LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở nước ta, nghề trồng lúa vẫn còn là một nghề quan trọng vì nó nuôi sống
khoảng 80% dân số cả nước. Những năm gần đây, với sự thâm canh tăng vụ và
tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng trong sản xuất lúa giúp cải tiến chất
lượng, năng suất lúa, cụ thể ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trong hơn
mười năm qua đã mang lại nhiều lợi ích, giúp đảm bảo an ninh lương thực cho cả
nước đồng thời giúp nâng sản lượng lúa xuất khẩu. Nhiều nơi đã sản xuất lúa liên
tục nhiều vụ trong năm và canh tác nhiều năm liền, chính điều này đã tạo điều
kiện cho sự phát triển của các tác nhân gây hại, trong đó phải kể đến là các loài
côn trùng mà rầy nâu được xếp vào tác nhân nhóm gây hại nhiều nhất.
Rầy nâu là một trong những loài côn trùng gây hại phổ biến trên các ruộng
lúa bằng cách chích hút nhựa cây làm cây cháy khô, truyền bệnh vàng lùn và lùn
xoắn lá. Ở nước ta trong những năm gần đây, nhất là trên những cánh đồng ở
Đồng Bằng Sông Cửu Long đã xuất hiện những đợt rầy nâu rất lớn gây hại trên
nhiều cánh đồng.
Mặc dù ngày nay đã có nhiều thuốc đặc trò rầy nâu như: Osin, Chess…
nhưng việc sử dụng các loại thuốc này có thể dẫn đến việc mất cân bằng sinh thái
trong khu vực, và ngày càng tạo điều kiện tăng khả năng kháng thuốc. Mà rầy nâu
loài có khả năng kháng thuốc rất nhanh. Ngoài ra, việc tiêu diệt loài này có thể
làm xuất hiện các loài khác nguy hiểm hơn.
Do đó, việc sử dụng các loài thuốc phòng ngừa, các chế phẩm sinh học như:
chế phẩm AIM là chế phẩm có chứa hoạt chất Salicylic acid giúp cho cây lúa có
khả năng xua đuổi, phòng tránh được những đợt tấn công của rầy nâu là rất cần
thiết. Nội dung bài báo cáo nhằm đánh giá khả năng xua đuổi rầy nâu của chế
phẩm AIM.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 2
1.1. GIỚI THIỆU VỀ CÂY LÚA HIỆN NAY
1.1.1. Nguồn gốc và phân loại
1.1.1.1 Nguồn gốc
Về nguốn gốc cây lúa, đã có nhiều tác giả đề cập tới nhưng cho tới nay vẫn
chưa có những dữ liệu chắc chắn và thống nhất.
Theo Makkey E. cho rằng vết tích cây lúa cổ xưa nhất được tìm thấy trên
các di chỉ đào được ở vùng Penjab Ấn Độ của các bộ lạc sống ở vùng này cách
đây khoảng 2000 năm. Còn theo Grist D.H cây lúa xuất phát từ Đông Nam Á, từ
đó lan dần lên phía Bắc Gutcnghtchin, Ghose, Erughin và nhiều tác giả khác thì
cho rằng Đông Dương là cái nôi của lúa trồng. De Candolle, Rojevich lại quan
niệm rằng Ấn Độ mới là nơi xuất phát chính của lúa trồng. Đinh Dónh (Trung
Quốc) dựa vào lòch sử phát triển lúa hoang ở trong nước cho rằng lúa trồng có xuất
xứ từ Trung Quốc. Một số nhà nghiên cứu Việt Nam lại cho rằng nguồn gốc cây
lúa là ở Miền Nam Việt Nam và Campuchia. Nhưng theo T.T Chang (1976), là
nhà di truyền học cây lúa của Viện Nghiên Cứu lúa Quốc Tế (IRRI), đã tổng kết
nhiều tài liệu khác nhau và cho rằng việc thuần hóa lúa trồng có thể đã được tiến
hành một cách độc lập cùng một lúc ở nhiều nơi, dọc theo vành đai trải dài từ
đồng bằng sông Ganges dưới chân phía đông của dãy núi Hy-Mã-Lạp-Sơn
(Himalayas-Ấn Độ), ngang qua Bắc Miến Điện, Bắc Thái Lan, Lào và Việt Nam,
đến Tây Nam và Nam Trung Quốc. Ngoài ra, căn cứ vào các tài liệu lòch sử, di
tích khảo cổ, đặc điểm sinh thái học của cây lúa trồng và sự hiện diện rộng rãi của
nhiều loài lúa hoang dại trong khu vực, nhiều người đồng ý rằng nguồn gốc cây
lúa là vùng đầm lầy Đông Nam Á, rồi từ đó lan dần đi các nơi. Thêm vào đó, sự
kiện thực tế là cây lúa và nghề trồng lúa đã có từ rất lâu ở vùng này, lòch sử và
đời sống của các dân tộc Đông Nam Á lại gắn liền với lúa gạo đã chứng minh
được nguồn gốc của lúa trồng.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 3
Tuy có nhiều ý kiến chưa thống nhất, nhưng có một điều là lòch sử cây lúa
đã có tư ø lâu và gắn liền với lòch sử phát triển của nhân dân các nước Châu Á.
