Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh đông đô – ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.84 KB, 63 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, cùng với công cuộc Công
nghiệp hoá – Hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng,dân chủ, văn minh thì nền kinh tế đất nước cần phải được tăng trưởng và
phát triển. Mặt khác trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO, nhu cầu vay
vốn phát triển kinh tế của các Doanh nghiệp ngày càng cao. Các Ngân hàng
cũng xuất hiện ngày càng nhiều gồm cả ngân hàng vốn nước ngoài với tiềm lực
vô cùng lớn mạnh, việc cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng là điều không thể
tránh khỏi. Chính vì vậy ở mỗi Ngân hàng cần có một đội ngũ cán bộ làm công
tác tín dụng nhằm giúp cho ngân hàng có quyết định đúng đắn trong hoạt động
cho vay, giúp ngân hàng thu được lợi nhuận và giảm rủi ro, đảm bảo đồng vốn
cho vay phát huy được hiệu quả kinh tế - xã hội.
Tại Chi nhánh Đông Đô – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, công
tác tín dụng có vai trò rất quan trọng, không chỉ trực tiếp tác động đến sự sống
còn của hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh mà còn tác động gián tiếp tới sự
phát triển của đất nước. Do đó trong những năm gần đây, công tác tín dụng tại
Chi nhánh Đông Đô – NHĐT & PT Việt Nam được chú trọng, không ngừng
phát triển và đã đạt được nhiều thành công.
Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thực tập, tìm hiểu thực
tế tại Chi nhánh Đông Đô – NH ĐT&PT Việt Nam em nhận thấy mục đích
nghiên cứu của đề tài là nhằm hệ thống hoá những lý luận cơ bản về công tác tín
dụng trung và dài hạn. Việc đánh giá chất lượng công tác tín dụng trung và dài
hạn tại Chi nhánh Đông Đô – NH ĐT&PT Việt Nam nhằm rút ra những kết
quả,những hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân đưa đến hạn chế đó. Từ đó, đưa
ra một số giải pháp và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện nghiệp vụ tín
dụng trung và dài hạn tại NHTM nói chung và tại Chi nhánh Đông Đô –NH
ĐT&PT Việt Nam nói riêng.
1
Chuyên đề tập trung nghiên cứu các vấn đề có liên quan tới công tác tín
dụng trung và dài hạn. Phạm vi nghiên cứu là công tác cho vay vốn trung và dài


hạn tại Chi nhánh Đông Đô – NH ĐT&PT Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, chuyên đề sử dụng các phương pháp như:
Phương pháp phân tích, luận giải, phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng để
phân tích, đánh giá, rút ra kết luận và những đề xuất chủ yếu. Là một sinh viên
sắp tốt nghiệp trong giai đoạn này của đất nước, với những kiến thức đã được
học tập tại trường và mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc giải
quyết những vấn đề bức xúc hiện nay trong hoạt động này của ngành ngân hàng.
Vì vậy, em đã chọn đề tài:“Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và
dài hạn tại Chi nhánh Đông Đô – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam” để ngiên cứu trong chuyên đề thực tập của mình.
Chuyên đề được trình bày theo bố cục như sau:
Chương I: Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương
mai.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi
nhánh Đông Đô –Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương III: Ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài
tại Chi nhánh Đông Đô – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Trong quá trình thực tập tại Chi nhánh, em đã nhận được sự chỉ bảo và
hướng dẫn rất tận tình của các cán bộ trong Chi nhánh. Đồng thời, để hoàn thành
được chuyển đề này em đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của giảng viên hướng
dẫn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
CHƯƠNG I
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM
1. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm).
Trong thực tế thì thuật ngữ này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
Xét trên giác độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết

kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp
chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản
trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính
cung cấp cho khách hàng.

Như vậy có nhiều cách hiểu về “ tín dụng”, tuy nhiên theo quan điểm của
em thì tín dụng có thể được hiểu là: sự vay mượn hoặc sử dụng vốn của nhau
dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng.
Căn cứ vào hai tiêu thức là chủ thể và đối tượng tín dụng thì quan hệ tín
dụng gồm có các loại hình: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng
nhà nước, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng và tín dụng quốc tế.
Trong phạm vi nghiên cứu, em chỉ xin đề cập đến “tín dụng” gắn liền với
chủ thể nhất định là ngân hàng. Theo đó, tín dụng ngân hàng là hoạt động tài trợ
(cho vay) của ngân hàng cho khách hàng. Theo Luật các tổ chức tín dụng của
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 49 ghi: “Tổ chức tín dụng
được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu
thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình
thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”.
Tín dụng ngân hàng được chia thành nhiều loại khác nhau căn cứ vào nhiều
tiêu thức khác nhau. Trong đó, phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối
3
với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín
dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian thì tín dụng được
phân thành:
Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống, tài trợ cho tài sản lưu động
của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Ngân hàng
có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn
mức, có hoặc không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân

chuyển.
Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm (theo quy định của ngân
hàng nhà nước Việt Nam), tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận
tải, trang thiết bị chóng hao mòn, mở rộng sản xuất kinh doanh hay để xây dựng
các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông
nghiệp, chủ yếu để đầu tư vào các đối tượng sau: máy cày, máy bơm nước, xây
dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều Bên cạnh đầu tư cho tài sản
cố định, tín dụng trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên
của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20 – 30
năm, nhiều trường hợp đặc biệt có thể lên đến 40 năm, tài trợ cho công trình xây
dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có
thời gian sử dụng lâu.
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn
hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển
sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao
tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng.
Ở các nước khác nhau, những ngân hàng khác nhau có thể có những cách
quy định khác nhau về thời gian trung và dài hạn.
1.2. Phân loại tín dụng trung và dài hạn
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản tín dụng theo từng nhóm dựa
trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại này tuy chỉ mang tính tương đối
nhưng nó lại rất quan trọng vì nó là cơ sở khoa học để thiết lập quy trình tín
4
dụng một cách thích hợp đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro
tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng.
Cũng như tín dụng nói chung, ta có thể phân chia tín dụng trung và dài
hạn theo những tiêu thức khác nhau:
- Căn cứ vào loại khách hàng:
• Cấp tín dụng cho doanh nghiệp: Ngân hàng cấp tín dụng cho những tổ chức

kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Quy mô của hầu hết các khoản vay này là lớn, lãi suất thay đổi theo điều kiện thị
trường.
• Cấp tín dụng cho cá nhân: các cá nhân có thể sử dụng vốn vay từ ngân
hàng nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng nhưng chủ yếu là để tiêu dùng.
Quy mô khoản tín dụng thường nhỏ hơn so với khoản cấp cho các doanh nghiệp,
lãi suất thường “cứng nhắc” và cao.
• Cấp tín dụng cho các đơn vị khác: các đơn vị như các tổ chức xã hội cũng
cần vốn với nhiều mục đích khác nhau, để giải quyết sự thiếu hụt vốn họ cũng
có thể vay từ ngân hàng.
- Căn cứ vào tính chất đảm bảo:
• Tín dụng có đảm bảo bằng tài sản cầm cố, thế chấp: Để giảm thiểu rủi ro
trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng của mình
phải có tài sản cầm cố hoặc thế chấp để ngân hàng có thể bán đi nếu khách hàng
không trả nợ. Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm
bảo.
• Tín dụng không đảm bảo bằng tài sản: Gồm có các hình thức là tín chấp và
bảo lãnh. Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách
hàng có uy tín, trung thực trong kinh doanh, thường là khách hàng làm ăn
thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, quản trị có hiệu quả, ít xảy
ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người
vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu,
không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn,
5
các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay mà ngân hàng có khả năng giám sát
việc bán hàng cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng:
• Cho vay kinh doanh: các cá nhân, tổ chức vay vốn từ ngân hàng để mở
rộng sản xuất; đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mới nhằm tăng lợi nhuận, nâng

cao doanh số chứ không phải để thỏa mãn các nhu cầu (ăn, mặc ) của cá nhân.
• Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu
của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài
chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia
đình, xe cộ, du lịch, giáo dục, y tế Việc cho vay tiêu dùng giúp các ngân hàng
mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại
tiền gửi cho ngân hàng đồng thời tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh
doanh, nhờ vậy nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng. Với người
tiêu dùng, nhờ vay tiêu dùng mà họ được hưởng các tiện ích trước khi tích lũy
đủ tiền và đặc biệt quan trọng hơn là nó rất cần thiết cho những trường hợp khi
cá nhân có các chi tiêu có tính cấp bách như nhu cầu chi tiêu cho giáo dục và y
tế.
- Căn cứ vào phương thức quản lý:
• Tín dụng trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu đồng
thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Tức là trong loại tín
dụng này có mối quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng trong toàn bộ
quá trình từ khi nộp hồ sơ vay vốn, phân tích thẩm định, ra quyết định cho vay,
giải ngân, thu nợ đến khi thanh lý hợp đồng vay.
• Tín dụng gián tiếp: khác với tín dụng trực tiếp là có sự tham gia của các tổ
chức trung gian trong toàn bộ tiến trình cho vay. Các tổ chức trung gian có thể
là: Tổ, đội, hội, nhóm (Hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, hội nông dân ); hay
những người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất.
Hình thức này có rất nhiều ưu điểm: giảm thời gian, chi phí đi lại trong
việc làm thủ tục vay của người vay vốn, đồng thời thông qua các hội, tổ, nhóm
thì người vay sẽ được phổ biến kiến thức, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm
6
quản lý vốn, giúp người vay sử dụng vốn đúng mục đích, đạt kết quả, tránh rủi
ro trong quá trình kinh doanh Đối với ngân hàng, ngân hàng sẽ chủ động
chuẩn bị vốn để cho vay, sắp xếp lịch giải ngân hợp lý, tránh ùn tắc hay quá tải
vào cao điểm vụ sản phẩm. Tuy nhiên, hình thức cho vay này bộc lộ khuyết

điểm là các trung gian có thể lợi dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng không
kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành
viên khác cho riêng mình.
- Căn cứ vào mức độ rủi ro: Xem xét về mặt rủi ro hay tính an toàn, tín
dụng có thể ở các “cung bậc” khác nhau: khoản có mức độ an toàn cao, khá,
trung bình và thấp. Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu
các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Xếp loại tín dụng theo các dấu hiệu
rủi ro từ thấp đến cao, nhiều ngân hàng có thể chia tới rất nhiều thang bậc rủi ro.
Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín
dụng, dự trù quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đồng thời để đánh giá chất
lượng tín dụng.
• Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
• Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp
thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính
• Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn
• Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản
thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì
- Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
• Tín dụng có thời hạn: là loại tín dụng có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể
theo hợp đồng. Trong loại này lại được phân chia tiếp, bao gồm:
o Tín dụng chỉ có một kỳ hạn trả nợ: là loại chỉ thanh toán một lần theo
thời hạn đã thỏa thuận.
o Tín dụng có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là tín dụng trả góp:
là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ.
7
Loại này thường được áp dụng rộng rãi trong cho vay bất động sản nhà ở
thương mại, cho vay tiêu dùng
• Tín dụng không có thời hạn cụ thể: đối với loại này thì ngân hàng có thể

yêu cầu hoặc để người vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo
trước một thời gian hợp lý (có thể được thỏa thuận trong hợp đồng).
- Căn cứ vào các tiêu thức khác:
•Theo ngành kinh tế (Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ ).
•Theo số lượng ngân hàng tham gia cấp tín dụng (Do một ngân hàng thực
hiện; đồng tài trợ).
- Bàn thêm về một số loại tín dụng trung và dài hạn khác:
• Tín dụng tuần hoàn: là một hình thức cho vay, trong đó ngân hàng cam kết
chính thức dành cho khách hàng một hạn mức tín dụng trong một thời hạn nhất
định. Cần chú ý rằng, cam kết này có thể kéo dài từ 1 đến 3 hoặc 5 năm, chính
vì vậy đây cũng là một loại tín dụng trung và dài hạn.
Khi có nhu cầu về vốn trung và dài hạn, các doanh nghiệp có thể sử dụng
các biện pháp để huy động vốn như: phát hành các chứng khoán, vay ngân hàng,
vay các tổ chức tín dụng khác tuy nhiên, việc phát hành những chứng khoán
mua, bán trên thị trường không phải là biện pháp hàng đầu để các doanh nghiệp
tài trợ cho các hoạt động của họ vì rất mất thời gian để tiến hành công việc này
trong khi cơ hội thì lại “đến” và “đi” rất nhanh. Chính vì vậy, nguồn vốn được
tài trợ từ ngân hàng là vô cùng quan trọng. Họ có thể vay ngân hàng dưới hình
thức tín dụng tuần hoàn để tài trợ cho nhu cầu tăng trưởng tài sản lưu động, sử
dụng khi ngân hàng chưa xác định được phần tài sản lưu động thường xuyên của
doanh nghiệp.
• Tín dụng thuê mua: là hình thức vay tài sản thông qua một hợp đồng tín
dụng thuê mua.
Khách hàng thường đến vay ngân hàng với mục đích là mua tài sản. Tuy
nhiên trong nhiều trường hợp, khách hàng không thể đáp ứng được các điều kiện
để vay. Để giúp khách hàng có thể thực hiện được mục đích, đồng thời không để
bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh, các ngân hàng đã tiến hành mua tài sản theo yêu
8
cầu của khách hàng và cho khách hàng thuê lại. Tài sản này không nằm trong tài
sản của doanh nghiệp mà nằm trong tài sản của ngân hàng, chính vì vậy ngân

