao la một ton giao được Thich Ca Mau Ni
(Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vao thế kỷ 6 trước cong nguyen. Phật giao la hinh thức
tổ chức giao đoan được xay dựng tren một niềm tin từ đức Phật, tức từ biển lớn tri tuệ va từ bi của
Siddbada. Do được truyền ba trong một thời gian dai ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nen lịch sử
phat triển của đạo Phật kha đa dạng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vao thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 6 trước
Cong nguyen, Phật giao được lưu hanh rộng rai ở cac quốc gia trong khu vực A - Phi, gần đay được
truyền tới cac nước Au - Mỹ. Trong qua trinh truyền ba, đạo Phật đa kết hợp với tin ngưỡng, tập tục,
dan gian, văn hoa bản địa để hinh thanh rất nhiều tong phai va học phai, co tac động vo cung quan
trọng với đời sống xa hội va văn hoa của rất nhiều quốc gia.
Tư tưởng triết học Phật giao thể hiện tren hai phương diện thế giới quan va nhan sinh quan,cả
hai phương diện nay đều chứa đựng những tư tưởng duy vật va biện chứng chất phac.
1. Thế giới quan Phật giáo
Thế giới quan Phật giao la một thế giới quan co tinh duy vật va vo thần, đồng thời co chứa
đựng nhiều yếu tố biện chứng sau sắc. Những tư tưởng triết học Phật giao nay đượcthể hiện thong
qua 3 phạm tru cơ bản: vo nga, vo thường va duyen khởi.Tinh duy vật va vo thần thể hiện ro net nhất
ở quan niệm về tinh tự than sinh thanh,biến đổi của vạn vật, khong do sự chi phối quyết định của một
lực lượng thần linh haythượng đế tối cao nao. Trai lại vạn vật đều tuan theo tinh tất định va phổ biến
của luật nhan quả. Điều nay được quan triệt trong việc ly giải những vấn đề của cuộc sống nhan sinh
như: Hạnh phuc, đau khổ, giau ngheo, thọ, yểu…
- Phật giao cho rằng vạn vật la vo thủy chung, khong co sự vật đầu tien vi khong co nguyen
nhan đầu tien va cũng khong co sự vật cuối cung. Vạnvật, kể cả con người đều khong do thần linh
hay thượng đế sang tạo ra. Như vậy ngay từ đầu Phật giao đa đặt ra mục đich giải quyết vấn đề cơ
bản của Triết học một cach biệnchứng va duy vật. Phật giao đa gạt bỏ vai tro sang tạo thế giới của cac
“đấng tối cao” của“Thượng đế” va cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khach quan va khong do vị
thần naosang tạo ra cả. Cai bản thể ấy chinh la sự thường hằng trong vận động của vũ trụ, la muon
ngan hinh thức của vạn vật trong vận động, no co mặt trong vạn vật nhưng no khong dừnglại ở bất kỳ
hinh thức nao. Tuy nhien, Phật giao cũng cho rằng vạn vật, kể cả con người chỉ la ảo va giả, chỉ do
“tam vo minh” sinh ra.
- Vạn vật tuy muon hinh vạn trạng nhưng đều tuan hanh nghiem ngặt theo quan hệ nhan quả
(nhan quả tương tục va nhan quả vo tạp loạn) thong qua điều kiện nhất định gọi la duyen– Tư tưởng
nay được gọi la “duyên khởi”. Từ quan niệm vạn vật khong tự nhien co, khongtự nhien sinh ra, va
cũng khong do một thần quyền hay một đấng thieng lieng nao tạo ra,Phật cho rằng sự vật sinh ra phải
co nhan duyen. Phật giao lại nhấn mạnh: quả co thể khac nhan sinh ra no, quả co thể hơn nhan nếu
gặp đủ duyen tốt, trai lại co thể kem nhan nếu gặp duyen xấu. Nhan gặp đủ duyen thi sẽ thanh quả,
quả sinh ra nếu hội tủ đủ duyen lại co thểbiến thanh nhan rồi lại sinh ra quả khac. Như vậy, sự vật la
một chuỗi nhan quả nối tiếpnhau, ảnh hưởng lẫn nhau khong bao giờ đứt quang, khong bao giờ
ngừng.Tinh biện chứng sau sắc của triết học Phật giao đặc biệt thể hiện ro qua việc luận chứng về
tinh chất “vo nga” va “vo thường” của vạn vật.
- Phạm tru “vô ngã.” bao ham tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vụ trụ vốn khong co tinh
thường hằng no chỉ la sự “giả hợp” do sự hội đủ nhan duyen nen thanh ra “co” (tồntại). Ngay bản
than sự tồn tại của thực tế con người chẳng qua cũng la do “ngũ uẩn” (nămyếu tố) hội hợp lại: Sắc
(vật chất), thụ (cảm giac), tưởng (ấn tượng), hanh (suy ly) va thức (y thức). Theo cach phan loại
khac-“lục tại”: địa (chất khoảng), thuỷ (chất nước), hoả (nhiệt năng), phong (hơi thở), khong (khoảng
trống) va thức (y thức). Noi một cach tổngquat thi vạn vật chỉ la sự “hội hợp” của hai loại yếu tố la
vật chất “sắc” va tinh thần“danh”. Như vậy thi khong co cai gọi la “toi” (vo nga).
- Phạm tru “vô thường” gắn liền với phạm tru “vo nga”. Vo thường nghĩa la vạn vật biến đổi
vo cung theo chu trinh bất tận: Sinh – Trụ – Dị – Diệt…(hay: Sinh – Trụ – Hoại –Khong). Vậy thi
“co co” – “khong khong” luan hồi (banh xe quay) bất tận: “thoang co”,“thoang khong” cai con ma
chẳng con, cai mất ma chẳng mất. Bản chất sự tồn tại của thếgiới la một dong biến chuyển khong
ngừng (vo thường). Khong thể tim ra nguyen nhanđầu tien, do vậy khong co ai tạo ra thế giới va cũng
khong co gi vĩnh hằng.
Như vậy, Phật giao cho rằng cac sự vật va hiện tượng trong vũ trụ (chu phap) la vo thuỷ, vo
chung (vo cung, vo tận). Tất cả thế giới đều ở qua trinh biến đổi lien tục (vothường) khong co một vị
thần nao sang tạo ra vạn vật cả. Tất cả cac Phap đều thuộc về mộtgiới (vạn vật đều nằm trong vũ trụ)
gọi la Phap giới. Mỗi một phap ( mỗi một sự v iệc hiệntượng, hay một lớp sự việchiện tượng) đều ảnh
hưởng đến toan Phap. Như vậy cac sự vật,hiện tượng hay cac qua trinh của thế giới la luon luon tồn
tại trong mối lien hệ, tac độngqua lại va qui định lẫn nhau, đều bị chi phối bởi luật nhan quả, biến hoa
vo thường, khong co cai bản nga cố định, khong co cai thực thể, khong co hinh thức nao tồn tại vĩnh
viễn cả.Cai nhan nhờ co cai duyen mới sinh ra được ma thanh quả. Quả lại nhờ co duyen ma thanh
nhan khac, nhan khac lại thanh quả. Quả lại nhờ co duyen ma thanh nhan khac, nhan khaclại nhờ co
duyen ma thanh quả mới Cứ thế nối nhau vo cung vo tận ma thế giới, vạn vật, muon loai, cứ sinh
sinh, hóa hóa mãi.
Phật giao đa đề cập đến vấn đề ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, thanh, thức la những vấn đề co y thức
luận sau xa. Tuy đối tượng đo la tam va tinh chất la duy tam nhưng trong qua trinh ngũ uẩn chứa
đựng một qua trinh nhận thức hợp ly. Từ sự vật khanh quan (Sắc),con người cảm thụ được(Thụ), suy
nghĩ(Tưởng), rồi thực hiện (Hanh), va cuối cung la biết (Thức).Ở đay nếu đem boc cai thần bi ra ta
thấy co những hạt nhan hợp ly. Phật giao đa đưa vao những quan niem biện chứng với cac khai niệm
‘vo thường’, ‘vo nga’. Cho thấy Phật giao nhin sự vật trong sự vận động biến đổi lien tục khong co gi
la trụ lại mai, khong co ai la tồn tại mai. Tuy nhận thức đo chỉ nhin thấy cai biến đổi ma khong nhin
thấy cai ổn định tương đối. Phật giao đề cập đến mối nhan duyen đến mối quan hệ nhan quả, đến việc
xet sự vật phải từ kết quả tim ra nguyen nhan va xem kết quả nay la nguyen nhan từ kết quả khac
trong mỗi qua hệ khac.
2. Nhân sinh quan Phật giáo
Nhan sinh quan Phật giao la phần trọng tam của triết học nay. Nội dung triết học nhan sinh
của Phật giao tập trung ở bốn luận điểm (gọi la Tứ diệu đế hay con gọi la tứ chan đế hay tứ thanh đế).
Bốn luận điểm nay được Phật giao coi la bốn chan ly vĩ đại về cuộc sống nhan sinh cho bất cứ cuộc
sống nhan sinh nao thuộc đẳng cấp nao, đồng thời cũng la cơ sở của cac thuyết khac trong giao ly
Phật.
Khổ đế giải thich sự thật nơi cuộc sống nhan sinh khong co gi khac ngoai sự đau khổ, rang
buộc hệ luỵ, khong co tự do. Đo la 8 nỗi khổ trầm lam bất tận ma bất cứ ai cũng phải ganh chịu: Sinh,
Lao, Bệnh, Tử, Ai biệt Ly (yeu thương chia lia), Oan tăng hội (oan ghet nhau ma phải sống với nhau),
Sở cầu bất đắc (cai mong muốn ma khong đạt được), va Ngũ thụ uẩn (5 yếu tố vo thường nung nấu
lam khổ).
Nhân đế la những nguyen nhan tạo thanh sự khổ. Những nguyen nhan đo khong phải timđau
xa ma ở ngay trong mỗi chung ta. Do đo, Phật đưa ra ly thuyết thập nhị nhanduyen để thấy được
nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhan duyen la sợi day lien tụcnối tiếp con người trong vong
sinh tử luan hồi đo la: 1.Vo minh; 2.Hanh; 3.Thức; 4.Danhsắc; 5.Lục nhập; 6.Xuc; 7.Thụ; 8.Ai;
9.Thủ; 10.Hữu; 11.Sinh va 12.Lao Tử. Trong 12 nhanduyen ấy thi “Vo minh” la nguyen nhan thau
tom tất cả. Bởi vậy diệt trừ vo minh la diệttrừ tận gốc rễ sự đau khổ nhan sinh. Dưới goc độ nhận
thức, vo minh la “ngu tối”, “khong sang suốt”, “thiếu giac ngộ chan ly”.
Nhan đế la một chan ly thể hiện tinh biểu chứng sau sắc trong mối quan hệ nhan quả va đa tim
tới cac nguyen nhan rất đa dạng, phong phu. Cac nguyen nhan ấy quan hệ với nhau,cai nao cũng co
thể lam nhan lam duyen cho cai khac, như lan song tren mặt biển, lớptrước la lớp nhan la duyen cho
lớp sau va cứ thế tiếp diễn. Nhưng cai hạn chế của nhan đếla chưa đề cập đến nguyen nhan từ xa hội.
Đặc biệt la chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, boc lột trong xa hội. Luận điểm nay thể hiện ro từ trao
hướng nội hướng nội trong nhận thứcluận Phật giao.
Diệt đế ban về khả năng co thể tieu diệt được sự khổ nơi cuộc sống nhan sinh, đạt tới trạng
thai Niết ban, cứu canh của hanh động tự do. Luận điểm nay cũng bộc lộ tinh thần lạc quan ton giao
của Phật giao; cũng thể hiện khat vọng nhan bản của no muốn hướng con người đến niềm hạnh phuc
“tuyệt đối”; khat vọng chan chinh của con người tới Chan –Thiện – Mỹ.
Đạo đế la con đường, la mon phap hướng dẫn cho chung sinh diệt khổ, ra khỏi luan hồi sinh
tử, đạt tới giải thoat. Đo khong phải la con đường sử dụng bạo lực ma la con đường “tu đạo”. Thực
chất của con đường nay la hoan thiện đạo đức ca nhan. Sự giải phong mang y nghĩa của sự thực hiện
ca nhan, khong mang y nghĩa của những phong trao cach mạng hay cải cach xa hội. Đay la net đặc
biệt của “tinh thần giải phong nhan sinh” của Phật giao. Phap mon tu dưỡng ra khỏi luan hồi sinh tử
rất nhiều, nhưng thường được đề cao la phương phap 37 đạo phẩm.
