Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

đánh giá chất lượng nước dưới đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.42 KB, 84 trang )

Chương I: MỞ ĐẦU
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việc sử dụng nước cho sinh hoạt, sản xuất và ăn uống tăng lên đáng kể ở các
thành phố lớn trong những năm gần đây. Tại các thành phố lớn, đặc biệt thành
phố Hồ Chí Minh nơi có tốc độ phát triển kinh tế nhanh cùng với sự tập trung
dân cư cao thì việc đáp ứng nhu cầu này đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Tuy nhiên cho đến nay, tại một số vùng trong thành phố cụ thể quận Bình Tân
(tách ra từ huyện Bình Chánh) nước máy chỉ đáp ứng cho một bộ phận nhỏ
dân cư sống trong khu vực này, do đó việc khai thác và sử dụng nước dưới đất
là điều rất cần thiết và tất yếu của người dân. Hiện nay các giếng khoan khai
thác tập trung chủ yếu ở hai tầng: tầng Pleistocen (QI-III) và tầng Pliocen
trên(Nb2).
Việc khai thác nước dưới đất với lưu lượng quá mức, không theo quy hoạch
đã làm cho khả năng bị ô nhiễm của các tầng nước dưới đất trong khu vực có
thể xảy ra. Nhất là tầng Pleistocen.
Với đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ hiện trạng nước dưới đất trong khu
vực, cũng như làm sáng tỏ chất lượng nước dưới đất theo thời gian và không
gian tại khu vực này
II. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu các thành phần hoá học và sự thay đổi của chúng trong nước dưới
đất, để từ đó có biện pháp bảo vệ và khai thác một cách hợp lý nguồn tài
nguyên này.
III. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Làm sáng tỏ điều kiện địa chất thuỷ văn khu vực. Nghiên cứu và hiện trạng
chất lượng nước dưới đất đang khai thác. Đồng thời nêu lên nguyên nhân gây
ra sự biến đổi chất lượng nước và đề xuất hướng sử dụng.
Trang 1
IV. Ý NGHĨA KHOA HỌC – THỰC TIỄN
1. Ý nghĩa khoa học.
Qua kết quả nghiên cứu phân tích thành phần hoá học nước dưới đất đã góp
phần làm sáng tỏ về hiện trạng chất lượng nước dưới đất tại khu vực quận


Bình Tân.
2. Ý nghĩa thực tiễn.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở cho công tác khai thác và
quản lý nguồn nước dưới đất tại khu vực.
V. KHỐI LƯỢNG CÔNG VIỆC – CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Khối lượng công việc.
* Thu thập tài liệu
- Các tài liệu về đặc điểm địa chất, địa chất thuỷ văn của thành phố Hồ Chí
Minh.
- Các tài liệu về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ở quận Bình Tân.
- Các báo cáo khoa học về nước dưới đất ở thành phố Hồ Chí Minh.
* Khối lượng đề tài thực hiện.
- Tiến hành khảo sát: đi đến từng hộ dân.
- Lấy mẫu: 9 mẫu trong ngày 22-04-2004
- Ngoài ra đề tài còn sử dụng kết quả phân tích mẫu nước từ các đơn vị khác.
- Các mẫu được phân tích với các chỉ tiêu: pH, DO, Eh, EC, nhiệt độ, màu,
mùi vị, độ axit, độ kiềm, sắt tổng cộng, sắt hai, độ cứng tổng cộng, độ cứng
canxi, độ cứng magiê, chất rắn tổng cộng, , cation (NH4+, Ca2+, Mg2+) anion
(SO42-, PO43-, NO3-, HCO3-, Cl-).
2. Phương pháp nghiên cứu.
* Thu thập và tổng hợp các tài liệu theo phương pháp tập hợp và chọn lọc.
* Phân tích thành phần hoá học của mẫu nước.
- pH; DO đo bằng máy WTW 396
Trang 2
- Chất rắn: xác định bằng phương pháp sấy khô ở 1050C.
- Độ kiềm, độ axit, độ cứng tổng cộng, độ cứng canxi, Cl-, xác định bằng
phương pháp chuẩn độ, sắt tổng cộng, sắt hai, sunfat, photphat, NO3-, NH4+
đo bằng máy spectrophotometor hiệu secoman với các bước sóng khác nhau.
- Các chỉ tiêu còn lại xác định trên cơ sở tính toán.
- Tổng hợp phân tích kết quả bằng các phần mềm tin học chuyên môn

(mapinfor 6.0 )
Chương II. KHÁI QUÁT VÙNG NGHIÊN CỨU
Quận Bình Tân là đô thị mới được thành lập bao gồm 10 phường, theo nghị
định số 130/NĐ ngày 5/11/2003 của chính phủ từ thị trấn An Lac, xã Bình
Hưng Hoà, xã Bình Trị Đông và xã Tân Tạo của huyện Bình Chánh trước đây.
Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hoá diễn ra khá nhanh, có phường
hầu như không còn đất nông nghiệp (phường An Lạc A năm 2003 còn 3.5 ha,
phường Bình Hưng Hoà A còn 39.5 ha).
VỊ TRÍ ĐỊA LÍ
Quận Bình Tân là đô thị mới phát triển, gồm 3 xã và 1 thị trấn được tách ra từ
huyện Bình Chánh. Quận nằm trong toạ độ địa lí từ 10027’38” đến 10045’30”
vĩ độ Bắc và từ 106027’51” đến 106042’00” kinh độ Đông, tiếp giáp với:
Phía Bắc: quận 12, huyện Hóc Môn.
Phía Nam: quận 8, xã Tân Kiên, xã Tân Nhựt.
Phía Đông:quận Tân Bình, quận 6, quận 8.
Phía Tây: xã Vĩnh Lộc A, xã Vĩnh Lộc B, xã Lê Minh Xuân.
KHÍ HẬU, ĐẶC ĐIỂM THUỶ VĂN:
Trang 3
Bình Tân nằm trong khu vưc nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với hai mùa mưa
nắng, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô bắt đầu từ tháng 12
đến tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ không khí
Nhiệt độ cao nhất: 300C (tháng 4).
Nhiệt độ thấp nhất: 26,80C (tháng 11).
Nhiệt độ trung bình năm: 27.90c.
(Theo báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội quận Bình Tân đến
năm 2010).
Độ ẩm không khí:
Độ ẩm cao nhất:82% (tháng 8).
Độ ẩm thấp nhất: 70% (tháng 2).

