Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại công ty tài chính dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.47 KB, 75 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng chung của nền kinh tế Việt Nam là
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đẩy mạnh sự phát triển đất nước và tăng
cường hoà nhập với khu vực cũng như trên thế giới. Để đảm bảo cho sự phát
triển này, vốn cần cho nền kinh tế ví như máu dùng cho cơ thể sống. Trong môi
trường cạnh tranh gay gắt, việc hoàn thiện và phát triển các hoạt động của các tổ
chức tín dụng là phương châm hướng đi cho sự tồn tại và phát triển của nước ta.
Xét cho cùng, đây là sự đáp ứng cho yêu cầu hiện đại hoá, đa dạng hoá về hoạt
động, nghiệp vụ và xu thế hội nhập của nền kinh tế.
Nghiệp vụ bảo lãnh đã được bắt đầu sử dụng rộng rãi trên thế giới từ đầu
thập niên 70 và ngày càng khẳng định được vai trò của nó trong các giao dịch
kinh tế thế giới. Trong thời đại hiện nay nghiệp vụ bảo lãnh đã bùng nổ và phát
triển mạnh mẽ như một dịch vụ không thể thiếu được trong các giao dịch kinh tế
toàn cầu.
Có thể nói bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ của các tổ chức tín
dụng hiện đại. Nó tuy còn mới mẻ với các tổ chức Tín dụng tại Việt Nam nói
chung và của Công ty Tài chính Dầu khí nói riêng tuy nhiên trong thời gian qua
hoạt động bảo lãnh của hệ thống cá tổ chức tín dụng đã phát triển mạnh mẽ hơn
lúc nào hết, bảo lãnh đã góp phần không nhỏ trong giao dịch kinh tế của cá tổ
chức tín dụng và các doanh nghiệp. Sự phát triển và sự khởi sắc của nghiệp vụ
bảo lãnh có rất nhiều tích cực, khẳng định được vị trí của nó trong nền kinh tế
thị trường. Tuy nhiên bên cạnh những mặt đã đạt được, bảo lãnh vẫn còn những
mặt hạn chế chưa tương xứng với vai trò và tiềm năng của mình.
Nghiệp vụ bảo lãnh tại Công ty Tài chính Dầu khí (PVFC) không phải là
hoạt động quan trọng nhất quyết định đến toàn bộ quá trình hoạt động của
PVFC. Nhưng đây là hoạt động tất yếu và đầy tiềm năng của PVFC nói riêng và
các tổ chức tín dụng khác. Sau một thời gian được thực tập tại Công ty Tài chính
Dầu khí, nhận thấy hoạt động bảo lãnh tại công ty vẫn còn nhiều điểm thiếu sót.
1
Đề tài " Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Công ty
tài chính dầu khí" là đề tài em đã chọn trong bài viết này.


Bài viết được bố cục với 3 phần:
Chương I: Công ty tài chính và hoạt động bảo lãnh của các Công ty tài
chính.
Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Công ty Tài chính Dầu
khí Việt Nam.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại
Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam.
2
CHƯƠNG I
CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA
CÔNG TY TÀI CHÍNH
Những năm đầu của thế kỷ 20 các trung gian tài chính phi ngân hàng,
trong đó có công ty tài chính được hình thành trên cơ sở chuyên môn hoá một số
hoạt động của ngân hàng nhằm khắc phục, hạn chế các khiếm khuyết của các
Công ty tài chính và đa dạng hoá các định chế tài chính trong nền kinh tế thị
trường. Trong sự phát triển của các tổ chức tài chính phi ngân hàng các Công ty
tài chính ngày càng khẳng định vị thế và vai trò của mình như một định chế tài
chính không thể thiếu trong nền kinh tế của mỗi quốc gia.
I. KHÁI QUÁT VỀ CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH
1. Khái niệm về công ty tài chính
Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng được thực
hiện một số hoạt động ngân hàng với chức năng chủ yếu là sử dụng vốn tự có,
vốn huy động và nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư, cung ứng các dịch vụ tư
vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác liên quan đến hoạt
động của ngân hàng theo quy định của pháp luật
Các Công ty tài chính chủ yếu nhận vốn bằng cách bán các thương phiếu
phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Nghiệp vụ chủ yếu là cho người tiêu dùng vay
vốn để mua sắm đồ đạc hay còn gọi là cho vay tiêu dùng và cho các doanh
nghiệp nhỏ vay vốn. Một số Công ty tài chính còn được các công ty mẹ tổ chức
ra để hỗ trợ cho việc bán sản phẩm của họ, ví dụ như công ty tín dụng Ford

Motor.
Sự khác biệt cơ bản giữa các Công ty tài chính và các NHTM chính là các
ngân hàng có nhận tiền gửi thường xuyên trong khi các công ty tài chính thì sử
dụng vốn tự có để cho vay và đầu tư, không nhận tiền gửi của dân chúng và các
tổ chức với thời hạn ngắn và dưới hình thức mở tài khoản, không được mở tài
khoản thanh toán và sử dụng vốn vay để làm phương tiện thanh toán. Trong khi
quá trình trung gian tài chính của các Công ty tài chính được mô tả rằng họ vay
3
những món tiền lớn nhưng lại cho vay các món tiền nhỏ, một quá trình hoàn
toàn khác với quá trình trung gian của các NHTM. Chính vì vậy quá trình cho
vay của các công ty tài chính đặc biệt thích hợp với các nhu cầu của các doanh
nghiệp và người tiêu dùng. Tuy vậy, trong các quốc gia có nền kinh tế phát triển,
do yêu cầu mở rộng phạm vi hoạt động nên các công ty tài chính đều muốn mở
rộng và đa dạng hoá các nghiệp vụ để phục vụ khách hàng của mình nhiều hơn
dẫn đến sự phân chia giữa các tổ chức ngân hàng và các công ty tài chính ngày
càng mờ nhạt.
Các công ty tài chính có một lợi thế là họ không gặp phải một hạn chế nào
từ phía chính phủ về việc mở chi nhánh, về những tài sản mà họ có và cách thức
huy động vốn. Việc không có hạn chế giúp cho các công ty tài chính có thể làm
phù hợp một cách tốt hơn các món vay của họ với những nhu cầu của khách
hàng hơn là các tổ chức ngân hàng.Thông qua các công ty tài chính các nguồn
vốn nhỏ hệp trong dân cư có thể được tập trung lại phục vụ cho nhu cầu về vốn
của đất nước cũng như các hoạt động đầu tư dài hạn khác.
Các Công ty tài chính thường được tổ chức dưới mô hình Công ty tài
chính trực thuộc tập đoàn. Sở hữu vốn của công ty tài chính là sở hữu hỗn hợp
nhưng có một chủ đóng vai trò khống chế, chi phối về tài chính. Tập đoàn tiến
hành hoạt động và quản lý tập trung một số mặt như huy động, điều hoà, quản lý
vốn; nghiên cứu triển khai; đào tạo; xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược
thị trường, chiến lược sản phẩm, chiến lược đầu tư
Các công ty tài chính chiếm một vị trí quan trọng thiết yếu trong dây

