Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

đội ngũ trí thức việt nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.02 KB, 37 trang )

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đợc coi
là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa của nhân dân ta. Đại hội đã đề ra đờng lối đổi mới toàn diện,
mở ra bớc ngoặt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để đa nớc ta trở thành một nớc tiên tiến nhanh chóng, hoà nhập
vào dòng tiến hoá chung của nhân loại, chúng ta chỉ có một con đờng
là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Đảng ra cũng xác định
rằng để thực hiện đợc những mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, không
chỉ bằng nhiệt tình và lòng dũng cảm nh trớc đây mà cần phải phát
huy hoạt động trí tuệ và tài năng sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân.
Đội ngũ trí thức là đại biểu tập trung cho trí tuệ dân tộc. Trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nớc ta thì trí thức tham gia
trực tiếp và chủ yếu vào nâng cao dân trí, là bộ phận nguồn lực khoa
học kỹ thuật, trí thức góp phần lớn lao vào việc phát triển lực lợng
sản xuất.
Đảng và Nhà nớc ta đánh giá cao vai trò của đội ngũ Trí thức
trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nớc. Tuy nhiên
không phải mọi cấp, mọi ngời dân hay một bộ phận không nhỏ trí
thức cha nhận thức đợc đầy đủ và sâu sắc vai trò của đội ngũ trí thức
trong công cuộc đổi mới đất nớc hiện nay. Đây là một thực trạng đã
và đang tồn tại ở nớc ta.
Vì vậy để làm rõ hơn vai trò của đội ngũ trí thức là một nhân tố
cơ bản trong việc thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đất nớc, em xin chọn đề tài Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nớc. Làm đề tài khoá
luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Tầm quan trọng của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nớc đã thu hút sự quan tâm của các


nhà khoa học, lý luận, các học giả ở nớc ta.
Đã có những bài viết, luận án đáng lu ý nh sau:
- Đỗ Mời - Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi với và xây
dựng đất nớc. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
- Phạm Tất Dong: Trí thức Việt Nam tiến và triển vọng, Nxb
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1995.
- Phan Thanh Khôi: Động lực trí thức trong lao động sáng tạo ở
nớc ta hiện nay - Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1992.
- Nguyễn Thanh Tuấn: Đặc điểm và vai trò của đội ngũ trí thức
trong sự nghiệp đổi mới đất nớc, Luận án PTS triết học, Hà Nội,
1995.
- Ngô Đình Xây: Những yêu cầu đối với trí thức trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Tạp chí Cộng sản số 27-2002.
- Phan TờtDong: Xu thế phát triển của đội ngũ trí thức, Tạp chí
Triết học số 10-1998
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
+ Mục đích: Sáng tỏ thêm vấn đề đội ngũ trí thức là một nhân
tó cơ bản trong thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đất nớc, Đa ra một số phơng hớng giải pháp đế trí thc Việt Nam thực
hiện tốt vai trò của mình.
+ Nhiệm vụ:
-Làm rõ khái niệm trí thức.
-Khái quát đặc điểm và xu hớng biến đổi của trí thức Việt Nam.
-Làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nớc.
+ Khái quát những vấn đề cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại
hóa đất nớc.
+ Đa ra một số giải pháp để đội ngũ trí thức nớc ta thực hiện tốt
vai trò của mình.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu:

+ Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí Minh.
+ Luận văn đã sử dụng tham khảo hoá giữa nghiên cứu củ một
số sách, báo, bài viết, luận án về vấn đề trí thức.
+ Phơng pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là: phân tích
tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, đi từ trừu tợng đến cụ thể.
5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
- Góp phần nhỏ vào nghiên cứu trí thức, vai trò của đội ngũ trí
thức Việt Nam.
- ý nghĩa thực tiễn, từ những điểm rút ra trong luận văn, có thể
góp phần nhận thức một cách rõ nét hơn vai trò của đội ngũ trí
thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nớc.
6. Kết cấu:
Luận văn gồm: Phần mở đầu, phần kết luận, nội dung chính
gồm: 2 chơng và 5 tiết.
Bản luận văn đợc hoàn thành dới sự hớng dẫn chỉ bảo nhiệt tình
của cô giáo Thạc sĩ Ngô Thị Phợng, cũng nh sự giúp đỡ của bạn bè
trong lớp, K47A và các thầy cô giáo trong khoa Triết học.
Qua bản luận văn này cho tôi gửi lời cảm ơn đến giáo viên hớng
dẫn, các bạn bè và thầy cô giúp đỡ tôi thực hiện thành công bản luận
văn này.
Bản luận văn này đợc hoàn thành xong chắc chắn không tránh
khỏi những sai sót, tôi xin chân thành tiếp thu những ý kiến đóng góp
của bạn bè, thầy cô.
II. Công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở vn và những
yêu cầu đặt ra trớc đội ngũ trí thức.
2.1. Một số vấn đề về công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt
Nam.
Ngày 30-7-1994, Hội nghị lần thứ bảy của Ban chấp hành
Trung ơng Đảng chính sách Việt Nam (khoá VII) đã ra Nghị quyết số