Độ ẩm trung bình:76%.
(Theo báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội quận Bình Tân đến
năm 2010).
Lượng mưa:
Lượng mưa trung bình năm là 1983 mm, tập trung chủ yếu vào các tháng 6, 7,
8, 9, 10 chiếm trên 90% lượng mưa cả năm. Trong tháng 7 có số ngày mưa
nhiều nhất là 23 ngày và tháng 2 có số ngày mưa ít nhất là 1 ngày.
(Theo báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội quận Bình Tân đến
năm 2010).
Lượng bốc hơi:
Lượng bốc hơi trong năm khá lớn, tổng lượng là 1399 mm/năm, chiếm 51.3%
lượng mưa trung bình năm. Trong đó các tháng nắng lượng bốc hơi là 5-6
mm/ngày, các tháng mưa là 2-3 mm/ngày. Do lượng bốc hơi khá cao vào mùa
khô đã làm giảm lượng nước mặt nên phèn và độ mặn tăng ở các vùng trũng.
Trang 4
(Theo báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội quận Bình Tân đến
năm 2010).
Các yếu tố khác:
Nắng: số giờ nắng cả năm là 1829.3 giờ, tháng 5 có số giờ nắng nhiều nhất
204 giơ (6-7 giờ/ngày), tháng 11 có số giớ nắng ít nhất là 136.3 giờ(4-5
giờ/ngày).
Gió: gió thịnh hành trong mùa khô là hướng gió đông nam và gió thịnh hành
trong mùa mưa là hướng gió Tây Nam. Tốc độ gió trung bình khoảng 2-3 m/s.
Nhìn chung, khí hậu quận Bình Tân có tính ổn định cao, không xảy ra thời tiết
bất thường như bão lụt, nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh.
(Theo báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội quận Bình Tân đến
năm 2010).
Nguồn nước và thuỷ văn:
Nguồn nước mặt :quận Bình Tân có hệ thống sông, rạch từ chi lưu của các
sông Sài Gòn, Nhà Bè-Xoài Rập, Vàm Cỏ Đông tạo nên, có chế độ bán nhật

triều không đều dễ gây ngập vào mùa mưa và mặn xâm nhập sâu nội đồng vào
mùa khô. Chất lượng nước ở hệ thống sông rạch của quận rất kém do nằm ở
hạ lưu của hệ thống sông nên mức độ ô nhiễm nặng, chủ yếu là các chất thảy
từ thành phố theo hệ thống kênh Tàu Hủ, Tân Hoá-Lò Gốm, Kênh Đôi, rạch
Nước Lên đổ về. Bên cạnh đó còn có nguồn nước thải từ các khu công nghiệp
và khu dân cư của quận thải ra làm cho chất lượng nước càng kém hơn. Do
chất lượng nguồn nước kém nên ảnh hưởng đến phát triển kinh tế-xã hội của
quận đặc biệt là ô nhiễm môi trường tác động đến đời sống của dân cư rất
nhiều.
Nguồn nước ngầm :nguồn nước phần lớn đều bị nhiễm phèn trong các tháng
mùa khô nên ảnh hưởng đến việc khai thác sử dụng.
ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO
Trang 5
Địa hình:
Địa hình quận Bình Tân thấp dần theo hướng Đông Bắc-Tây Nam, cao trình
biến dạng từ 0.5-4m so với mực nước biển, được chia làm 2 vùng:
-Vùng 1: vùng cao dạng địa hình bào mòn bồi tụ, cao độ từ 3-4m, tập trung ở
các phường Bình Trị Đông, Bình Hưng Hoà.
-Vùng 2: vùng thấp, dạng địa hình tích tụ bao gồm phường Tân Tạo và An
Lạc.
Địa mạo:
Vùng nghiên cứu nằm ở phía Tây của thành phố Hồ Chí Minh – thuộc đới địa
hình chuyển tiếp giữa vùng đồi núi nâng cao ở phía Bắc – Đông
Bắc và vùng đồng bằng tích tụ rộng lớn Tây Nam bộ – địa hình có dạng bậc
thềm và đồng bằng đầm lầy, sông-biển.
Địa hình đồng bằng thềm bậc II cao 3m – 3,5m phân bố ở phía Tây nội thành
là chủ yếu. Thềm được cấu tạo từ trầm tích sét, bột có nguồn gốc hỗn hợp
sông – biển tuổi Holocen sớm.
Địa hình tích tụ đồng bằng thềm bậc I phân bố rộng rãi ở Bình Chánh, đông
Hóc Môn, nam Củ Chi,…Độ cao trung bình là 1m. Cấu tạo nên thềm này là

các trầm tích hổn hợp sông – biển tuổi Holocen giữa muộn (QIV2-3).
Ngoài ra còn có các trũng lòng sông cổ trong khu vực.
3. Thổ nhưỡng:
Quận Bình Tân có 3 loại đất chính:
-Đất xám: nằm ở phía Bắc thuộc các phường Bình Hưng Hoà, Bình Trị Đông
khoảng 2516 ha, thành phần cơ học là đất pha, kết cấu rời rạc.
-Đất phù sa có diện tích khoảng 1491 ha thuộc các phường Tân Tạo và một
phần của phường Bình Trị Đông.
-Đất phèn có diện tích khoảng 1094 ha phân bố ở An Lạc và một phần phường
Tân Tạo.
Trang 6
III. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ NHÂN VĂN:
Đặc điểm đất đai:
Tổng diện tích tự nhiên quận Bình Tân là 5188.7 ha. Tình hình sử dụng đất
các ngành năm 2003 được phân theo mục dích sử dụng như sau:
-Đất nông nghiệp :1578.8 ha chiếm 30.3% đất tự nhiên.
-Đất chuyên dùng: 1752.7 ha, chiếm 33.8% đất tự nhiên.
-Đất ở: 1782.7 ha, chiếm 34.4% đất tự nhiên.
-Đất chưa sử dụng và sông suối: 81.4 ha, chiếm 1.6%, đất tự nhiên (trong đó
sông suối chiếm 99.1%).
Trong những năm qua xu thế đô thị hoá, phát triển đô thị trên phương diện sử
dụng quỷ đất các ngành diễn ra đặc biệt nhanh, có sự chuyển dịch mạnh cơ
cấu đất ở tăng nhanh, đất nông nghiệp giảm mạnh, giảm bình quân năm những
năm 2000-2003 là 434 ha. Cụ thể:
-Đất nông nghiệp năm 2000 là 2882.5 ha, chiếm 55.6% đất tự nhiên, năm
2003 giảm mạnh cò 1571.7 ha, chiếm 30.3% đất tự nhiên. Năm 2003 so với
năm 200-2003 là 434 ha, được sử dụng 56% cho đất ở, 34% cho phát triển
giao thông và 10% cho các mục đích khác.
Đất chuyên dùng năm 2000 tăng lên là 1162.1 ha chiếm gần 22.4% đất tự
nhiên. Năm 2003 tăng lên 1752.7 ha, chiếm khoảng 33.8% đất tự nhiên. Năm