Trong 37 đạo phẩm, bat chinh đạo la quan trọng nhất. No la con đường giup người ta thoat
khỏi phiền nao, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Ban tự tại, an lạc. Bat chinh đạo gồm co:
1. Chinh ngữ : la tu nghiệp thanh tịnh, khong phat ra lời noi sai trai.
2. Chinh nghiệp: hanh động chan chinh, mang lại lợi ich cho mọi người.
3. Chinh mệnh: sống bằng nghề nghiệp chan chinh.
4. Chinh tịnh tiến : tiến tới tren con đường đạo, khong đi vao cac đường ta.
5. Chinh niệm: tam tri luon luon nghĩ đến đạo ly vo nga, diệt trừ những kiến chấp me lầm,
đoạt trừ những tư tưởng, hanh động bất chinh.
6. Chinh định : Giữ tam vắng lặng khong một vọng niệm khởi len để tri tuệ xuất hiện, chứng
quả tu đa hoan.
7. Chinh kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải co y biến lấy tieu biểu la cac vị
Phật.
8. Chinh tư duy: Sau khi co niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cach chan chinh,
lam chủ được dong tư duy.Tam nguyen tắc (hay “bất chinh đạo”) co thể thau tom vao ba điều học tập,
ren luyện lớn la: Giới - Định – Tuệ (tức la: Giữ giới luật, thực hanh thiền đinh va khai thong tri tuệ
Bat nha).
Muốn thực hiện được “ Bat chinh đạo” thi phải co phương phap để thực hiện nhằm ngăn ngừa
những điều gian ac gay thiệt hại cho minh va những người lam điều thiện co lợi ich cho minh va cho
người. Nội dung của cac phương phap đo la thực hiện “ Ngũ giới” ( năm điều răn ) va “Lục độ” (Sau
phep tu ). “Ngũ giới” gồm: Bất sat (Khong sat sinh), Bất đạo (Khong lam điều phi nghĩa), Bất dam
(Khong dam dục), Bất vọng ngữ (Khong bịa đặt, khong vu oan giao hoạ cho kẻ khac, khong noi dối),
“Lục độ” gồm: Bố thi (Đem cong sức, tai tri, của cải để giup người một cach thanh thực chứ khong
để cầu lợi hoặc ban ơn), Tri giới (Trung thanh với điều răn, kien tri tu luyện), Nhẫn nhục (Phải biết
kien nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để lam chủ được minh), Tịnh tiến (Cố gắng nỗ lực vươn len),
Thiền định (Tư tưởng phải tập trung vao điều ngay, chinh khong để cho cai xấu cho lấp), Bat nha (Tri
tuệ thấy ro hết, hiểu thấu hết mọi chuyện tren thế gian).
Tom lại, Phật giao cũng co những hạn chế, ảnh hưởng tieu cực nhất định đến tư duy của
người Việt Nam. Phật giao chỉ thấy ca nhan con người ma khong thấy xa hội con người, chỉ thấy
cong người noi chung ma khong thấy con người của giai cấp đối khang nhau trong xa hội trước đay,
khong thừa nhận đấu tranh trong giai cấp xa hội,do đo khong thấy được nguyen nhan khổ ải của con
người, khong thấy được sự cần thiết phải chống ap bức, boc lột vi thế quan niệm từ bi bac ai trong
một số trường hợp bất lợi cho đấu tran giải phong giai cấp, chống ap bức.
Phật giao cho rằng chỉ co bằng sự kien định để thực hiện “Bat hanh đạo”, “Ngũ giới”, “Lục
độ” thi chung sinh mới co thể giải thoat minh ra khỏi nỗi khổ. Phật giao khong chủ trương giải phong
bằng cach mạng xa hội. Mặc du Phật giao len an rất gay gắt chế độ người boc lột người, chống lại chủ
nghĩa duy tam cua Balamon giao. Đo la một trong những nhược điểm đồng thời cũng la ưu điểm nửa
vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của chung sinh Phật giao chủ trương cải tạo tam linh chứ khong
phải cải tạo thế giới hiện thực.
Như vậy, Phật giao nguyen thuỷ co tư tưởng vo thần, phủ nhận đấng sang tạo ( vo nga, vo tạo
giả) va co tư tưởng biện chứng ( vo thường, ly thuyết Duyen khởi ). Tuy nhien, Triết học Phật giao
cũng thể hiện tinh duy tam chủ quan khi coi thế giới hiện thực la ảo giả va do cai tam vo minh của
con người tạo ra.
Ý kiến: Kể từ chúa Nguyễn Hoàng, sự hiện diện của Phật giáo ở Huế đã trên 400 năm. Với
những mặt tích cực trong giáo lý của mình, Phật giáo đã đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của
Huế nói riêng và Việt Nam nói chung. Cùng với sự tồn tại ấy Đạo Phật đã trải qua bao cơn thăng trầm
suy thịnh với sự chuyển biến chung của Đất nước. Vận nước hưng thì Đạo Phật cũng phát triển mạnh
và ngược lại vận nước suy thì Đạo Phật cũng rơi vào thoái trào. Phật giáo Huế vẫn như xưa thời kỳ
hưng thịnh ở thế kỷ XVII - XVIII, những năm tháng chấn hưng 1932 -1933, những năm tháng đấu
tranh bảo vệ Phật pháp và dân tộc 1952, 1963, 1966, 1967, 1973.
Trải qua nhiều thăng trầm cùng lịch sử dân tộc, lúc yếu, lúc mạnh khác nhau, có biến động,
có được, có mất, nhưng cái mà Phật giáo Huế không thay đổi chính là sống trong lòng người dân xứ
Huế, với tình cảm Từ, Bi, Hỷ, xả, hướng thiện, vị tha sẵn sàng giúp đỡ con người. Các tín đồ phật tử,
tăng, ni Huế ngày càng hiểu rõ chủ trương chính sách mới về tự do tín ngưỡng của Đảng và nhà nước,
các chủ trương của ”Giáo hội Phật giáo Việt Nam“. Họ yên tâm tu hành và tích cực tham gia vào sản
suất, tham gia vào hoạt động từ thiện xã hội, thực hiện nếp sống tốt đời đẹp đạo, thực hiện nghĩa vụ
của một người công dân đối với đất nước, xã hội theo đường hướng “Đạo pháp - Dân tộc - Xã hội chủ
nghĩa”. Cho đến nay, Huế vẫn là một trong ba trung tâm Phật giáo lớn nhất của Nhà Nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngày nay, Phật giáo Huế đang ra sức cùng Phật giáo cả nước và nhân dân Việt Nam cùng góp
sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tinh thần đó được
biểu hiện rực rỡ trong những việc làm tốt đời đẹp đạo, nó chính là chất keo đã gắn bó Phật giáo Huế
với những sinh hoạt tinh thần trong truyền thống Huế trong mọi lĩnh vực. Chính thế, trong xã hội
Thừa Thiên - Huê, khi đến chùa người ta không cầu trở thành triệu phú, mà chỉ mong có người giải
đáp cho họ những thắc mắc về bản chất và ý nghĩa đích thực của đời sống.
Câu 2: Tại sao nói vấn đề trung tâm của Phật giáo là giải thoát và ý nghĩa của nó đối với
đời sống hiên nay ?
Ấn Độ cổ đại là một trong những cái nôi triết học cổ xưa nhất của nhân loại và mang một “hơi
thở” riêng, độc đáo, thể hiện tính nhân văn, nhân bản sâu sắc. Đó là một nền Triết học hướng vào sự
giải thoát khổ bằng con đường thực nhiệm tâm linh, tức là vén mở chính thế giới nội tâm của con
người. Tuy có nhiều khuynh hướng và hình thức khác nhau, nhưng giải thoát luận là khuynh hướng
nổi trội của triết học Ấn Độ cổ trung đại. Lý tưởng, mục đích tối cao là giải thoát con người khỏi bể
khổ của cuộc đời là đỉnh cao của triết học Phật giáo.
Hầu hết tất cả các môn phái triết học Ấn Độ cổ đại, dù là thuộc hệ thống Bà la môn chính
thống hay thuộc hệ thống không chính thống, đều có xuất phát điểm của tư tưởng giải thoát nỗi khổ
của cuộc đời con người và điểm đạt tới của sự giải thoát là dập tắt hay diệt hết mọi dục vọng, trở về
với chân bản tính của mình, đồng nhất với thực tại tuyệt đối tối cao, vĩnh hằng hay niết bàn. Tuy
nhiên, khác với các tôn giáo khác, giáo lý, luật lệ, lễ nghi và triết lý của họ thường bị các tầng lớp
thống trị phản cách mạng lợi dụng để hạ thấp và đọa đày con người nói chung, người lao động nói
riêng xuống địa vị của những sinh vật thấp hèn; Tư tưởng Phật giáo chống đối lại những thế lực đó -
những thế lực nấp sau lưng Thượng đế để duy trì vĩnh viễn quyền lực thống trị của mình trong các xã
hội tồn tại dựa trên sự phân chia đẳng cấp. Triết thuyết Phật giáo chứng minh vạn vật đều có mâu
thuẫn nội tại của nó và đều nằm trong quá trình vận động biến đổi không ngừng. Sự biến đổi đó
không do một lực lượng siêu nhiên nào chi phối điều khiển đến mức an bài cả cuộc sống con người
mà con người không thể nhận thức được. Phật giáo khẳng định sự biến đổi ấy đều theo duyên sinh,
nhân quả.
Chính việc núp sau lưng Thượng đế của kẻ thống trị mà Phật giáo đã lấy giải thoát làm trọng
tâm cho giáo lý của mình. Đức Phật nói: “ Này các đệ tử, ta nói cho mà biết, nước ngoài khơi chỉ có
một vị mặn, đạo của ta dạy cũng chỉ có một vị là vị giải thoát”. Ngài khuyên mọi người dẹp bỏ mọi
Tham, Sân, Si và trở về với thực tại giải quyết những vấn đề nhân sinh: “Này các vị, đừng thắc mắc
rằng thế giới này là hữu hạn hay vô hạn, cõi đời này là hữu cùng hay vô cùng. Dù nó hữu hạn hay vô
hạn, hữu cùng hay vô cùng thì điều các vị phải thừa nhận trước hết vẫn là: cuộc đời đang đầy rẫy khổ
đau.”. Chính vì thế trong bốn chân lý lớn của triết lý Phật giáo - Tứ Diệu Đế - Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni đã coi khổ đế là chân lý đầu tiên.
Như một sự tổng kết về tư tưởng giải thoát của triết học - tôn giáo Ấn Độ, Đức Phật đã đưa ra
quan điểm có tính khái quát về nổi khổ rằng: “Hởi các tỳ kheo! Bây giờ đây là chân lý cao thượng về
sự khổ: Sinh là khổ, bệnh là khổ, phiền não, ưu tư là khổ, sống chung với người mình không ưa là
khổ, xa lìa những người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ, tóm lại chính thụ ngũ
uẫn là khổ”. Vậy, chính nỗi khổ của cuộc đời thôi thúc con người vươn lên mơ ước một cõi hạnh
phúc tuyệt đối. Triết học và tôn giáo Ấn Độ nói chung, Phật giáo nói riêng không chỉ là thoát khổ
theo quan niệm thông thường, mà trên con đường hướng đến mục đích đó, nó còn đặt ra những câu
hỏi khiến con người luôn khao khát tìm kiếm như: Bản chất và ý nghĩa tối cao của cuộc đời là gì? Cái
gì là giá trị cao cả và là cứu cánh của cuộc sống con người? Những câu hỏi đó đã làm cho mọi quan
niệm của thế tục lấy vật chất, của cải, danh lợi, sinh tử làm thước đo giá trị đời sống trở nên hết sức
nhỏ bé tầm thường.
Phật giáo luận giải thêm rằng, sở dĩ con người ta mắc vào vòng trói buộc của nổi khổ chính là
do con người mê lầm không nhận ra được trên bản tính của mình và thực tướng của con vật. Tất cả sự
vật hiện tượng trong thế giới chỉ là giả tạm nó luôn nằm trong trạng thái biến đổi. Không có cái gì là
thường hằng, thượng trụ cả. Vì thế mà duyên của Phật giáo thì từng giây từng phút đang sinh, đang
diệt. Nhưng vì con người ta vô minh cải là ta, do ta và của ta. Từ đó mà nảy sinh ra những luyến ái,
dục vọng, thúc đẩy ta hành động, theo đuổi những ham muốn vật chất, tiền tài danh vọng hư ảo, đã
tạo nên những nghiệp báo, chìm ngập trong nổi thất vọng đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác. Để
thoát khỏi mê lầm, dục vọng trở về với cái tâm thanh tịnh, không vọng đọng bằng thiền định, tu luyện
đạo đức, thực nghiệm tâm linh lâu dài.