chuyền vốn - tín dụng của các tập đoàn, là trung gian tài chính-cầu nối giữa tập
đoàn với thị trường tài chính. Một nguồn vốn kinh doanh quan trọng của các
công ty tài chính là nguồn vốn được cấp hoặc đi vay từ tập đoàn và các công ty
thành viên; đồng thời doanh thu từ các hoạt động tài trợ để mua hàng hóa do tập
đoàn sản xuất, cho các đơn vị thành viên trong tập đoàn vay, chiếm tỷ lệ đáng kể
trong tổng doanh thu của các công ty tài chính.
Trong qua trình hoạt động, các công ty tài chính trong tập đoàn thường
phát triển theo hai xu hướng:
4
Một là: Phát triển trở thành một tổ hợp các công ty gồm công ty mẹ và
các công ty con phần lớn mang họ của công ty mẹ. Công ty mẹ chi phối các
công ty con về mặt tài chính và chiến lược thông qua quyền biểu quyết do sở
hữu một phần khống chế trong tổng cổ phần đang lưu hành của công ty con.
Hai là: Hình thành các công ty tài chính độc lập trực thuộc tập đoàn, có
chức năng hoạt động giống nhau nhưng kinh doanh trên trên các vùng địa lý
khác nhau; hoặc có chức năng hoạt động khác nhau nhưng cùng hoạt động trên
cùng một địa bàn.
Là thành viên trong tập đoàn nên các công ty tài chính có nhiều lợi thế
nhờ hiểu được rõ các đặc tính kinh tế -kỹ thuật của tập đoàn, các mối quan hệ
trong nội bộ tập đoàn; có khả năng tiếp cận nhiều nguồn thông tin với chi phí
thấp để nắm bắt hoạt động ản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên; từ đó
rút ngắn thời gian và chi phí thẩm định so với các tổ chức tín dụng khác.
2. Các hoạt động chủ yếu của Công ty tài chính
Hoạt động chủ yếu và thường xuyên của các Công ty tài chính là: Thu hút
vốn bằng cách phát hành thương phiếu, trái phiếu và cổ phiếu.
- Cho vay chủ yếu là trung và dài hạn
- Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua
- Cầm cố các loại hàng hoá, vật tư, ngoại tệ, các giấy tờ có giá và các vật
bảo đảm khác
- Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh vàng bạc, đá quý, mua bán chuyển

nhượng chứng khoán
Cho đến thập kỷ 70, có 3 loại hình công ty tài chính hoạt động phổ biến là
tài trợ tiêu dùng, tài trợ bán lẻ,và tài trợ thương mại.Từ thập niên 80 trở lại đây,
các công ty tài chính không ngừng thực hiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh
trên nhiều lĩnh vực như thuê mua, đầu tư tài chính, phát hành và kinh doanh
chứng khoán, đồng thời thực hiện sáp nhập, thôn tính lẫn nhau để tạo thành các
công ty tài chính có qui mô hoạt động lớn, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả
kinh doanh.
Hoạt động của các công ty tài chính là rất đa dạng và phong phú nhưng
5
nhìn chung có thể phân loại như sau:
Căn cứ vào các nghiệp vụ hoạt động, Công ty tài chính được chia thành:
Các công ty tài chính bán hàng: cho những người tiêu dùng vay để mua
các hàng hoá từ một nhà bán lẻ hoặc một nhà sản xuất khác. Các công ty tài
chính bán hàng trực tiếp cạnh tranh với các ngân hàng về cho vay tiêu dùng và
được người tiêu dùng sử dụng vì các món vay thường được thực hiện nhanh hơn
và tiện lợi hơn tại nơi mua hàng.
Các công ty tài chính người tiêu dùng: cho người tiêu dùng vay để mua
những món hàng riêng, ví dụ như đồ đạc và các dụng cụ gia đình để cải thiệ nhà
cửa hay để giúp thanh toán các món nợ nhỏ.
Các công ty tài chính kinh doanh: cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt
cho các doanh nghiệp bằng cách mua những khoản tiền sẽ thu có chiết khấu;
việc cung cấp các tín dụng này được gọi là bao thanh toán. Ngoài ra, các công ty
tài chính kinh doanh cũng chuyên môn hoá trong việc cho thuê thiết bị là những
thứ công ty mua sau đó cho các nhà kinh doanh thuê một số năm.
Căn cứ vào quan hệ về sở hữu
- Các công ty tài chính độc lập thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh
như: nghiệp vụ tín dụng (cho vay và bảo lãnh cho các khách hàng thương mại và
sản xuất công nghiệp ); các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua; nghiệp vụ bao
thanh toán; kinh doanh tiền tệ; tư vấn tài chính

- Các công ty tài chính trong các tập đoàn kinh doanh tham gia chủ yếu
các hoạt động như: tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư để cung ứng cho các thành
viên trong tập đoàn; quản lý và đầu tư các khoản vốn chưa sử dụng trong tập
đoàn; quản lý các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, điều hoà vốn giữa các thành
viên; làm đầu mối và tư vấn cho tập đoàn, các công ty thành viên trong quan hệ
với các ngân hàng, các đối tác đầu tư; quản lý rủi ro và áp dụng các biện pháp
phòng ngừa rủi ro tài chính trong tập đoàn; cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính
khác
3. Các Công ty tài chính ở Việt Nam
Trên thế giới, các NHTM đã hình thành từ thế kỷ thứ XV, nhưng các
6
Công ty tài chính mới chỉ hình thành từ những năm 60 của thế kỷ XX. Còn tại
Việt Nam, các Công ty tài chính được chính thức thành lập từ đầu những năm 90
của thế kỷ XX. Đến nay, ở nước ta đã có 7 Công ty tài chính, trong đó có 2
Công ty tài chính cổ phần và 5 Công ty tài chính trực thuộc Tổng công ty, tất cả
các công ty này đều đặt trụ sở tại 2 trung tâm kinh tế – tài chính là Hà nội và
Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhìn chung các Công ty tài chính ở Việt Nam đều hoạt động có hiệu quả
và đang trong quá trình mở rộng pham vi hoạt động. Theo số liệu năm 2001, thì
tất cả 7 Công ty tài chính đều làm ăn có lãi, tổng lợi nhuận của các Công ty tài
chính là 17,07 tỷ đồng, trong đó riêng 2 Công ty tài chính Cổ phần lãi là 12.013
tỷ đồng. Dư nợ cho vay của các Công ty tài chính Việt Nam chủ yếu là dựa vào
vốn tài trợ uỷ thác đầu tư, đến cuối năm 2001, dư nợ cho vay bằng vốn tài trợ uỷ
thác đầu tư là 1.140,99 tỷ đồng, chiếm tới 61,55% tổng tài sản của các Công ty
tài chính, tập trung chủ yếu vào 5 Công ty tài chính thuộc Tổng công ty. Các
Công ty tài chính hiện nay đều hy vọng nhiều vào nghiệp vụ uỷ thác đầu tư, bao
gồm các nguồn vốn uỷ thác của Tổng công ty, Chính phủ, các tổ chức tín dụng
trong nước và của các tổ chức nước ngoài. Tuy nhiên với nguồn vốn tài trợ uỷ
thác đầu tư, thì dường như 2 Công ty tài chính Cổ phần không có nhiều hy vọng
trong việc được hưởng nguồn vốn này, bởi họ không những không có nguồn mà