Hai loài lúa trồng hiện nay là Oryza sativa L. ở Châu Á và Oryza
glaberrima Steud. ở Châu Phi. Người ta cho rằng tổ tiên của chi lúa Oryza hiện
nay là một loại cây hoang dại trên siêu lục đòa Gondwana xuất hiện cách đây ít
nhất là 130 triệu năm và phát tán rộng khắp các châu lục trong quá trình trôi giạt
lục đòa.
Loài cây hoang dại này sau đó được con người chọn lọc và thuần hoá tạo
thành cây lúa trồng như hiện nay. Các loài thuộc chi Oryza đều là họ hàng với
cây lúa trồng ngày nay. Hiện nay chi Oryza có khoảng 21 loài, tuy nhiên số lượng
loài này không đồng nhất và thay đổi tùy theo người nghiên cứu như 19 loài theo
Roschiwicz (1950), 23 loài theo Erygin P.S (1960), 25 loài theo Grist D. H (1960),
… Trong đó có hai loài đã được thuần hoá là loài Oryza sativa (lúa châu Á) và
loài Oryza glaberrima (lúa châu Phi). Trong đó loài Oryza sativa là được trồng phổ
biến.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 4
1.1.1.2 Phân Loại
Với kỹ thuật chọn lọc, lai tạo giống, con người đã tạo ra được rất nhiều
giống lúa khác nhau. Và hiện nay việc phân loại chúng cũng có rất nhiều hình
thức khác nhau.
a. Theo hệ thống phân loại thực vật
Đây là hệ thống phân loại chung của tất cả các loài thực vật. Theo đó thì
cây lúa được phân loại như sau:
Giới : Plantae Thực vật.
Ngành : Angiospermae Thực vật có hoa
Lớp : Monocotyledones Một là mầm (Liliopsida)
Bộ : Poales Hoà thảo có hoa.
Họ : Poaceae Hoà thảo.
Chi : Oryza Lúa
Loài : Oryza sativa Lúa Châu Á.
Oryza glaberrima Lúa Châu Phi.
Lúa là cây hằng niên có tổng số nhiễm sắc thể 2n = 24. Về phân loại thực
vật, chi Oryza có khoảng 20 loài, trong đó chỉ có 2 loài là lúa trồng, còn lại là lúa
hoang hằng niên và đa niên. Oryza sativa L là loài lúa trồng quan trọng nhất, thích
nghi rộng rãi nhất và chiếm đại bộ phận diện tích lúa thế giới.
Theo Tateoka (1963, 1964) (trong Oka,1988) phân biệt 22 loài, trong đó 2
loài lúa trồng vẫn là Oryza sativa L và Oryza glaberrima Steud. Và ông bổ sung
thêm 2 loài lúa mới: O. longiglumis Jansen và O.angustifolia Hubbard.
b. Theo điều kiện môi trường canh tác:
Dựa vào điều kiện môi trường canh tác, đặc biệt là nước có thường xuyên
ngập ruộng hay không, người ta phân biệt nhóm lúa rẫy (upland rice) hoặc lúa
nước (lowland rice).
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 5
Tuy theo đặc tính thích nghi với môi trường mà chia thành: lúa chòu phèn,
lúa chòu úng. Lúa chòu hạn, lúa chòu mặn…
Tùy theo chế độ nhiệt khác nhau, người ta còn phân biệt lúa chòu lạnh và
lúa chòu nhiệt.
Theo sinh thái đòa lý: đựơc chia thành 3 nhóm là Indica, Japonica và
janvanica.
c. Theo đặc tính sinh hóa hạt gạo
Tùy theo lượng amylose trong tinh bột hạt gạo, người ta phân biệt lúa nếp
và lúa tẻ. Biết rằng tinh bột có 2 dạng là amylose và amylapectin. Hàm lượng
amylopectin trong thành phần tinh bột gạo càng cao, hàm lượng amylose sẽ thấp
khi đó hạt gạo sẽ càng dẻo. T.T Chang (1980) đã phân cấp gạo dựa vào hàm
lượng amylose như bảng sau:
Bảng 1.1 : Phân loại gạo dựa vào hàm lượng amylose trong tinh bột
Cấp
Hàm lượng Amylose (%)
Loại gạo
0
1
3
5
7
9
< 3.0
3,1 – 10
10,1 – 15
15,1 – 20
20,1 – 25
25,1 – 30
Nếp
Rất thấp (gạo dẽo)
Thấp dẽo
Trung bình (hơi dẽo)
Cao – Trung bình
Cao
d. Theo đặc tính của hình thái
Dựa vào đặc tính hình thái của cây lúa, người ta còn phân biệt theo:
Cây: cao (>120 cm) - trung bình (100 – 120 cm) – thấp (dưới 100 cm).
Lá: thẳng hoặc cong rủ, bản lá to hoặc nhỏ, dày hoặc mỏng.
Nguồn: Nguyễn Ngọc Đệ, 2008
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 6
Bông: loại hình nhiều bông (nở bụi mạnh) hoặc to bông (nhiều hạt), dạng
bông túm hoặc xòe, cổ bông hở hoặc cổ kính (tùy theo độ trổ của bông so với cổ
lá cờ)…
Hạt lúa: dài, trung bình hoặc tròn (dựa vào chiều dài và tỉ lệ dài/ngang của
hạt lúa).