2003 so với năm 2000 tăng 590.6 ha, tăng bình quân năm những năm 2000-
2003 là 196.8 ha được sử dụng 70% cho phát triển giao thông. Chính việc này
phát triển mạnh giao thông là nhân tố tiên quyết cho phát triển mặt kinh tế xã
hội và hình thành quân mới Bình Tân .
Đất ở năm 2000 là 1056.9 ha, chiếm 20.4% đất tự nhiên, năm 2003 tăng lên
1782.7 ha, chiếm 34.4% đất tự nhiên. Năm 2003 so với năm 2000 tăng 725.8
ha, tăng bình quân năm những năm 2000-20003 là 242 ha. Đất ở tăng lên đại
đa số là đất ở đô thị được xây dựng không đồng đều và một số dự án dân cư
Trang 7
tập trung. Điều này quan trọng là nhiều khu dân cư mới ở các phường Bình
Hưng Hoà, Bình Hưng Hoà B, Bình Trị Đông, Bình Trị Đông A, Tân Tạo,
Tân Tạo A không được xây dựng đồng bộ với hệ thống thoát nước, hệ thống
giao thông… gây ngập nước nhiều nơi đang là trở ngại cho việc phát triển đô
thị.
BẢNG 1: CƠ CẤU SỬ DỤNG ĐẤT
Loại đất
2000 2001 2003
2001
so với
2.000
2003
so với
2.001
Trị số

cấu
(%)
Trị số

cấu

(%)
Trị số

cấu
(%)
Diện tích
tự nhiên
5.188,7
100,
0
5.188,7 100,0 5.188,7 100,0
I-Đất nông
nghiệp
2.882,5 55,6 2.390,5 46,1 1.571,8 30,3 492,0 -818,7
1-Đất cây
hàng năm
2.317,7 1.852,0 1.125,8 -465,7 -726,2
1.1. Lúa-
lúa màu
2.256,2 1.807,2 1.096,2 -449,0 -711,0
1.2 Cây
hàng năm
61,5 44,8 29,7 -16,7 -15,1
Trang 8
2-Đất vườn
tạp
323,9 310,3 242,8 -13,6 -67,5
3- -Đất cây
lâu năm
44,0 40,6 68,7 -3,4 28,1

4- Đất cỏ
cho chăn
nuôi
2,4
5- Mặt
nước nuôi
trồng thuỷ
sản
196,8 187,5 132,08 -9,3 -55,4
II-Đất
chuyên
dùng
1.162,1 22,4 1.450,3 28,0 1.752,7 33,8 288,2 302,4
1- Đất xây
dựng
778,4 1.022,5 898,3 244,1 -124,2
2- Đất giao
thông
173,1 179,6 585,0 6,5 405,4
3- Đất thuỷ
lợi và mặt
nước CD
64.6 102.1 66.8 37.5 35.3
4- Đất di
tích lịch sử
văn hoá
3,1
5- Đất an
ninh quốc
phòng

1,8 18,5 11,9 16,7 6,6
6- Đất
nghĩa trang
93,1 93,1 81,8 0,0 -11,3
7- Đất 34,6 34,5 105,8 -0,1 71,3
Trang 9
chuyên
dùng khác
III Đất ở: 1.056,9 20,4 1.278,6 24,6 1.782,7 34,4 221,7 504,1
1- Đất đô
thị
192,1 552,4 1.782,7 360,3 1.230,3
2- Đất ở
nông thôn
864,8 726,2 0,0 138,6 726,2
IV-Đất
chưa sử
dụng:
87,2 1,7 69,3 1,3 81,4 1,6 -17,9 12,1
1- Đất bằng
chưa sử
dụng
3,1 3,1 0,8 0,0 2,3
2-Sông
suối
66,5 66,2 80,7 -0,3 14,5
( nguồn :phòng quản lí đô thị quận Bình Tân )
 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp:
Mấy năm gần đây quận Bình Tân có tốc độ đô thị hoá rất nhanh do sự ra đời
của các khu công nghiệp tập trung, các khu dân cư mới và các khu tái định cư

cho dân từ nội thành ra đã làm cho đất nông nghiêp giảm mạnh, nếu tính giai
đoạn từ năm 2001 đến năm 2003 đất nông nghiệp toàn quận giảm khoảng 820
ha, tương ứng tốc độ giảm là 18.9 %/năm, đất nông nghiệp từ chổ chiếm tỷ
trọng 46.1% tổng diện tích tự nhiên toàn quận năm 2001, đến năm 2003 đất
nông nghiệp còn 1572 ha, chiếm khoảng 3.3%. Việc giảm đất nông nghiệp để
ưu tiên cho phát triển các khu công nghiệp, các khu dân cư và các công trình
công cộng là điều tất yếu và hợp lí.
Nhìn chung trong mấy năm gần đây (giai đoạn từ 2001-2003) tất cả các loại
đất nông nghiệp đều giảm tương đối nhanh, trong đó đất thuộc nhóm trồng
Trang 10
hàng năm giảm với tốc độ nhanh nhất 22.0 %/năm, đất vườn tạp gỉam 11.5%,
đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản giảm 16.1% riêng cây lâu năm tăng 30%.
Tóm lại, sử dụng quỹ đất, biến động quỹ đất, xu hướng dịch chuyển quỹ đất
của quận thời gian qua khá mạnh thể hiện sự hình thành, phát triển một đô thị.
Tuy nhiên công tác quản lí nhà nước về xây dựng, quy hoạch không gian đô
thị còn bất cập trước yêu cầu phát triển.
Dân số:
Dân số quận Bình Tân năm 2003 là 265.411 người, trong đó nam chiếm
47,45%, nữ chiếm 52,55%. Do tác động của quá trình đô thị hoá, dân số quận
Bình Tân tăng rất nhanh trong thời gian qua, tốc độ tăng dân số bình quân năm
giai đoạn 1999 - 2003 là 16,17%.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên có xu hướng giảm dần qua các năm từ 1,51% năm
1999 xuống còn 1,3% năm 2003, tuy nhiên so với tỷ lệ tăng tự nhiên của
thành phố(1,27% năm 2002) thì tỷ lệ này vẫn còn cao, do đó công tác kế
hoạch hoá gia đình phải được quan tâm.
Tỷ lệ tăng cơ học thời gian qua luôn ở mức cao, năm 2001 là 19,84%, năm
2002 tăng 17,65% và đến năm 2003 tăng là 17,31%. phần lớn dân nhập cư là
do giản dân từ nội thành, số lao động từ các quận, huyện và các tỉnh khác đến
tìm kiếm việc làm. Dân nhập cư chủ yếu tập trung ở các phường có mức đô độ
thị hoá cao và các phường có xí nghiệp sản xuất. Vì vậy bên cạnh việc tích