Vậy, giải thoát theo triết lý Phật giáo tức là trạng thái tinh thần con người vượt ra khỏi mọi sự
ràng buộc của thế giới nhục dục, là sự “diệt“ hết mọi dục vọng, dập tắt ngọn lưả duc vọng để đạt tới
cõi Niết bàn (Nirvana) với cái tâm tuyệt đối thanh tịnh. Giải thoát tức là giải thoát tất cả những mối
phiền não, những dây phiền não đã trói buộc cái tâm, làm mê tâm mờ tính do nhục dục quyến rũ. Khi
con người ta được giải thoát cũng chính là con người ta đạt tới sự siêu thoát, nghĩa là họ vượt sự trỏi
buộc của thế giới trần tục, thoát khỏi sự chi phối của dục vọng, sinh tử, phiền não, sống hoàn toàn
thanh thoát tự tại. Giải thoát là thấu suốt lý nhân sinh để đạt tới thể “không tịch”. Song đạt tới thể
không tịch không có nghĩa là trở về với cái hoàn toàn hư vô, mà thưc ra là để xóa bỏ thành kiến chấp
ngã hẹp hòi bởi thế giới đang tồn tại là thế giới vô ngã, để từ đó có thể thấu đạt tư tưởng: “chư hành
vô thường, vạn pháp vô ngã, hết thảy đều là không“ của pháp ân. Triết lý Phật giáo cho rằng xuất
phát điểm của tư tưởng giải thoát là từ nỗi khổ của cuộc đời con người. Vì vậy muốn được giải thoát
thì cần dập tắt mọi dục vọng, trở về với chân bản tính của mình.
Từ đó, ta thấy rằng, không một tôn giáo nào trên thế giới lại có giọng thiết tha thâm trầm đối
với nổi đau khổ của thế gian như ở Phật giáo: “Nước mắt chúng sinh trong ba ngàn thế giới đem chứa
tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể”. Chính hiện thực xã hội Ấn Độ cổ đại lúc bấy giờ đầy rẫy
những bất công đau khổ đã khiến cho mọi người đều cảm thấy nổi đau khổ của nhân loại. Điều này
cũng đòi hỏi Phật giáo phải hướng đến tư tưởng giải thoat cho mình và cho chúng sinh.
Ý nghĩa:
Đỉnh cao của tư tưởng giải thoát trong triết học, tôn giáo Ấn Độ Cổ đại là triết lý giải thoát
của Phật giáo. Ở đó có sự kế thừa, chắt lọc, dung hợp và cả sự hoàn thiện những mặt mạnh và cả
những mặt yếu của tất cả những quan điểm, những phương pháp, các chủ trương gíải thoát của các
trường phái triết học, tôn giáo vào thời đó.
Tư tưởng giải thoát mà Đức Phật đưa ra đã thể hiện rất sâu sắc tính chất nhân bản, nó quan
tâm đến thân phận và đời sống của mỗi con người, giúp con người thoát khỏi những nổi khổ của cuộc
đời, tìm cho họ một niềm tin trong cuộc sống, một chỗ dựa vững chắc và chỗ dựa vững chắc âý
không ở đâu xa lạ mà chính ngay trong tâm mỗi người.
Thời đại ngày nay là thời đại phát triển. Nước ta vừa trải qua mấy chục năm chiến tranh và
hàng chục năm sống dưới chế độ tập trung quan liêu bao cấp, nên đời sống còn rất nghèo nàn lạc hậu,
rất cần có sự phát triển kinh tế. Phát triển có nghĩa là có sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, về
đời sống vật vất và văn hóa. Đảng và Nhà nước ta chỉ ra nhiệm vụ trước mắt là tiến đến làm cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Để đạt được điều đó, nước ta cần có những
con người tham vọng lớn, năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cảm mưu trí và đầy tính sáng tạo.
Nhưng những phẩm chất cần có đó của con người, phần lớn trái với giáo lý của Phật giáo, vì tham
vọng trái với cấm dục, thực hành vô dục, ly dục của nhà Phật; Lạc quan tin tưởng có phần trái với từ
bi; Dũng cảm sáng tạo trái với tinh thần nhẫn nhục chịu đựng của Đức Phật. Ngay khi nói tới một chủ
trương phát triển chăn nuôi để có nhiều thịt để xuất khẩu ra các nước khác cũng trái với giới sát của
nhà Phật Vì thế, hoằng dương thế giới quan Phật giáo trong thời đại hiện nay, rõ ràng có những trở
ngại khó có thể vượt qua. Thế nhưng, thế giới quan vô thần khoa học và nhân đạo không từ bỏ vị trí
của mình vì sự phát triển của nhân loại, vì sự phát triển toàn diện và hoàn thiện của con người, cũng
không có lý do gì mà không bổ sung những nét tích cực mà Phật giáo đã từng dẫn dắt con người gắn
bó với con người. Những trở ngại trên là do sự đối lập về thế giới quan. Trên phương diện nhân sinh
quan, nhất là lĩnh vực đạo đức, lối sống của Phật giáo có nhiều mặt, nhiều nét tương đồng mà cuộc
sống hôm nay của con người mới Xã hội Chủ nghĩa rất cần phải kế thừa và phát huy. Ảnh hưởng của
tư tưởng giải thoát ở đây là thuộc loại thứ hai, con người luôn bị trói buộc bởi quyền uy danh vọng
làm mê mờ tâm tính cần phải đoạn tuyệt nó mà được tự tại. Về lý là giải thoát khỏi sự trói buộc coi
quyền uy danh vọng là mục đích làm tâm ô nhiễm, hệ phược để được thanh thãn giữa cuộc đời, là đạt
cuộc sống không tham, không sân, không si đến với ung dung tự tại giữa thế gian - xã hội hiện đại
đầy biến động của phát triển.
Câu3: Anh chị hãy dùng các phạm trù vô ngã, vô thường, duyên để làm rõ tư tưởng của
vạn Hạnh Thiền Sư trong bài: “ Đời người giống như ánh chớp có đó không có đó” – Thị đệ
tử ?
Thiền sư Vạn Hạnh sinh ra và khẳng định vai trò lịch sử của mình trong buổi đầu xây dựng
một nhà nước thật sự tự chủ, tự quyết. Khi ấy, làm nền tảng tư tưởng cho chính thể và cho xã hội
thuộc về cả tam giáo, nhưng có phần nghiêng về Phật giáo. Theo sách Thiền uyển tập anh (1337), ông
còn để lại một số bài thơ, trong đó đặc biệt có bài Thị đệ tử (Bảo đệ tử) - nhan đề do người đời sau
đặt. Sách Thiền uyển tập anh chép rõ: "Ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 9 (1018), sư không
bệnh, gọi tăng chúng đến đọc bài kệ:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch nghĩa:
Đời người như bóng chớp, có rồi không,
Vạn thứ cây mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo.
Đạt đến thông hiểu rồi thì sự thịnh suy không sợ hãi,
Thịnh suy chẳng qua như giọt sương treo đầu ngọn cỏ.
Sư lại bảo các đệ tử: "Các ngươi muốn đi đâu? Ta không lấy chỗ trụ mà trụ, cũng chẳng dựa
chỗ vô trụ mà trụ" Một lát sau sư qua đời. Vua cùng các quan dân làm lễ hỏa táng, xây tháp chứa xá
lỵ để đèn hương phụng thờ"
Đến với bài thơ, trước hết cần đặt thi phẩm này trong toàn cảnh kiểu truyện tiểu sử thiền sư,
trong văn cảnh nhà sư làm ngay trước khi qua đời và tính chất một bài thơ - thi tụng - thơ Thiền - kệ
thị tịch
Trên hết, đây là bài kệ do Vạn Hạnh đọc trước khi qui tịch và được Thiền sư giải thích rõ
thêm về bản chất sự tồn tại cái bản ngã "không lấy chỗ trụ mà trụ", "chẳng lấy chỗ vô trụ mà trụ"
Xét cho cùng, Vạn Hạnh đứng trên lập trường Phật giáo để hình dung về đời người và thế giới con
người.
Phạm tru “vô ngã.” bao ham tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vụ trụ vốn khong co tinh
thường hằng no chỉ la sự “giả hợp” do sự hội đủ nhan duyen nen thanh ra “co” (tồntại). Ngay bản
than sự tồn tại của thực tế con người chẳng qua cũng la do “ngũ uẩn” (nămyếu tố) hội hợp lại: Sắc
(vật chất), thụ (cảm giac), tưởng (ấn tượng), hanh (suy ly) va thức (y thức). Theo cach phan loại
khac-“lục tại”: địa (chất khoảng), thuỷ (chất nước), hoả (nhiệt năng), phong (hơi thở), khong (khoảng
trống) va thức (y thức). Noi một cach tổngquat thi vạn vật chỉ la sự “hội hợp” của hai loại yếu tố la
vật chất “sắc” va tinh thần“danh”. Như vậy thi khong co cai gọi la “toi” (vo nga).
Cái "thân" con người tồn tại trên cõi đời này chỉ như điện và ảnh, như ảnh của điện, như
bóng chớp, hiện hữu rồi qua đi. Chữ điện ảnh đến nay vẫn được dùng để chỉ ngành nghệ thuật thứ
bảy (gọi nôm na là chớp bóng, chiếu bóng, chiếu phim). Cái "thân" con người đang hữu (có) rồi tất
yếu sẽ đến ngày trở về vô (không). Nhưng theo quan niệm của Phật giáo và theo Thiền sư Vạn Hạnh,
cái "thân" con người không phải từ hữu tuần tự đi đến vô mà là hoàn vô, trở về vô, về cõi hư vô - về
với "Tây phương cực lạc", "hạc giá vân du", "thiên thu vĩnh quyết" Muôn kiếp con người có tự cõi
vô thủy vô chung, từ quá khứ vô cùng (α) cho đến thời khắc sinh ra ở điểm A, cứ cho là thượng thọ
đến 80 tuổi, tồn tại trong 80 năm trên cõi đời yêu dấu, rồi tạ từ cuộc sống ở điểm C và lại được trở về
với cõi vị lai - vô cùng - vô chung vô thủy (α). Thế là trọn vẹn một kiếp con người.
Phạm tru “vô thường” gắn liền với phạm tru “vo nga”. Vo thường nghĩa la vạn vật biến đổi
vo cung theo chu trinh bất tận: Sinh – Trụ – Dị – Diệt…(hay: Sinh – Trụ – Hoại –Khong). Vậy thi
“co co” – “khong khong” luan hồi (banh xe quay) bất tận: “thoang co”,“thoang khong” cai con ma
chẳng con, cai mất ma chẳng mất. Bản chất sự tồn tại của thếgiới la một dong biến chuyển khong
ngừng (vo thường). Khong thể tim ra nguyen nhanđầu tien, do vậy khong co ai tạo ra thế giới va cũng
khong co gi vĩnh hằng.
Đời người hữu sinh hữu tử, có sinh tất có tử. Thế thì sau khi hân hạnh được sinh ra làm kiếp
con người, mỗi ngày ta sống đây cũng tức là đang mất đi, đang xa dần điểm A, tóc ngày một bạc
phai, mắt ngày một mờ, chân ngày một chậm. Mỗi ngày ta sống đây tức là đang thêm một ngày tiến
dần về điểm C, quĩ tháng năm dần thu hẹp, "miếng da bò" thời gian dần khép lại
Nên hiểu rằng Phật giáo và Thiền sư Vạn Hạnh thấu triệt bản chất giới hạn sự tồn tại của thân
kiếp con người nhưng tuyệt nhiên không quan niệm cuộc đời là hư vô, hư ảo, vô nghĩa. Trong thực
chất, việc Thiền sư nhấn mạnh sự thật Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô (Vạn thứ cây mùa xuân tốt
tươi, mùa thu khô héo) chính là nhằm chỉ rõ chân lý và qui luật tồn tại của thế giới hữu hình muôn
kiếp chúng sinh. Đời người có những tháng năm tuổi trẻ thì rồi sẽ đến ngày già nua, da mồi tóc bạc.
Từ cuối chặng đường đời, chính Nguyễn Trãi cũng từng tiếc nuối "Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu
niên" và nhắc nhở kẻ hậu sinh: "Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc - Đầu bạc xưa rày có thuở xanh"
(Thơ tiếc cảnh) Đời người cũng như muôn vật, có doanh thì có hư, có trưởng thì có tiêu, có thừa thì
có trừ, có thăng thì có giáng Qui luật đời người là "sinh, lão, bệnh, tử", điều gì đến sẽ đến, có gì mà
lo sợ.