1.1.2. Đặc điểm hình thái và sự sinh trưởng của cây lúa
1.1.2.1 Đặc điểm hình thái của cây lúa
Hạt lúa: Đây là thành phần quan trọng nhất của cây lúa. Hạt lúa bao gồm
vỏ trấu, mày trấu, râu, nội nhũ và phôi. Nội nhũ (hạt gạo) là nguồn dự trữ chất
dinh dưỡng cho mầm sau này.
Hình 1.1: Dạng tổng quát của cây lúa
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 7
Cây mạ: Cây mạ hoàn chỉnh gồm ba bộ phận là lá, rễ và thân. Để cây mạ
tăng trưởng tốt thì cần cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, nước, ánh sáng và nhiệt
độ (23 – 25
o
C) thích hợp.
Lá: bao gồm các bộ phận là phiến lá, bẹ lá, cổ lá, tai lá và thìa là. Đây là
nơi diễn ra quá trình quang hợp tổng hợp chất hữu cơ cho cây. Số lượng và màu
sắc của lá lúa thay đổi theo giống. Bình thường cứ 7 ngày là có một lá lúa hình
thành.
Rễ lúa: Rễ lúa có dạng chùm, giúp cho lúa đứng vững trong môi trường, hút
nước và chất dinh dưỡng cung cấp cho cây.
Thân lúa: Có hai loại là thân giả và thân thật. Thân giả do các bẹ lá kết lại
tạo thành. Thân thật gồm các lóng thân nối tiếp nhau qua các mắt. Thường mỗi
cây lúa có từ 4 đến 6 lóng.
Chồi: Sau khi cấy khoảng 10 ngày thì chồi bắt đầu xuất hiện và số chồi đạt
tối đa vào khoảng 50 – 60 ngày sau cấy. Khả năng nảy chồi thay đổi tùy theo
giống lúa.
Bông lúa: Đây là cơ quan tạo hạt, được hình thành ở chóp trên cùng của
thân. Bông lúa gồm có trục bông, gié cấp 1, gié cấp 2,… Mỗi bông lúa có khoảng
100 – 150 hoa, một số giống có thể đạt tới 600 hoa trên một bông. Sau khi bông
lúa trổ một ngày thì bao phấn sẽ nở. Hoa lúa nở rộ nhất vào khoảng 9 – 10 giờ
sáng.
1.1.2.2 Sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa
Trong suốt đời sống của mình, cây lúa trải qua ba giai đoạn khác nhau để
hoàn thành chu kỳ phát triển là giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn sinh sản và giai
đoạn chín.
Sự khác biệt trong quá trình sinh trưởng của cây lúa được căn cứ vào số
ngày trong giai đoạn tăng trưởng. Giai đoạn sinh sản và chín hầu như không đổi ở
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 8
tất cả các giống lúa, với khoảng 30 ngày trong giai đoạn sinh sản và khoảng 35
ngày trong giai đoạn chín.
a. Giai đoạn tăng trưởng
Giai đoạn này được chia làm 4 giai đoạn nhỏ là: giai đoạn nẩy mầm, giai
đoạn mạ, giai đoạn đẻ nhánh và giai đoạn hình thành lóng. Thời gian của giai
đoạn tăng trưởng thay đổi tùy theo giống lúa.
Giai đoan nẩy mầm
Đời sống cây lúa bắt đầu bằng quá trình nẩy mầm. Mầm lúa phát triển từ
phôi trong hạt. Cấu tạo của phôi gồm có trục phôi, rễ phôi và mầm phôi.
Quá trình nẩy mầm bắt đầu khi hạt lúa hút nước, độ ẩm trong hạt tăng, hoạt
động của các men hô hấp và phân giải cũng tăng theo. Diễn ra cùng lúc với nó là
quá trình chuyển hóa tinh bột thành glucoza, protein thành axit amin. Các chất này
giúp cho tế bào phôi phân chia, lớn lên, trục phôi trương to, đẩy mầm và rễ ra khỏi
vỏ trấu, hạt nứt nanh rồi nẩy mầm.
Tiếp theo đó là sự hình thành của lá. Thời gian từ lúc hạt nẩy mầm đến khi
có 3 lá thật là thời gian hạt sử dụng chủ yếu các chất dinh dưỡng trong hạt.
Giai đoạn mạ
Thời kỳ mạ dài hay ngắn tùy thuộc vào giống lúa và mùa vụ. Thời kỳ mạ
được chia thành hai thời kỳ nhỏ là thời kỳ mạ non và thời kỳ mạ khỏe:
Thời kỳ mạ non: là thời kỳ từ lúc gieo đến khi ra ba lá thật. Thời kỳ này
thường kéo dài từ 7 – 10 ngày. Trong thời kỳ này dinh dưỡng của cây mạ chủ yếu
dựa vào chất dự trữ trong hạt.
Thời kỳ mạ khỏe: tính từ lúc cây mạ có 4 lá thật đến khi nhổ cấy. Ở thời kỳ
này, chiều cao và kích thước cây mạ tăng rõ rệt, có thể ra được 4 – 5 lứa rễ nên
tính chống chòu của cây lúa cũng tăng lên rất nhiều.
Thời kỳ đẻ nhánh
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 9
Sau khi cấy, cây lúa bén rễ hồi xanh rồi bước vào thời kỳ đẻ nhánh. Ở thời
kỳ đẻ nhánh cây lúa sinh trưởng nhanh và mạnh. Trong thời kỳ này cây lúa tập
trung vào các quá trình phát triển của bộ rễ, ra lá và đẻ nhánh.