cực là tăng thêm nguồn lao động, lực lượng dân nhập cư đang là một áp lực
lớn cho quận trong việc quản lí con người, giải quyết việc làm và tăng thêm sự
quá tải cho các công trình hạ tầng như giáo dục, y tế đồng thời cũng gây nên
nhiều hậu quả phức tạp về kinh tế và an ninh trật tự an toàn xã hội.
BẢNG 2: MỘT SỐ CHỈ TIÊU VỀ DÂN SỐ QUẬN BÌNH TÂN 1999-2003
Chỉ tiêu ĐVT 1999 2000 2001 2002 2003 TĐTBQ
1999-
Trang 11
2003
(%)
1. Quy
mô dân số
Ngườ
i
145.74
6
155.22
0
188.05
3
223.76
7
265.41
1
16,17
- Nam “ 71.109 75.406 91.262
108.57
1
125.94
9

15,36
- Nữ “ 74.637 79.814 96.791
115.19
6
139.46
2
16,92
2. Tỉ lệ
tăng dân
số
% 6,51 6,50 21,15 18,99 18,61
- Tăng tự
nhiên
% 1,51 1,50 1,31 1,34 1,30
- Tăng cơ
học
% 5,00 5,00 19,84 17,65 17,31
3. Mật độ
dân cư
Ngườ
i/km2
2.809 2.992 3.624 4.313 5.115
- Mật độ
cao nhất
“ 6.375 6.789 6.700 6.915 16.680
- Mật độ
thấp nhất
“ 1.278 1.361 1.682 2.016 1.592
( nguồn: Niên giám thống kê huyện Bình Chánh cũ. Phòng thống kê quận
Bình Tân )

Mật độ dân cư quận Bình Tân năm 2003 là 5.115 người/km2, nơi có mật độ
dân đông nhất là phường An Lạc A 16.680 người/km2 và thấp nhất là phường
Tân Tạo A 1.592 người/km2. Dân cư phân bố không đều, chủ yếu tập trung
vào các phường có tốc độ đô thị hoá mạnh như An Lạc A, Bình Hưng Hoà,
Bình Trị Đông.
Trang 12
Mặc dù có tỷ lệ tăng dân số cao nhưng mật độ dân cư bình quân của quận
Bình Tân đến năm 2003 vẫn còn ở mức thấp so với mật độ bình quân của các
quận trong thành phố (10.076 người/km2). Điều này cho thấy khả năng thu
hút dân cư của quận Bình Tân rất lớn cũng như có điều kiện thuận lợi trong
việc bố trí khu dân cư mới, các khu cụm công nghiệp, các khu thương mại-
dịch vụ và phát triển cơ sở hạ tầng.
BẢNG 3: DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN, DÂN SỐ, MẬT ĐỘ DÂN SỐ NĂM 2003
STT Tên phường
Diện tích tự
nhiên (km2)
Dân số
(người)
Mật
độ(người/km2)
Tổng số 51,8867 265.411 5.115
1 An Lạc 4,59 20.774 4.526
2 An Lạc A 1,4065 23.461 16.680
3 Bình Trị Đông 3,462 41.677 12,38
4 Bình Trị Đông A 3,9505 22.173 5.613
5 Bình Trị Đông B 4,6241 18.390 3.977
6 Bình Hưng Hoà 4,7023 24.436 5.197
7 Bình Hưng Hoà A 4,2449 49.157 11.580
8 Bình Hưng Hoà B 7,5247 19.955 2.622
9 Tân Tạo 5,6617 26.955 4.761

10 Tân Tạo A 1,172 18.661 1.592
( nguồn: phong thống kê quận Bình Tân )
Trên địa bàn quận Bình Tân có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, trong đó
chủ yếu là dân tộc Kinh chiếm 91.27% so với tổng dân số, dân tộc Hoa chiếm
8,45% còn lại là các dân Tộc Khơme, Chăm, Tày, Thái, Mường, người nước
ngoài.
Tôn giáo có Phật Giáo, Công Giáo, Tinh Lành, Cao Đài, Hoà Hảo, Hồi
Giáo…trong đó Phật Giáo, Công Giáo chiếm 27,26% trong tổng số dân cư
theo đạo.
Hoạt động kinh tế:
Tăng trưởng và cơ cấu:
Trang 13
Tổng giá trị sản xuất (GTSX) các ngành kinh tế trên địa bàn quận năm 2003
đạt 6034.6 tỷ đồng so với năm 2002 tăng 39.2%. Tính chung giai đoan 2001-
2003, GTSX trên địa bàn quận Bình Tân tăng so với tốc độ bình quân là
49.4% năm. Đây là một tăng trưởng rất cao so với các quận, huyện khác trên
địa bàn thành phố .
BẢNG 4: TỔNG GIÁ TRỊ SẢN XUẤT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN
(giá so sánh 1994)
Chủ tiêu 2001 2002 2003
Tốc độ tăng
bình quân
2001-
2003(%)
Tổng GTSX trên địa bàn 2.702,1 436,2 6.034,6 49,4
I. Phân theo khu vực
1. Nông nghiệp, thuỷ sản 38,1 36,2 35,7 -3,2
2. Công nghiệp- xây dựng 2.474 4.020 5.578,9 50,2
3. Thương mại- dịch vụ 190 280 420 48,7
II. Phân theo thành phần kinh tế