vốn điều lệ cũng thấp hơn so với các Công ty tài chính thuộc Tổng công ty, nên
rất khó khăn để tài trợ cho các dự án dài hạn, hoạt động của họ là chủ yếu tập
trung vào cho vay khu vực tư nhận và cho vay các doanh nghiệp nhỏ.
Hoạt động huy động vốn dưới hình thức phát hành tín phiều là hoạt động
chủ yếu trong huy động vốn của các Công ty tài chính, nhưng trên thực tế Việt
Nam thì hoạt động này là vô cùng khó khăn. Để có được vốn đầu tư các Công ty
tài chính đã tìm các hình thức huy động vốn như phát hành kỳ phiếu có đảm bảo
bằng vàng, tín phiếu bằng VNĐ và bằng ngoại tệ, chia nhiều kỳ hạn trả lãi, tuy
nhiên không thể nào cạnh tranh được với các hình thức huy động vốn đa dạng
của NHTM, và sự hấp dẫn hơn nhiều của KBNN.
Tóm lại, các Công ty tài chính tuy làm ăn có lãi bởi lợi thế về chuyên môn
7
hoá lam giảm các chi phí trong hoạt động cho vay, nhưng lại rất khó khăn cho
hoạt động huy động vốn
II. HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
Bảo lãnh là một khái niệm tồn tại rất xa xưa của xã hội loài người. Cho
đến nay bảo lãnh không những tồn tại mà còn phát triển rất phong phú bao trùm
lên mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, chính trị của từng quốc gia và phạm vi
toàn thế giới, từ một lĩnh vực nhỏ của đời sống, như bảo lãnh nhân sự, cư trú
đến những phạm vi lớn mang tính quốc tế như bảo lãnh cho một quốc gia về
kinh tế hoặc chính trị. Vì vậy bảo lãnh có ý nghĩa quan trọng trong kinh tế -
chính trị - xã hội nói chung.
1. Khái niệm
Lĩnh vực bảo lãnh (Guarantee) đã bắt xuất hiện chính thức và rộng rãi từ
đầu thập niên 70 và xuất phát đầu tiên là ở các nước sản xuất dầu hoả Trung
Đông. Trong thời kỳ này sản xuất phát triển đã cho phép họ ký kết nhiều hợp
đồng lớn với các Công ty phương Tây cho những dự án lớn như: Cải thiện cơ sở
hạ tầng, dự án công - nông nghiệp và quốc phòng Việc cần thiết để bảo đảm
tính an toàn của các dự án và các cơ sở đã làm phát sinh nhu cầu bảo lãnh. Vậy
bảo lãnh là gì ?

Có thể hiểu đơn giản bảo lãnh là một hợp đồng giữa một bên là tổ chức
bảo lãnh (Guarantor) và một bên là người thụ hưởng (Beneficiary) trong đó bên
bảo lãnh cam kết sẽ bồi hoàn một khoản tiền nhất định cho người thụ hưởng
trong trường hợp người được bảo lãnh vi phạm những nghĩa vụ đối với người
thụ hưởng và được quy định trong cam kết bảo lãnh.
Nói riêng về hoạt động bảo lãnh trong các Công ty Tài chính, hoạt động
bảo lãnh xuất hiện đồng thời với việc hình thành và đi cùng quá trình phát triển
của loại hình tổ chhức tín dụng này. Theo quyết định số 263/QĐ- NH14 ngày
19/9/1995 và Quyết định số 283/2000/QĐ- NHNN14 ngày 25/8/2000, hoạt động
bảo lãnh của các công ty tài chính được khái niệm như sau : “Bảo lãnh của Công
ty Tài chính là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với
bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
8
khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận
nợ và hoàn trả các tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay”. Bên được bảo lãnh
có trách nhiệm thực hiện đầy đủ những cam kết của mình với bên bảo lãnh và
Công ty nhận bảo lãnh.
2. Cơ sở hình thành nghiệp vụ bảo lãnh của các tổ chức tín dụng
Có thể chắc chắn rằng những thương vụ lớn với nước ngoài hiện nay phải
có một dạng nào đó của bảo lãnh đi kèm. Hơn nữa, hoạt động bảo lãnh còn được
sử dụng rộng rãi trong các hợp đồng thương mại, xây dựng cơ bản trong nước.
Sự tăng trưởng này một phần là vì bảo hoạt động lãnh có thể được sử dụng để
hỗ trợ cho tất cả các dịch vụ bao gồm: dịch vụ không mang tính tài chính như
hợp đồng tham gia liên doanh, hợp đồng tái bảo hiểm và những cam kết tài
chính khác. Có thể nói nghiệp vụ bảo lãnh là một trong những thành tựu của các
tổ chức Tín dụng, nó trợ giúp cho sự phát triển kinh tế, sản xuất và đem lại lợi
nhuận cho các hoạt động Tín dụng, các Công ty Tài chính có một nguồn thu
quan trọng từ hoạt động này. Nghiệp vụ bảo lãnh hình thành và phát triển như
hiện nay xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:

2.1 Phát sinh nhu cầu bảo lãnh
Chính sự phát triển của nền kinh tế, mà ở đây là sự phát triển của thương
mại và tín dụng đã nảy sinh, xuất hiện nhu cầu mới.
+, Về thương mại :
Xã hội loài người đã trải qua các hình thức sản xuất tự cung tự cấp, sản
xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá ra đời tạo ra bước nhảy vọt trong đời sống
kinh tế, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của thương mại. Đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế hàng hoá đang phổ biến ở khắp các quốc gia,
tạo cho thương mại trở thành thước đo, xác định khả năng của từng quốc gia nói
riêng và các doanh nghiệp nói chung. Khi thương mại phát triển cả chiều rộng
lẫn chiều sâu đã góp phần tham gia vào xu hướng hòa nhập phân công lao động
của khu vực và thế giới. Sự phát triển của thương mại làm tăng giao dịch cả về
số lượng và giá trị của các doanh nghiệp có quan hệ thương mại không chỉ trong
9
nước mà còn vượt ra phạm vi quốc tế. Và từ đó ngoại thương đã trở thành một
mũi nhọn quan trọng của nền kinh tế các nước, là tiêu chuẩn đánh giá sự tăng
trưởng phát triển hay suy thoái của quốc gia đó.
+, Về tín dụng :
Thương mại phát triển kéo theo sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các
doanh nghiệp. Muốn giành được khách hàng, thu được lợi nhuận, đạt mục tiêu
kinh doanh, mỗi doanh nghiệp cần phải phát triển sản xuất nâng cao chất lượng,
hạ giá thành sản phẩm thì vốn đã trở thành một vấn đề cấp thiết đối với mỗi
doanh nghiệp. Tín dụng ra đời nhằm giải quyết những mâu thuẫn thiếu vốn tạm
thời của cá nhân, tổ chức sản xuất, thậm chí giữa các nước với nhau. Tín dụng
bao gồm mọi quan hệ cung ứng về vốn qua các tổ chức trong một nước mà còn
giữa các nước, các khu vực mà còn trên nhiều lĩnh vực trên nguyên tắc hoàn trả
vốn gốc và một phần lãi nhất định, nhằm giải quyết sự thiếu vốn của các doanh
nghiệp và chủ yếu trong quan hệ thương mại.
Bên cạnh đó, khi thương mại và tín dụng ngày càng phát triển có xu
hướng vượt ra ngoài biên giới của một quốc gia với số lượng doanh nghiệp tham