Đẻ nhánh là một đặc tính sinh học của cây lúa, liên quan chặt chẽ đến quá
trình hình thành bông và năng suất lúa. Một số kết quả thí nghiệm cho thấy trong
điều kiện cấy 1 – 2 thửa ruộng và cấy thưa, cây lúa có thể đẻ được 20 – 30 nhánh.
Thời kỳ làm đốt
Trên đồng ruộng, sau khi đẻ đạt số nhánh tối đa, cây lúa sẽ chuyển sang
thời kỳ làm đốt.
Thời gian của quá trình này dài hay ngắn tùy theo giống lúa, thường là từ
25 – 60 ngày. Thời gian này cũng có liên quan đến số lóng kéo dài trên thân nhiều
hay ít.
b. Giai đoạn sinh sản
Giai đoạn này bắt đầu từ lúc tượng đòng và chấm dứt khi lúa trổ bông. Giai
đoạn này kéo dài khoảng 35 ngày.
Giai đoạn sinh sản lại được chia thành 3 giai đoạn nhỏ là làm đòng, trổ
bông và nở hoa. Khi bông lúa chưa trổ còn nằm trong bẹ lá được gọi là đòng lúa.
Thời gian làm đòng dài hay ngắn cũng phụ thuộc vào giống lúa. Đối với các giống
ngắn ngày thì thời gian này là từ 25 – 30 ngày, giống dài ngày là khoảng 40 – 45
ngày.
Và khi đòng lúa thoát ra khỏi bẹ của lá cờ là lúa bắt đầu trổ bông. Thời
gian trổ dài hay ngắn tùy theo giống lúa. Những giống lúa ngắn trung bình trổ từ 5
– 7 ngày. Còn những giống lúa dài ngày có khi trổ kéo dài từ 10 – 14 ngày.
c. Giai đoạn chín
Giai đoạn này bắt đầu từ lúc trổ bông và kéo dài trong khoảng 30 ngày.
Trong giai đoạn này hạt lúa bắt đầu tích lũy tinh bột và hình thành phôi.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 10
Quá trình chín của hạt lại được chia thành các giai đoạn là chín sữa (chất
dinh dưỡng trong hạt ở dạng lỏng, màu trắng như sữa), chín sáp (chất dòch trong
hạt dần đặt lại, hạt cứng dần), chín hoàn toàn (hạt chắc cứng, vỏ trấu từ màu vàng
chuyển sang vàng nhạt, trọng lượng hạt đạt tối đa).
1.1.3. Đặt điểm sinh thái của cây lúa
1.1.3.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ có tác dụng quyết đònh đến tốc độ sinh trưởng cây lúa nhanh hay
chậm, tốt hay xấu. Trong phạm vi giới hạn (20
0
– 30
0
C), nhiệt độ cáng tăng cây
lúa phát triển càng mạnh. Nhiệt độ trên 40
0
C hoặc dưới 17
0
C, cây lúa tăng trưởng
chậm lại. Dưới 13
0
C cây lúa ngừng tăng trưởng, nếu kéo dài một tuần lễ cây lúa
sẽ chết. Phạm vi nhiệt độ mà cây lúa có thể chòu đựng được và nhiệt độ tối hảo
thay đổi tuỳ theo giống lúa, giai đoạn tăng trưởng, thời gian bò ảnh hưởng là tình
trạng sinh lý của cây lúa (xem bảng 1.2). Nói chung, các giống lúa ôn đới chòu
đựng nhiệt độ thấp giỏi hơn các giống lúa nhiệt đới và ngược lại. Cây lúa già chòu
đựng giỏi hơn cây lúa non; thời gian bò ảnh hửong càng dài, cây lúa càng suy yếu
thì khả năng chòu đựng càng kém.
Bảng 1.2: Yêu cầu nhiệt độ cho các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa
Thời kỳ
Nhiệt độ (
0
C)
Tối thiểu
Tối thích
Tối đa
Nảy mầm
10 – 12
30 – 35
40
Mạ
15
25 – 30
40
Đẻ nhánh, làm đòng
16
25 – 30
40
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 11
Trổ bông, làm hạt
17
28 - 30
40
Ảnh hưởng của nhiệt độ thấp có thể xảy ra ở nơi có vó độ cao và cả những
vùng nhiệt đới trong mùa lạnh, khi nhiệt độ trung bình ngày xuống dưới 20
0
C.
Nhiệt độ thấp làm giảm hoặc ngưng hẳn sự nẩy mầm của hạt, làm mạ chậm phát
triển, cây mạ ốm yếu, lùn lại, lá bò mất màu, trổ trễ, bông bò nghẹn, phần chót
bông bò thoái hoá, sự thụ phấn bò đình trệ, khả năng bất thụ cao, hạt lép nhiều và
chín kéo dài bất thường. Các giống lúa khác nhau phản ứng với nhiệt độ thấp khác
nhau. Bón phân lân có thể làm giảm thiệt hại do nhiệt độ thấp.
Ảnh hưởng của nhiệt độ cao thường xảy ra ở vùng nhiệt đới trong mùa nắng
vào giữa trưa khi nhiệt độ vượt quá 35
0
C và kéo dài hơn 1 giờ đồng hồ. Ở nhiệt độ
cao chót lá bò khô trắng, trên lá có những dãy và đốm bò mất màu, nở bụi kém,
chiều cao giảm, số hạt trên bông giảm, bông lúa bò trắng, hạt thoái hoá nhiều, hạt
bất thụ cao, hạt chắc giảm.