1. Kinh tế nhà nước 179,3 241,8 330,8 35,8
2. Kinh tế tư nhân 942,8 1.354,4 2.083 48,6
3. Có vốn đầu tư nước ngoài 1.580 2.740 3.621 51,4
(nguồn: tính toán từ niên giám thống kê huyện Bình Chánh cũ và số liệu các
ngành )
Sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp:
BẢNG 5: GÍA TRỊ SẢN XUẤT CN-TTCN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH
TÂN
( giá cố định 1994)
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Bình quân
GĐ 2001-
2003(%)
I. Giá trị
Trang 14
Tổng số
(triệu đồng)
2.131.378 3.438.020 4.560.452
Chia theo cấp quản lí
1. Nhà nước 70.000 90.000 133.110
2.Ngoài nhà nước 549.378 716.020 966.552
3.Có vốn đầu tư nước
ngoài
1.512.000 2.632.000 3.460.800
Chia theo thành phần kinh tế
1.Doanh nghiệp nhà
nước
70.000 90.000 133.110
2.Công ty cổ phần 879 32.006 35.548
3.Công ty trách nhiệm
hữu hạn

301.609 360.588 498.548
4.Doanh nghiệp tư
nhân
45.653 49.477 71.235
5.Hộ cá thể 201.237 273.949 361.200
6.Có vốn đầu tư nước
ngoài
1.512.000 2.632.000 3.460.800
II.Tốc độ tăng
Tổng số (%) 61,31 32,65 46,28
Chia theo cấp quản lí
1.Nhà nước 28,57 47,90 37,90
2.Ngoài nhà nước 30,33 34,99 32,64
3.Có vốn đầu tư nước
ngoài
74,07 31,49 51,29
Chia theo thành phần kinh tế
1.Doanh nghiệp nhà
nước
28,57 47,90 37,90
2.Công ty cổ phần 3.541,18 11,13 536,12
3.Công ty trách nhiệm
hữu hạn
19,55 38,26 28,57
4.Doanh nghiệp tư
nhân
8,38 43,98 24,91
Trang 15
5.Hộ cá thể 36,13 31,85 33,97
6.Có vốn đầu tư nước

ngoài
74,07 31,49 51,29
Khu công nghiệp do thành phố quản lí:
Khu công nghiệp Tân Tạo.
Khu công nghiệp Vĩnh Lộc ( phường Bình Hưng Hoà) và xã Vĩnh Lộc A-
Huyện Bình Chánh.
Cụm công nghiệp do quận quản lí:
Cụm công nghiệp DNTN Thiên Tuế:D6/29 tỉnh lộ 10. Phường Tân Tạo.
Cụm công nghiệp công ty TNHH Hợp Thành Hưng: 158A An Dương Vương-
An Lạc.
Cụm công nghiệp công ty TNHH Việt Tài:152 Hồ Ngọc Lãm- An Lạc.
Cụm công nghiệp công ty TNHH Hai Thành: E4/48 ấp 5 Bình Trị Đông.
Thương mại- dịch vụ:
Cơ sở kinh doanh, thương mại- dịch vụ:
Hiện nay trên địa bàn quận có 6 chợ ổn định, trong đó có 2 chợ mới vừa được
xây dựng tại phường Bình Hưng Hoà số chợ và nhóm tự phát là 15, trong đó
quan trọng là chợ đầu mối An Lạc.
Trung tâm thương mại Kiến Đức thuộc phường Bình Trị Đông.
Siêu thị Cora.
Hiện trạng các chợ, siêu thị và các trung tâm thương mại:
Sản xuất nông nghiệp thuỷ sản(NNTS):
Diện tích nông nghiệp giảm mạnh do tác động của đô thị hoá và phát triển các
công trình hạ tầng, nên giá trị sản xuất ngành NNTS có xu hướng giảm dần
hằng năm. Nếu xét giai đoạn 2001-2003 cho thấy GTSX ngành NNTS năm
2001 đạt 38133 triệu đồng (giá cố định 1994) đến năm 2003 còn 35133 triệu
đồng. Như vậy so với năm 2001, giảm 2418 triệu đồng tương ứng tốc độ giảm
Trang 16
bình quân giai đoạn 2001-2003 là 3.2 %/năm. Trong đó GTSX ngành nông
nghiệp tốc độ bình quân là 3.3%/năm. Riêng ngành thuỷ sản tăng 1.7%. Nếu
xét nội bộ ngành nông nghiệp thì GTSX ngành chăn nuôi tăng với tốc độ bình

quân là 3.0 %/năm, trong khi đó ngành trồng trọt giảm đến 17.9 %/năm.
Giao thông vận tải:
Trên địa bàn quận Bình Tân có một hệ thống giao thông thuỷ và bộ khá thuận
tiện, nhiều trục lộ chính nối liền giữa quận Bình Tân nói riêng và thành phố
Hồ Chí Minh nói chung với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Mạng lưới
giao thông quốc gia- nội quận có các trục chính sau:
Quốc lộ 1A theo hướng Bắc- Nam.
Tỉnh lộ 10 theo hướng Đông- Tây.
Ngoài ra quận Bình Tân còn có những đường liên khu vực, khu vưc và đường
nội bộ.
Đường bộ:
Tổng số tuyến đường trên địa bàn quận Bình Tân là 228 tuyến đường, tổng
chiều dài 177,121 km và tổng số hẻm là 186 hẻm, tổng chiều dài là 40,950
km.
Mật độ mạng lưới đường bộ quận Bình Tân là 3.14 km/km2.
Nhìn chung: mạng lưới giao thông trên địa bàn quận Bình Tân còn yếu. Phần
lớn các tuyến đường đang xuống cấp, nhất là vào mùa mưa, tình trạng ngập
nước trên đường giao thông xảy ra thường xuyên. Đường quốc lộ 1A ngang
qua khu công nghiệp Tân Tạo Và Pou-Chen là một ví dụ, hầu hết quãng
đường này đều có những “ổ gà” rất lớn, gây trở ngại không chỉ cho người dân
tham gia giao thông trên đường mà còn ảnh hưởng đến công việc kinh doanh
của các doanh nghiệp trên địa bàn. Tỉnh lộ 10, đường Tên lửa, Hương lộ 2…
cũng có tình trạng tương tự.
Trang 17
Những đường giao thông do quận và phường quản lí cũng đang xuống cấp
nhất là đường hẻm trong khu dân cư hiện hữu. Phần lớn các đường hẻm này
có chiều rộng hẹp và cũng thường xuyên bị ngập nước vào mùa mưa. Việc
xây dựng tràn lan không theo quy hoạch đã ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng
mạng lưới giao thông đường bộ trên địa bàn quận. Ngay trên phường An Lạc
chỉ có 22.4% các đường hẻm do quận và phường quản lí được đánh giá là tốt,