hàng có thể thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả
nợ được. Điều này góp phần làm giảm thiệt hại cho ngân hàng. Thông thường,
để thực hiện nghiệp vụ này, các ngân hàng thường thiết lập các công ty còn để
chuyên quản. Công ty con này có nhiệm vụ nghiên cứu cùng với bên vay để lựa
chọn các máy móc, trang thiết bị thích hợp để thực hiện hợp đồng thuê mua.
1.3. Vai trò của hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương
mại trong nền kinh tế thị trường
Tín dụng trung và dài hạn cũng là hoạt động tín dụng nên nó cũng có vai
trò như hoạt động tín dụng nói chung. Vai trò đó được thể hiện ở các điểm sau:
 Góp phần làm ổn định nền kinh tế (quá trình sản xuất kinh doanh của các
cá thể, cá nhân thường xuyên hơn), tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền
kinh tế: hoạt động sản xuất kinh doanh không phải lúc nào cũng suôn sẻ, các tổ
chức, cá nhân luôn phải đương đầu với những khó khăn để tồn tại cũng như để
đi lên. Một trong những khó khăn mà đa số họ gặp phải trong bối cảnh cạnh
tranh hiện nay là sự thiếu hụt vốn trong kinh doanh. Bên cạnh việc đi vay mượn
ở người thân, bạn bè còn gọi là vay nóng thìj việc các tổ chức, cá nhân đi vay ở
các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu về vốn là rất thường xuyên.
 Tích tụ và tập trung vốn (góp phần làm giảm số tiền nhàn rỗi, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông và khắc phục lạm phát
tiền tệ).
Mỗi người, với một khoản tiền nhỏ thì rất khó có thể đầu tư, kinh doanh
hay mua những vật có giá trị lớn. Nhưng nếu nhiều người góp lại thì nó sẽ trở
thành một khoản tiền lớn. Tuy nhiên việc tập trung các lượng vốn nhỏ này lại rất
khó khăn đối với chỉ một người hay một nhóm người mà họ không được mọi
người trong xã hội biết đến. Trong khi đó lại có rất nhiều người cần một lượng
tiền lớn, nhiều công trình, dự án cần vốn lớn để đầu tư…Để kết nối những
trường hợp trên lại, chúng ta phải nhờ đến các tổ chức tín dụng mà đặc biệt là
các ngân hàng. Cũng thông qua hoạt động này của ngân hàng, số tiền nhàn rỗi
9
trong dân cư sẽ giảm xuống vì họ có một nơi để “đầu tư” kiếm lời thay vì cất giữ

ở nhà, do đó lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ giảm, khắc phục lạm phát tiền tệ.
 Là công cụ điều tiết vĩ mô thông qua việc phân bổ lại các nguồn lực, qua đó
góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu với những hậu quả nặng nề do
chiến tranh để lại, nền kinh tế nước ta so với các nước trên thế giới mới chỉ được
xếp là “nước đang phát triển”. Sự tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật…của nước ta là rất
lớn. Để tiến lên hội nhập với thế giới, không có con đường nào khác ngoài con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nặng về
nông nghiệp sang phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ. Muốn vậy, Nhà
nước cần phải phân bổ các nguồn lực cho hợp lý giữa các ngành này. Một trong
những cách để làm điều đó là thông qua hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng
trung và dài hạn. Với cách này, khi Nhà nước muốn mở ra hay phát triển một
ngành, lĩnh vực, Nhà nước sẽ có những khuyến khích trong chính sách tín dụng
như có những ưu đãi về lãi suất, thời hạn, tài sản đảm bảo trong việc vay vốn…
để các cá nhân, doanh nghiệp chú ý đến và thực hiện đầu tư.
 Thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh
tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Thật vậy, thông qua hoạt động này của ngân hàng, ta có thể biết được nền
kinh tế đang cần vốn như thế nào. Mà ta biết rằng, một nền kinh tế phát triển
luôn có nhu cầu lớn về vốn cho sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy nó sẽ phản
ánh một phần về hoạt động kinh doanh của một đất nước.
Kiểm soát và giám đốc bằng đồng tiền là một trong những chức năng của
tín dụng, tức là nó sử dụng đồng tiền để xây dựng các thước đo, chỉ tiêu, đồng
thời xác định xem các hoạt động sản xuất kinh doanh có hợp pháp, hợp lệ hay
không, có hiệu quả hay không. Do đó nó có vai trò quan trọng trong việc tổng
hợp, kiểm soát các hoạt động kinh tế, thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
2.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng
10

Tín dụng trung và dài hạn cũng là hoạt động tín dụng nên nó cũng có vai
trò như hoạt động tín dụng nói chung. Vai trò đó được thể hiện ở các điểm sau:
 Góp phần làm ổn định nền kinh tế (quá trình sản xuất kinh doanh của các
cá thể, cá nhân thường xuyên hơn), tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền
kinh tế: hoạt động sản xuất kinh doanh không phải lúc nào cũng suôn sẻ, các tổ
chức, cá nhân luôn phải đương đầu với những khó khăn để tồn tại cũng như để
đi lên. Một trong những khó khăn mà đa số họ gặp phải trong bối cảnh cạnh
tranh hiện nay là sự thiếu hụt vốn trong kinh doanh. Bên cạnh việc đi vay mượn
ở người thân, bạn bè còn gọi là vay nóng thì việc các tổ chức, cá nhân đi vay ở
các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu về vốn là rất thường xuyên.
 Tích tụ và tập trung vốn (góp phần làm giảm số tiền nhàn rỗi, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông và khắc phục lạm phát
tiền tệ).
Mỗi người, với một khoản tiền nhỏ thì rất khó có thể đầu tư, kinh doanh
hay mua những vật có giá trị lớn. Nhưng nếu nhiều người góp lại thì nó sẽ trở
thành một khoản tiền lớn. Tuy nhiên việc tập trung các lượng vốn nhỏ này lại rất
khó khăn đối với chỉ một người hay một nhóm người mà họ không được mọi
người trong xã hội biết đến. Trong khi đó lại có rất nhiều người cần một lượng
tiền lớn, nhiều công trình, dự án cần vốn lớn để đầu tư… Để kết nối những
trường hợp trên lại, chúng ta phải nhờ đến các tổ chức tín dụng mà đặc biệt là
các ngân hàng. Cũng thông qua hoạt động này của ngân hàng, số tiền nhàn rỗi
trong dân cư sẽ giảm xuống vì họ có một nơi để “đầu tư” kiếm lời thay vì cất giữ
ở nhà, do đó lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ giảm, khắc phục lạm phát tiền tệ.
 Là công cụ điều tiết vĩ mô thông qua việc phân bổ lại các nguồn lực, qua đó
góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu với những hậu quả nặng nề do
chiến tranh để lại, nền kinh tế nước ta so với các nước trên thế giới mới chỉ được
xếp là “nước đang phát triển”. Sự tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật… của nước ta là
rất lớn. Để tiến lên hội nhập với thế giới, không có con đường nào khác ngoài