Nói chung, nhiệt độ thích hợp nhất cho cây lúa là 26 – 28
0
C, biến động
nhiệt độ giữa ngày và đêm (biên độ nhiệt) từ 8 - 10
0
C là điều kiện thuận lợi cho
quá trình tích luỹ chất khô trong cây, giúp cây lúa phát triển tốt và cho năng suất
cao.
1.1.3.2 Ánh Sáng
Ánh sáng ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng phát triển và phát dục của
cây lúa trên 2 phương diện: cường độ ánh sáng và độ dài chiếu sáng trong ngày
(quang kỳ).
a. Cường độ ánh sáng
Nguồn: Nguyễn Ngọc Đệ, 2007
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 12
Cường độ ánh sáng ảnh hưởng trực tiếp đến sự quang hợp của cây lúa, thể
hiện chủ yếu bằng năng lượng ánh sáng mặt trời chiếu trên đơn vò diện tích đất
(lượng bức xạ).
Thông thường cây lúa chỉ sử dụng được khoảng 65% năng lượng ánh sáng
mặt trời chiếu tới ruộng lúa. Trong điều kiện bình thường, lượng bức xạ trung bình
từ 250 – 300 cal/cm
2
/ngày thì cây lúa sinh trưởng tốt. Nếu lượng bức xạ càng cao
thì quá quang hợp xảy ra càng mạnh.
b. Quang kỳ
Quang kỳ là khoảng thời gian chiếu sáng trong ngày tính từ lúc bình minh
đến lúc hoàng hôn. Giai đoạn cây lúa còn non không bò ảnh hưởng bởi quang kỳ.
Hầu hết ở các giống lúa giai đọan này kéo dài khoảng 10 – 63 ngày.
1.1.3.3 Nước
Cây lúa là cây ưa nước điển hình. Đây là thành phần chủ yếu trong cây lúa,
giúp cho cây lúa thực hiện các quá trình sinh lý trong cây, tạo điều kiện cung cấp
chất dinh dưỡng cho cây một cách thuận lợi cũng như làm giảm độ mặn, độ chua,
cỏ dại trong đồng ruộng.
Nhu cầu nước của cây lúa cao hơn so với một số cây trồng khác (ngô, lúa
mì, …) để tạo một đơn vò thân lá cây lúa cần 400 – 450 đơn vò nước. Để tạo một
đơn vò hạt cần 350 đơn vò nước.
Hạt lúa nảy mầm tốt khi ẩm độ đạt từ 25 – 28%.
1.1.3.4 Đất đai
Đất trồng lúa cần giàu dinh dưỡng, nhiều hữu cơ, tơi xốp, thoáng khí, khả
năng giữ nước, giữ phân tốt, tầng canh tác dày để bộ rể ăn sâu, bám chặt vào đất
và huy động nhiều dinh dưỡng nuôi cây.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 13
Đất thòt hay đất thòt pha sét, ít chua hoặc trung tính (pH = 5.5 – 7.5) là thích
hợp với cây lúa. Tuy nhiên, để trồng lúa đạt năng suất cao, đất ruộng cần bằng
phẳng và chủ động nước.
1.1.3.5 Gió
Gió lớn làm cây lúa đổ ngã, thân lá bầm dập, tạo điều kiện cho các mầm
bệnh xâm nhập, nhất là bệnh cháy bìa lá (Xanthomonas oryzae).
Ở giai đoạn làm đòng và trổ, gió mạnh ảnh hưởng xấu đến quá trình hình
thành và phát triển của đòng lúa, sự trổ bông, sự thụ phấn, thụ tinh và sự tích lũy
chất khô trong hạt bò trở ngại làm tăng tỉ lệ hạt lép, hạt lửng (hạt không đầy vỏ
trấu) làm giảm năng xuất lúa.
Tuy nhiên, gió nhẹ giúp cho quá trình trao đổi không khí trong quần thể
ruộng lúa tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình quang hợp và hô hấp của
ruộng lúa.
1.1.4. Đặc điểm sinh lý của cây lúa
1.1.4.2 Quang hợp và hô hấp
a. Quang hợp
Quang hợp là một chức năng quan trọng của cây xanh. Dưới tác dụng của
ánh sáng mặt trời, nhờ có diệp lục cây xanh đồng hóa CO
2
và nước để tạo thành
các hợp chất hữu cơ cung cấp cho mọi hoạt động của chúng.
Phương trình của quá trình quang hợp:
6CO
2
+ 12H
2
O → C
6
H
12
O
6
+ 6O
2
↑ + 6H
2
O
Quang hợp là một quá trình phức tạp, có thể được khái quá thành 3 bước
sau đây:
- Quá trình khuếch tán của khí CO
2
đến lục lạp: CO
2
trong không khí được
khuếch tán qua khí khổng đến lục lạp.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 14
- Phản ứng sáng: Cây xanh sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời để phân
giải nước, tạo ra phân tử oxy (O
2
), chất khử Nicotinamid adenin dinucleotid
phosphate (NADPH) và Adenosin triphosphate (ATP).