Trước thực tại về cái hữu cái vô, cái còn cái mất, cái được cái không, Thiền sư Vạn Hạnh đề
cao khả năng nhận thức và nắm bắt qui luật sự sống: Nhậm vận thịnh suy vô bố uý (Đạt đến thông
hiểu rồi thì sự thịnh suy không sợ hãi). Con người khi đã đạt đến trình độ "nhậm vận" tức là đã đạt
ngộ, đạt tới vô cầu vô kỷ, thấu suốt trước sau, không gì làm cho bất ngờ, sợ hãi. Người "nhậm vận"
hiểu rõ thời vận, qui luật cuộc đời và biết rõ ngay cả những thăng trầm số phận cũng chính là một
phần tất yếu của sự sống. Câu chuyện Tái Ông thất mã không chỉ nói lên tính tương đối của sự may
rủi mà còn đem đến một phương thức xử thế và niềm an ủi lớn lao. Bản thân sự thịnh - suy có thể là
hiện thực tất yếu nhưng thái độ "thông hiểu", chủ động trước thịnh - suy cũng giữ vai trò vô cùng
quan trọng. Do đó người "nhậm vận" thắng không kiêu, bại không nản, không nịnh trên, không nạt
dưới. Bậc đạt đạo có thể vô bố úy, không sợ thịnh, không sợ suy, tự chủ được cả khi suy cũng như khi
hưng thịnh. Ngược trở lại, người đời quá "sợ suy" mà chưa biết đến "sợ thịnh"! Trong Cung oán
ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều từng cảnh tỉnh: Bả vinh hoa lừa gã công khanh Bừng con mắt dậy
thấy mình tay không! Với tinh thần "nhậm vận", dường như Thiền sư Vạn Hạnh đã cập bến bờ giác
ngộ, vượt lên hai chiều suy - thịnh, thịnh - suy
Đến câu kết Thịnh suy như lộ thảo đầu phô (Thịnh suy chẳng qua như giọt sương treo đầu
ngọn cỏ), Thiền sư Vạn Hạnh không chỉ diễn giải bản chất thịnh suy giống như giọt sương trên đầu
ngọn cỏ mà còn đặt sự thịnh suy trong quá trình biến đổi, từ phía cuối con đường, phía bên kia cuộc
đời, phía sau của thực tại hôm nay. Nói khác đi, Thiền sư đặt mình ở điểm nhìn chung cuộc, kết cuộc,
đặt mình vào cõi hư vô mà soi nhìn lại đời người và tháng năm quá khứ. Tất cả đời người và sự thịnh
suy đều như giọt sương, sẽ tan đi trên đầu ngọn cỏ, tan đi dưới ánh ban mai, tan đi trước thời gian.
Trong cuộc đời dài rộng chừng tám mươi năm, con người trải qua biết bao những sự thịnh suy lớn
nhỏ khác nhau. Sự thịnh - suy nho nhỏ thì như một lần bốc thăm được cái quạt thanh lý, hai lần thăng
lương sớm, ba lần cảm gió, năm lần trượt xổ số hai trăm triệu, một lần mất xe máy ; sự thịnh - suy
lớn thì như một lần lấy vợ, một lần xây nhà ba tầng, một lần ngoi lên chức phó tổng, một lần đi Pháp,
một lần đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua, v.v Nhưng sự hưng thịnh nào rồi cũng qua, khó khăn nào rồi
cũng qua, nỗi buồn nào rồi cũng dứt: Ai nắm tay được suốt ngày, Không ai giàu ba họ, không ai khó
ba đời, Bảy mươi chửa què chớ khoe làm tốt, Cười người hôm trước hôm sau người cười Nếu biết
vậy? Thì chính Thiền sư Vạn Hạnh đã tổng kết, chỉ rõ cái kết cục tất yếu để mỗi con người an nhiên
hơn trước mọi sự thịnh suy trong hôm nay để đến ngày mai không bao giờ phải ân hận, tiếc nuối.
Theo Thiền sư Vạn Hạnh, khi còn có tấm thân và được làm một bóng chớp, làm một giọt
sương treo trên đầu ngọn cỏ giữa cõi đời này, con người cần phải biết quí từng phút từng giây. Thời
gian rồi sẽ qua đi, đối diện với mọi lẽ thịnh suy, con người càng cần biết làm chủ chính mình, đạt đến
"nhậm vận", an nhiên tự tại trước mọi thăng trầm thế sự. Sống một ngày là lãi một ngày. Sống một
ngày là thêm niềm vui và hạnh phúc. Có thể đó là thông điệp Thiền sư Vạn Hạnh gửi đến mọi chúng
sinh trên cõi đời này
Câu 4: Anh chị hãy làm rõ triết lý nhân sinh của lão Tử là vô vi và ý nghĩa của nó đối
với đời sống hiện nay ?
Quan điểm "vô vi" của Lão Tử xét cho cùng là những vấn đề đạo đức, nhân sinh và chính trị
xã hội. Mặc dù Lão Tử đề cao mặt tự nhiên của con người, phủ nhận mặt xã hội, nhưng quan điểm
"vô vi" của Lão Tử vẫn biểu hiện sâu sắc nghệ thuật sống, thái độ ứng xử của con người, phương
pháp trị nước của vua chúa hay bộ máy nhà nước, và đây cũng chính là chỗ tập trung giá trị hệ thống
triết học của ông.
Tư tưởng vô vi với tự nhiên
Trong Đạo Đức kinh Lão Tử viết: “vạn vật trong trời đất sanh từ có (hữu), (hữu) có sanh từ
không (vô). Hữu vô đều từ thiên đạo”
"Vô vi" là một khái niệm triết học đạo đức của người Trung Hoa cổ đại. Đó là phương pháp
sống tự nhiên, mộc mạc, thuần phác, không bị cưỡng chế, gò ép. Khái niệm "vô vi" ở Lão Tử cũng
xuất phát từ ý nghĩa này, nhưng cốt lõi thực sự của nó là nghệ thuật sống của con người trong sự hoà
nhập với tự nhiên. Thuận theo bản tính tự nhiên của con người. "Vô vi" trong "Đạo Đức kinh" có ba ý
nghĩa chính : Một là vạn vật đều có bản tính tự nhiên của mình, chúng tồn tại, vận động, biến hoá
theo lẽ tự nhiên, không cần biết đến ý nghĩa, mục đích của bản thân chúng, ví dụ như cá, bản tính tự
nhiên của nó là lội dưới nước, chim là bay trên trời. Nghĩa là sống với cái vốn có tự nhiên, không can
thiệp vào quá trình vận hành của các vật khác, biết chấp nhận và thích ứng với mọi hoàn cảnh, môi
trường. Từ đó Lão Tử phản đối trường phái hữu vi, cho rằng hành vi của họ chỉ làm xáo trộn trật tự,
điều hoà tự nhiên của tạo hoá.
Câu chuyện đầy ẩn dụ thời Tống về ba người nếm dấm cắt nghĩa rất rõ quan điểm vô vi của
Lão Tử. Một hôm, Phật Thích ca, Khổng Tử và Lão Tử gặp nhau trước một vại dấm tượng trưng cho
cuộc sống. Mỗi người dúng ngón tay vào để nếm, Khổng Tử thấy dấm chua, Phật Thích ca thấy vị
đắng, còn Lão Tử thì lại thấy dấm ngọt.
Nói về "Đạo vô vi" Lão Tử viết :
- Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Lão Tử đếm vài con số rồi phán như
thế, và ta hiểu ý của ông cho rằng không thể định nghĩa Đạo, nhưng Đạo có trước vũ trụ và Đạo là
nguồn gốc của vũ trụ. Theo Lão Tử, trời đất muôn vật do Đạo mà sinh thành. Đạo là cái hỗn mang
chưa phân, là cái nguyên thủy và là sự vận động hằng cửu mà ta không thể cảm, không thể biết. Đạo
vô danh vô hình, là căn nguyên và cốt lõi của muôn vật. Muôn vật đều khởi đi từ Đạo, đi theo Đạo và
quay về Đạo.
- "Đạo là cái luật tự nhiên, không cần tranh mà thắng, không cần nói mà ứng nghiệm, không
cần mời mà các vật theo về, lờ mờ mà hay mưu tính".
- "Vô vi" còn có nghĩa tự do "tuyệt đối", không bị ràng buộc bởi bất cứ ý tưởng, dục vọng,
đam mê, ham muốn nào. Nếu trong đời sống người ta cố chạy theo những nhu cầu, ham muốn trái với
khả năng, bản tính tự nhiên của mình thì sẽ đánh mất chính bản thân mình. Lão Tử viết : "Ngũ sắc
làm cho mắt mờ, ngũ âm làm cho tai điếc, ngũ vị làm cho miệng chán. Cưỡi ngựa săn bắn làm cho
phát cuồng, vật khó kiếm khiến cho lòng tà vậy".
Ba là "Vô vi" còn có nghĩa là luôn bảo vệ, giữ kín bản tính tự nhiên của vạn vật mà trước hết
là chống lại mọi hành động của con người xã hội. Lão Tử nói "Thiên hạ nhiều kị huý thì dân càng
nghèo, dân nhiều khí giới thì nước càng loạn. Người nhiều tài khéo, vật xảo càng thêm. Pháp lệnh
càng tăng, trộm cắp càng nhiều". Theo đạo vô vi người ta "có ba của báu hòng nắm giữ và bảo vệ :
một là tự ái, hai là tiết kiệm và ba là không dám đứng trước thiên hạ".
Từ quan điểm vô vi, Lão Tử rút ra những điểm căn bản trong nghệ thuật sống của con người,
đó là những đức tính : từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung, trí túc và kiến vi. Họ luôn giữ
được đồng nhất với đạo, họ hoà mình vào khoảng không. Họ biết dành cho người khác chỗ mà không
làm mất chỗ của mình. Họ biết giảm ánh sáng của mình để có thể làm mất chỗ của mình vào bóng tối
của kẻ khác. Họ ngập ngừng như kẻ phải lội qua sông trong mùa đông, lưỡng lự như kẻ e ngại láng
giềng run rẩy như tuyết sắp tan, giản dị như miếng gỗ chưa đẽo gọt, trống trải như thung lũng và bất
dạng như nước đục.
Tư tưởng vô vi đối với vấn đề quốc trị
Tương tự như Khổng Tử, Lão Tử sinh trưởng trong giai đoạn chiến tranh triền miên cho nên
rất ưu tư về vấn đề quốc trị. Ông thấy là “dân đói vì người trên lấy thuế nhiều cho nên dân đói, dân
khó trị vì người trên theo hữu vi cho nên dân khó trị,” “thiên hạ nhiều kiêng kỵ thì dân càng nghèo;
dân nhiều lợi khí thì quốc gia thêm mờ tối, người càng nhiều xảo thuật thì vật kỳ lạ càng xuất hiện,
pháp luật càng sáng tỏ thì trộm cướp càng nhiều.” Và vì nhận xét như vậy cho nên Lão Tử chủ trương
rằng người lãnh đạo quốc gia phải áp dụng sách lược vô vi để trở về (phản phục) với đạo hay cái gốc
tự nhiên ban đầu thì mới có thể an bang tế thế.
“Phản phục (trở về) là cái động của đạo. “Động mà không động, không động mà động”, yếu
mềm là cái dụng của đạo. Ông cho rằng với đường lối vô vi: lo cho dân no ấm, mạnh khỏe và dạy cho
dân sống tự nhiên hợp với môi trường chung quanh, không suy nghĩ hay thèm thuồng mỹ vật. Một
khi dân được ấm no, không bệnh tật và không ham chuộng của quý vật lạ cũng như không có nhu cầu
khoe tài hay ganh đua để được lãnh tụ yêu mến thì dân đã thấm nhuần tinh thần vô vi (không làm); và
khi đã theo vô vi rồi thì dẫu có kẻ tài trí, tham lam xách động nhân dân nổi loạn thì họ cũng không
làm (vô vi). Như vậy, nếu muốn lòng dân không loạn thì người lãnh tựu của quốc gia phải biết lo cho
dân, không đặc ra sưu cao thế nặng, không bóc lột.
Lãnh tụ quốc gia phải biết thương dân, không thể chỉ đặt ra luật lệ và đợi dân làm sai rồi hành
hạ, giam cầm, xử trảm. Lãnh tụ quốc gia có nhiệm vụ chỉ bảo nhân dân hướng thiện theo đạo chứ
không thể đem cái chết ra hăm dọa nhân dân. Tương tự như con thú khi bị dồn vào chân tường thì cắn
lại, nhân dân khi bị bóc lột, khổ sở hết mức thì hết sợ chết; mà khi nhân dân hết sợ chết thì sự dọa nạt
của lãnh tụ trở nên vô dụng. Kẻ nào dùng bạo lực để trị quốc thì “hiếm khi không bị thương ở tay”.
Thương dân thì phải lo cho dân no ấm, tránh sưu thuế cao và không ép buộc dân phục dịch. Nếu kẻ ở
trên sống xa xỉ, thâu sưu thuế cao mà còn bắt dân phục dịch thì nhân dân chỉ có thể chịu đựng đến
một mức độ nào đó rồi trở nên loạn bởi vì họ không còn sợ chết nữa. “Thánh nhân vi phúc, bất vi
mục” (Thánh nhân vì cái bụng mà không vì con mắt). Lãnh tụ quốc gia không nên đam mê cái bề
ngoài xa xỉ mà ngược lại phải biết thương dân, lo cho dân no bụng và tránh những hành động ép dân
vào cái thế khinh tử.