11
con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nặng về
nông nghiệp sang phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ. Muốn vậy, Nhà
nước cần phải phân bổ các nguồn lực cho hợp lý giữa các ngành này. Một trong
những cách để làm điều đó là thông qua hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng
trung và dài hạn. Với cách này, khi Nhà nước muốn mở ra hay phát triển một
ngành, lĩnh vực, Nhà nước sẽ có những khuyến khích trong chính sách tín dụng
như có những ưu đãi về lãi suất, thời hạn, tài sản đảm bảo trong việc vay vốn…
để các cá nhân, doanh nghiệp chú ý đến và thực hiện đầu tư.
 Thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh
tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Thật vậy, thông qua hoạt động này của ngân hàng, ta có thể biết được nền
kinh tế đang cần vốn như thế nào. Mà ta biết rằng, một nền kinh tế phát triển
luôn có nhu cầu lớn về vốn cho sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy nó sẽ phản
ánh một phần về hoạt động kinh doanh của một đất nước.
Kiểm soát và giám đốc bằng đồng tiền là một trong những chức năng của
tín dụng, tức là nó sử dụng đồng tiền để xây dựng các thước đo, chỉ tiêu, đồng
thời xác định xem các hoạt động sản xuất kinh doanh có hợp pháp, hợp lệ hay
không, có hiệu quả hay không. Do đó nó có vai trò quan trọng trong việc tổng
hợp, kiểm soát các hoạt động kinh tế, thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
2.2. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa tương đối vừa trừu tượng mang
nhiều định tính. Để đánh giá chỉ tiêu này các nhà kinh tế nói chung và các ngân
hàng nói riêng đã nghiên cứu và đưa ra một loạt các chỉ tiêu, mỗi chỉ tiêu phản
ánh một khía cạnh của chất lượng tín dụng. Với hình thức cho vay trung và dài
hạn ta có thể đánh giá qua các chỉ tiểu sau đây.
2.2.1. Tỉ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn
Nợ quá hạn là thời gian tồn tại của nó vượt quá thời gian cho vay theo
thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng cộng với thời gian gia hạn thêm nếu
khách hàng yêu cầu. Chỉ tiêu tỉ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn cho thấy trong

tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn có bao nhiêu % là nợ quá hạn.
12
Nợ quá hạn cho vay trung và dài hạn
Tỉ lệ nợ quá hạn cho vay(%) =
Tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn
Nợ quá hạn có thể chia làm 2 loại:
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Là những khoản nợ mà người vay vốn
có thể tiếp tục trả nợ ngân hàng sau khi quá han. Lý do của những khoản nợ bị
chậm trễ này có thể là do ngân hàng định kì trả nợ chưa phù hợp,hoặc do sự thay
đổi về cơ chế, luật pháp, chính sách hoặc do những thay đổi trên thị trường,thiên
tai,dịch hoạ dẫn tới những thay đổi trong môi trường kinh tế làm cho dòng ngân
quĩ của khách hàng không ăn khớp với thời hạn trả nợ đã định trước. Kết quả là
khách hàng không có khả năng hoàn trả khoản nợ đúng hạn nhưng vẫn có khả
năng thanh toán khoản vay đó.
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: Là những khoản nợ quá hạn mà
ngân hàng không có khả năng thu hồi xảy ra khi người vay vốn lừa đảo hoặc
làm ăn thua lỗ và mất khả năng trả nợ, khi đó ngân hàng bị mất vốn. Chỉ tiêu
này càng cao thì ảnh hưởng xấu đến uy tín và trực tiếp ảnh hưởng tới hoạt động
kinh doanh của ngân hàng do nó ảnh hưởng tới kế hoạch thu nợ của ngân
hàng,tăng thêm chi phí quản lý cho ngân hàng.Tiêu chí này càng nhỏ càng tốt.
Dư nợ quá hạn không có khả năng đòi
Tỷ lệ nợ quá hạn không =
có khả năng thu hồi (%) Tổng dư nợ quá hạn
Chỉ tiêu này phản ánh tỉ lệ bao nhiêu nợ quá hạn không có khả năng thu
hồi trong tổng số nợ quá hạn. Một ngân hàng có tỉ lệ này càng cao thì phải dùng
càng nhiều vốn từ quỹ bù đắp rủi ro hoặc từ vốn tự có để bù đắp lại.
2.2.2. Chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản tín dụng trung và
dài hạn.
Lợi nhuận tín dụng trung và dài hạn

Chỉ tiêu lợi nhuận (%) =
Tổng dư nợ bình quân trung và dài hạn
13
Thông thường đối với một khoản tín dụng trung và dài hạn thành công thì
tỷ lệ này rất cao nhưng do các khoản cho vay trung và dài hạn có mức rủi ro cao
(bao gồm rủi ro mất vốn và rủi ro thanh khoản) nên phần lợi nhuận thu được này
phải trích một phần cho quỹ bù đắp rủi ro. Vì vậy chỉ tiêu lợi nhuận của các
khoản tín dụng trung và dài hạn là chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh chất lượng
các khoản cho vay trung và dài hạn.Chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
2.2.3. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Chỉ tiêu này cho biết ngân hàng thu được bao nhiêu để có thẻ lại cho vay
dự án mới.Vòng quay vốn càng tăng lên tức là ngân hàng cũng thu được nhiều
nợ và càng chứng tỏ rằng nguồn vốn trung và dài hạn mà ngân hàng đầu tư có
hiệu quả.
Doanh số thu nợ trong kì
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ tín dụng trung và dài hạn bình quân
Ngoài ra ở góc độ kinh tế xã hội chúng ta có thể xem xét một số chỉ tiêu
phản ánh các giá trị tăng được tạo ra từ khoản tín dụng của ngân hàng,đó là:
Tổng số việc làm tạo ra từ các dự án có sử dụng tín dụng trung và dài hạn.
Tổng giá trị gia tăng được tạo ra từ doanh số tín dụng của ngân hàng.Phần
giá trị gia tăng của một dự án có thể do nhiều nguồn vốn khác nhau của dự án
tạo ra. Do đó rất khó để xác định đâu là phần giá trị gia tăng do khoản vay tạo
ra,đâu là phần gia tăng do các nguồn vốn khác tạo ra. Tuy nhiên, có thể ước
lượng một cách tương đối là tính theo % vốn góp vào dự án từ khoản tín dụng
của ngân hàng.
Nhiều tác động khác của khoản tín dụng của ngân hàng khó có thể đánh
giá qua các chỉ tiêu định lượng mà chỉ có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định tính
như tác dụng của tín dụng trung và dài hạn với việc: đổi mới cơ cấu kinh tế xã
hội, nâng cao trình độ nghề nghiệp,tăng năng suất lao động xã hội…