gia ngày càng đông hơn, thì một vấn đề đặt ra đó là sự rủi ro trong tín dụng mà
người cấp tín dụng phải đối mặt nếu người vay không hoàn trả đúng yêu cầu. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong thương mại và tín dụng là:
- Sự thiếu hụt thông tin do đó thiếu tín nhiệm đối với bạn hàng. Giao dịch
diễn ra ngày càng tăng về số lượng, thời gian và phạm vi diễn ra rộng. Quá trình
kinh doanh diễn ra với tốc độ chóng mặt, do vậy trong cùng một lúc doanh
nghiệp phải giao dịch với nhiều bạn hàng khác nhau, họ thực sự thiếu thông tin
từ bạn hàng cũng như từ đối thủ cạnh tranh. Do thiếu hụt thống tin sẽ có nguy cơ
dẫn đến rủi ro về đạo đức do bạn hàng không đáp ứng được những thoả thuận
trong hợp đồng đã ký. Mâu thuẫn nảy sinh do sự thiếu hiểu biết lẫn nhau làm
các đối tác không đủ độ tín nhiệm cần thiết để ký được hợp đồng.
- Tăng các rủi ro trong kinh doanh: Trong cuộc sống chúng ta nói chung
và trong hoạt động kinh doanh nói riêng, chúng ta luôn phải đối mặt với những
biến động về kinh tế - xã hội - chính trị, thiên tai gây ra những mất mát gọi là rủi
10
ro. Trong lĩnh vực thương mại - tín dụng luôn gặp phải những trở ngại đó là luôn
phải có những biện pháp để chống lại chúng.
Một doanh nghiệp trong kinh doanh phải gánh chịu những rủi ro như: Rủi
ro về mặt lãi suất, tỷ giá, sự cạnh tranh, rủi ro bất khả kháng Rủi ro gây ra
những hậu quả không thể lường trước được cho các doanh nghiệp. Theo cơ chế
lan truyền, các rủi ro này có thể ảnh hưởng đến bạn hàng, các doanh nghiệp
khác và cả nền kinh tế. Lúc này, ngoài mối quan tâm của các doanh nghiệp, là
đạt được lợi nhuận cao nhất khi thực hiện các giao dịch, họ phải quan tâm đến
uy tín, khả năng thực hiện hợp đồng, độ an toàn của hợp đồng và những khả
năng tiềm ẩn của đối tác. Do vậy xuất hiện yêu cầu phải có một tổ chức với tư
cách là người thứ 3 đứng giữa giàn xếp, nhận bảo đảm cho hợp đồng giao dịch
cũng như đảm bảo tư cách cho các bên. Khi đó độ an toàn của các bên đã được
trao vào tay tổ chức này - một trung gian có uy tín đối với cả hai bên và là các tổ
chức tín dụng có uy tín, nên các đối tác đều vui vẻ yên tâm khi thực hiện hợp
đồng và các tổ chức tín dụng sẽ là người đứng ra làm trung gian khi có tranh

chấp xảy ra đối với các bên.
2.2. Khả năng cung ứng của các Tổ chức Tín dụng
Nhu cầu bảo lãnh nảy sinh đòi hỏi phải có một người thứ 3 đứng ra làm
trung gian đảm bảo cho các bên yên tâm thực hiện hợp đồng. Các Tổ chức Tín
dụng là một trung gian tài chính với những điều kiện sau :
- Có khả năng đảm bảo về mặt tài chính, có uy tín trong kinh doanh tiền
tệ.
- Chuyên cung cấp các dịch vụ trung gian tài chính cho nền kinh tế.
- Có khả năng nắm bắt thu thập thông tin, do có mạng lưới khách hàng và
cán bộ chuyên môn.
Các Công ty Tài chính hoàn toàn có khả năng cung ứng dịch vụ này nhằm
thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế.
2.3. Về mặt luật pháp
Nghiệp vụ bảo lãnh của Công ty Tài chính có vai trò hết sức quan trọng
góp phần làm phong phú hoạt động kinh doanh cũng như mang lại nguồn thu
11
đáng kể của các Công ty Tài chính. Tuy nhiên, hoạt động này luôn có những quy
định về luật pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ.
Công ước quốc tế quy định về nghiệp vụ bảo lãnh ra đời nhằm đảm bảo
tính độc lập và lô gíc cho các bên tham gia bảo lãnh. Văn bản các quy tắc thống
nhất về bảo lãnh theo yêu cầu (Uniform Roles for Demand Guarantee) -
URDGICC 458 của phòng Thương mại quốc tế ban hành tháng 4/1992. Những
nguyên tắc cơ bản chỉ ra: Sự độc lập của bảo lãnh đối với hợp đồng, tính chứng
từ của bảo lãnh, yêu cầu chứng từ phải phù hợp với điều khoản bảo lãnh Bên
cạnh đó do sự phát triển nhanh chóng của các giao dịch kinh tế, thương mại giữa
các doanh nghiệp Việt Nam với nước ngoài, mà đặc biệt là quan hệ vay vốn
nước ngoài, ngày 30/8/1993, chính phủ đã ban hành Nghị định số 58/CP về quy
chế vay và trả nợ nước ngoài để hướng dẫn Nghị định này
Ở các nước trên thế giới như Mỹ, Đức, Hà Lan v.v đều quy định những
văn bản luật cụ thể cho nghiệp vụ bảo lãnh như: Luật bảo lãnh của Anh, Luật

thống nhất thương mại của Mỹ, luật về hợp đồng thương mại quốc tế của Đức
Có thể nói với những khung pháp luật và những quy định cụ thể đó đều cho
phép các tổ chức Tín dụng quyền thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh và đã có những
thành công tốt đẹp. Như vậy sự ra đời và tồn tại của hoạt động bảo lãnh là khách
quan và cần thiết.
3. Các loại bảo lãnh
Trong các nghiệp vụ bảo lãnh luôn tồn tại các cách phân loại bảo lãnh, có
thể phân theo nhiều phương thức. Điều này giúp cho các tổ chức tín dụng có thể
dựa vào đó để định hình ra các loại bảo lãnh phù hợp, nâng cao khả năng thành
công trong các hợp đồng bảo lãnh.
3.1. Phân loại theo phương thức phát hành
* Bảo lãnh trực tiếp (Direct Guarantee):
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh mà trong đó Tổ chức phát hành bảo
lãnh chịu trách nhiệm bảo lãnh trực tiếp cho bên được bảo lãnh. Người được bảo
lãnh chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho bên phát hành bảo lãnh.
Qui trình:
12


Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp
(1) A và B thoả thuận ký một hợp đồng. B yêu cầu A mở một bảo lãnh.
(2) A đến Tổ chức Tín dụng đề nghị phát hành bảo theo mẫu hay theo
những điều khoản và điều kiện đã thoả thuận ký để một hợp đồng bảo lãnh.
Người xin bảo lãnh có thể ký quỹ, thế chấp, cần cố tài sản của mình theo
yêu cầu của tổ chức phát hành để xin mở bảo lãnh. Tổ chức phát hành sẽ xem
xét tình hình tài chính, tư cách pháp nhân, phương án kinh doanh để quyết định
xem có bảo lãnh hay không?.
(3) Bộ phận thông báo khi nhận được bảo lãnh phát hành thì kiểm tra tính
trung thực của bảo lãnh sau đó thông báo cho người thụ hưởng. Bộ phận thông
báo chỉ như là một đại lý của tổ chức phát hành, thực hiện nghiệp vụ uỷ thác bởi

tổ chức tín dụng phát hành.
(4) Tổ chức tín dụng phát hành thực hiện bồi hoàn cho bên thụ hưởng khi
có sự vi phạm của bên được bảo lãnh.
(5) Tổ chức phát hành bảo lãnh thực hiện bồi hoàn cho bên thụ hưởng khi
có sự vi phạm của bên được bảo lãnh.
* Bảo lãnh gián tiếp( Indirect Guarnantee).
Bảo lãnh gián tiếp là bảo lãnh mà trong đó các tổ chức tín dụng đã phát
hành bảo lãnh theo chỉ thị của một tổ chức tín dụng trung gian phục vụ cho
người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Người
được bảo lãnh không chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho tổ chức phát hành
13
3
A
B
2 5 3* 4
Tổ chức Tín dụng
phát hành
Tổ chức Tín dụng
thông báo
Người được
bảo lãnh
Người thụ hưởng
Beneficence
1
bảo lãnh mà chính tổ chức trung gian chịu trách nhiệm bồi hoàn.
Bảo lãnh đối ứng (Counter Guanrantee) là cam kết của tổ chức tín dụng
trung gian thanh toán cho tổ chức phát hành bảo lãnh.


Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp.

Quy trình:
(1) A và B thoả thuận ký kết hợp đồng và B yêu cầu A mở một bảo lãnh.
(2) Nếu B không tin tưởng vào tiềm lực tài chính của tổ chức A hoặc
muốn tổ chức phát hành bảo lãnh phải là tổ chức tín dụng trong nước mình sẽ
chỉ thị một tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh. Nếu A không có quan hệ với tổ
chức phát hành bảo lãnh do B chỉ định thì chỉ định cho tổ chức tín dụng trung
gian yêu cầu tổ chức phát hành bảo lãnh mở bảo lãnh.
(3) Tổ chức tín dụng trung gian nhận được chỉ thị phát hành sẽ yêu cầu tổ
chức phát hành bảo lãnh theo mẫu hoặc những điều khoản và điều kiện đã thoả
thuận đồng thời mở bảo lãnh đối ứng cho tổ chức phát hành bảo lãnh.
(4) Căn cứ vào bảo lãnh đối ứng, tổ chức phát hành sẽ phát hành bảo lãnh
14
Bảo lãnh
4
3
7 6 4* 5
8 2
A B
Tổ chức tín dụng
phát hành
Tổ chức trung gian
Bộ phận thông báo
Người được bảo lãnh Người được thụ hưởng
Beneficence
và gửi bảo lãnh cho bộ phận thông báo hoặc cũng có thể phát hành bảo lãnh trực
tiếp cho người thụ hưởng.
(5) Bộ phận thông báo sau khi nhận được bảo lãnh từ tổ chức phát hành
thì phải kiểm tra tính trung thực của bảo lãnh và thông báo cho người thụ hưởng.
(6) Tổ chức phát hành sẽ thanh toán nếu người thụ hưởng xuất trình
những chứng từ phù hợp với yêu cầu và trong thời hạn hiệu lực của bảo lãnh.

(7) Tổ chức tín dụng trung gian bồi hoàn cho tổ chức phát hành.
(8) Bên bảo lãnh đền bù cho tổ chức tín dụng trung gian.
Trong một nghiệp vụ bảo lãnh gián tiếp, người thụ hưởng hoàn toàn
không có quyền yêu cầu tổ chức tín dụng trung gian thanh toán bảo lãnh.Giữa tổ
chức tín dụng trung gian và người thụ hưởng, hoàn toàn không có quan hệ gì
Như vậy, bảo lãnh gián tiếp cung cấp sự đảm bảo chắc chắn hơn so với
bảo lãnh trực tiếp cho người thụ hưởng về việc sẽ nhận bồi hoàn khi được bảo
lãnh vi phạm hợp đồng, bởi vì tổ chức phát hành bảo lãnh thường là các tổ chức
tín dụng do người thụ hưởng chỉ định.
* Đồng bảo lãnh:
Trong những thương vụ lớn, khả năng rủi ro cao hay vì những qui định
hạn chế và việc phân tán rủi ro của chính phủ đối với việc bảo lãnh một món lớn
mà một tổ chức tín dụng không thể một mình đứng ra bảo lãnh được. Chính vì
giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải có hình thức đồng bảo lãnh.
Đồng bảo lãnh là loại bảo lãnh do nhiều tổ chức tín dụng cùng đứng ra
bảo lãnh phát hành. Trong đó một tổ chức tín dụng sẽ được chọn làm tổ chức
phát hành bảo lãnh chính, các thành viên sẽ cam kết theo từng thành phần đóng
góp của mình bằng các bảo lãnh đối ứng.
Đồng bảo lãnh thường xảy ra đối những dự án liên doanh và việc thi công
những công trình đòi hỏi nhiều công ty tham gia thi công.
15
Qui trình:
(1) Quan hệ hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng
(2) Người được hưởng bảo lãnh chỉ thị cho tổ chức tín dụng bảo lãnh
chính phát hành bảo lãnh
(3) Các thành viên phát hành bảo lãnh đối ứng cho tổ chức bảo lãnh
chính
(4) Căn cứ vào các bảo lãnh đối ứng của các thành viên, tổ chức phát
hành bảo lãnh chính mở bảo lãnh. Người thụ hưởng sẽ được thông báo qua bộ
phận thông báo (nếu có)

(5) Tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh chính bồi hoàn cho người khi
người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng
(6) Người được bảo lãnh bồi hoàn lại cho tổ chức bảo lãnh chính.
3.2 Phân loại theo hình thức sử dụng
* Bảo lãnh có điều kiện (Conditional Guarantee)
Bảo lãnh có điều kiện là loại bảo lãnh mà việc thanh toán chỉ có thể được
tiến hành khi người thụ hưởng xuất trình làm theo thư bảo lãnh một số chứng từ
hay giấy chứng nhận được qui định trước. Các yêu cầu văn bản của mỗi bảo
lãnh cũng khác nhau, có thể là thư tín dụng dự phòng, xác nhận của một chuyên
gia, tổ chức trọng tài về việc vi phạm của người được bảo lãnh.
Bảo lãnh có điều kiện đảm bảo quyền lợi cho người xin bảo lãnh, tránh
được việc giả dối lạm dụng chứng từ hàng hoá hoặc việc khiếu lại thông qua sự
trung thực của người thụ hưởng. Tuy nhiên loại bảo lãnh này có thể gây ra sự
chậm trễ trong việc trả tiền bồi thường cho người thụ hưởng khi có yêu cầu của
người này thông qua việc không đảm bảo lợi ích.
* Bảo lãnh vô điều kiện (Unconditional Guarantee)
Là loại bảo lãnh mà việc thanh toán được thực hiện ngay khi các tổ chức
tín dụng nhận bảo lãnh nhận được yêu cầu đầu tiên bằng văn bản của người thụ
hưởng thông báo rằng người được bảo lãnh đã vi phạm hợp đồng. Yêu cầu này
xem như một mệnh lệnh thanh toán đơn giản không đòi hỏi phải có chứng từ
16
kèm theo.
Loại bảo lãnh này là hình thức đảm bảo tuyệt đối quyền lợi cho người thụ
hưởng. Mặt khác lại bất lợi cho người xin mở bảo lãnh khi có sự lạm dụng bảo
lãnh qua những yêu cầu không trung thực của người thụ hưởng.
3.3 Phân loại theo mục đích sử dụng
* Bảo lãnh dự thầu (Tender Guarantee):
Bảo lãnh dự thầu là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng bảo lãnh cam kết
với chủ thầu về việc tham gia đấu thầu của nhà thầu.
-Mục đích: Đảm bảo cho người dự thầu không phải rút lui, không ký kết