"Không chuộng hiền khiến dân không tránh, không trọng vật khiến dân không trộm cướp,
không thấy vật đáng ham khiến lòng dân khỏi loạn. Cho nên lối trị dân như vậy, thường khiến cho
lòng dân trống, bụng no nhược trĩ, xương cứng cáp, thường khiến cho dân không biết, không muốn"
"Thánh nhân coi toàn dân như trẻ sơ sinh". Vì trẻ nhỏ vốn sống hồn nhiên, không có ham muốn, dục
vọng, chưa xa cái đức tự nhiên, vô vi. Lão Tử nói : "Không xa đức trở lại thời kì trẻ thơ". Hơn thế,
thánh nhân còn "không làm cho dân sáng, mà làm cho dân ngu". Dân không sáng ở đây không hàm
nghĩa ngu dốt, thô lậu. Cái lù mù, hỗn độn của Lão Tử là cái ngu thấu suốt mọi lẽ của tự nhiên mà
sống hoà hợp với tự nhiên, không tự mãn, không tự phụ, không xáo động, không phô trương, không
thái quá, không bất cập. Cái ngu ấy của ông là dại trí. Theo đạo vô vi, phản đối những hiện tượng bất
bình đẳng trong xã hội do sự áp bức bóc lột của bọn quý tộc cũng như sự phát triển kinh tế hàng hoá
gây nên mơ ước trở lại đời sống chất phác của thời đại công xã nguyên thuỷ, Lão Tử chủ trương bất
bạo động, phản đối việc gây chiến tranh bạo lực. Ông cho đó là sự tàn bạo, là tai hoạ của đời sống
con người. Trong cuộc chiến tranh Lão Tử cho rằng, chẳng có thắng bại vinh nhục. Ông viết : "Chiến
tranh là việc chẳng lành, không phải việc của quân tử. Nếu bắt buộc phải dùng binh thì phải điềm
đạm. Nếu thắng cũng đừng cho là hay. Đắc thắng mà cho là hay tức là kẻ thích giết người, cuộc chiến
tranh phải xử bằng tang lễ".
Bậc thánh nhân chủ trương trị quốc theo phương pháp vô vi nhằm giảm thiểu phép tắc vốn
được đặt ra để áp bức và trừng phạt nhân dân. Lãnh tụ quốc gia theo đạo sẽ hướng dẫn nhân dân noi
theo gương của mình, dùng cái thanh liêm của mình để dạy dỗ dân bỏ đi lòng tham dục cũng như các
hành động xấu. Dần dần nhân dân trở thành thuần hậu và sống theo tự nhiên, chất phác mà không bị
phép tắc chính trị gò bó. Luật lệ hà khắc được đặt ra (hữu vi) nhằm khiến người ta sợ nhưng hiếm khi
tiêu diệt hết được các tệ nạn xã hội; trong khi đó đường lối vô vi không dựa trên phép tắc rườm rà lại
có thể cảm hóa nhân dân để họ theo con đường thiện hợp với cái đạo của tạo hóa.
Lão Tử không chủ trương dùng pháp luật để trị quốc mà cổ võ cho sách lược đạo trị (vô vi) để
vạn vật phát triển tự nhiên (không bày ra phép tắc, xảo thuật để gò ép nhân dân). Theo ông, nếu muốn
hướng thiện thì đừng trừng phạt kẻ xấu mà nên dùng tư cách thánh nhân để cảm hóa kẻ xấu.
Chính sách quốc trị cao nhất là đạo trị, rồi mới đến đức trị (nhân trị), và rồi đến pháp chế;
chính sách xảo trị (dùng xảo thuật để cầm quyền) là phương pháp thấp nhất vì lãnh tụ không còn
được nhân dân tin tưởng nữa mới dùng đến xảo thuật. Lãnh tụ không tin dân cho nên mới bày kế để
gò ép dân; dân không tin lãnh tụ cho nên phải đóng kịch sợ sệt hay cung kính để lừa gạt lãnh tụ. Hai
bên đều dùng bề ngoài xảo trá để làm bình phong che giấu sự bất tín.
Quốc gia lý tưởng trong nhãn quan của Lão Tử là một quốc gia nhỏ mà trong đó nhân dân
sống thuận với thiên nhiên, biết vừa đủ mà không ham biết nhiều, không muốn tư dục, không ganh
đua bề ngoài, mà chỉ sống theo đạo vô vi. Trong quốc gia lý tưởng này, người dân sống chất phác,
hiền lành, thuần phục với thiên nhiên; bởi vì hài lòng với cuộc sống thiên nhiên, con người không lìa
xa nơi sinh trưởng, không có lòng tham để tranh giành quyền lợi. Con người không tranh giành quyền
lợi thì thiên hạ không có chiến tranh cho nên quốc gia dẫu có xe cộ, thuyền bè, binh giáp cũng không
dùng đến. Khi người dân có đời sống thái hòa gần gũi với thiên nhiên thì lãnh tụ quốc gia có thể “giũ
áo, chắp tay, không làm (vô vi)” mà thiên hạ cũng được thái bình.
Tư tưởng của Lão Tử về "Đạo" cũng như phép biện chứng và chủ nghĩa "vô vi" là rất sâu sắc
và độc đáo. Với trình độ tư duy lí luận cao, những quan điểm ấy của Lão Tử đã đóng góp đáng kể vào
sự phát triển tư tưởng triết học phương Đông. Trong cái "lờ mờ", "hỗn độn" và gợi mở, Lão Tử đã
làm cho người đời sau kinh ngạc, thán phục trước sức mạnh của tư duy trừu tượng. Tuy nhiên Lão
Tử, mặc dù được đời sau tôn vinh là Thái Thượng Lão Quân, vẫn không thoát khỏi sự hạn chế, bởi
điều kiện lịch sử khi giải quyết những vấn đề về bản thể luận, nhận thức luận hay phép biện chứng.
Nhưng dù sao, về phương diện lịch sử, chúng ta cũng phải nghiêng mình trước di sản tài hoa và sắc
sảo của ông.
Ý nghĩa
Khái niệm vô vi trong Đạo Đức kinh thường được hiểu lầm là không nên làm gì cả, nhưng
thật ra Lão Tử khuyên rằng làm mà như không làm, và không làm những điều không nên làm. Ông
cũng viết rằng nước tuy mềm mại uyển chuyển nhưng có thể chảy đến bất cứ nơi nào, và với một
khối lượng lớn thì có thể làm lở cả đất đá. Như vậy vô vi có thể ví von với cách hành xử của nước.
Tư tưởng “ vô vi” của Lão Tử luôn phát triển, góp phần giáo dục nhân sinh quan cho từng cá
nhân, luôn tự răn mình phải làm người tốt, không để ảo ảnh hữu vi lôi kéo cám dỗ, khuyên “tri nhân
giả trí, tự tri giả minh”, nghĩa là biết người khác chỉ mới là trí, nhưng tự biết mình thì mới là sáng.
Như vậy ông chú trọng đến việc tự chinh phục bản thân hơn là chinh phục kẻ khác. Nên bằng lòng
với cái mình có, “tri túc chi túc hà thời túc, tri nhàn chi nhàn hà thời nhàn”, nghĩa là biết đủ thì đủ và
lúc nào cũng đầy đủ cả, biết nhàn thì nhàn và lúc nào cũng nhàn cả.
Một đặc tính căn bản của sách lược vô vi của Lão Tử là tiết kiệm, không phí sức, phí công thi
triển tài năng, mà ngược lại thì tằn tiện trong mọi trường hợp để bồi bổ, nuôi dưỡng ngay cả trong lúc
phải thi thố tài năng. Sự sung mãn, dồi dào đến từ nỗ lực tiết kiệm lâu dài sẽ đem đến thắng lợi.
Trong hoạt động, nhận thức con người cần phải tôn trọng các mối quan hệ vốn có của nó.
Cái đúng của Vô Vi là mọi người luôn thuận theo quy luật, xã hội sẽ được thái bình. Làm trái quy luật
sẽ bị ổn hại. Đó là về xã hội còn về con người:
" Người thông minh không cậy vào chức vụ của mình để hành sự, người dũng không lợi dụn
g chức vụ để thi hành bạo ngược, người nhân không dùa vào chức quan để thực hiện ân huệ".
Tuy nhiên, khi vô vi đi vào các quan hệ xã hội thì không thể vô vi, không thể không làm gì.
Con người là tổng hòa các qhxh nên con người không thể tách biệt mình ra khỏi xã hội đó.
Câu 5: Anh chị hãy làm rõ vấn đề nhạn thức luạn và phương pháp luận là vấn đề trung
tâm của triết học thời kì Tây Âu cận đại ?
Lịch sử triết học Tây Âu thời cận đại là một cuộc đấu tranh của các trào lưu, khuynh hướng,
trường phái triết học khác nhau trong bối cảnh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và tự
khẳng định mình, trong sự hiện thực hóa vai trò thống trị của giai cấp tư sản. Thế giới quan duy vật máy
móc, nhân sinh quan nhân đạo tư sản, và phương pháp luận siêu hình thể hiện rất rõ trong các trường
phái, trào lưu, khuynh hướng triết học xung đột nhau lúc bấy giờ.
Nếu như ở triết học Phục hưng chủ yếu tìm kiếm chân lý, đúng hơn, khôi phục các giá trị văn
hoá cổ đại, thì triết học Cận đại lại được xây dựng trên mảnh đất mới, do đó cùng với việc kế thừa các
di sản của quá khứ, nó xem việc tìm kiếm phương pháp nhận thức thích hợp để con người khám phá
chân lý, khẳng định quyền lực của mình trước tự nhiên là nhiệm vụ chủ yếu. Sự khác nhau này qui
định sự khác nhau trong tính chất tư duy. Có những vấn đề của thời Cận đại chưa hề được biết đến
vào thời Phục hưng như cuộc tranh luận về phương pháp nhận thức đưa đến sự hình thành khuynh
hướng kinh nghiệm (thực nghiệm) và duy lý, chủ nghĩa duy vật máy móc - siêu hình, những tìm tòi
trong quan niệm về xã hội…
Triết học Tây Âu cận đại ra đời trong điều kiện khoa học tự nhiên được tách ra khỏi triết học
và phát triển. Nhưng vấn đề cần là làm sao tìm cho được phương pháp khoa học chung của nhận thức
và phải khái quát và hệ thống hóa các khoa học đã tách ra. Do đó, nhiệm vụ trọng tâm của triết học
cận đại XVII - XVIII là lý luận nhận thức, là tìm ra phương pháp của tri thức chân lý cho tất cả các
khoa học. Những vấn đề ấy đã được các nhà tư tưởng thời kỳ này nghiên cứu, họ đã đi tìm các quy
luật của lý tính mà khả năng của lý tính được biếu hiện một cách vô hạn. Nhưng xét lý tính của thời
đại mà các nhà triết học đang sống theo như Phranxi Bêcơn thì còn nhiều khái niệm, quan niệm sai
lầm. Các nhà triết học, hăng hái đi tìm phương pháp chân lý cơ bản của nhận thức và các phương
pháp ấy sẽ dẫn con người đến chân lý, vĩnh hằng, đầy đủ, tuyệt đối. Cơ sở của phương pháp mới ấy
được các nhà triết học xem là kinh nghiệm cảm tính (Bêcơn, Hốpxơ, Lốccơ), hoặc là lý tính nó đem
lại trí thức lôgíc toán học - diễn dịch không bị quy định bởi kinh nghiệm của con người (Đềcáctơ,
Lépních, Xpinôda ). Vì vậy, vấn đề nhận thQc luận và phương pháp luận trong triết học thời cận đại
chủ yếu đi tìm phương pháp nhận thQc mới để khắc phục triệt để phương pháp kinh viện giáo điều,
nhRm xây dựng một triết học và một khoa học mới có liên hệ mật thiết với nhau, hướng đến xây dựng tri
thQc.
Các nhà triết học thời kì này đều thừa nhận chân lý khách quan. Trong học thuyết về các
“ngẫu tượng”, Bacon phê phán uy quyền tư tưởng như trở lực đối với sự phát triển tri thức khoa học,
và khẳng định rằng “ chân lý - đứa con của thời gian, chứ không phải của uy quyền”. Trong trường
hợp này, thời gian trở thành sự thẩm định tính đúng đắn của tri thức. Descartes thì nhấn mạnh sự cần
thiết xác lập phương pháp khoa học, giúp con người tránh khỏi những sai lầm ngộ nhận, rơi vào tình
trạng mất phương hướng hoặc thiếu tự chủ trong đánh giá vấn đề. “Để tìm kiếm chân lý về sự vật cần
phải có phương pháp” - Descartes nhấn mạnh như vậy.