2.2.4. Tỷ lệ vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn
Vốn ngắn hạn là những tiền được hình thành từ tiền gửi của khách hàng
có kì hạn dưới 1 năm, nó chiếm khoảng 70-80% tổng vốn huy động của ngân
14
hàng thương mại. Trong khi đó vốn cho vay trung và dài hạn lại chiếm khoảng
40-50% tổng dư nợ cho vay. Chính vì thế các ngân hàng thương mại thường lấy
một số lượng lớn tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn để tăng thêm lợi
nhuận và sức cạnh tranh cho ngân hàng.
NHNN cũng cho phép các ngân hàng thương mại được phép dùng một số
vốn huy động ngắn hạn để đầu tư cho vay trung và dài hạn. Nhưng nếu vượt quá
mức an toàn thì sẽ dẫn tới khả năng mất cân đối vốn hoạt động hàng ngày. Nhất
là khi điều kiện kinh tế không được ổn định thì cho vay trung và dài hạn sẽ gặp
rất nhiều rủi ro. Vì thế mỗi ngân hàng nên cân nhắc kĩ việc dùng vốn ngắn hạn
để cho vay trung và dài hạn,tốt nhất là không nên vượt quá mức quy định của
NHNN.
2.2.5. Các nhân tố thuộc về ngân hàng
a. Chính sách tín dụng của ngân hàng:
Mỗi một ngân hàng thương mại đều xây dựng cho mình một chính sách
tín dụng riêng dưới những hình thức khác nhau. Thông thường chính sách tín
dụng riêng được thể hiện dưới hình thức là một văn bản chính thức và một số
văn bản ghi nhớ không chính thức. Tuy nhiên, trong một số trường hợp chính
sách tín dụng chỉ có thể là chỉ thị bằng lời của ban lãnh đạo ngân hàng hoặc là
một tập hợp các hành vi, các thông lệ và những tập quán.
Đối với các ngân hàng thương mại ở Việt nam thì chính sách tín dụng
thường được thể hiện dưới hình thức văn bản, trong đó đưa ra lý luận và khái
niệm cơ bản của việc đầu tư,cho vay. Văn bản này bao gồm các tiêu chuẩn, các
hướng dẫn và các giới hạn để chỉ đạo quy trình ra quyết định cho vay. Chính
sách tín dụng tạo cho người cán bộ tín dụng ý thức về phương hướng và một
khung tham chiếu xác định để theo đó xem xét cân nhắc một đơn vị vay nhất
định. Khi xây dựng chính sách tín dụng, các nhà quản lý cần chú ý nội dung của

chính sách phải phù hợp với đường lối phát triển của chính phủ,đồng thời đảm
bảo kết hợp hài hoà quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay và chính bản thân
ngân hàng. Một chính sách tín dụng tốt sẽ giúp cán bộ tín dụng có cơ sở vững
chắc để đưa những khoản cho vay an toàn và hiệu quả.
15
b. Khả năng nguồn vốn:
Trong việc nâng cao chất lượng tín dụng,nguồn vốn huy động đóng vai
trò quan trọng. Ngân hàng có nguồn vốn dồi dào sẽ tạo điều kiện cho việc tăng
doanh số cho vay. Mặt khác kì hạn của các khoản huy động vốn cũng ảnh hưởng
rất lớn tới kì hạn, doanh số và lời nhuận từ các khoản cho vay. Nguồn huy động
vốn bao gồm:
- Tiền gửi giao dịch.
- Tiền gửi phi giao dịch.
- Tiền đi vay.
- Vốn tự có của ngân hàng.
Với tín dụng trung và dài hạn, nguồn đáp ứng phải tương đối ổn định, lãi
xuất phải hợp lý để một mặt cạnh tranh được với các ngân hàng khác một mặt
đảm bảo các chi phí và có lãi.
c. Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng bao gồm những quy định cần phải thực hiện trong quá
trình cấp vốn, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn, nó được bắt đầu từ khi điều tra
thẩm định,thiết lập hồ sơ, xét duyệt cho vay, giải ngân, kiểm tra quá trình sử
dụng vốn vay, thu lãi cho đến khi thu hồi được nơ. Chất lượng tín dụng có đảm
bảo hay không tuỳ thuộc vào thực hiện tốt các quy định ở từng bước và phối hợp
chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng.
Trong quy trình tín dụng bước điều tra thẩm định tín dụng thiết lập hồ sơ
và xét duyệt rất quan trọng, là cơ sở để định lượng rủi ro trong quá trình cho
vay. Tín dụng trung và dài hạn được sử dụng để tài trợ cho việc thực hiện các dự
án đầu tư lớn nên thực chất công tác thẩm định là xem xét dự án đầu tư nhằm rút
ra kết luận chính xác tính khả thi,hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi

ro có thể xảy ra của dự án để ra quyết định cho vay hoặc từ chối, quyết định
mức tiền cho vay,thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý… giúp cho ngân hàng
lựa chọn được phương án tốt nhất.Có làm tốt công tác thẩm định mới đảm bảo
nguyên tắc quản lý tiền cho vay, bảo toàn và phát triển hoạt động tín dụng, tránh
các rủi ro, tạo ra uy tín hoạt động của ngân hàng và thu hút được khách hàng
16
nhất là những khách hàng xin ay vốn trung và dài hạn để đầu tư cho các dự án
xây dựng mới, mở rộng, cải tao, khôi phục và dứng dụng khoa học công nghệ
nhằm mục tiêu lợi nhuận. Tiếp theo, bước kiểm tra quá trình tín dụng giúp ngân
hàng nắm được nguyên nhân diễn biến của khoản tín dụng đã cung cấp, để có
những hành động điều chỉnh hoặc can thiệp khi cần thiết nhằm ngăn ngừa rủi ro
có thể xảy ra.
Thu nợ thu lãi và thanh lý nợ là khâu có tính quyết định đến sự tồn tại của
ngân hàng, do đó ngân hàng phải tích cực trong công tác thu lãi thu nợ. Sự nhạy
bén của ngân hàng thông qua việc thu nợ thu lãi để phát hiện kịp thời những
hiện tượng bất thường đối với mỗi món vay cùng với biện pháp xử lý chính xác,
đúng lúc sẽ giảm thiểu các khoản nợ quá hạn và điều đó sẽ có tác động tích cực
tới chất lượng cho vay.
d. Chất lượng nhân sự:
Nhiệm vụ cụ thể của một cán bộ tín dụng phải thực hiện phụ thuộc vào
quy mô và tổ chức nhân sự của ngân hàng, ở một ngân hàng thương mại lớn cán
bộ tín dụng có thể là các chuyên gia giải quyết một số lượng nhất định các món
vay lớn có liên quan đến một ngành, ở một ngân hàng trung bình, cán bộ tín
dụng có thể giải quyết một số lượng lớn cá hoạt động kinh doanh,từ các hoạt
động dịch vụ bán lẻ quy mô nhỏ đến các hoạt động sản xuất quy mô lớn. Cán bộ
tín dụng ở một ngân hàng thương mại nhỏ có thể thực hiện bất cứ nghiệp vụ
gì,bao gồm cả công việc liên quan đến cho vay tư nhân đến trả góp thu nợ và
marketing. Khi thực hiện nhiệm vụ cụ thể của mình người cán bộ tín dụng phải
hoàn thành 2 mục tiêu cơ bản: phục vụ các nhu cầu của khách hàng một cách
nhiệt tình đảm bảo sự công bằng, đồng thời đảm bảo khoản cho vay có hiệu