còn lại là 77.6% có chất lượng rất xấu, đang xuống cấp và cần phải sửa chữa.
Đường sông, cầu:
Mạng lưới sông rạch quận Bình Tân không nhiều. Các ao hồ tập trung nhiều ở
phường Bình Trị Đông, còn sông, kênh rạch ở phường Tân Tạo: như rạch
Nước Lên, rạch Phượng, sông Chùa, sông Dập… mạng lưới đường thuỷ trên
toàn quận khoảng gần 15 km, diện tích sông rạch trên địa bàn là 0.66 km2,
chiếm khoảng 1,28% tổng diện tích sử dụng của quận.
Trên địa bàn quận Bình Tân hiện có tất cả 31 cầu các loại được phân bố chủ
yếu trên các phường An Lạc, Tân Tạo và Bình Hưng Hoà. Trong 31 cầu có 17
cầu do trung ương và thành phố quản lí. Quận quản lí 12 cầu và 2 cầu khác do
phường quản lí. Chiều rộng các cầu còn hạn chế. Phần lớn số cầu có chiều
rộng nhỏ hơn chiều rộng đường nên lưu lượng lưu thông xe không cao.
Phương tiện vận tải:
Theo báo cáo trên địa bàn quận Bình Tân năm 2003 có 53 xe ôtô chở khách từ
15 ghế trở lên, 25 xe ôtô chở khách từ 15 chổ trở xuống, 725 ôtô tải các loại từ
1 tấn trở lên và ôtô chuyên dùng.
Cấp thoát nước:
Hầu hết trên địa bàn quận Bình Tân đều sử dụng nước giếng khoan để phục vụ
sinh hoạt và sản xuất, riêng các khu công nghiệp Tân Tạo, Pouchen có hệ
thống xử lí nước riêng để phục vụ sản xuất, một phần quận giáp với Quận 6 và
Quận 8 có một số dân cư sử dụng nước do sông Sài Gòn- Đồng Nai cung cấp.
Trang 18
Theo quy hoạch tổng thể hệ thống thoát nước bẩn thành phố Hồ Chí Minh do
JICA thực hiện vào tháng 3 năm 2000 và đã được thủ tướng chính phủ phê
duyệt vào tháng 6 năm 2001, huyện Bình Chánh nằm trong khu vực xây dựng
mới và sử dụng hệ thống thoát nước bẩn riêng để thu gom và xử lí nước thải
theo hệ thống thoát nước mưa hoặc thoát ra kênh rạch gần nhất. Hiện nay,
phát triển dưới dạng một quận mới, quận Bình Tân có mật độ dân số cao hơn
do đó theo định hướng lâu dài sẽ được xử lí tập trung.


CHƯƠNG III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT ĐỊA CHẤT THUỶ
VĂN
I . LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT:
1. Trước năm 1975:
Năm 1883, Pháp thành lập sở địa chất Đông Dương nhưng đến năm 1895-
1960 Pháp bắt đầu nghiên cứu đồng bằng sông Cửu Long (với hai tác giả lỗi
lạc là J.Fromaget và E. Saurin) và cho ra đời một số mặt cắt dọc sông Đà,
sông Mã, sông Mêkông… đồng thời cho ra đời bộ bản đồ địa chất Đông
Dương tỷ lệ 1:1.000.000 và 1:500.000 và được ấn hành năm 1950.
Năm 1960, bắt đầu có sự đóng góp của các nhà địa chất Việt Nam.
Năm 1962, E.Saurin và Tạ Trần Tấn đã lập cột địa tầng vùng Châu Thới –
Biên Hòa – Sài Gòn.
Năm 1965, Nguyễn Văn Vân đã nghiên cứu và cho ra đời bài “Thềm phù sa
Sài Gòn – Chợ Lớn”.
Trang 19
Năm 1966, Trần Kim Thạch phát họa nét kiến tạo ở vùng hạ lưu sông Đồng
Nai và Lê Quang Tiếp xác định nét cơ bản địa tầng kiến tạo và mô tả trầm
tích, kiến trúc của trầm tích hạ lưu sông Đồng Nai.
Năm 1971, H.Fontane và Hoàng Thị Thân vẽ tờ bản đồ Sài Gòn – Thủ Đức -
Biên Hòa – Phú Cường – Nhà Bè, tỷ lệ 1:25.000 kèm theo thuyết minh.
Năm 1974, H.Fontane phát họa sơ lược về đứt gãy và lịch sử phát triển địa
chất vùng Biên Hòa.
2. Sau năm 1975:
Năm 1975, Trần Kim Thạch cho sản xuất bản đồ địa chất Miền Nam tỷ lệ
1:2.000.000 nhưng chưa chi tiết và hệ thống. Cùng năm này Hồ Chín, Võ
Đình Ngộ với báo cáo “ Những kết quả nghiên cứu mới về địa chất kỉ thứ tư
của đồng bằng sông Cửu Long”.
Năm 1977, Trần Kim Thạch hoàn thành tờ bản đồ địa chất kỉ thứ tư của đồng
bằng sông Cửu Long tỉ lệ 1:250.000. Nguyễn Hữu Phước “Trầm tích phù sa ở
vùng hạ lưu sông Đồng Nai”, Phạm Hùng “ Các trầm tích trẻ đồng bằng Tây