- Phản ứng tối: NADPH và ATP bò khử ở ngoài ánh sáng, được dùng để khử
CO
2
thành carbonhydrate và các hợp chất khác. Phản ứng này không đòi hỏi ánh
sáng nên gọi là phản ứng tối.
- Cây lúa là cây quang hợp theo con đường C
3
. Do đó lúa có điểm bù CO
2
cao và có quá trình quang hô hấp. Nhiệt độ tối thích cho quang hợp ở giống lúa
Indica là khoảng 25 – 35
0
C. Cường độ quang hợp của lá lúa là khoảng 40 – 50
mgCO
2
/dm
2
/h.
Điểm bảo hòa ánh sáng trong quang hợp của cây lúa là khoảng 50klux,
cường độ quang hợp đạt tối đa trong khoảng 40 – 60klux.
Khi đầy đủ ánh sáng thì nhiệt độ thích hợp nhất cho quang hợp là khoảng
18 – 34
0
C.
Ngoài ra, các yếu tố như nồng độ CO
2
, các yếu tố dinh dưỡng đạm, lân, kali
cũng ảnh hưởng đến quá trình quang hợp của cây lúa.
Quang hợp là hoạt động chủ yếu quyết đònh quá trình sinh trưởng và năng
suất lúa. Muốn tăng năng suất lúa thì cần tạo điều kiện cho hoạt động quang hợp
diễn ra thuận lơi.
b. Hô hấp
Hô hấp là quá trình oxy hóa, phân giải các chất hữu cơ để cung cấp năng
lượng cho hoạt động sống của cây trồng: duy trì và phát triển. Qúa trình này sử
dụng các chất hữu cơ tạo ra từ quang hợp để cung cấp năng lượng và các hợp chất
hữu cơ cần thiết cho quá trình sinh tổng hợp các chất trong cây.
Nhiệt độ càng cao, quang hợp và hô hấp càng mạnh, vật chất sản sinh ra
càng nhiều cây sinh trưởng càng khỏe.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 15
1.1.4.3 Dinh dưỡng khoáng của cây lúa
a. Chất đạm
Đạm là chất tạo hình cây lúa, là thành phần chủ yếu của protein và chất
diệp lục làm cho lá xanh tốt, gia tăng chiều cao cây, số chồi và kích thước lá thân.
Đạm được chuyển từ rể vào cây lúa rồi từ đó kết hợp với các acid hữu cơ tạo
thành acid amin tổng hợp nên protit. Ở các giai đoạn sinh trưởng ban đầu, đạm
được tích lũy chủ yếu trong thân lá, khi lúa trổ khoảng 48 – 71% đạm được đưa lên
bông.
Cây lúa có thể hấp thụ và sử dụng cả hai dạng đạm nitrat (NO
3
-
) và
ammonium (NH
4
+
), mà chủ yếu là đạm ammonium.
Thực tế, lượng đạm cây lúa hấp thu được chỉ chiếm khoảng 35 – 50% lượng
đạm bón vào. Do đó, nếu bón thiếu đạm cây lúa sẽ thấp, nở bụi ít, chồi nhỏ lá
ngắn hẹp trở nên vàng và rụi sớm, cây lúa còi cọc không phát triển. Nếu trong giai
đoạn sinh sản thiếu đạm cây lúa sẽ cho bông ngắn, ít hạt, hạt nhỏ và có nhiều hạt
thối hóa. Ngược lại, nếu bón thừa đạm cũng không tốt, cây lúa sẽ phát triển thân
lá quá mức, mô non mềm, sẽ dễ đổ ngã, tán lá rậm rạp, lượng đạm tự do trong cây
cao, nên cây dễ nhiễm bệnh làm giảm năng suất rất lớn.
b. Chất lân
Lân chiếm khoảng 0.1 – 0.5% chất khô của cây lúa. Lân là chất sinh năng
(tạo năng lượng), là thành phần của ATP, NADP… Thúc đẩy việc sử dụng và tổng
hợp chất đạm trong cây, kích thích rể phát triển, giúp cây lúa mau lại sức sau khi
cấy, nở bụi mạnh, kết nhiều hạt chất, giúp lúa chín sớm và đồng loạt hơn.
Lân còn là thành phần cấu tạo acid nhân, thường tập chung nhiều nhất trong
hạt. Cây lúa cần lân ở giai đoạn đầu cao hơn ở các giai đoạn cuối, do lân cần thiết
cho sự nở bụi của cây lúa, nên cần phải bón lót trước khi sạ cấy.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 16
Nhu cầu tổng số lân của cây lúa ít hơn đạm. Do đó, hiện tượng thiếu chỉ
thường xảy ra ở những vùng đất phèn. Khi thiếu lân cây lúa bò lùn, đẻ nhánh ít,
quá trình trổ bông và chín bò chậm lại và kéo dài, số lượng lúa lép tăng làm năng
suất giảm rõ rệt.
c. Chất kali
Kali còn gọi là bồ tạt (potassium). Kali (K) xúc tiến quá trình vận chuyển
và tổng hợp các chất trong cây, duy trì sức trương của tế bào, giúp cây cứng cáp,
chống ngã đổ, chòu hạn và lạnh khỏe hơn, tăng số hạt chắc trên bông và làm hạt
no đầy hơn.
Kali thường tập trung chủ yếu trong rơm rạ, chỉ khoảng 6 -20% ở trên bông.