Điểm tương đồng tiếp theo gắn với tinh thần hoài nghi và phê phán đối với tri thức kinh việc
trung cổ và chủ nghĩa giáo điều trong khoa học , đề cao vai trò của “ánh sáng tự nhiên của trí tuệ con
người”, thứ ánh sáng mà nhờ nó chủ nghĩa phổ quát Kytô giáo bị loại trừ dần, thay thế nó là nhận
thức luận khoa học, giúp con người phá vỡ các rào cản, các “vùng cấm” đối với tri thức.
Tuy nhiên về lý luận nhận thức; cụ thể, ở cách hiểu về nguồn gốc và bản chất của tri thức,
về phương pháp nhận thức lại có những điểm khác biệt rõ rệt.
Ph. Bê cơn, T. Hôpxơ, J. Lốccơ là những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm cho rằng nguồn
gốc duy nhất của tri thức là kinh nghiệm. Kinh nghiệm liên quan đến cảm tính, cảm giác, tri giác,
biểu tượng. Nội dung của mọi tri thức con người nói cho cùng đều quy về kinh nghiệm. Phương châm
của những người này là "không có gì trong nhận thức mà trước đó không do cảm giác thu
nhận".Trong tâm hồn và lý tính của con người không hề có những tri thức, biểu tượng hoặc ý niệm
nào bẩm sinh. Tâm hồn, trí tuệ của con người từ đầu vốn thuần khiết, như cái bảng trắng, nhưng khi
có tri giác, cảm giác thì những sự kiện đó đã "viết lên bảng những bức thư của mình". Do cảm giác có
thể đánh lừa, chúng ta kiểm tra chúng bằng thực nghiệm, qua đó chỉnh lý lại các cơ quan cảm tính của
mình.
Becon cho rằng: những sai lầm về mặt nhận thức (ông ta gọi là Iđôla) nó có nguyên nhân chủ
quan và nguyên nhân khách quan. Vì vậy nó sẽ dẫn đến những sai lầm về mặt nhận thức, bởi thế khi
loại bỏ được những Iđôla này thì cũng là quá trình đi khắc phục hoàn thiện nhân cách của con người.
Becon đã chỉ ra 4 Iđola làm ảnh hưởng, cản trở quá trình nhận thức của con người đó là:
- Iđôla loài (loài là loài người). Nội dung cơ bản của Iđôla loài là con người thường xuất phát
từ bản thân mình để xem xét, đánh giá hiện tượng bên ngoài mình. Nói cách khác là con người chủ
quan phải căn cứ vào mình cho nên mất đi tính khách quan trong đánh giá nhận thức.
Để khắc phục Iđôla này con người phải tôn trọng sự thật trong quá trình nhận thức, không
được áp đặt tư tưởng của mình vào đối tượng và phải thường xuyên quan sát, thực nghiệm, kiểm tra
những tài liệu đã có để không rơi vào tình trạng chủ quan.
- Iđôla hang động: Iđôla hang động thực chất đó là Iđôla loài nhưng nó được biểu hiện ở từng
người cụ thể do nghề nghiệp khác nhau, giáo dục khác nhau, cấu tạo sinh học khác nhau .Vì vậy, việc
khắc phục Iđola loài cũng là để khắc phục Iđôla hang động.
- Iđôla thị trường: Điều này thể hiện ở chỗ sử dụng khái niệm những phạm trù không, áp đặt
trong nhận thức bằng quyền uy, bằng uy tín.
- Iđôla sân khấu: chúng ta nhận thức đối tượng mà đối tượng đó đã bị khúc xạ giống như diễn
viên trên sân khấu.
Ngược lại, R. Đềcáctơ, B. Xpinôda, H.Lépních và một số người khác theo chủ nghĩa duy lý
cho rằng kinh nghiệm dựa trên cảm giác con người không thể trở thành cơ sở phương pháp chung cho
mọi khoa học được. Tri giác và cảm giác là ảo. Chúng ta có thể cảm giác được cái không có - chẳng
hạn sự đau đớn ở đầu các chi và chúng ta có thể cảm giác được một số âm thanh, màu sắc v.v
Những kinh nghiệm cho trước cũng như các kết quả thực nghiệm bao giờ cũng bị nghi vấn, chưa
được khẳng định. Tuy vậy, trong lý tính, trong chính tâm hồn của con người hàm chứa những tư
tưởng rõ nét một cách trực giác - (tức những tư tưởng không phụ thuộc vào kinh nghiệm, không phải
dựa trên cơ sở cảm giác mà có trước cảm giác).
Nếu như Becon yêu cầu phải loại bỏ những Iđôla để đảm bảo tính khách quan, tính chân thực
của quá trình nhận thức thì Decac yêu cầu phải thanh tẩy trí tuệ con người khỏi những ám ảnh, cản
trở nhận thức của con người. Theo Decac để nhận thức cần loại bỏ những vấn đề sau:
+ Những sức ỳ được cấu thành từ thời niên thiếu.
+ Loại bỏ những định kiến không có khả năng làm chủ ý chí.
+ Sự căng thẳng nhọc nhằn của trí óc.
+ Sự không chính xác của các khái niệm.
Không chỉ dừng lại ở đó, trong vấn đề nhận thức Decac còn yêu cầu khi kế thừa phải biết phê
phán cho dù đó là tư tưởng của những con người có uy tính nhất. Không chỉ vậy, Decac cho rằng, để
có được tri thức chân thật thì chúng ta phải biết thoát khỏi những tư tưởng giáo điều, chủ nghĩa giáo
điều và để chống giáo điều thì phải biết hoài nghi. Vì vậy hoài nghi không phải là chủ nghĩa hoài
nghi.
Lý luận về phương pháp
Vào thời cận đại vấn đề phương pháp gắn bó hữu cơ với sự tiến bộ của nhận thức khoa học.
Lôgíc học truyền thống của Arixtốt không đủ sức đáp ứng những đòi hỏi của quá trình khám phá chân
lý. Vì thế các nhà tư tưởng thế kỷ XVII tìm kiếm phương pháp tư duy thích hợp, nhằm giúp con
người thâm nhập sâu hơn vào cõi bí hiểm của tự nhiên. Bêcơn chỉ trích thời xã hội đương thời là đã
xác lập một nền quân chủ trong khoa học xoay quanh ngai vàng tri thức của Arixtốt. Ông phê phán
tam đoạn luận cùng phương pháp quy nạp đơn giản, xây dựng phương pháp quy nạp khoa học, đề cao
vai trò của khoa học thực nghiệm, khẳng định “chân lý là đứa con của thời gian, chứ không phải của
uy quyền”.
Đềcát trong tác phẩm “Những quy tắc hướng dẫn lý trí” nhấn mạnh sự cần thiết giải phóng lý
trí ra khỏi nhận thức mơ hồ. Phương pháp luận của Đềcáctơ đề cao tri thức xác thực và dựa vào toán
học “phổ quát” để nêu ra những quy tắc quan trọng nhất của tư duy.
Cuộc luận chiến giữa các nhà triết học xung quanh việc tìm cơ sở của phương pháp mới chính
là cuộc luận chiến giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý thời cận đại.
Theo chủ nghĩa kinh nghiệm tri thức cần phải đi từ cái cụ thể, cái kinh nghiệm (thực nghiệm)
đến những khái quát và đưa ra lý thuyết. Đó là phương pháp quy nạp của sự vận động trí tuệ đồng
hành với thực nghiệm và nó chính là phương pháp chính xác trong triết học và khoa học.
Theo chủ nghĩa duy lý phải đi từ cái chung đến cái cụ thể, khi phát triển những tư tưởng có
sẵn trong đầu ấy, con người có thể thu được tri thức chính xác về thế giới. Dù những bằng chứng về
thế giới là do chúng ta thu được từ cảm giác, vì vậy cả kinh nghiệm và thực nghiệm đều là những cái
cấu thành tri thức về thế giới, song cần phải tìm cơ sở của phương pháp chính xác trong trí tuệ. Tư
duy đều dựa trên trực giác và diễn dịch. Tư duy xuất hiện trước cảm giác và không phụ thuộc vào
cảm giác, song tư duy lại phải đi kèm với cảm giác. Phương pháp chính xác của mọi khoa học và triết
học đều giống phương pháp toán học.
Trong thực tế, chủ nghĩa duy lý và phương pháp tương tự của nó luôn chiếm ưu thế, nó được
sử dụng rộng rãi. Mọi sự "phân tích", "chia nhỏ", sự vật hiện tượng trong nghiên cứu đã đem lại hiệu
quả rất lớn, nhất là trong toán học, trong cơ học, nhưng chỉ được xem là cơ sở của tri thức khoa học.
Khuynh hướng duy lý trong triết học cận đại với phương châm thế tục hoá đầy đủ khoa học, khẳng
định không có một uy tín nào được thừa nhận ngoài uy tín của lý tính, (T.Hốpxơ), đẩy khoa học lên
hàng đầu các môn quan trọng của nhân loại, vì nó có khả năng giảm bớt sự nghèo đói, có khả năng
làm giàu, có khả năng đưa xã hội phát triển (Ph.Bêcơn). Sự phát triển của khoa học bắt tự nhiên lệ
thuộc vào con người khi hình thành phương pháp cơ bản của tư duy - phương pháp lý tính thuần tuý
(R.Đềcáctơ)
Trong phần 2 của “Bàn về phương pháp hướng dẫn lý trí của mình một cách đúng đắn và tìm
kiếm chân lý trong khoa học” Dêcáctơ nêu ra 4 quy tắc cơ bản vủa nghiên cứu khoa học, còn gọi là
các quy tắc vàng.
Quy tắc thứ nhất - tính rõ ràng và phân minh của đối tượng Đềcáctơ nhấn mạnh:“không bao
giờ thừa nhận cái mà ta cho là không phân minh rõ ràng là cái chân lý, nghĩa là phải tránh sự vội vàng
và hấp tấp, chỉ xem là đối tương nghiên cứu những gì rõ ràng và phân minh đối với trí tuệ của tôi, làm
sao để không còn bất kỳ hoài nghi nào”
Quy tắc thứ hai - phân tích đối tượng ra các yếu tố để làm rõ những nan giải cần vượt qua,
những nhiệm vụ cần giải quyết, mục tiêu cần đạt tới;
Quy tắc thứ ba - tính trình tự của tư duy. Theo Đềcáctơ, cần phải bắt đầu việc nghiên cứu từ
những sự vật đơn giản nhất, dễ nhận biết nhất, dần dần đi đến nghiên cứu những sự vật và hiện tượng
phức tạp hơn. Đềcáctơ bổ sung thêm: toàn bộ phương pháp là ở trình tự và vị trí các sự vật mà lý trí
cần hướng đến để tìm ra một chân lý nào đó. “Chúng ta kiên trì sử dụng nó, nếu dần dần đưa được
những cái rối rắm và mơ hồ về những cái đơn giản, rồi sau đó, xuất phát từ sự lý giải những cái đơn
giản nhất, cố gắng đi tới sự nhận thức những cái khác”
Quy tắc thứ tư - lập bảng liệt kê đầy đủ, đánh giá tổng quan các sự kiện, các phát minh, giả
thiết, hệ thống, để chắc chắn rằng không có điều gì chúng ta bỏ qua.
Nhận thức luận, phương pháp luận của triết học thời kì này đã mở đường cho nền triết học
Tây phương ngày nay. Nó đã đặt nền cho một hướng triết học mới : quan tâm đến mối tương quan,
tương tác giữa chủ thể ý thức - tri thức và đối tượng khách quan mà các hệ thống triết học phổ thông
trước không quan tâm đến vấn đề này. Các nhà triết học thời kì này đã đặt vấn đề về sự tương xứng
giữa thế giới bên ngoài và nội dung của tri thức con người ; và phát khởi đi từ một tiền đề không thể
chối cãi về chủ thể ý thức - tri thức để xây dựng một hệ thống triết học về sự hiện hữu của thế giới
khách quan.
Câu 6: Anh chị hãy c/m đức tin là vấn đề của mọi tôn giáo ?
Thời kỳ trung cổ ở Tây Âu được đánh dấu bằng thời điểm sụp đổ của tây đế quốc La Mã năm
476 và kết thúc khi xuất hiện các hình thức ban đầu của chủ nghĩa tư bản (thế kỷ XV). Một loạt nhà
nước phong kiến vốn là các tỉnh thành của đế quốc La Mã đã hình thành như Anh, Pháp, Ý, Tây Ban
Nha, Đức… Quá trình hình thành chế độ phong kiến ở Tây Âu được biểu hiện ở ba mặt chủ yếu: sự
lãnh địa hoá toàn bộ ruộng đất trong xã hội, quá trình nông nô hoá giai cấp nông dân và trang viên
hoá nền kinh tế.