quả,tạo lợi nhuận cho ngân hàng trên cơ sở an toàn. Ngoài ra, cán bộ tín dụng có
trách nhiệm kiểm tra các món vay hiện có, báo cáo tiến độ giải ngân thu nợ định
kì từ người vay, liên tục đánh giá triển vọng các khoản cho vay để xác định các
vấn đề khó khăn phát sinh càng sớm càng tốt. Có thể nói, cán bộ tín dụng giữ
một vai trò quyết định trong hoạt động tín dụng của ngân hàng
17
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, một cán bộ tín dụng hàng
ngày phải xử lý nhiều nghiệp vụ có tính biến động liên quan tới nhiều lĩnh
vực,ngành nghề kinh tế, gặp gỡ nhiều loại khách hàng, đối mặt với nhiều cám
dỗ, có nhiều cơ hội để thực hiện hành vi vụ lợi… Vì vậy cán bộ tín dụng cần
được tuyển chọn cẩn trọng,phải đảm bảo cả về mặt đạo đức lẫn nghề nghiệp.
Nếu trình độ của cán bộ tín dụng hạn chế không có khả năng phân tích thẩm
định dự án,không có khả năng phân tích được năng lực tài chính, khả năng quản
lý của khách hàng, thiếu khách quan khi đánh giá dự án thì đẽ chọn phải dự án
tồi không mang tính khả thi, khi đi vào hoạt động dự án không mang lại hiệu
quả, doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và việc không trả được nợ cho ngân hàng là
điều tất yếu. Do vậy sự thành công của mỗi khoản vay trực tiếp phụ thuộc vào
khả năng tính chủ đọng và sự cống hiến của cán bộ tín dụng.
c. Thông tin tín dụng:
Trong nền kinh tế thị trường, ai nắm bắt được nhiều thông tin chính xac
và kịp thời hơn, người đó sẽ thắng trong cạnh tranh. Trong hoạt động tín
dụng,ngân hàng bỏ tiền ra trên cơ sỏ long tin. Lòng tin có chính xác hay không
phụ thuộc vào chất lượng thông tin có được. Để việc cho vay có chất lượng hiệu
quả,giảm thiểu rủi ro ngân hàng phải có được và phân tích xử lý chính xác nhiều
thông tin liên quan. Thông thường có 2 nhóm thông tin sau:
- Thông tin phi tài chính: Là những thông tin không phải từ sổ sách số liệu
tài chính. Chúng có nhiều loại phong phú bao gồm thông tin trực tiếp và thông
tin gián tiếp. Thông tin trực tiếp như tính cách, uy tín, năng lực quản lý, năng
lực sản xuất kinh doanh của người vay. Loại thông tín gián tiếp như tình hình
kinh tế xã hội, xu hướng phát triển, khả năng canh tranh của ngành nghề. Những

yếu tố có thể thay đổi hay ảnh hưởng tới khu vực,dự án trong tương lai.
- Thông tin tài chính: Bao gồm các thông tin liên quan tới tình hình tài
chính như khả năng tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh của phương án. Tóm
lại, nắm chắc được 2 nhóm thông tin trên sẽ giúp ngân hàng có cái nhìn chính
xác, toàn diện về đối tượng cho vay, hạn chế được thấp nhất mọi rủi ro có thể
xảy ra.
18
f. Công tác tổ chức của ngân hàng:
Công tác tổ chức tác động tới mọi mặt của hoạt động ngân hàng đặc biệt
tác động mạnh tới hoạt động tín dụng. Ta đã biết hoạt động tín dụng có khả năng
rủi ro lớn hơn tất cả các loại hình kinh doanh khác, do đó một sự sắp xếp hợp lý
chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban với nhau tạo nên một sự phối hợp chặt
chẽ sẽ giúp cho việc đánh giá một món vay toàn diện hơn và chất lượng hơn.
Công tác tổ chức ở đây cũng đề cập đến vấn đề giao đúng người đúng
việc. Sự phân công việc hợp lý khoa học sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của
cán bộ tín dụng, khi đánh giá một khoản cho vay họ sẽ dựa trên cơ sở thực tế
khách quan dám làm dám chịu với cách xử lý của mình.
Từ vai trò quan trọng của công tác tổ chức trên nên trong hoạt động của
mình cán bộ tổ chức cần sắp xếp cơ cấu bộ máy hoạt động trong ngân hàng một
cách khoa học, linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc huy động vốn lẫn
nguyên tắc cho vay, quản lý tài sản nợ, tài sản có của ngân hàng.
Làm tốt công tác tổ chức là cơ sở để tiến hành nghiệp vụ tín dụng lành
mạnh.
g. Kiểm soát nội bộ:
Đây là biện pháp giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng có được các thông tin
về tình hình kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt đọng kinh doanh
đang xúc tiến phù hợp với các chế độ,chính sách và đáp ứng được mục tiêu đã
đinh.
Trong lĩnh vực tín dụng trung và dài hạn hoạt động kiểm soát bao gồm:
- Kiểm soát chính sách tín dụng,quy trình tín dụng và các thủ tục có liên