07/NQ-HNTW về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000
theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nớc và xây dựng giai cấp
công nhân trong giai đoạn mới, trong đó đã khẳng định: Mục tiêu
lâu dài cảu công nghiệp hoá, hiện đại hóa là cải biến nớc ta thành một
nớc công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trìnhđộ phát triển của
sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an
ninh vững chắc, dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh
1
.
Hệ thống quan điểm chỉđạo việc triển khai công nghiệp hoá,
hiện đại hóa đất nớc đợc xác định nh sau:
-Công nghiệp hoá, hiện đại hóa phải theo định hớng xã hội chủ
nghĩa;
-Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là sự nghiệp củatoàn dân, củ
mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nớc là chủ đạo, đợc vận
hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc.
1
ĐảNg Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành
Trung ơng (khoá VII), Hà Nội, 1994, tr.70.
-Khoa học, công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện
đại hóa. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại,
tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
-Nguồn lực con ngời là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nớc. Tăng cờng
kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa giáo
dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trờng.
Để đạt đợc mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hóa.Hội nghị
Trung ơng 7 (khoá VII) coi giải pháp về nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn cao là căn bản. Giải pháp đó gồm các công việc sau:

a. Gấp rút đào tạo cán bộ đầu đàn, các tổng công trình s cho các
ngành công nghệ then chốt;
b. Mở rộng việc cử chuyên gia ra nớc ngoài nghiên cứu, khảo
sát, trao đổi khoa học, đồng thời cho mở một số trờng đại học hoặc
viện nghiên cứu công nghệ quốc tế hay khu vực ở Việt Nam;
c. Có chính sách thu hút cán bộ khoa học - công nghệ đến làm
việc trự tiếp ở các doanh nghiệp và các địa phơng.
d. Mau chóng trẻ hoá cán bộ ở các cơ sở nghiên cứu - triển
khai.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ơng
Đảng (khoá VII) đã xác định rõ: Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất,
khẳng định, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phơng tiện và phơng pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên
sự phát triển cảu công nghiệp và tiến bộ của khoa học - công nghệ,
tạo ra năng suất lao động xã hội cao
2
.
Trong toàn bộ sự nghiệp công nghiệp hoá, khái niệm trung tâm
là công nghệ mới. Do vậy, bàn đến công nghiệp hoá, trớc hết, ngời ta
hiểu rằng, công nghiệp hoá là quá trình trang bị hoặc trang bị lại
công nghệ mới cho các ngành sản xuất trong nớc, đặc biệt là đối với
các ngành then chốt. Yêu cầu làm chủ công nghệ mới, nhất là công
nghệ cao, là hết sức bức thiết. Việc nhập công nghệ mới, làm chủ nó
là biến công nghệ mới thành cảu mình đòi hỏi cần đến trình độ trí
tuuệ cao của ngời lao động. Do vậy, lực lợng đi đầu trong việc tiếp
cận với công nghệ mới nắm chắc nó, sử dụng nó phải là những nhà
khoa học công nghệ - những trí thức. Khi khoa học và công nghệ trở
thành lực lợng sản xuất trực tiếp thì trí thức là lực lợng sản xuất có

vai trò nòng cốt trớc yêu cầu nhập công nghệ mới, chuyển giao công
nghệ đó cho công, nông.
Công nghiệp hoá là quá trình làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế của
xã hội. Tỷ trọng GDP trong nông nghiệp sẽ giảm xuống, tỷ trọng
trong công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Sự chuyển đổi này sẽ dẫn
theo hiện tợng cấu trúc lại lực lợng lao động trong xã hội. Sẽ có hàng
chục triệu nông dân chuyển sang lao động công nghiệp; số nông dân
còn lại sẽ trở thành những công nhân nông nghiệp hoặc những lao
động nông nghiệp đợc đào tạo chuyên môn cao dần, nắm trong tay
những công nghệ mới. Bản thân giai cấp công nhân cũng có những
thay đổi, nhất là sự xuất hiện ngày càng nhiều công nhân cổ trắng.
Các nhân viên trong lĩnh vực dịch vụ cũng đợc đào tạo cao hơn trớc,
đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ trí thức và xử lý thông tin. Quá
trình trí thức hoá công, nông ngày càng mang tính tự giác và ngày
2
Sđd tr. 65.
càng đòi hỏi trí thức tham gia vào quá trình này đông đảo hơn, tích
cực hơn.
Công nghiệp hoá còn là một quá trình đẩy mạnh sự phát triển
trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, chứ nó không chỉ đơn thuần bao
hàm quá trình kinh tế - kỹ thuật. Sự phát triển các lĩnh vực kinh tế -
xã hội ở đây chủ yếu là quá trình đẩy mạnh các hoạt động nhằm nâng
cao chất lợng dân số và cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quy mô
đào tạo nguồn nhân lực và bồi dỡng nhân tài trên cơ sở không ngừng
nâng cao dân trí, nâng dần mức hởng thụ văn háo cho ngời lao động
v.v Lực l ợng lao động chủ yếu đề đẩy mạnh các quá trình kinh tế -
xã hội là đội ngũ trí thức chứ không phải ai khác. Gần một triệu thầy
giáo, mấy trăm ngàn thầy thuốc, hàng chục vạn cán bộ khoa học và
công nghệ cùng các nhà văn, nhà báo và các nhà nghệ thuật sẽ phải
tham gia vào quá trình này.