Khi thiếu kali cây lúa có chiều cao và số chồi gần như bình thường, lá vẫn xanh
nhưng mềm rũ, yếu ớt, dễ đổ ngã…
d. Chất Silic
Cây lúa hấp thu Silic nhiều hơn bất kỳ chất dinh dưỡng nào (từ 890 –
1018kg/ha/vụ). Silic có vai trò quan trọng trong cây, silic làm tăng bề dày của
vách tế bào, giúp cây lúa cứng cáp, làm lá thẳng đứng, giảm thoát hơi nước giúp
cây chòu hạn khỏe hơn.
Silic cũng tăng lực oxi hóa của rể và ngăn cản sự hấp thu Fe và Mn quá
mức.
e. Chất sắt
Sắt là thành phần cấu tạo của Chlorophyll (diệp lục tố) và một số phân hóa
tố trong cây. Cây lúa cũng cần sắt nhưng chỉ với một lượng nhỏ. Nồng độ Fe
2+
trong lá dưới 70ppm cây lúa có triệu chứng thiếu sắt. Tuy nhiên, ở nồng độ Fe
2+
cao (trên 300ppm) lá bò ngộ độc sắt. Triệu chứng ngộ độc sắt ở cây lúa là xuất
hiện những đốm rỉ màu nâu đỏ từ chóp lá và lan dần dọc theo gân lá xuống các
phần bên dưới làm cả lá bò đỏ, bụi lá còi cọc, rể không phát triển, màu vàng nâu.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 17
Nồng độ Fe
2+
cao ở đất phèn làm bộ rể bò hư hại, sự hấp thụ dưỡng chất, nhất là
lân và kali nên ảnh hưởng đến cây lúa càng trầm trọng hơn. Ngộ độc sắt thường
xảy ra ở các vùng đất có pH thấp nên còn gọi là lúa bò phèn. Do đó, cần đào
mương thoát nước, bón vôi để cải tạo đất, đồng thời bón thêm lân và kali cho cây
lúa.
1.1.5 Giá trò kinh tế của cây lúa
Lúa là cây trống thân thiết, lâu đời nhất của nhân dân ta và nhiều dân tộc
khác trên thế giới, đặt biệt là các dân tộc Châu Á. Lúa gạo là loại lương thực
chính của người dân Châu Á, cũng như bắp của dân Nam Mỹ, hạt kê của dân
Châu Phi hoặc lúa mì của dân Châu Âu và Bắc Mỹ. Tuy nhiên có thể nói, trên
khắp thế giới, ở đâu cũng có dùng đến lúa gạo hoặc các sản phẩm từ lúa gạo.
Khoảng 40% dân số trên thế giới lấy lúa gạo làm các mức độ khác nhau. Lượng
lúa được sản xuất ra và mức tiêu thụ gạo cao tập trung ở khu vực Châu Á. Con số
này theo ước đoán đã tăng lên gần gấp đôi. Đối với những người này, lúa gạo là
nguồn năng lượng chính cho cuộc sống hàng ngày của họ.
Đặc biệt đối với dân nghèo: gạo là nguồn thức ăn chủ yếu. Các nước nghèo
thường dùng gạo là nguồn lương thực chính, khi thu nhập tăng lên mức tiêu thụ
gạo có xu hướng giảm xuống, thay thế bằng các loại thức ăn cung cấp nhiều
protein và vitamin hơn là năng lượng.
Ở Việt Nam hiện nay mức tiêu thụ gạo bình quân vẫn còn ở mức cao,
khoảng 120 kg/người/năm. Theo số liệu của Bộ Nông Nghiệp Mỹ (USDA, 2007),
tổng nhu cầu tiêu thu gạo trung bình hàng năm của cả thế giới ước khoảng từ 410
triệu tấn (2004 – 2005), đã tăng lên đến khoảng 424,5 triệu tấn (2007), trong khi
tổng lượng gạo sản xuất của cả thế giới luôn thấp hơn nhu cầu này. Cũng theo cơ
quan này, hàng năm thế giới thiếu khoảng 2 – 4 triệu tấn gạo, đặc biệt năm 2003 -
2004 sự thiếu hụt này lên đến 21 triệu tấn.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 18
Đối với các quốc gia như Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar), Ai
Cập lúa gạo chiếm một vò trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, không phải
chỉ là nguồn lương thực mà còn là nguồn thu ngoại tệ để đổi lấy thiết bò, vật tư cần
thiết cho sự phát triển của đất nước.
1.1.6 Tình hình sản xuất lúa gạo hiện nay
1.1.6.1 Trên thế giới
Cây lúa có nguồn gốc nhiệt đới, vùng phân bố tương đối rộng và khả năng
thích nghi tương đối tốt với môi trường. Tuy nhiên việc sản xuất lúa phù hợp nhất
là ở khu vực có chi phí nhân công thấp và lượng mưa lớn. Vì những điều này nên
có thể nói châu Á là nơi phù hợp nhất cho việc trồng lúa (chiếm khoảng 90%). Kể
từ năm 1955 đến 1980 diện tích trống lúa trên thế giới đã gia tăng rõ rệt, tăng bình
quân 1,36 triệu ha/năm. Nhưng từ năm 1980, diện tích sản xuất lúa tăng chậm lại
và đạt cao nhất vào năm 1999 (đạt 156,77 triệu ha). Từ năm 2000 trở đi diện tích
trồng lúa trên thế giới lại có nhiều biến động và có xu hướng giảm dần, đến năm
2005 còn ở mức 152,9 triệu ha.