Nam Bộ”, Lê Đức An “Kiến tạo và địa mạo Miền Nam”.
Năm 1982-1983, Trần Đức Lương, Nguyễn Xuân Bao với công trìng địa chất
khoáng sản Việt Nam đã nêu lên những nét khái quát về địa tầng, cấu trúc, địa
mạo thành phố.
Năm 1983 -1985, Hà Quang Hải, Ma Công Cọ với công trình bản đồ địa chất
thành phố và khoáng sản tỷ lệ 1:50.000.
Năm 1985 – 1990, Đoàn Văn Tín và Liên đoàn địa chất thành phố Hồ Chí
Minh đã lập báo cáo thành lập tờ bản đồ địa chất công trình, Địa chất thủy văn
thành phố tỷ lệ 1:50.000.
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT THỦY VĂN:
1. Trước năm 1975:
Trang 20
Năm 1936 Brenil và Molleret cho xuất bản “Lịch sử cấp nước thành phố Sài
Gòn”. Cùng thời gian này có các tác giả Richard, Viclard, Godon, Brashears
với những bài viết : “Tiềm năng cung cấp nước Sài Gòn – Chợ Lớn”, “Vấn đề
nước uống, sự kiểm tra các hệ thống phân phối của nước mưa Sài Gòn”.
Năm 1969 – 1975 Nguyễn Đình Viễn, Trịnh Thanh Phúc đã phát hiện nước
ngọt vùng rừng sác –duyên hải.
Năm 1970, J.A.Burgh, Đào Duy, Rassan viết về kết quả khảo sát và bơm hút
nước thí nghiệm tại trung tâm huấn luyện Quang Trung – Gò Vấp.
Năm 1970 -1973 cuộc khảo sát nước ngầm ở Hóc Môn để cung cấp nước cho
toàn thành phố Sài Gòn, do công ty của Nhật tiến hành dưới sự hướng dẫn của
tiến sĩ Hyromn Tana.
2 Sau năm 1975:
Tiến hành triển khai kế hoạch điều tra thăm dò nguồn nước dưới đất để khai
thác và sử dụng hợp lý.
Năm 1979 Võ Ngọc Tùng gợi năm vỉa nước ngọt trong thành phố( vỉa 20m,
50m, 90m, 120m) đã được khai thác.
Năm 1983 Trần Hồng Phú, Đoàn Văn Tín và các chuyên gia Liên Xô đã lập
bản đồ địa chất thủy văn toàn quốc tỷ lệ 1:500.000.

Năm 1982 Nguyễn Hoàng Bỉnh và Lê Văn Tốt (Sở thủy lợi) đã báo cáo về đặc
điểm nguồn nước ngầm khu vực thành phố Hồ Chí Minh, Trần Kim Thạch,
Võ Ngọc Tùng và Đoàn 500N tham gia nghiên cứu, đánh giá trữ lượng, chất
lượng, nguồn cung cấp, hướng vận động và sự phân bố nước ngầm thành phố
Hồ Chí Minh.
Trang 21
Chương IV. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT
Khu vực Quận Bình Tân (Thành Phố Hồ Chí Minh) nằm ở phạm vi chuyển
tiếp giữa đới hoạt hoá Mezozoi (MZ) Đà Lạt ở phía Bắc và đới sụt võng
Kainozoi (KZ) Nam Bộ.
Tuy nhiên, vùng nghiên cứu chủ yếu nằm ở đới sụt võng Kainozoi nên cấu
trúc Kainozoi được thể hiện rõ hơn, các cấu trúc Mezozoi chỉ được phát hiện ở
một số công trình khoan đơn lẻ. Lịch sử nghiên cứu và cấu trúc địa chất khu
vực đã được thể hiện ở báo cáo Bản đồ Địa chất thành phố Hồ Chí Minh tỉ lệ
1/50.000 (Ma Công Cọ - 1987) và Báo cáo lập bản đồ địa chất thuỷ văn –
công trình vùng thành phố Hồ Chí Minh tỉ lệ 1/50.000 (Đoàn Văn Tín –
1988).
I. ĐỊA TẦNG KHU VỰC
1.Giới Kainozoi (KZ):
1.1 Hệ Neogen (N):
Trầm tích Neogen lộ ra rất ít ở ấp Hàm Luông (Thủ Đức) còn hầu như
chỉ gặp trong một số lỗ khoan.
a) Thống Miocene - bậc trên. Hệ tầng Bình Trưng (N13bt)
Các thành tạo của hệ tầng này gặp tại lõi khoan 820, phường Bình Trưng,
Quận 02. Mặt cắt lõi khoan từ dưới lên có thể chia thành ba tập như sau:
Tập 1: cát, sạn sỏi chứa các mảnh dăm gắn kết yếu bởi bột sét màu lục, phủ
bất chỉnh hợp lên đá andesitobasalt của hệ tầng Long Bình, dày 3,3 mét; phía
trên là sét bột kết có màu nâu, dày 0,5 mét.
Tập 2: cát bột kết màu xám, dày 7,6 mét.
Tập 3: sét bột kết màu xám, phân lớp mỏng (phân lớp từ 0,5 đến 4,0 cm) dày 8

mét, trên mặt lớp có thực vật hóa than màu đen, bị các trầm tích Pliocene
Trang 22
thượng hệ tầng Bà Miêu phủ bất chỉnh hợp bên trên. Tập này có chứa hóa
thạch bào tử phấn hoa vơí các dạng đặc trưng như: Microlepia sp., Schizea sp.,
Anemia sp., Ginkgo sp., Plicea sp., Tsuga sp., Quercus sp., Castanopsis sp.,
Alaria sp., Fragus sp., Alnus sp., Juglans sp., được Nguyễn Đức Tùng xếp vào
tuổi Miocene muộn.
b) Thống Pliocen – bậc dưới. Hệ tầng Nhà Bè (N21nb):
Chỉ xuất lộ ra một phần diện tích quận 9, phần đông bắc quận Thủ Đức, nhưng
gặp hệ tầng trong hầu hết các lỗ khoan sâu trên diện tích của Thành phố.
Khu vực nghiên cứu gặp hệ tầng này ở độ sâu từ 133,5m đến 320m (LK.808)
và từ 211,9m đến 330m (LK.812). Tại lõi khoan 812, từ dưới lên có các tập :
Tập 1: Cát sạn sỏi, cát pha bột sét chứa sạn, cát pha bột sét xen kẹp ít lớp
mỏng sét bột màu xám, cuội sỏi xen các lớp sét cát màu xám lục chứa bào tử,
phấn hoa và tảo nước mặn. Bề dày khoảng 26-50m, phủ bất chỉnh hợp lên cát
kết màu đỏ của hệ tầng Long Bình. Dựa vào cấp hạt, đường kính trung bình,
các thông số độ hạt khác cho thấy trầm tích có độ chọn lọc trung bình, lệch về
phía cấp hạt nhỏ. Phần bên dưới cát sạn sỏi chiếm chủ yếu, phần trên trầm tích
mịn hơn. Các trầm tích thuộc cụm tướng tiền châu thổ lắng đọng trong chế độ
thủy động lực trung bình nhưng thay đổi nhanh, dạng đồ thị đường cong hạt
có 1-3 đỉnh.
Tập 2: Bột sét pha cát màu xám loang lổ nhẹ, sét bột cấu tạo khối chứa thân
cây hóa than màu xám tro, phớt tím, chứa bào tử phấn hoa và tảo nước mặn,
dày khoảng 9 mét (LK812).
Tập 3: Cát, cát chứa sạn-sỏi màu xám xanh, xen ít lớp mỏng bột sét pha cát
chứa di tích thực vật hóa than, bào tử phấn hoa, tảo nước mặn, trùng lỗ, dày
khoảng 80 - 90m. Thành phần cấp hạt: cát sạn sỏi chiếm 60 - 68%, bột 6
-16%, sét 25 - 31%; các thông số độ hạt khác cho thấy trầm tích có độ chọn
lọc kém, phân bố lệch về phía cấp hạt lớn. Trầm tích thuộc cụm tướng tiền
Trang 23