Cuối cùng, phải nói đến công nghiệp hoá nh một quá trình mở
cửa để chủ động hội nhập với thế giới hiện đại, giao lu với các nền
văn minh trên thế giới, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó
là quá trình nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân. Với chức năng
bảo vệ, phát huy nền văn hoá dân tộc, trí thức phải giữ đợc bản sắc
văn hoá truyền thống trong các hoạt động của xã hội. Song, với chức
năng truyền bá văn hoá, trí thức lại phải chọn lọc những giá trị mới
mẻ, tiến bộ trong nền văn hoá của các dân tộc trên thế giới, tiếp thu
những tinh hoa văn háo nhân loại. Đó là quá trình nâng cao trìnhđộ
văn hoá cho nhân dân. Với chức năng bảo vệ, phát huy nền văn hoá
dân tộc, trí thức phải giữ đợc bản sắc văn hoá truyền thống trong các
hoạt động của xã hội. Song, với chức năng truyền bá văn hoá, trí thức
lại phải chọn lọc những giá trị mới mẻ, tiến bộ trong nền văn hoá của
các dân tộc trên thế giới để đa vào đời sống xã hội nớc ta. Có thể gọi
đây là một trong những nhiệm vụ mà lực lợng trí thức phải thực hiện
dể hiện đại hoá nền văn hoá dân tộc mà vẫn giữ đợc bản sắc dân tộc.
(Về những nhiệm vụ cụ thể của trí thức trong quá trình đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, sẽ trình bày cụ thể ở phần sau).
Tiếp theo các Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung -
ơng Đảng (khoá VII), ngày 24-12-1996, Hội nghị Ban chấp hành
Trung ơng Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ hai (khoá VIII) đã ra
Nghị quyết số 02-NQ/HNTW về định hớng chiến lợc phát triển khoa
học vf công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa và
nhiệm vụ đến năm 2000. Nghị quyết đã khẳng định đến năm 2020
phải phấn đấu xây dựng nớc ta cơ bản trở thành nớc công nghiệp. Để
đạt mục tiêu này, cần phải quán triệt những quan điểm sau đây:
-Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc phải bằng và dựa vào
khoa học, công nghệ. Đảng và Nhà nớc có chính sách đầu t khuyến
khích, hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ.
-Trong qr công nghiệp hoá, hiện đại hóa phải phát huy năng lực

nội sinh về khoa học và công nghệ kết hớp với tiếp thu thành tựu khoa
học và công nghệ thế giới.
-Xây dựng đội ngũ trí thức giàu lòng yêu nớc, yêu chủ nghĩa xã
hội, có ý chí và hoài bão lớn, quyết tâm đa Việt Nam trở thành nớc
công nghiệp nh mục tiêu về công nghiệp hoá, hiện đại hóa mà Đảng
đã nêu trong Nghị quyết.
Về mô hình công nghiệp hoá ở nớc ta, quan điểm của Đảng nh
sau: Đảng ta chủ trơng khong lặp lại những mô hình công nghiệp
hoá cổ điển, mà tự tìm lấy một mô hình phù hợp với hoàn cảnh đất n-
ớc và điều kiện thế giới ngày nay. Để làm đợc việc ấy, giáo dục và
khoa học phải tạo ra những con ngời đủ kiến thức và năng lực lựa
chọn, thích nghi vf sáng tạo công nghệ mới và hiện đại hoá những
công nghệ truyền thống, không ngừng phát triển lực lợng sản xuất,
làm ra nhiều sản phẩm với năng suất, chất lợng và hiệu quả cao, đáp
ứng nhu cầu trong nớc và xuất khẩu
3
.
Việc tìm kiếm mô hình đã khó, nhng việc giải quyết những vấn
đề chung cho các mô hình công nghiệp hoá lại càng khó, đòi hỏi phải
có trình độ trí tuệ của thời đại mới có thể giải quyết đợc.
Để Việt Nam trở thành một nớc công nghiệp vào năm 2020 thì
tốc độ tăng trởng trung bình từ nay tới đó khoảng 10%/năm. Điểm lại
sự phát triển của ác nớc trên thế giới, cha thấy có nớc nào giữ đợc
mức tăng trởng cao và bền trong hơn 20 năm. Chỉ số tăng trởng kinh
tế 10% năm đặt phía trớc chúng ta quả là một thách thức lớn. Nhng,
vấn đề không chỉ là tăng trởng để tạo ra GDP ngày càng lớn, mà còn
là nhằm đạt tới trình độ văn hoá và văn minh cao hơn. Để góp phần
làm cho nền kinh tế tăng trởng nhanh và bền vững, đội ngũ trí thức
phải là lực lợng tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất.
2.1.2. Những yêu cầu đặt ra cho đội ngũ trí thức.

Trí thức là lực lợng đi đầu trong phong trào tiến quân vào khoa
học và công nghệ, trớc hết là trên địa bàn nông nghiệp, và nông thon.
Thực chất của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá
trình vận dụng thành tựu khoa học và công nghệ nhằm chuyển hệ
thống kinh tế - xã hội của đất nớ từ trạng thái năng suất thấp, hiệu
quả thấp, sử dụng lao động thủ công là chính sang một hệ thống có
3
BáoNd ngày 16-2-1997 (Bài phát biểu của đồng chí Đỗ Mới tại Hội nghị
Khoa giáo toàn quốc, Hà Nội, 15-2-1997).
năng suất cao, hiệu quả cao, dựa trên những phơng pháp công nghiệp,
những công nghệ tiên tiến.
Trong một đất nớc nông nghiệp lạc hậu nh Việt Nam, chỉ riêng
sự tăng đời sống tự nhiên đã cho thấy, sức mạnh s nông nghiệp của
chúng ta suốt gần 70 năm qua không đáp ứng đợc áp lực gia tăng dân
số.
Trong phong trào tiến quân vào khoa học và công nghệ, trí thức
phải là lực lợng xung kích thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hóa trớc hết ở khu vực nông nghiệp và nông thôn. Trên trận địa
này có các hớng cơ bản sau đây:
Một là, tích cực tham gia chơng trình xoá đói giảm nghèo.
Hiện nay trong nớc ta có tới 90% hộ đói nghèo tập trung vào
nông thôn (thu nhập bình quân đầu ngời 50.000đ - 60.000 đ/tháng/ng-
ời; Báo cáo của Ban Kinh tế Trung ơng ngày 16-11-1998). Đến cuối
năm 1996, đầu năm 1997, cả nớc còn 2,8 triệu hộ gia đình (trên 13
triệu ngời) thuộc diện đói nghèo.
Nếu tính theo 6 hạng mục công trình điện, đờng giao thông, tr-
ờng học, trạm y tế, chợ, nớc sinh hoạt thì cả nớc còn 1.700 xã thuộc
diện nghèo, không đủ các hạng mục trên.
Trí thức tham gia xoá đói, giảm nghèo không chỉ có nhiệm vụ
đa khoa học và công nghệ về với nông dân, mà còn phải là lực l ợng