hợp đồng hay thay đổi ý định khi đã được trúng thầu. Nếu người dự thầu đã
trúng thầu nhưng không ký hợp đồng thì chủ thầu (Người thụ hưởng) sẽ rút tiền
thanh toán từ bảo lãnh để trang trải cho chi phí đấu thầu, thiệt hại do chậm trễ
tiến độ thi công hay chi phí để tổ chức laị một cuộc đấu thầu khác.
-Trị giá của bảo lãnh: Thông thường có giá trị từ 1- 5% giá trị hợp đồng
đấu thầu.
-Thời hạn hiệu lực:Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh sẽ chấm dứt khi bên
được bảo lãnh (Người tham gia dự thầu ) không trúng thầu hoặc sau khi ký kết
hợp đồng hoặc chấp nhận ký kết hợp đồng nếu được bên bảo lãnh trúng thầu.
* Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Perfommance guarantee):
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là loại bảo lãnh mà các tổ chức tín dụng bảo
lãnh cam kết về việc thực hiện hợp đồng của nhà thầu. Trong trường hợp nhà
thầu không thực hiện hợp đồng, hoặc không nộp đủ tiền phạt cho chủ thầu thì tổ
chức tín dụng đứng ra bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm trả tiền thay trả thay cho nhà
thầu.
-Mục đích: Trong trường hợp bảo lãnh (nhà thầu) không thực hiện đúng,
đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng thì người thụ hưởng (Chủ thầu) có quyền yêu
cầu thanh toán bảo lãnh. Điều này đảm bảo cho người thụ hưởng tránh được rủi
ro.
-Trị giá bảo lãnh: Tuỳ theo loại hình và qui mô hợp đồng, giá trị bảo thực
hiện hợp đồng từ 10 - 15% tổng giá trị hợp đồng. Trường hợp đặc biệt, mức bảo
17
lãnh thực hiện hợp đồng có thể yêu cầu trên 15% nhưng phải được người có
thẩm quyền quyết định đầu tư chấp nhận. Tuy nhiên, số tiền bảo lãnh có thể
giảm dần theo tiến độ thực hiện hợp đồng.
-Thời hạn hiệu lực: Thư bảo lãnh có giá trị đến ngày hoàn thành hợp
đồng. Thời hạn hiệu lực được xác định cụ thể theo thoả thuận giữi hai bên. Thời
hạn bắt đầu từ ngày kết thúc đấu thầu, kéo dài đến khi hoàn thành hợp đồng như:
hàng hoá đã giao xong, máy móc thiết bị đã được vận hành, công trình đã đưa
vào sử dụng

* Bảo lãnh tiền ứng trước: Bảo lãnh hoàn thanh toán(Repayment
Guarantee):
Bảo lãnh tiền ứng trước là loại bảo lãnh trong đó tổ chức tín dụng cam kết
với chủ thầu về việc tiền ứng trước của nhà thầu. Trong trường hợp nhà thầu vi
phạm hợp đồng phải hoàn trả tiền ứng trước cho chủ thầu mà nhà thầu không
hoàn trả hoặc không đủ tiền ứng trước thì tổ chức đứng ra bảo lãnh bảo lãnh sẽ
chịu trách nhiệm trả thay cho nhà thầu.
-Mục đích: Đảm bảo cho chủ thầu (Yêu cầu bảo lãnh) sẽ nhận lại số tiền
trước kia đã đặt cọc cho nhà thầu (Bên được bảo lãnh) để giúp nhà thầu thực
hiện hợp đồng như đã thoả thuận, nhưng thực tế đã không thực hiện được. Bảo
lãnh tiền ứng trước thường được sử dụng trong các hợp đồng mua bán máy móc
thiết bị hoặc các hợp đồng có giá trị lớn. Bên bán yêu cầu bên mua ứng trước
một khoản tiền để giúp cho bên bán có vốn sản xuất, nhanh chóng giao hàng cho
bên mua.
-Trị giá bảo lãnh: Số tiền bảo lãnh bằng số tiền đặt cọc (kể cả tiền lãi)
được tính kể từ ngày nhận được số tiền đặt cọc đến giao hàng cuối cùng cộng
với số ngày để người thụ hưởng làm thủ tục đòi tiền. Bảo lãnh loại này cũng có
một số điều khoản qui định giảm giá trị bảo lãnh tương ứng với số lượng hàng
hoá được giao đối với các loại hàng hoá sản xuất, máy móc, công trình.Số tiền
đặt cọc thường từ 5- 10% giá hợp đồng.
-Thời gian hiệu lực : Bằng thời gian thực hiện hợp đồng tức là kể từ khi
người bảo lãnh (nhà thầu) nhận được số tiền đặt cọt cho đến ngày giao hàng cuối
18
cùng có thể cộng thêm một số ngày là thủ tục đòi tiền do hai bên định.
* Bảo lãnh thanh toán (Payment Guarantee):
Bảo lãnh thanh toán là lãnh mà các tổ chức tín dụng đứng ra bảo lãnh cam
kết với nhà thầu về việc thanh toán tiền đúng hợp đồng của chủ thầu. Trong
trường hợp chủ thầu không thanh toán đủ số tiền theo hợp đồng thì tổ chức bảo
lãnh sẽ chịu trách nhiệm thay cho chủ thầu.
- Mục đích:

Cung cấp sự bảo đảm cho nhà thầu (Người thụ hưởng) có thể nhận được
khoản thanh toán một cách thuận lợi đầy đủ, đúng hạn về sản phẩm, hàng hoá
hay dịch vụ đã cung cấp cho chủ thầu (người được bảo lãnh ). Loại bảo lãnh này
có hình thức gần giống với bảo lãnh tín dụng thương mại, nhưng khác nhau về
bản chất và cách truy đòi tiền thanh toán.
- Trị giá bảo lãnh:
Số tiền bảo lãnh thường bằng 100% giá trị hợp đồng.
- Thời gian hiệu lực :
Do các bên thoả thuận.
* Bảo lãnh bảo hành (Maintenance guarantee):
Bảo lãnh hay bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm theo hợp đồng là
loại bảo lãnh mà tổ chức tín dụng bảo lãnh cam kết với chủ thầu trong trường
hợp nhà thầu vi phạm hợp đồng về chất lượng sản phẩm phải bồi thường cho
chủ thầu mà nhà thầu không bồi thường hoặc bồi thường không đủ thì tổ chức
bảo lãnh phải chịu trách nhiệm trả thay cho nhà thầu.
-Mục đích:
Loại bảo lãnh này áp dụng chủ yếu trong xây dựng và cho các hợp đồng
cung ứng thiết bị đồng bộ để bảo hành máy móc thiết bị
Trong suốt thời gian có hiệu lực nếu có những sự cố trong phạm vi được
bảo hành xảy ra đối với sản phẩm thì người thụ hưởng có quyền lập chứng từ
yều cầu thanh toán bảo lãnh như một khoản bồi thường.
-Trị giá bảo lãnh: Theo thoả thuận bằng 5- 10% giá trị hợp đồng.
-Thời hạn hiệu lực:
19
Từ lúc bắt đầu lắp ráp sử dụng thiết bị cho đến hết thời thời hạn bảo hành
của thiết bị (Cộng thêm khoảng thời gian hợp lý để người thụ hưởng lập chứng
từ yêu cầu thanh toán).
* Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn:
Hay còn gọi là bảo lãnh tín dụng. Bảo lãnh này phát hành một quan hệ
vay vốn. Tổ chức tín dụng cam kết với bên cho vay trong trường hợp bên đi vay

không trả đầy đủ, đứng hạn nợ vay (gốc lẫn lãi) thì tổ chức tín dụng bảo lãnh sẽ
chịu trách nhiệm trả thay cho bên đi vay.
Việc bảo lãnh này thường rất phức tạp, khối lượng tiền bảo lãnh lớn nên
trường hợp người đi vay không trả được nợ cũng lớn theo.Vì vậy, phải xem xét
kỹ tính chất khả thi của dụ án, tài sản thế chấp trưcs khi tiến hành bảo lãnh
- Trị giá bảo lãnh :
Theo thoả thuận có thể chỉ gồm phần gốc hoặc có tính cả lãi và chi phí,
phải quy định rõ lãi và chi phí đã thoả thuận chưa hay còn phải tính tiếp.
- Thời hạn hiệu lực :
Là thời gian hoàn trả tín dụng đã thoả thuận tốt nhất quy định khoảng 10
ngày kể từ ngày nợ đến hạn.
* Bảo lãnh miễn khấu trừ giá trị hoá đơn (Retention Guarantee):
Là loại bảo lãnh mà các tổ chức tín dụng cam kết với người mua về việc
thanh toán số tiền khấu trừ giá trị hợp đồng trong trường hợp người bán vi phạm
hợp đồng.
- Mục đích:
Một số hợp đồng giao dịch thường quy định một điều khoản cho phép
người mua giữ lại một phần giá trị hợp đồng. Việc thanh toán nốt số tiền này sẽ
được thực hiện sau khi người cung cấp hoàn thành nghĩa vụ của mình và được
người mua chấp nhận. Như vậy, việc bảo lãnh miễn khấu trừ giá trị hợp đồng
cho phép người bán nhận được tổng số tiền thanh toán như đã cam kết với người
mua rằng số tiền bảo lãnh sẽ được hoàn trả cho người mua trong trường hợp
người bán không thực hiện người bán không thực hiện hoặc vi phạm các điều
kiện của hợp đồng.
20
- Trị giá bảo lãnh: Thường từ 5- 10% giá trị hợp đồng
- Thời gian hiệu lực : Do hai bên thoả thuận
4. Nội dung và các quy trình của nghiệp vụ bảo lãnh
Bảo lãnh là cam kết bằng văn bản của các tổ chức tín dụng ( bên bảo lãnh)
với bên có quyền ( bên nhận bảo lãnh ) về thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho

khách hàng ( bên được bảo lãnh ) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải
nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
4.1 Đối tượng của nghiệp vụ bảo lãnh
Một giao dịch bảo lãnh bao giờ cũng liên quan đến ba bên: Bên bảo lãnh,
bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng. Quan hệ giữa các bên được quy định bởi
ba hợp đồng độc lập, trong đó trong đó thư bảo lãnh chỉ là hợp đồng giữa tổ
chức bảo lãnh và bên thụ hưởng bảo lãnh.
* Người bảo lãnh (Bên bảo lãnh)
Là người phát hành bảo lãnh. Dùng uy tín của mình đứng ra cam kết chịu
trách nhiệm thay trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện đúng hợp
đồng. Trong hoạt động bảo lãnh người bảo lãnh thường là các tổ chức tín dụng,
các ngân hàng, các Công ty tài chính. Có thể chỉ có một tổ chức đứng ra bảo
lãnh một khách hàng nhưng cũng có thể nhiều tổ chức tín dụng cùng tham gia
bảo lãnh một khách hàng.
* Người được bảo lãnh (Bên dược bảo lãnh)
Là người yêu cầu bảo lãnh. Là bên được "Người bảo lãnh" cam kết trả nợ
thay nếu vi phạm hợp đồng. Đối tượng khách hàng được nhận bảo lãnh là:
Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt nam:
+ Doanh nghiệp NN
+ Công ty cổ phần
+ Công ty TNHH
+ Công ty hợp doanh
+ Doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức CTXH
+ Doanh nghiệp liên doanh
21
+ Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam
+ Doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể
- Các tổ chức TD được thành lập và hoạt động theo luật các tổ chức TD.
+ Hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện tại điều 94 - Bộ luật

dân sự
+ Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác liên doanh
và tham gia đấu thầu dự án tại Việt nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án
đầu tư tại Việt nam.
* Người thụ hưởng thụ hưởng (Bên nhận bảo lãnh):
Là người nhận cam kết bảo lãnh. Là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước có quyền thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng. Có nghĩa
là được "Bên bảo lãnh" thanh toán khi có yêu cầu do bên được bảo lãnh vi phạm
hợp đồng.
- Quan hệ giữa người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh:
Đây là mối quan hệ gốc, là cơ sở phát sinh yêu cầu bảo lãnh. Trong mối
quan hệ đó, người được bảo lãnh có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện đối với
người hưởng bảo lãnh. Tuỳ từng loại hợp đồng mà nghĩa vụ đó có thể là nghĩa
vụ tài chính như nghĩa vụ trả nợ, nghĩa vụ đóng thuế hoặc các nghĩa vụ phi tài
chính như nghĩa vụ cung ứng hàng hóa, dịch vụ, nghĩa vụ bảo hành sản phẩm
- Quan hệ giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh:
Đó là mối quan hệ các tổ chức tín dụng đưa ra các khoản tín dụng và
khách hàng là người hưởng tín dụng
* Cam kết bảo lãnh:
Là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng hoặc văn bản
thoả thuận giữa tổ chức tín dụng, khách hàng được bảo lãnh với bên nhận bảo
lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết với bên nhận bảo
lãnh.
* Các hợp đồng liên quan đến bảo lãnh :
Hợp đồng bảo lãnh là văn bản thoả thuận giữa tổ chức tín dụng với khách
22
hàng về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia trong bảo lãnh và hoàn trả,
cam kết bảo lãnh .
Trong một nghiệp vụ bảo lãnh thông thường gồm 3 hợp đồng riêng biệt và