quan đến các khoản vay (thẩm quyền về điều hành, quản lý, giám sát, hồ sơ thủ
tục )
- Kiểm tra định kì do kiểm soát viên nội bộ thực hiện,báo cáo các trường
hợp ngoại lệ, những vi phạm chính sách, thủ tục, kiểm soát kế toán kể các các
nghiệp vụ liên quan tới kế toán.
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn tuỳ thuộc vào mức độ phát hiện kịp
thời nguyên nhân các sai sót phát sinh trong quá trình thực hiện một khoản tín
19
dụng trung và dài hạn của công tác kiểm soát nội bộ để có biện pháp khắc phục
kịp thời.
h. Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng trung và dài hạn:
Đây là nhân tố tác động gián tiếp tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn
của các ngân hàng. Trang thiết bị hiện đại sẽ là điều kiện thuận lợi cho các công
tác thu thập thông tin tìm kiếm khách hàng, phục vụ cho nhu cầu của khách
hàng, thẩm định, giám sát từ đó nâng cao được chất lượng hoạt động tín dụng
của ngân hàng.
2.2.6. Các nhân tố thuộc về phía khách hàng
Khách hàng là nhâng tố ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng trung
và dài hạn bởi hiệu quả và chất lượng tín dụng dựa trên hiệu quả sản xuất kinh
doanh của khách hàng mà điều đó phụ thuộc vào năng lực của khách hàng.
Một khách hàng vay vốn sản xuất kinh doanh không có hiệu quả, sản
phẩm sẽ không tiêu thụ được, kinh doanh không có lãi, tình trạng mất vốn do
thua lỗ sẽ là những nguyên nhân trực tiếp làm cho các khoản vay không thực
hiện được đúng han. Trong trường hợp người vay bị mất vốn thì tình trạng của
ngân hàng sẽ trở nên nghiêm trọng hơn. Lợi nhuận của các ngân hàng chính là
một phần lợi nhuận của các nhà sản xuất để tra thay cho ngân hàng dưới hình
thức lợi tức tiền vay. Vì vậy, nếu người vay vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh
mà không thu được lợi nhuận thì không đủ tiền để trích lập lợi nhuận trả cho
ngân hàng. Thậm chí,nếu tình trạng đó kéo dài hoặc sản xuất kinh doanh thua lỗ
ở mức nghiêm trọng bản thân người vay cũng không có đủ vốn tự có của mình

để trả nợ gốc và lãi vay ngân hàng. Do đó ngân hàng có thu được tiền gốc và lãi
vay hay không là phụ thuộc chủ yếu vào người cho vay, họ sử dụng vốn kinh
doanh có hiệu quả hay không.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của khách hàng trong việc quản lý tiền vay
nên trước khi cho vay ngân hàng cần đánh giá được năng lực của khách hàng
trên các khía cạnh sau:
a. Năng lực thị trường của khách hàng:
20
Năng lực thị trường được thể hiện qua chất lượng sản phẩm,giá cả sản
phẩm, chu kì sống của sản phẩm, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Tìm
hiểu năng lực thị trường của khách hàng sẽ giúp ngân hàng đánh giá đúng được
mặt mạnh, mặt yếu sản phẩm của khách hàng trên thị trường, biết được sự phù
hợp của dự án hoạt động so với khả năng của khách hàng.
b. Năng lực tài chính:
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở khả năng độc lập tự
chủ tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và trả nợ. Nó còn thể hiện ở
số vốn tự có và tỉ trọng vốn tự có trong tổng số vốn doanh nghiệp sử dụng.
Một doanh nghiệp có năng lực tài chính tốt sẽ phản ánh việc kinh doanh
của doanh nghiệp từ trước là có hiệu quả, nó cho thấy khách hàng có thể quản lý
vốn vay một cách tối ưu.
c. Năng lực sản xuất:
Năng lực của sản xuất thể hiện ở giá trị của công cụ lao động mà chủ yếu
là tài sản cố định biểu hiện cụ thể qua các quá trình sản xuất sản phẩm, công
nghệ sản xuất. Nghiên cứu năng lực sản xuất cho biết quy mộ sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và sự phù hợp của quy mô đó trên thị trường.
d. Năng lực quản lý:
Năng lực quản lý của doanh nghiệp thể hiện ở khả năng thích nghi của bộ
máy quản lý doanh nghiệp trước những biến động của cơ chế thị trường, thể
hiện ở trình độ của cán bộ quản lý. Một doanh nghiệp có bộ máy quản lý tốt sẽ
phân bố kế hoạch sản xuất hợp lý, tiết kiệm được các chi phí hoạt động, sử dụng

hợp lý các nguồn lực, là cơ sở để doanh nghiệp làm ăn có lãi và trả được nợ cho
ngân hàng.
d. Uy tín của khách hàng:
Ngân hàng có thể xem xét quan hệ kinh doanh của khách hàng với các tổ
chức kinh tế khác qua nhiều năm để có cơ sở đánh giá uy tín của khách hàng.
Tránh chọn phải những khách hàng vay vốn sử dụng sai mục đích, khi có tiền thì
không chịu trả cho ngân hàng hay cố tình trây ì, trì hoãn.
f. Quyền và sở hữu tài sản:
21
Ngay từ đầu,tất cả các khoản tín dụng phải có 2 phương án trả nợ tách
biệt. Nếu hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì kết quả kinh doanh sẽ mang lại
nguồn thu, khách hàng sử dụng nguồn thu đó để trả nợ cho ngân hàng, nếu dự án
hoạt động không có hiệu quả thì khach phải lấy tài sản của họ trả nợ thay hay đi
vay để trả nợ. Việc xem xét quyền sở hữu hợp pháp của tài sản đảm bảo là một
trong những yếu tố quan trọng để ngân hàng ra quyết định cho vay đồng thời nó
cũng là mối ràng buộc đối với khách hàng trong việc sử dụng hợp lý, hiệu quả
vốn vay vì nếu thua lỗ họ sẽ mất tài sản thế chấp.
2.2.7. Các nhân tố khách quan khác
Bên cạnh những nhân tố thuộc về phía ngân hàng và khách hàng thì còn
một số nhân tố khác cũng ảnh hưởng rất lớn tới chấn lượng tín dụng trung và dài
hạn.
a. Đường lối chủ trương phát triểu kinh tế của Đảng, Nhà nước và Chính
quyền địa phương:
Đặc trưng cơ bản của hệ thống tín dụng là do tính chất và cơ cấu quản lý
kinh tế quyết định do đó một khoản cho vay trung và dài hạn được đầu tư phù
hợp với chủ trương phát triển kinh tế của Đảng, của Nhà nước và địa phương sẽ
có sự an toàn hiệu quả hơn.
Mức độ phát triển kinh tế của địa phương quy định quy mộ và khối lượng
đầu tư tín dụng. Nếu đầu tư tín dụng vượt quá khối lượng cần thiết,không phù
hợp với mức đố phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín

dụng. Nhiều ngân hàng thương mại do nong vội mở rộng đầu tư nâng cao dư nợ,
đẩy nhanh tỉ lệ tăng trưởng tín dụng vượt quá nhiều so với mức tăng trưởng kinh
tế trên địa bàn nên đã phải trả giá cho sự nóng vội này.
b. Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế dù có thay đổi theo chiều hướng nào cũng sẽ tác động
tới chất lượng tín dụng của ngân hàng.Khi nền kinh tế hưng thịnh sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc kinh doanh và đạt lợi nhuận cao,
trên cơ sở doanh nghiệp sẽ hoàn trả cả gốc và lãi đầy đủ cho ngân hàng. Ngược
lại khi nền kinh tế suy thoái, khủng hoảng sẽ làm sản xuất ngưng trệ, các doanh
22
nghiệp không bán được hàng,nguy cơ thua lỗ là rất lớn, khi doanh nghiệp đã làm
ăn thua lỗ thì sẽ không có tiền trả lại cho ngân hàng.
Không chỉ môi trường kinh tế trong nước thay đổi sẽ làm ảnh hưởng tới
chất lượng tín dụng mà môi trường kinh tế thế gới thay đổi cũng tác động tới
chất lượng tín dụng,ví dụ như với những doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, sự
biến động trạng thái kinh tế của nước bạn hàng cũng sẽ tác động tới tỉ giá hối
đoái, điều này có thể dẫn tới việc kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu
gặp khó khăn thậm chí thua lỗ, ảnh hưởng tới việc trả nợ cho ngân hàng.
c. Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý trong nước cũng là yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới chất
lượng tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại. Hoạt động tín
dụng gắn chặt với quy định về pháp lý, tất cả các cá nhân,tổ chức kinh tế phải
căn cứ vào các quy định của pháp luật để hoạt động. Thực tế ở Việt Nam cho
thấy đất nước đang trong đà chuyển đổi nền kinh tế do đó chưa có những quy
hoạch cụ thể, ổn định lâu dài ở tầm vĩ mô, từ đó có những văn bản vừa mới ra
đời đã lại thay đổi. Nhiều doanh nghiệp đầu tư vừa mới lắp đặt xong thiết bị
khai thác, khi bước vào sản xuất thì sản phẩm không tiêu thụ được do Nhà nước
có chủ trương cấm sản xuất hoặc hạn chế, một số mặt hàng lại không đủ nguyên
liệu đầu vào cho sản xuất dẫn tới việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
không diễn ra theo đúng kế hoạch, ảnh hưởng tới việc thu hồi vốn của doanh

nghiệp và công tác trả nợ cho ngân hàng. Vì thế trong nền kinh tế thị trường đầy
sôi động thì một hệ thống pháp luật ổn định, chặt chẽ, nghiêm minh là điều kiện
đảm bảo cho mọi hoạt động kinh doanh thuận lợi, sự ổn định chặt chẽ của pháp
luật tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong kinh doanh đồng thời buộc
mọi người vay vốn phải có ý thức trong sản xuất kinh doanh và hoàn trả vốn cho
ngân hàng.
2.3. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn
2.3.1. Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là để phát triển
kinh tế
23
Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá,tín dụng hay cho vay đã có những đóng
góp đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để đẩy mạnh
quá trình phát triển xã hội.
Ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thong hàng hoá,tín
dụng cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp them các phương tiện giao dịch
để đáp ứng nhu cầu giao dịch hàng ngày,ngày càng tăng trong xã hội. Trong
điều kiện đó, chất lượng tín dụng cũng ngày càng được quan tâm, bởi lẽ:
Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò
trung tâm thanh toán: khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay
vốn cho vay, với một lượng tiền như cũ có thể thực hiện được số lần giao dịch
lớn hơn, tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông,củng cố sức mua của đồng
tiền.
Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát,ổn định tiền tệ,tăng
trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Điều này xuất phát từ chức năng tạo tiền
của ngân hàng thương mại,thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh
toán không dùng tiền mặt, ngân hàng thương mại có thể mở rộng tiền ghi sổ gấp
nhiều lần so với số tiền thực có, hoặc là vì lí do nào đó, các chủ tài khoản có khả
năng phát hành séc và thanh toán bằng các phương tiện khác cho khách vượt quá
số tiền gửi thực có, hay khi ngân hàng xử lý nghiệp vụ thanh toán cho khách
hàng đã cung cấp cho doanh nghiệp một khối lượng thanh toán bằng cách ghi

“có” trước ghi “nợ” sau. Như vậy nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại
có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền trong lưu thông và là nguyên nhân tiềm
ẩn của lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ tạo khả năng giảm bớt tiền
thừa trong lưu thông, góp phần hạn chế lạm phát ổn định tiền tệ, tăng uy tín
quốc gia bằng việc phát huy tác dụng của các sản phẩm, dịch vụ trong tương lai
của các công trình đầu tư.
Hoạt động tín dụng là công cụ thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà
nước về phát triển kinh tế xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực. Mặt khác thông
qua sự đánh giá phân tích khả năng phát triển của cá đối tượng định đầu tư để có
những quyết định đúng đắn nhằm khai thác khả năng tiềm tang về tài nguyên,
24
lao động,tiền vốn…để tăng cường năng lực sản xuất,cung cấp ngày càng nhiều
sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm,tăng thu nhập cho người lao
động… Chất lượng tín dụng trung và dài hạn được nâng cao sẽ góp phần tăng
hiệu quả sản xuất xã hội,đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các vùng, các ngành
trong cả nước,ổn định và phát triển kinh tế.
Tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng có quan hệ mật
thiết với nền kinh tế xã hội,thiết lập một mối cơ chế chính sách cho vay đồng
bộ,có hiệu quả sẽ có tác động tích cực tới mọi mặt của nền kinh tế xã hội,điều
đó cũng thể hiện chất lượng hoạt động co vay trong nền kinh tế thị trường.
2.3.2. Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển
của các ngân hàng thương mại
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ
của các ngân hàng thương mại do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng vòng quay
vốn cho vay và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm,
dịch vụ tạo ra một hình ảnh tốt đẹp về biểu tượng,uy tín của ngân hàng và sự
trung thành của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn làm tăng khả năng sinh lời của các
sản phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp
vụ,chi phí quản lý,các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn cho vay.

Chất lượng tín dụng trung và dài hạn đảm bảo khả năng thanh toán và lợi
nhuận của ngân hàng,tạo thế mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh.
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài
của ngân hàng vì chất lượng tín dụng cho phép ngân hàng có những khách hàng
trung thành và uy tín đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng.Chất lượng tín
dụng sẽ củng cố thêm mối quan hệ xã hội của ngân hàng và điều này là rất cần
thiết ở các ngân hàng thương mai.
Với những ưu thế trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng tín dụng
trung và dài hạn là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của
ngân hàng thương mại. Và cũng chính vì vậy, chất lượng tín dụng luôn luôn đòi
hỏi những sự cải tiến, không ngừng sáng tạo.
25

×