lao động trực tiếp ở địa bàn nông thôn.
Hai là, đẩy mạnh chơng trình định canh, định c:
Từ năm 1991 đến năm 1995, nớc ta đã có 618 dự án định canh,
định c với 160.600 hộ tham gia, tổng số vốn đầu t là 473.793 triệu
đồng.
Hiện nay, vấn đề định canh, định d vẫn đang là cấp thiết. Tham
gia vào chơng trình này, trí thức có nhiệm vụ sau:
-Nghiên cứu phong tục, tập quán, quan hệ xã hội của đồng bào
các dân tộc để có chủ trơng phù hợp;
-Hớng dẫn nhân dân áp dụng công nghệ nuôi trồng những cây,
con thích hợp, mang lại năng suất cao và hiệu quả cao;
-Xây dựng các cơ sở hạ tầng nh công trình thuỷ lợi, giao thông,
trạm hạ thế, nớc sạch, cửa hàng mua bán, trạm xá, lớp học, trụ sở
chính quyền v.v
Ba là, góp phần thực hiện chơng trình giải quyết việc làm.
Lực lợng lao động nôgn thôn ở nớc ta hàng năm tăng gần
800.000 ngời. Do ngành nghề, dịch vụ nông thôn cha phát triển,
ruộng đất canh tác tính trên đầu ngời rất hạn hẹp nên số lao động dôi
d ở nông thôn rất lớn. Nghiên cứu phát triển ngành nghề ở nông thôn,
dạy nghề cho nông dân trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đa
sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng thuộc tính công nghiệp là một
công việc không thể thiếu vắng ngời trí thức. (Hiện ở nông thôn Việt
Nam còn trên 2,2 tỷ ngày công/năm cha đợc sử dụng).
Bốn là, đẩy mạnh hoạt động khoa học và công nghệ trên địa
bàn nông nghiệp và nông thôn.
Trong cả nớc hiện có 31 cơ quan khoa học - công nghệ đang
đẩy mạnh các hoạt động phục vụ nông nghiệp và nông thôn với
khoảng 7.000 cán bộ (trong đó có 510 ngời có trình độ trên đại học,
3.700 ngời có bằng đại học). Thành tích đáng kể là đã tạo đợc 33
giống lúa mới, 6 giống ngô mới, mở rộng sản xuất thử 16 giống u thế

lại để nạc hoá đầu lợn, sinh hoá đàn bò và nâng cao năng suất đàn gia
cầm Các công trình t ới tiêu, thau chua, rửa mặn đất phèn, nuôi tôm
thơng phẩm, đánh bắt cá biển, chế biến gạo, càphê, hạt điều, chè,
thuỷ sản, v.v đã có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, lực l ợng trí thức tham
gia ở chơng trình này còn quá mỏng. Trớc mắt, cần lu ý:
-Xây dựng hệ thống nghiên cứu, triển khai gọn nhẹ gắn chặt với
sản xuất nông nghiệp hơn nữa;
-Đào tạo đội ngũ cán bộ phục vụ nông thôn phải cân đối hớn
(Hiện tỷ lệ đại học/trung cấp/sơ cấp ở Việt Nam là 1/7/8, của thế giới
là 1/2/4). Một số lĩnh vực nghiên cứu nông nghiệp cha có cán bộ đầu
đàn.
-Tăng cờng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nghiên cứu nông
nghiệp và nông thôn (hiện tại còn quá nghèo nàn, lạc hậu);
-Tăng đầu t chuyển giao công nghệ trong nông thôn và nông
nghiệp (hiện còn quá thấp, chỉ bằng 1/10-1/15 mức đầu t ở các nớc
trong khu vực và trên thế giới).
Năm là, tham gia chơng trình khuyến nông.
Các trung tâm khuyến nông ở tỉnh, thành phố hiện chỉ có hơn
1000 cán bộ, ở các trạm khuyến nông cấp huyện mới có khoảng 800
cán bộ trong biên chế Nhà nớc.
Trí thức cần tham gia chơng trình khuyến nông với các hình
thức thích hợp với chức năng của mình là:
- Tập huấn về công nghệ mới.
- Tổ chức tham guan khoa học kỹ thuật.
- Xây dựng câu lạc bộ phổ biến tri thức mới;
- Bồi dỡng cán bộ xã, thôn về sản xuất, khẳng định, v.v
*Nâng cao dân trí làm cơ sở cho việc tăng trởng kinh tế.
Dân trí là vấn đề hết sức cơ bản trong bài toán tăng trởng kinh
tế. Dân trí không đơn thuần là vấn đề đợc đi học, mà là sự hiểu biết
về khoa học, về công nghệ, về sản xuất, về quản lý, về đạo đức và