châu thổ, có chế độ thủy động lực trung bình, biến động phức tạp, đồ thị
đường cong phân bố hạt có 2-3 đỉnh.
Tập 4: Bột sét pha cát màu xanh, sét bột phân lớp mỏng màu vàng nghệ, loang
lổ nâu đỏ, bề dày khoảng 2,6 - 7m. Thành phần cấp hạt cát sạn =20%,
bột=47%, sét =33%. Các thông số độ hạt khác cho thấy trầm tích chọn lọc
kém, phân bố lệch về phía hạt nhỏ, có chế độ thủy động lực kém nhưng xáo
động, đồ thị đường cong phân bố hạt có 4 đỉnh. Tập này bị hệ tầng Bà Miêu
tuổi Pliocen muộn phủ bất chỉnh hợp lên.
Bào tử phấn hoa thu thập được bao gồm các dạng như Polypodiacae gen. sp.,
Rhus sp., Phorbiaceae gen. sp., Betula sp., Cystopteris sp., Quercus sp.,
Ginkgo sp., Lygodium sp., Palmae gen. sp., Podocarpus sp. được Nguyễn Đức
Tùng xác định có tuổi Pliocen sớm. Tảo nước mặn gồm có các giống loài như
Cyclotella striata, Paralia sulcata, Schuettia annulata, Coscinodiscus sp.,
Thalassiosira sp., Thalassionema nitzschioides, Nitzschia cocconeiformis,
Coscinodiscus lineatus, Actinocyclus ohrenbergii, Hantzschia amphioxys
Được Đào Thị Miên xác định tuổi Pliocen. Tập 3 chứa các bào tử phấn hoa
như Picea, Pinus, Florschuetzia meridionalis cho tuổi Pliocen (Nguyễn Đức
Tùng); di tích trùng lỗ gồm các giống loài như Lagena aff. laevis,
Asterorotalia pulchella.
Theo hướng Đông Bắc-Tây Nam (từ Thủ Đức đến Bình Chánh), bề mặt nóc
của tầng Pliocene hạ chìm dần với dạng bậc thang từ độ sâu 80-86 mét ở khu
vực Bình Thạnh, Quận 9, 136-144 m ở khu vực nội thành, 140-142 mét ở khu
vực Bình Chánh, với chiều dày của loạt trầm tích này cũng thay đổi một cách
tương ứng là 43-68 mét, 100-128 mét và 118-180 mét. Trầm tích chuyển dần
từ cụm tướng đồng bằng tam giác châu sang cụm tướng tiền tam giác châu và
biển nông, tương ứng với kỳ biển tiến thời này.
c) Thống Pliocen – bậc trên. Hệ tầng Bà Miêu (N22bm):
Trang 24
Phân bố rộng rãi ở các khu vực miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Khu vực
Thành phố Hồ Chí Minh, hệ tầng thường bắt đầu bằng các trầm tích hạt thô

cát sạn pha bột, và kết thúc bằng các trầm tích hạt mịn sét bột phân lớp.
Trong vùng nghiên cứu hệ tầng này gặp ở độ sâu từ 74,5m đến 133,5m
(LK.808) và từ 129 m đến 211,9 m (LK.812) được chia làm hai tập:
Tập dưới: Cát pha bột chứa sạn sỏi màu xám vàng, nâu vàng dạng bở rời , dày
khoảng 35-40m.
Tập trên: Sét bột màu trắng xám bị phong hoá loang lổ nâu vàng, nâu đỏ, dày
khoảng 20-25m. Hệ tầng bị các trầm tích Pleistocen phủ bên trên.
Theo hướng Theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, bề mặt nóc của hệ tầng chìm
sâu dần từ một vài mét ở khu vực tây bắc Củ Chi, 20-45 mét ở khu vực Hóc
Môn và khu vực nội thành, 34 đến 84 mét ở khu vực Cần Giờ. Sự biến đổi
theo hướng này kém rõ.
Theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, do ảnh hưởng của đứt gãy kiến tạo
phương Tây Bắc – Đông Nam, độ sâu bề mặt nóc, chiều dày và tướng trầm
tích thay đổi nhanh hơn. Bề mặt nóc của tầng có độ cao từ 27 mét ở Thủ Đức,
đến sâu 25 mét và 37 mét ở Bình Thạnh – Tân Bình và sâu 72,5 mét ở Bình
Chánh. Tướng trầm tích chuyển từ cụm tướng đồng bằng tam giác châu sang
tiền tam giác châu. Cụm tướng đồng bằng tam giác châu (dày 40 đến 70 mét)
ở Thủ Đức, Bình Trưng (quận 2) chuyển qua cụm tướng tiền tam giác châu có
chiều dày thay đổi từ 90 đến 120 mét (khu vực nội thành) và 100 đến 136 mét
ở khu vực Tây Nam Bình Chánh.
Về thành phần khoáng vật cũng cho thấy hoạt động biển tiến. Phần bên dưới
gặp các khoáng vật tích tụ trong vùng đồng bằng tam giác châu như: mảnh đá,
ilmenit, turmalin, andalusit, zircon; tập trên có các khoáng vật hình thành
trong điều kiện tiền tam giác châu hay biển nông như: siderit, nhóm carbonat.
1.2. Hệ Đệ Tứ (Q):
Trang 25

×