độc lập với nhau:
+ Hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh
(Underlying Contract). Đây là hợp đồng chính của giao dịch kinh tế, như hợp
đồng về vốn, hợp đồng thương mại, hợp đồng thi công xây dựng, hợp đồng thiết
kế v.v Từ hợp đồng chính được thoả thuận giữa các bên mới phát sinh nhu cầu
bảo lãnh của tổ chức tín dụng.
+ Hợp đồng giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh: Là thoả thuận
giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh về việc được bảo lãnh chấp thuận bảo
lãnh và các quy định liên quan đến trách nhiệm hoàn trả của bên được bảo lãnh,
đối với bên bảo lãnh trong trường hợp bên bảo lãnh phải trả thay, cũng như các
hình thức đảm bảo của bên được bảo lãnh với bên bảo lãnh.
4.2. Chức năng chủ yếu của bảo lãnh
* Bảo lãnh là công cụ bảo đảm ( Security Instrument).
Đây là chức năng quan trọng nhất của nghiệp vụ bảo lãnh. Bằng việc cam
kết chi trả bồi thường khi xảy ra các biến cố vi phạm hợp đồng của người được
bảo lãnh, các tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh đã tạo ra một sự bảo đảm chắc
chắn cho người thụ hưởng. Chính sự tin tưởng này đã tạo cho hợp đồng được ký
kết một cách suôn sẻ và thuận lợi.
Đây cũng chính là điểm khác biệt cơ bản giữa nhhiệp vụ bảo lãnh và tín
dụng thư thương mại ( tín dụng chứng từ ). Do việc thanh toán dựa trên biến cố
vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của người được bảo lãnh ( như giao hàng không
đúng kế hoạch, không đạt chất lượng cam kết và dự kiến, thanh toán tiền không
đúng hạn ) nên trong thực tế tỷ trọng các bảo lãnh được yêu cầu thanh toán
không cao, thông thường chỉ khoảng dưới 5%.
Với chức năng này, nghiệp vụ bảo lãnh thực sự là chất xúc tác giúp cho
các hợp đồng thương mại, xây dựng, giao dịch hàng hoá trong nước và quốc tế
được ký kết một cách thuận lợi. Mặt khác do chịu trách nhiệm thực hiện cam
23
kết, nên các tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh cũng thường xuyên kiểm tra,
giám sát tạo một áp lực nên phía được bảo lãnh giúp thực hiện tốt hợp đồng và

giảm thiểu các vi phạm hợp đồng.
* Bảo lãnh là công cụ tài trợ (Financing Instrument)
Không chỉ là công cụ bảo đảm với người thụ hưởng, bảo lãnh còn là công
cụ tài trợ thực sự về mặt tài chính cho người được bảo lãnh. Trong rất nhiều
trường hợp, thông qua bảo lãnh khách hàng ( người được bảo lãnh) không phải
xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh chóng, được vay nợ hoặc được kéo dài thời
gian thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, tiền nộp thuế Vì vậy, mặc dù không trực
tiếp cấp vốn nhưng việc phát hành bảo lãnh của các tổ chức tín dụng đã giúp cho
khách hàng của họ được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như khi được cho
vay thực sự.
Với ý nghĩa như vậy, bảo lãnh được coi là một trong những nghiệp vụ đặc
biệt quan trọng, đáp ứng kịp các yêu cầu phát triển mở rộng sản xuất kinh
doanh, làm giảm bớt sự căng thẳng về nguồn vốn hoạt động của các doanh
nghiệp.
* Bảo lãnh được dùng như một công cụ đôn đốc hoàn thành hợp đồng
Việc thanh toán bảo lãnh dựa trên việc vi phạm hợp đồng của người bảo
lãnh. Nói cách khác Người thụ hưởng bảo lãnh có quyền yêu cầu thanh toán bảo
lãnh khi người được bảo lẵnh vi phạm hợp đồng trong suốt thời hạn hiệu lực của
bảo lãnh. Người được bảo lãnh luôn bị áp lực của việc phải bồi hoàn bảo lãnh
(mà thường thì lãi suất áp dụng đối với khoản nhận nợ bên bảo lãnh luôn cao
hơn lãi xuất thông thường) nếu như bên đượcbảo lãnh vi phạm hợp đồng, kể cả
việc thực hiện hợp đồng bị chậm chễ dẫn đến người bảo lãnh phải trả thay.
Vì vậy bảo lãnh có vai trò đốc thúc người được bảo lãnh thực hiện hoàn
tất hợp đồng đã ký kết. Người bảo lãnh luôn luôn phải theo dõi tiến độ thực hiện
hợp đồng của người được bảo lãnh, đốc thúc người được bảo lãnh thực hiện
hoàn tất hợp đồng theo đúng tiến độ, thậm chí còn phải tạo điều kiện cho người
được bảo lãnh thực hiện hợp đồng đã ký theo đúng hạn. Đây chính là điểm
tương đồng giữa hình thức bảo lãnh và cho vay trực tiếp: Mặc dù không trực
24
tiếp phát tiền vay nhưng nhưng bảo lãnh cũng vẫn phải theo dõi và đôn đốc

khách hàng của mình thực hiện nghĩa vụ đối với người thụ thụ hưởng như là
theo dõi đôn đốc khoản cho vay trực tiếp.
Tuy nhiên, người thụ hưởng bảo lãnh vẫn mong muốn người được bảo
lãnh thực hiện hợp đồng chứ không mong chờ khoản bồi hoàn tài chính từ người
bảo lãnh. Yêu cầu người bảo lãnh thanh toán là trường hợp cuối cùng mà người
thụ hưởng phải thực hiện.
Ba chức năng trên cho thấy các chức năng cũng như tác động của bảo
lãnh nên đối tượng thụ hưởng. Nghiên cứu chúng cho phép chúng ta phát huy
đầy đủ các chức năng này và vận dụng bảo lãnh có hiệu quả hơn.
* Thư bảo lãnh (Letter of guarantee) hay hợp đồng bảo lãnh giữa các tổ
chức tín dụng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng về việc người bảo lãnh
cam kết thực hiện thay các nghĩa vụ cho người được bảo lãnh, khi người được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ đối với
người thụ hưởng. Đây là văn bản chính của nghiệp vụ bảo lãnh.
4.3. Nội dung thư bảo lãnh
Phát hành thư bảo lãnh chỉ là một trong các hình thức bảo lãnh của người
phát hành. Tuy nhiên đây là hình thức thông dụng nhất, thông qua thư bảo lãnh
chúng ta có thể hiểu rõ hơn một số khái niệm cũng như nghiệp vụ bảo lãnh.
Theo điều 3UCP 485 các bảo lãnh đều được quy định
+ Bên chỉ thị
+ Bên thụ hưởng
+ Bên bảo lãnh
+ Hợp đồng cơ sở yêu cầu phát hành bảo lãnh
+ Số tiền lớn nhất được thanh toán và loại tiền thanh toán
+ Ngày hoặc sự kiện đáo hạn của bảo lãnh
+ Các điều kiện đòi thanh toán
+ Các điều khoản khấu trừ bảo lãnh (nếu có)
* Một số nội dung thư bảo lãnh:
- Tên, địa chỉ người nhận.
25

×