pháp luật để ứng dụng vào lao động sản xuất, vào dịch vụ xã hội, vào
mọi công việc liên quan đến sự phát triển văn hoá và văn minh.
Nói đến dân trí là đề cập tới vấn đề trí thức và thông tin với t
cách là một yếu tố quan trọng trong nguồn nhân lực. Bất kỳ nớc đang
phát triển nào, nếu biết đề cao yếu tố tri thức và thông tin, bỏ qua
chiến lợc phát triển tuần tự, chuyển sang áp dụng chiến lợc nhảy vọt,
tập trung các ngành công nghệ cao và dựa vào chúng để tiến hành
công nghiệp hoá thì hoàn toàn có thể rút ngắn đợc thời gian công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của mình. Chính sự tận dụng và phát huy
những thành quả của cuộc cách mạng của khoa học và công nghệ mới
đã làm cất cánh nhiều quốc gia
4
.
Nói đến tăng trởng kinh tế là phải nói đến dân trí, đến tri thức
của con ngời, đến nguồn tài nguyên trí tuệ củaqg; do đó, phải nói đến
yếu tố giáo dục nh là một lĩnh vực phải có sự đầu t thích đáng. Báo
4
Trần Xuan Phơng: Những đặc trng chủ yếu cùa cuộc cách mạng công nghệ
mới. Trung tâm thông tin t liệu khoa học và công nghệ quốc gia thuộc Bộ Khoa
học, công nghệ và môi trờng (Tài liệu tham khảo, 8-1996)
cáo của Ngân hàng thế giới trong các năm vừa qua đều nói đến quá
trình nâng cao trí tuệ con ngời tỏng mối quan hệ với tăng trởn kinh tế,
và giáo dục thúc đẩy tăng trởng kinh tế là điều chắc chắn. Cứ đến tr-
ờng thêm một năm có thể làm tăng hơn 10% tiền công.
ở Hàn Quốc, một năm học thêm sẽ làm cho sản lợng trang trại
tăng 2%, còn ở Malaixia là 5%. Giáo dục góp phần vào tăng trởng
kinh tế thông qua cả tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ
nâng cao trình độ và quan điểm của họ lẫn tích luỹ kiến thức. Vai trò
của giáo dục có thể đợc tính bằng cách so sánh sự khác biệt giữa sản
phẩm của một cá nhân làm ra trong cùng một đơn vị thời gian trớc và

sau khi cá nhân đó học một khoá đào tạo với chi phí cho khoá đào
tạo. Kết quả này gọi là tỷ suất lợi nhuận xã hội khi đầu t vào giáo
dục, mặc dù nó cha phản ánh đợc tất cả các lợi ích xã hội và những
ảnh hởng bên ngoài.
Thực tế cho thấy, tỷ suất lợi nhuận giáo dục rất cao ở những n-
ớc có thu nhập vừa và thấp. Tình hình mỗi nớc một khác, nhng nhìn
chung, ở các nền kinh tế cha phổ cập giáo dục cơ sở, tỷ suất lợi nhậun
của giáo dục tiểu học là cao nhất, sau đó là giáo dục trung học và
cuối cùng là đại học. Rất thú vị là những nớc đã phổ cập giáo dục tiểu
học có mức tăng trởng cao đều có xu hớng cho thấy tỷ suất lợi nhuận
của giáo dục trung học lại cao hơn của giáo dục tiểu học
5

*Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học.
Nếu coi số lợng nhà khoa học và kỹ s tính trên triệu dân nh một
chỉ số của tài nguyên trí tuệ thì ta chú ý bảng sau đây:
5
Phùng Minh Lại: Đầu t vào con ngời và sự tăng trởng, Trung tâm Thông tin t
liệu khoa học và công nghệ quốc gia thuộc Bộ Khoa học, công nghệ và môi tr-
ờng (Tài liệu tham khảo 4-1997), tr 4-5
Số lợng nhà khoa học và kỹ s tính trên triệu dân
6
Nhật Bản 3548
Mỹ 2685
Châu Âu 1632
Châu Mỹ latinh 209
Các nớc Arập 202
Châu á (trừ Nhật Bản)
99
Châu Phi 53

Khi phân tích yếu tố nào làm cho châu Phi không tăng trởng đ-
ợc, Paul Kennedy đã viết rằng, hoàn cảnh dẫn đến sự tồi tệ là dầu t
hoàn toàn không tơng xứng về nhân lực và yếu kém trong việc triển
khai giáo dục, đào tạo, quản lý khẳng định, tìm hiểu khoa học và
năng lực kỹ thuật. Theomotj báo cáo, chi phí cho nghiên cứu khoa
học tính theo đầu ngời ở châu Phi không đạt một USD trong khi ở Mỹ
là 200 USD một ngời; vì vậy, ngời châu Phi luôn luôn lê lết đằng sau
phần còn lại của thế giớivề khoa học
7
.
ở nhiều nớc châu Phi (malauy, Zămbia, Lêxôthô, Xômali) chi
phí cho giáo dục đã giảm đi; vì vậy, sau vài thập kỷ, rất ít trẻ đ ợc đến
trờng. Tuy ngời dân ham học nhng cũng không vợt qua trình độ trung
học, ngoại trừ một số nhỏ. Ví dụ Ănggôla có 2.400.000 học sinh ở
tiểu học trong năm học 1982-1983, nay chỉ còn 150.000 ở trung học
và 4.700 theo mức học cao hơn. Ngợc lại, ở Thụy Điển, với số dân ít
hơn một chút, đã có 570.000 học sinh trung học và 179.000 ở mức
cao học. Trong số 5.000.000 dân ở Burundi chỉ có 218 nhà khoa học
và kỹ s (1984). Trong khi những nhà khoa học Phi khẩn thiết kêu gọi
các cấp lãnh đạo hãy trực tiếp nắm lấy khoa học và công nghệ nh là
nhân tố chủ chốt của thay đổi xã hội, thì do hoàn cảnh lên năm
6
Paul Kennedy: Chuẩn bị cho thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, tr.307.
7
Paul Kennedy: Chuẩn bị cho thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995, tr. 305-306
quyền (các cuộc đảo chính quân sự) và đấu tranh để giữ đất nớc, họ
làm cho chiến lợc lấy khoa học nh động cơ thúc đẩy cùng trở nên vô
vọng