Từ thế kỷ V đến XI, nền kinh tế Tây âu là nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp. Sản phẩm làm
ra chỉ đủ cung cấp cho công xã và thái ấp của giai cấp địa chủ phong kiến. Công xã và thái ấp là
những tổ chức kinh tế khép kín. Sự hình thành vô số công xã, thái ấp phong kiến thời kỳ này đã tạo
nên chế độ phong kiến cát cứ, phân quyền. Xã hội có hai giai cấp cơ bản là địa chủ và nông dân.
Quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất, tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm thuộc về giai cấp địa chủ.
Mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp địa chủ và nông dân hết sức sâu sắc, cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp
này ngày càng diễn ra gay gắt. Do hoàn cảnh kinh tế - xã hội như vậy, tầng lớp nghèo khổ của xã hội
chiếm đa số đã phải cầu đến đấng thiêng liêng che chở, họ theo đạo, đọc kinh và vào nhà tu nương
tựa. Tôn giáo, đặc biệt là đạo Cơ đốc phát triển mạnh. Tu viện mở nhiều và quyền vị của Giáo hoàng
rất lớn.
Qua những đặc điểm kinh tế - xã hội, chúng ta có thể nhận ra rằng nhà thờ đạo Kito là một tổ
chức tập quyền hùng mạnh, thống trị châu Âu cả về tinh thần và chính trị. Trong xã hội đó, khoa học
và triết học không thể tìm cho mình một con đường đi độc lập, việc nghiên cứu khoa học và triết học
chủ yếu tập trung trong các tu viện và trường học của nhà thờ . Do đó, triết học trung cổ Tây Âu còn
được gọi là “triết học Kytô giáo” – triết học tôn giáo. Tên gọi “triết học Kytô giáo” đã cho thấy liên
minh giữa triết học và tôn giáo, sự chi phối của tôn giáo đối với tư duy triết học. Triết học Kytô giáo,
do đó, là triết học chịu sự chi phối của tư tưởng Kytô giáo, là công cụ của thần học Kytô giáo, giải
quyết các vấn đề triết học theo các chuẩn mực của nó. Tư tưởng Kytô giáo chi phối toàn bộ diện mạo
tinh thần xã hội, trong đó có triết học. Sự độc tôn này thể hiện trong thái độ đối với di sản cổ đại. Nhà
thờ chỉ cho phép truyền bá những tư tưởng phù hợp hoặc gần với hệ thống nhất thần và đạo đức Kitô
giáo như học thuyết duy tâm của Socrate, Platon, nhị nguyên luận duy tâm của Aristote, chủ nghĩa
khắc kỷ, trường phái Platon… Một khi đa thần giáo bị bài xích thì tinh thần đa nguyên triết lý cũng
không còn, vì theo quan điểm của các Giáo phụ tinh thần ấy gây chia rẽ con người và bất ổn xã hội.
Khát vọng khám phá cái mới bị thay bằng sự tuân phục “Lời thiêng”. Là “người phụng sự trung
thành” nhà thờ Kytô giáo, liên minh chặt chẽ với thần học, triết học có nhiệm vụ chứng minh cho
chân lý đã có sẵn theo sự dẫn dắt của niềm tin.
Kinh thánh Kytô giáo chi phối triết học ở cả ba bình diện – bản thể luận, nhận thức luận và
đạo đức. Thần học cần đến hệ thống các khái niệm triết học. Trong phạm vi thần học tư duy triết học
chủ yếu hoàn thành vai trò “kẻ phụng sự”, bởi lẽ nó chỉ tiếp nhận, chú giải, phân tích “Lời thiêng”.
Kinh Thánh Kytô giáo chi phối triết học thông qua những tư tưởng cơ bản sau đây:
Bản thể luận: thuyết Thần là trung tâm và thuyết Sáng tạo làm nền tảng. Tất cả mọi thứ đều
từ Chúa, do Chúa và thông qua Chúa. Trong sách Sáng thế, thuộc phần Cựu ước, vấn đề Chúa Trời
sáng tạo ra Sự sáng và Sự sống trên trái đất đã được trình bày theo trình tự “sáu ngày sáng thế”.
Theo Philông, thông qua trực giác huyền bí, hay mặc khải, con người linh cảm về Chúa như
cái bất biến, vô hạn, bất phân và siêu việt, siêu thời gian.
Theo Đacanh, Thượng đế là động lực ban đầu, là mục đích tối cao, là nguyên nhân cuối cùng, là
quy luật vĩnh cửu, là hình thức thuần túy, là cái tất nhiên - hoàn thiện tuyệt đối, là cái siêu lý tạo ra mọi
cái hợp lý của thế giới. Giới tự nhiên không tồn tại vĩnh cửu mà được Thượng đế sáng tạo ra từ hư vô;
mọi cái hoàn thiện nhất trong giới tự nhiên cảm tính đều được quyết định bởi sự thông minh của
Thượng đế, đều có được sự hợp lý nhờ vào Thượng đế.
Nhận thức luận: Tư tưởng Kytô giáo nhấn mạnh ưu thế của niềm tin trước lý trí. Là đại diện
của chủ nghĩa sùng tín, Tertullien tuyên bố “Tôi tin, vì đó là điều phi lý”. Một Giáo phụ Latinh khác,
Lactantius cho rằng, để lý trí đi đúng hướng cần quàng cho nó một cái ách, ngầm hiểu là niềm tin.
Téctuliêng cho rằng trí tuệ con người không có khả năng sáng tạo gì hết, còn tôn giáo bao
hàm trong nó tất cả, do đó không thể cho rằng triết học, lý trí là cơ sở của tôn giáo. Trong quan hệ
giữa lý trí và lòng tin tôn giáo, ông cho rằng lý trí chỉ nhận thức được giới tự nhiên, còn lòng tin vượt
ra khỏi giới hạn đó với mục đích nhận thức Thượng đế
Cũng như các nhà tư tưởng Kytô giáo khác, Oguýtxtanh nhấn mạnh ưu thế của đức tin trước
lý trí. . Luận điểm “tin để hiểu”, “đức tin đi trước nhận thức” do Oguýtxtanh khởi xướng trở thành
nền tảng tư tưởng của nhà thờ. Đức tinlà điều kiện tiên quyết, nhưng chưa phải là điều kiện đủ của
nhận thức. Con người không chỉ tin, mà còn suy nghĩ về những gì mình tin. Đức tin có trước lý trí xét
về thời gian, lý trí cần hơn đức tin xét về thực chất công việc. Theo Oguýtxtanh, tri thức con người
xuất phát từ hai nguồn:kinh nghiệm sống và niềm tin, cao hơn là đức tin tôn giáo. Nguồn thứ nhất tỏ
ra phân tán, phiến diện, hạn chế; nguồn thứ hai phong phú và chân thực. Do đó tin vào Thiên Chúa
cần đi trước nhận thức. Niềm tin giúp con người hiểu biết sâu sắc hơn; không có niềm tin không đi
đến tri thức một cách vững chắc.
Thuyết nhân bản và đạo đức học: Con người là khâu trung gian đặc thù giữa vương quốc
tinh thần và vương quốc tự nhiên. Cuộc đấu tranh, sự giằng co giữa cái thiện và cái ác, giữa phần
“thần” và phần “thú” trong con người là một quá trình gắn với tồn tại trần gian của con người. Các
khái niệm “nguyên tội tổ tông”, “chuộc lỗi”, “cứu rỗi” và “phục sinh” thường được nhắc đến trong
đạo đức học Kytô giáo, nhằm nhắc nhở con người luôn biết tự kiểm điểm về những hành vi của mình,
vươn đến cái thiện. Đối với con người trung cổ chết không phải là sự kết thúc hoàn toàn, mà chỉ là sự
chấm dứt một cuộc sống (cõi trần), chờ phán xử để đón nhận cuộc sống khác ở Cõi vĩnh hằng.
Ôguýtxtanh cho rằng, trên trần thế, tức là nơi con người, loài người đang sống, vương quốc
của điều ác là nhà nước, vương quốc của Thượng đế là nhà thờ. Ôguýtxtanh là người luôn bảo vệ sự
bất bình đẳng xã hội và cho rằng Thượng đế ban thưởng cho người này được sướng và bắt người kia
phải khổ. Người nghèo chỉ nên yêu cái không lấy được, không nên yêu của cải, chỉ nên yêu Thượng
đế, vì cuộc sống những năm tháng ở trần gian là tạm bợ là quỷ sứ, còn "thiên đàng" mới là hạnh phúc.
Đacanh không chỉ đề cao sự thống trị của Nhà thờ đối với xã hội mà còn kịch liệt chống lại sự
bình đẳng xã hội. Theo ông, xã hội trần thế chỉ là sự chuẩn bị cho cuộc sống ở thế giới bên kia. Giáo
hoàng là Đại diện của Thượng đế ở trần gian. Nhà thờ phải là Chính quyền tối cao đứng trên chính
quyền Nhà nước của các quốc vương. Quốc vương có nghĩa vụ thực hiện yêu cầu của Nhà thờ trừng
phạt không thương tiếc kẻ tà đạo. Ông coi xuyên tạc tôn giáo là tội rất lớn, lớn hơn cả tội làm tiền giả; vì
đồng tiền chỉ để thỏa mãn nhu cầu đời sống tạm thời, còn xuyên tạc tôn giáo sẽ làm mất đi cuộc sống
vĩnh hằng sau khi chết. Nếu quốc vương buộc những kẻ làm tiền giả vào tội chết là đúng, thì treo cổ
những kẻ tà đạo là việc làm còn đúng hơn…
Tômát Đacanh ca ngợi chế độ bất bình đẳng và trật tự đẳng cấp trong xã hội. ông cho rằng
chính quyền của vua chúa là do thượng đế sáng tạo ra. Dân phải phục tùng vua, vua phải phục tùng
Giáo hoàng La Mã. Chính quyền quản lý thân thể, Giáo hội quản lý phần hồn. Cao hơn thân thể là
linh hồn, cao hơn quyền lực nhà nước là Giáo hội - đại diện thiêng liêng của Thượng đế trên trần thế
Triết học duy lý chỉ đóng vai trò “người phiên dịch” những hình ảnh, biểu tượng của Kinh
thánh ra ngôn ngữ logic và những khái niệm trừu tượng.
Như vậy đặc điểm cơ bản của triết học trung cổ Kytô giáo là sự liên minh của nó với thần học
và chịu sự chi phối của thần học thông qua chú giải, chứng minh cho Kinh Thánh như chân lý duy
nhất và “cái vòm của sự uyên bác”. Nội dung xuyên suốt của Kinh thánh là câu chuyện về lịch sử cứu
độ với tư tưởng trung tâm là “di huấn” (giao ước) của Thiên Chúa với loài người và việc thực hiện di
huấn đó. Kinh thánh đòi hỏi niềm tin tuyệt đối của con người vào Thiên Chúa thông qua mặc khải,
tức với sự ra đời của Kinh thánh, trọng tâm nhận thức đã được chuyển sang niềm tin, tạo ra bộ mặt
mới khác với thời kỳ cổ đại. Nhờ công lao của các nhà triết học trung cổ, Kinh Thánh trở thành
nguồn chất liệu tiềm tàng của triết học, chứ không chỉ dừng lại ở những câu chuyện huyền bí và cách
ngôn. Liên minh triết học - thần học tạo ra bản sắc riêng của ý thức thời kỳ trung cổ. Trong liên minh
ấy, đức tin định hướng lý trí. Theo đó, đức tin là niềm tin vào một đấng siêu nhiên là có thật, hằng
hữu và vĩnh cửu; nó không thể không có, không thể và không cần tìm thấy từ phép suy diễn logic
hoặc từ các số liệu khoa học.
Câu 7: Anh chị hãy làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của con đường đi lên CNXH ở nước
ta hiện nay là bỏ qua chế độ TBCN ?
Lịch sử vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, thực tiễn phát triển của thế giới suốt
thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI đã chứng minh rằng, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận động tiến bộ
của thời đại và điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai
đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại,
vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân
dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó
khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt
Nam “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử… Đây là một quá
trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về
chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Điều đó được chứng minh
trên cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn:
Cơ sở lí luận
- Thứ nhất, trong lịch sử xã hội loài người giữa hình thái kinh tế - xã hội cũ và HTKTXH mới
sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời kỳ quá độ. Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử
phát triển và thay thế nhau của các HTKTXH. Song, không phải HTKTXH này kết thúc hoàn toàn rồi
HTKTXH tiếp sau mới ra đời. Giữa HTKTXH cũ bị thay thế và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ
cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, một TKQĐ. Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn
đầu là chủ nghĩa xã hội, một chế độ xã hội mới hoàn toàn về chất so với các chế độ xã hội trước đó lại
càng đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách, khó tránh khỏi những
va vấp, đổ vỡ tạm thời. Trong “Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chỉ
rõ “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội
nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị ”
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để phân tích một xã hội
hiện thực là xã hội tư bản. Hai ông đã tìm ra quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong của nó, đồng
thời dự báo về sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn - hình thái cộng sản chủ nghĩa - mà
giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá cao vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong việc phát triển
lực lượng sản xuất tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí và gắn liền với nó là giai cấp vô sản cách mạng.