8
.
Về vấn đềe xây dựng đội ngũ khoa học và công nghệ ở Việt
Nam, ta có thể khẳng định rằng, đến nay ta đã có một lực lợng khoa
học và công nghệ có đủ sức đóng góp cho việc tiếp thu và sáng tạo
khoa học và công nghệ, xây dựng nền tảng cho công nghiệp hoá,
hiện đại hóa đất nớc.
Đội ngũ nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa
học và công nghệ đã có nhiều đóng góp quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội, đã đào tạo đợc không ít cán bộ khoa học có trình độ
trên đại học. Qua các nghiên cứu cơ bản về điều kiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên của đất nớc, các nhà khoa học Việt Nam đã kiến
nghị nhiều phơng án phát triển sản xuất theo vùng và lãnh thổ, đã tiếp
thu vf làm chủ một số công nghệ cao, tạo ra nhiều giống cây, vật njôi
có chất lợng cao trong sản xuất nông nghiệp.
Chính nhờ lực lợng khoa học vf công nghệ Việt Nam mà nhiều
công nghệ tiên tiến đã đợc chuyển giao và áp dụng trong một số lĩnh
vực nh viễn thông, dầu khí, điện lực, xi măng, giao thông - vận tải,
trong mtọ số ngành công nghiệp (dệt, may, chế biến lơng thực, thực
phẩm vấcc nông sản khác). Các doanh nghiệp với những công nghệ
tiên tiến đã tạo nên bộ mặt mới cho nền công nghiệp Việt Nam và góp
phần to lớn cho tăng trởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt
Nam trong thời gian qua.
8
Paul Kennedy: Chuẩn bị cho thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995, tr. 305-306
Lực lợng khoa học và công nghệ Việt Nam trong những năm
qua đã có vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực,
phát triển văn hoá, bảo tồn, giữ vững và phát huy những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Bên cạnh những u điểm đó, phải nói đến những mặt bất cập, yếu
kém cần khắc phục. Cụ thể là:
Một là, năng lự đội ngũu khoa học và công nghệ còn non yếu,
nhất là năng lực triển khai công nghệ, thích nghi, cải tiến và tiến tới
tạo ra công nghệ mới có hiệu quả cao cho sản xuất; cha phát huy đợc
năng lực t vấn cho các doanh nghiệp trong lựa chọn và muabán công
nghệ. Đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đang lao hoá, thiêu cán bộ
đầu đàn thực sự và sự lãng phí chất xám hiện tại đang diên ra khá
nghiêm trọng.
Hai là, hệ thống nghiên cứu, triển khai khoa học và công nghệ
còn nhiều bất cập, các nguồn lực bị dàn mỏng do không tập trung
theo những u tiên hợp lý, không đáp ứng đợc yêu cầu đổi mới công
nghệ của sản xuất - khẳng định hiện tại, yêu cầu củ công nghiệp hoá,
hiện đại hóa đất nớc trong tơng lai, vf cũng cha đáp ứng đợc nhu cầu
xây dựng luận cứ khoa học cho đờng lối phát triển, cho việc giải
quyết những vấn đề kinh tế - xã hội, văn hoá cấp bách đặt ra tỏng
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Ba là, chất lợng các kết quả nghiên cứu nói chung cha cao,
nhiều đề tài và kết quả nghiên cứu còn cha đúng với chuẩn mực của
một đề tài nghiên cứu khoa học; Sự lạm phát các văn bằng Thạc sĩ,
Tiến sĩ khá nghiêm trọng, v.v Đây là những khuyết, nh ợc điểm về
chất lợng trong hoạt động khoa học và công nghệ làm hạn chế sự phát
triển chất lợng nghiên cứu và khả năng hội nhập của khoa học Việt
Nam với cộng đồng khoa học quốc tế. (Vấn đề này, chúng tôi sẽ trình
bày kỹ ở chơng nói về thực trạng của đội ngũ trí thức).
2.2. Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nớc theo định hớng x hội chủ nghĩaã .
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nớc để từ nay đến
năm 2020 đa nớc ta cơ bản trở thành một nớc công nghiệp là một sự

nghiệp vĩ đại, đòi hỏi sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Để tiến
hành hồi sự công nghiệp hoá, hiện đại hóa, những nớc t bản phát triển
trớc đây đã phải mất hàng trăm năm. Đối với những nớc đi sau, nh
những nớc thuộc thời kỳ thứ ba ở Đông Nam á cũng phải mất gần
nửa thế kỷ với biết bao khó khăn. Nớc ta bớc vào sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hóa trong lúc nền khoa học và công nghệ trên
thế giới đã có những thành công kỳ diệu thể hiện sự ra đời của một
nền văn minh mới: văn minh trí tuệ hay văn minh tin học. Đơng
nhiên, chúng ta sẽ có nhiều thuận lợi dể rút ngắn khoảng ách củ giai
đoạn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nớc. Nhng đó mới
chỉ là những tiền đề khách quan, còn phải tính đến những thách thức
vô cùng quan trọng trong việc chuyển hoá những nhân tố ngoại sinh
thành sự phát triển nội sinh. Chính khẩu chuyển hoá này vừa đòi hỏi
nhân dân ta một tinh thần dũng cảm vợt qua những thử thách có tính
thời đại để giữ vững định hớng chc, vừa đặt ra cho nhân dân ta những
yếu tố sáng tạo mới, cha có tiền lệ trong lịch sử phát triển của nhân
loại.
Thế giới đã toàn cầu hoá nhiều mặt của đời sống xã hội. Đây là
cả một vấn đề lớn, vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn,
đòi hỏi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta và sự kiên định, dũng cảm
của toàn thể nhân dân ta. Nhân tố con ngời là cực kỳ quan trọng, nh-
ng ở đây, là con ngời đợc hiểu không nh là một lao động đơn giản mà
với t cách là con ngời có trí tuệ và là nhân cách văn hoá, có bản lĩnh
văn hoá dân tộc, có lý tởng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, chỉ có con ngời Việt Nam mang bản sắc dân tộc trong
văn hoá Việt Nam, là chủ thể về trí tuệ và văn hoá Việt Nam mới thực
sự giữ vai trò quyết định sự thành công của công nghiệp hoá, hiện
đại hóa ở nớc ta. Trong nhân tố con ngời phải nói đến trí thức hay con
ngời trí tuệ, đồng thời cũng phải đề cập đến văn hoá, tức con ngời có
phẩm chất văn hoá, nhân cách văn hoá, bản lĩnh văn hoá.

Con ngời là một phạm trù lịch sử, là sản phẩm của lịch sử, nhng
đồng thời lại là con ngời tạo ra lịch sử. Hơn nữa, đối với chủ nghĩa xã
hội, thì nh Hồ Chí Minh đã từng nói: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội trớc hết phải có những con ngời xã hội chủ nghĩa.
Trong quan hệ mật thiết với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hóa vì sự phát triển chủ nghĩa xã hội, con ngời Việt Nam nói
chung và trí thức Việt Nam nói riêng là nội lực trí tuệ và văn hoá của
toàn dân tộc. Đó là nội lực trí tuệ và văn hoá của toàn xã hội, nội lực
trí tuệ và văn hoá từng ngành, nội lực trí tuệ và văn hoá của đông đảo
nhân dân và của từng cá nhân cụ thể. Đây là quan điểm có ý nghĩa lý
luận cần đợc quán triệt khi nói đến vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức.
Nếu không thấy đợc tầm quan trọng của việc nâng cao không ngừng
trí tuệ và nền văn hoá chung của toàn xã hội thì cũng sẽ không thấy
đợc động lực phát triển xã hội cũng nh động lực của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hóa. Nhờ vào sức mạnh văn hoá truyền thống,
Việt Nam đã chiến thắng những tên đế quốc đầu sỏ nhất để giành độc
lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, đa nớc ta lên vị thế một nớc đợc
cả nhân loại tiến bộ thừa nhận là có tiềm năng phát triển to lớn. Đến
nay, đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nội lực đó phải đợc phát
huy mạnh mẽ bằng những chính sách mới của Đảng. Nếu không, đất
nớc sẽ không tranh khỏi tình trạng tụt hậu về nhiều mặt.
Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và đạt đợc
những thành tựu vô cùng quan trọng, Đảng và Nhà nớc ta đã tỏ ra vô
cùng sáng suốt khi ban hành và thực hiện nhiều Nghị quyết có quan
hệ đến việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dỡng nhân tài,
khai thác và phát triển tiềm năng trí tuệ và nguồn lực con ngời Việt
Nam, đặc biệt là hai Nghị quyết: Nghị quyết Hội nghị làn thứ hai Ban
chấp hành Trung ơng Đảng (khoá VIII), số 02-NQ/HNTW về định h-
ớng chiến lợc phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 và về định hớng

chiến lợc phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000; Nghị quyết Hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ơng Đảng (khoá VIII) về xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Có thể
nói, đó là những Nghị quyết đặt nền tảng cho chiến lợc con ngời và
chiến lợc xây dựng và phát triển văn hoá trong suốt thời kỳ cnnh đất
nớc. Trong nội dung về định hớng chiến lợc phát triển Giáo dục và
Đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ, Đảng ta đã khẳng định vai
trò động lực của văn hó mà khâu quyết định là nguồn lực con ngời,
coi việc phát huy đầy đủ năng lực nội sinh của dân tộc, lấy phát
triển giáo dục, đào tạo và khoa học và công nghệ làm yếu tố cơ bản,
coi đó là khẩu đột phá
9