Đó là lực lượng sản xuất có tính chất xã hội. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì nền đại công nghiệp
và giai cấp vô sản càng phát triển. Chính sự ra đời của nền đại công nghiệp đã quyết định thắng lợi
của chủ nghĩa tư bản đối với xã hội phong kiến, thì đến lượt nó, sự phát triển của nền đại công nghiệp
làm cho nền sản xuất có tính chất xã hội lại mâu thuẫn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa. Sự phát triết của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội đòi hỏi phải "thủ tiêu mâu thuẫn ấy",
phải "tự giải thoát khỏi cái tính chất tư bản của chúng, đến chỗ thực tế thừa nhận tính chất của chúng
là những lực lượng sản xuất xã hội". Điều đó có nghĩa là, phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa, xác lập chế độ sở hữu có tính chất xã hội - chế độ công hữu. Và do đó, một xã hội mới
ra đời thay thế chủ nghĩa tư bản - đó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Sự ra đời chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không phải theo ý muốn chủ quan, mà dựa
trên những tiền đề vật chất do chủ nghĩa tư bản tạo ra, và là kết quả của việc giải quyết các mâu thuẫn
vốn có trong lòng xã hội tư bản. Do đó, nó phải vừa kế thừa, phát triển các thành tựu văn minh đạt
được trong lòng xã hội tư bản, vừa xóa bỏ tính chất tư bản của nó; giải phóng con người khỏi áp bức
bóc lột, mang lại quyền tự do, bình đẳng và các giá trị đích thực của con người.
Để đi đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, tất yếu phải thông qua cách mạng vô sản.
C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo rằng: "Cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa không những có tính chất
dân tộc mà sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất, ở Anh, Mỹ, Pháp và
Đức. Trong mỗi một nước đó, cách mạng cộng cản chủ nghĩa sẽ phát triển nhanh hay chậm, là tùy ở
chỗ nước nào trong những nước đó có công nghiệp phát triển hơn, tích lũy được nhiều của cải hơn và
có nhiều lực lượng sản xuất hơn".
- Thứ hai, học thuyết Mác - Lê-nin chứng minh rằng, loài người với tính cách một chỉnh thể
nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể về không gian và thời gian,
do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong chi phối, không phải
quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các HTKTXH từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung.
Mà có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH nào đó trong tiến trình phát triển của mình.
Sự bỏ qua này đã và đang diễn ra trong lịch sử.
Trong khi dự báo cách mạng vô sản trước hết nổ ra ở các nước tư bản phát triển, hai ông cũng
cho rằng, khi giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến đã giành được chính quyền, với kinh nghiệm và sự
giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước đó, các nước lạc hậu có thể phát triển theo con đường "rút
ngắn", từng bước lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Đến giai đoạn này, tính chất xã hội của lực
lượng sản xuất trong các nước tư bản đã đạt đến trình độ cao, và theo V.I.Lênin, nó làm cho "những
quan hệ sản xuất xã hội đang thay đổi làm cho "những quan hệ kinh tế - tư nhân và những quan hệ tư
hữu là một cái vỏ, không còn phù hợp với nội dung của nó nữa". Điều đó đòi hỏi phải làm cách mạng
vô sản để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xác lập chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
V.I.Lênin phát hiện ra quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, từ đó đã đi đến kết
luận mới về cách mạng vô sản, về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Theo V.I.Lênin, sự phát triển
không đồng đều về kinh tế và chính trị là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Do đó, chúng ta
thấy rằng chủ nghĩa xã hội có thể thắng trước hết là trong một số ít nước tư bản chủ nghĩa hoặc thậm
chí chỉ trong một nước tư bản chủ nghĩa tách riêng ra mà nói.
Dự đoán của V.I.Lênin đã trở thành sự thật. Tháng 10 năm 1917, cách mạng vô sản đã nổ ra
và thắng lợi ở nước Nga, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời. Song nước Nga khi
đó còn là một nước lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển, quan hệ gia trưởng và sản xuất nhỏ còn
nặng nề. Trong điều kiện đó, V.I.Lênin đã phát triển sáng tạo lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội. Ông đã chỉ ra hai con đường cơ bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Con đường thứ nhất: quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Đây là con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội đối với các nước tư bản phát triển.
Con đường thứ hai: quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua nhiều khâu trung gian, nhiều bước
quá độ. Đây là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đối với các nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển.
V.I.Lênin viết: "Không nghi ngờ gì nữa, ở một nước trong đó những người sản xuất - tiểu
nông chiếm tuyệt đại đa số dân cư, chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt
những biện pháp quá độ đặc biệt, hoàn toàn không cần thiết ở những nước tư bản phát triển trong đó
công nhân làm thuê trong công nghiệp và nông nghiệp chiếm tuyệt đại đa số dân cư… Chỉ có một
giai cấp như vậy mới có thể là chỗ dựa về mặt xã hội, kinh tế và chính trị cho sự chuyển trực tiếp lên
chủ nghĩa xã hội. Chỉ trong những nước mà giai cấp ấy đã phát triển đầy đủ, thì mới có thể trực tiếp
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà không cần đến những biện pháp quá độ đặc biệt có tính
chất toàn quốc Ở Nga, công nhân công nghiệp là thiểu số còn tiểu nông là tuyệt đại đa số. Trong
một nước như vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi triệt để với hai điều kiện.
Điều kiện thứ nhất là có sự ủng hộ kịp thời của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước hay một
số nước tiên tiến Điều kiện nữa là sự thỏa thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện sự chuyên
chính của mình hoặc đang nắm chính quyền nhà nước với đại đa số nông dân". V.I.Lênin đã phân tích
một cách cụ thể tình hình kinh tế nước Nga, và chỉ ra con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện nước Nga còn lạc hậu. Ông thừa nhận kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khuyến khích phát
triển sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hóa nhằm chiến thắng tình trạng nghèo nàn của đất nước.
Trong đó, V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh lợi dụng chủ nghĩa tư bản, nhất là hướng vào chủ nghĩa tư
bản nhà nước, làm khâu trung gian để chuyển một nước tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội. V.I.Lê nin
viết: "Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ,
với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những người tiểu sản xuất
tạo nên. Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội,
bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên
của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy, chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách
hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất
và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản
xuất lên".
Cơ sở thực tiễn
Trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt
Nam là hoàn toàn phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước. Điều đó được quy định bởi:
- Thứ nhất, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta chứng
minh rằng, quá độ lên CNXH là con đường duy nhất để nước ta thoát khỏi ách đô hộ của thực dân đế
quốc, để thực hiện thành công cách mạng giải phóng dân tộc. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi, không ngừng khắp Bắc, Trung, Nam. Các
phong trào ấy thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, song đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất
bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối chiến lược. Và như vậy, tất cả các phương án chính trị
của các giai cấp, từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối theo lập
trường nông dân, lập trường tiểu tư sản, lập trường tư sản, đều đã áp dụng và trải qua khảo nghiệm
của lịch sử, rốt cuộc đều thất bại. Trong bối cảnh sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách
thực dân đế quốc ở Việt Nam bị bế tắc về đường lối chiến lược, thì chính Nguyễn Ái Quốc đã đáp
ứng trúng nhu cầu lịch sử dân tộc, đưa đất nước đi vào đúng quỹ đạo thời đại mới. Nguyễn Ái Quốc
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Người lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam
với Cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - đường lối đã đưa sự nghiệp Cách
mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi lên, không thế lực nào ngăn cản nổi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã tiến hành thắng
lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta và nhân dân ta
thiết tha mong muốn hòa bình để xây dựng đất nước, song bọn thực dân đế quốc đã đem quân xâm
lược nước ta một lần nữa. Vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nhân dân ta buộc phải tiến hành 9 năm
kháng chiến chống thực dân Pháp, 20 năm chống đế quốc Mỹ. Với chiến thắng oanh liệt mùa Xuân
năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Từ năm 1975 đến 1985, sự nghiệp xây dựng đạt những thành tựu nhất định.
- Thứ hai, cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua
giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách
quan của nền kinh tế.
Nước ta có những điều kiện khách quan bên ngoài và bên trong để quá độ lên CNXH bỏ qua
chế độ TBCN.
Điều kiện bên ngoài là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới của
quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để
nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nếu chúng ta thực hiện hiệu quả phương châm đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước
nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền
văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường
phát triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế
độ XHCN. Bối cảnh, điều kiện quốc tế mới nêu trên đã tạo khả năng để Việt Nam chúng ta thực hiện
quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
Điều kiện bên trong là nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính quyền của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những thắng lợi đã
giành được trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của 25
năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang
phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế
rộng rãi, có vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên
quyết, quyết định con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.
Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân
loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng,
xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử -
cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân ta.
Câu 8: Anh chị hãy làm rõ mục tiêu của nước ta: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh ?
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, được tổng kết, đúc rút
từ sự phân tích toàn bộ lịch sử nhân loại và thực tiễn xã hội thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản, kế
thừa một cách có hệ thống những giá trị tư tưởng và thành tựu khoa học quan trọng nhất của loài
người.
Ðặc biệt, về mặt xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra quy luật vận động của lịch sử nhân
loại và con đường tất yếu tới chủ nghĩa cộng sản - một hình thái phát triển cao của xã hội loài người.
Trong đó, luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách
quan của thời kỳ quá độ; về đặc điểm, nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước đi và biện
pháp tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những nội dung trên nhằm hướng đến mục tiêu
cuối cùng và quan trọng nhất, đó là con người. Trong suốt hành trình của mình, chủ nghĩa Mác -
Lênin không bao giờ xa rời mục tiêu giải phóng con người, giải phóng xã hội, giải phóng loài người.
Ðó là tư tưởng khoa học, mang tính nhân văn cao cả và phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần
chúng nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Chủ nghĩa xã hội với những bản chất tốt đẹp của nó vẫn là lý tưởng mà nhân loại tiến bộ đang
hướng tới, những giá trị nhân văn cao cả của nó vẫn đầy sức sống và tồn tại sinh động trong đời sống
nhân loại. Sau những biến động lịch sử cuối thế kỷ XX, các nước tiến theo con đường xã hội chủ
nghĩa còn lại vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Một số nước tiến hành cải cách, đổi
mới, giành được những thành tựu to lớn. Trong đó, mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định là sáng tạo độc đáo trong việc tìm
tòi một công thức thể hiện được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dưới hình thức phổ
thông, sinh động, dễ đi vào lòng người, dễ hiểu đối với quần chúng nhân dân.
“Dân giàu”.
Lần đầu tiên “dân giàu” được xem là một trong những tiêu chí của chủ nghĩa xã hội. Trước
đây, chúng ta không nói “dân giàu” vì cho rằng khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng xong thì
không còn phân biệt giàu, nghèo; cho rằng giàu là tư hữu, là tư bản; nói “dân giàu” không đúng với
chủ nghĩa Mác - Lê-nin Tuy nhiên, đó là nhận thức nhiều tính chất cảm tính.
Thực ra, nói “dân giàu” (dưới chủ nghĩa xã hội) không trái với sự phân tích khoa học của
C.Mác. Theo C.Mác, chủ nghĩa xã hội chưa xóa bỏ phân biệt giàu, nghèo; chủ nghĩa xã hội không
“xóa giàu” mà chỉ xóa nghèo. Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gô-ta , C.Mác chẳng đã từng
nói: dưới xã hội cộng sản giai đoạn đầu, tức chủ nghĩa xã hội, vẫn không tránh khỏi “người này giàu
hơn người kia” đó sao? Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh:
“chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái quyền chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa
cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”. Tuy nhiên
quan niệm “giàu” dưới chủ nghĩa xã hội của chúng ta ngày nay có điểm mới so với quan niệm của
C.Mác. C.Mác không nói “giàu về sở hữu tư liệu sản xuất, chỉ nói “giàu” về thu nhập, tức “giàu”
trong sở hữu tư liệu sinh hoạt. Còn trong quan niệm của chúng ta ngày nay thì dưới chủ nghĩa xã hội
rất có thể người này, nhóm người này sở hữu nhiều “cổ phiếu”, “cổ phần” hơn người kia, nhóm người
kia. Như vậy, chẳng phải có sự phân biệt giàu nghèo (tương đối) cả trong sở hữu tư liệu sản xuất đó
sao? Nhưng nguyên tắc mà C.Mác nêu lên vẫn hoàn toàn đúng: xã hội không cho phép bất cứ ai