Còn trong nội dung về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta lại khẳng định rõ hơn
nguồn lực con ngời cũng nh tiềm lực văn hoá của Tổ Quốc. Bế mạc
9
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung
ơng Đảng (khoá VIII), Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.9
Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng Đảng lần thứ năm (khoá VIII);
đồng chi Tổng bí th Lê Khả Phiêu phát biểu: kinh nghiệm vô giá mà
chúng ta khái quát đợc trong lịch sử lâu dài và đầy khắc nghiệt của
dân tộc ta là: nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là
nguồn lực con ngời Việt Nam; là sức mạnh nội sinh của chính bản
thân dân tộc Việt Nam
10
. Đó là những định hớng quan trọng có quan
hệ rất trực tiếp đến sự thành bại của tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hóa ở nớc ta. Đó cũng là sự thể hiện tầm trí tuệ cao của Đảng ta,

của cả dân tộc ta khi bắt tay vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hóa.
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng Đảng lần thứ năm (khoá
VIII), Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức
trong khối đại đoàn kết dân tộc là công nhân, nông dân và trí thức
Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng
11
.
Tuy nhiên, không phải ai cũng thấy đợc vị trí, vai trò của đội
ngũ trí thức trong lịch sử phát triển của xã hội hói chung, trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nói riêng, nếu không xuất phát
từ một quan điểm lý luận rõ ràng về ngời trí thức cũng nh mối quan
hệ giữa đội ngũ trí thức với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác, tr ớc
hết là mối quan hệ giữa trí thức với công nhân và nông dân khối đại
đoàn kết dân tộc.
Xuyên suốt lịch sử dân tộc đến đờng lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam, ta thấy có sự nhất quán trong nhận định về vị trí, vai trò
ngời trí thức đối ới đất nớc cũng nh sự nghiệp cách mạng. Nhng trong
10
Đảng Cộng sản Việt Nam : văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành
Trung ơng Đảng (khoá VIII), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 53, 57.
11
Đảng Cộng sản Việt Nam : văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành
Trung ơng Đảng (khoá VIII), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 53, 57.
diễn biến lịch sử đôi khi vẫn không có sự nhất quán vào lúc này hay
lúc khác, ở ngời này hay ngời khác. Điều đó không chỉ xảy ra ở nớc
ta mà còn thấy ở hầu khắp các nớc trên thế giới, không chỉ thấy ở thời
điểm lịch sử hiện nay mà cũng có thể nói ở mọi thời kỳ khác nhau
của lịch sử nhân loại. Cho nên, không phải ngẫu nhiên một nhà khoa

học lịch sử. Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Nga, GS.TS, Poljakov Juri
Alekssandrovich, khi nói về giới trí thức Nga trong thời kỳ rối loạn
đã đặt câu hỏi cho bài viết của mình là ngời khởi xớng hay nạn nhân?
Thật ra, cũng có thể đặt câu hỏi trên cho giới trí thức nói chung ở
nhiều nớc khác nhau trong những thời kỳ lịch sử khác nhau. Bởi lẽ,
chúgn ta đa từng chứng kiến những khởi xớng vĩ đại của ngời trí thức,
đồng thời cũng lại đợc chứng kiến cả những tai hoạ, của lịch sử rơi
vào ngời trí thức.
ở đội ngũ trí thức nói chung, trong đó có đội ngũ trí thc Việt
Nam nói riêng vẫn cần đợc hiểu sâu sắc thực chất họ là ai, họ quan
trọng nh thế nào, vì sao họ lại có vị trí quan trọng và mối quan hệ
giữa họ với nhân dân và dân tộc cũng nh với tiến trình phát triển của
mỗi dân tộc và nhân loại nói chung. Do đó, cần phải thấy rõ vị trí, vai
trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hóa ở nớc ta.
Vai trò của trí thức trong lãnh đạo và quản lý đất nớc, điều
hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Nói đến vai trò của trí thức trong lãnh đạo và quản lý đất n ớc,
điều hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa hoàn toàn không
có nghĩa là coi trí thức nh một tầng lớp xã hội đứng ngoài hoặc đứng
cao hơn ngời lãnh đạo và quản lý đất nớc.
Khi phê phán quan điểm xen trí thức nh mộtgc thì đồng thời
cũng cần phê phán quan điểm coi trí thức nh một giới thợng đẳng
đứng ngoài hoặcc đứng trên các giai cấp xã hội. Trí thức cũng chỉ là
những con ngời bình thờng trong nhân dân, họ có thể tham gia sản
xuất nh một công nhân thực thụ, họ cũng có thể là nhà bác học nhờ
những sáng tạo văn hoá có giá trị của mình. Đơng nhiên, họ cũng có
thể trở thành nhà lãnh đạo, thậm chí là ngời lãnh đạo cao nhất nắm
nhiều quyền lực trong tay.
Tóm lại, ngời trí thức vốn có mặt ở mọi lĩnh vực của cuộc sống

và trong thực tế có những cá nhân tỏng họ đã từng là những ngời lãnh
đạo, quản lý đất nớc ở những thời đại khác nhau. Có điều là ngày nay,
do thời đại phát triển khoa học và công nghệ, trí lực, trí tuệ, trí thức
đã trở thành nguồn gốc của phát triển thì vai trò của trí thức đợc chú
ý hơn, đợc xem là lực lợng hạt nhân trên mọi lĩnh vực cuộc sống,
trong đó nó có vị trí đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo, quản lý đất
nớc và điều hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 vừa thành công Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết bài Nhân tài và kiến quốc
12
. để căn dặn cán bộ và
nhân dân ta: Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nớc ta dù cha có
nhiều lắm nhng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo
dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển thêm nhiều Ng ời kêu
gọi nhân dân ta, ai có tài năng và sáng kiến về những việc nh kiến
thiết ngoại giao, kiến thiết kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến thiết giáo
dục thì sẵn lòng hănghái giúp ích nớc nhà. Không phải chỉ có một lần
mà sau đó Ngời còn nhiều lần kêu gọi nhân tài ra kiến thiết nớc nhà.
Cuối năm 1946, Ngời lại viết bài với nhan đềTìm ngời tài đức nói
rõ một lần nữa: Nớc nhà cần phải kiến thếit. Kiến thiết cần phải có
12
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 4, tr.99

×