Các nước có diện tích sản xuất lúa lớn nhất theo thứ tự phải kể là Ấn Độ,
Trung Quốc, Indonesia, Bangladesh, Thái Lan. Việt Nam đứng hàng thứ 6 trước
Miến Điện (bảng 1.3).
Bảng 1.3: Các quốc gia có diện tích sản xuất lúa lớn nhất thế giới (triệu tấn)
TT
Quốc gia
1990
2000
2001
2002
2003
2005
1
Ấn Độ
42.69
44.71
44.9
41.2
42.5
42.1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 19
2
Trung Quốc
33.52
30.3
29.14
27.51
26.78
28.62
3
Inđonesia
10.5
11.79
11.5
11.52
11.48
11.92
4
Bangladesh
10.44
10.8
10.66
10.77
10.73
10.25
5
Thái Lan
8.79
9.89
10.13
9.999
9.51
9.87
6
Việt Nam
6.04
7.67
7.49
7.5
7.45
7.45
7
Myanma
4.76
6.3
6.41
6.38
6.53
6.86
8
Philippines
3.32
4.4
4.07
4.05
4.01
7.13
9
Brzazil
3.95
3.66
33.14
3.15
3.18
3.73
10
Pakistan
2.11
2.38
2.11
2.23
2.46
2.52
11
Nigeria
1.21
2.2
2.12
2.19
2.21
2.35
12
Nhật Bản
2.07
1.77
1.71
1.69
1.67
1.70
Trong vòng 30 năm kể từ năm 1955 đến 1985, năng suất lúa bình quân trên
thế giới cũng tăng khoảng 1.3 tấn/ha. Đặc biệt vào những năm 1965 – 1970, sự ra
đời của các giống lúa thấp cây, ngắn ngày, không quang cảm như giống lúa IR5,
TR8. Các giống lúa này có yêu cầu kỹ thuật cao hơn, tạo điều kiện cho các nước
phát triển tăng nhanh sản lượng lúa bằng con đường tăng năng suất nhờ có điều
kiện phát triển hệ thống thủy lợi hoàn chỉnh và đầu tư phân bón, kỹ thuật cao. Do
đó đến năm 1990, dẫn đầu năng suất lúa thế giới là các nước Triều Tiên, c, Mỹ,
Nhật Bản, Tây Bang Nha (IRRI,1990). Trong đó, Nhật Bản và Tây Ban Nha có
năng suất lúa dẫn đầu thế giới trong nhiều năm. Trong khi các nước có diện tích
lúa lớn, điều kiện tự nhiên khắt nghiệt, thiếu điều kiện đầu tư, cải tạo môi trường
canh tác và không thể đầu tư vào nông nghiệp cao, nên năng suất lúa vẫn còn rất
thấp và tăng chậm. Do đó năng suất lúa bình quân trên thế giới đến nay vẫn còn ở
khoảng 4.0 – 4.1 tấn/ha, chỉ bằng ½ năng suất lúa ở các nước phát triển. Đến năm
2005, theo thống kê của FAO (2006), dẫn đầu năng suất lúa là Mỹ, rồi đến Hy
Nguồn: Nguyễn Ngọc Đệ, 2008
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 20
Lạp, El Salvador, Tây Ban Nha với trên 7 tấn/ha. Trong đó, El Salvador có mức
tăng năng suất rất nhanh trong những năm gần đây. Nhật Bản, Hàn Quốc và Ý có
năng suất lúa tương đối cao và ổn đònh nhất. Việt Nam được xếp vào nhóm 20
nước có năng suất cao, đặc biệt là vượt trội trong khu vực Đông Nam Á nhờ thủy
lợi được cải thiện đáng kể và áp dụng nhanh các tiến bộ kỹ thuật về giống, phân
bón và bảo vệ thực vật. Năng suất lúa cao tập trung ở các quốc gia á nhiệt đới
hoặc ôn đới có khí hậu ôn hòa hơn, chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm cao hơn và
trình độ canh tác phát triển tốt hơn. Các nước nhiệt đới có năng suất bình quân
thấp do chế độ nhiệt và ẩm độ cao, sâu bệnh phát triển mạnh và trình độ canh tác
hạn chế. Mặc dù là năng suất lúa ở các nước Châu Á còn thấp nhưng do diện tích
sản xuất lớn nên Châu Á vẫn là nguồn đóng góp rất quan trọng cho sản lượng lúa
trên thế giới, có đến 85% sản lượng lúa trên thế giới tập trung ở 8 nước, đều nằm
ở khu vực châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh, Việt Nam, Thái
Lan, Myanmar và Nhật).
Bảng 1.4: Các quốc gia có sản lượng lúa lớn nhấtgiới (triệu tấn )
TT
Quốc gia
1990
2000
2002
2003
2004
2005
1
Trung Quốc
191.61
189.81
179.30
162.30
180.52
182.04
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 21
2
n độ
111.52
127.40
139.90
132.20
128.00
136.57
3
Indonesia
45.18
51.90
50.46
52.14
54.09
53.98
4
Bangladesh
26.78
37.63
36.27
38.36
36.24
39.80
5
Việt Nam
19.23
32.53
32.11
34.57
36.15
35.79
6
Thái Lan
17.19
25.84
26.52
29.34
29.30
29.20
7
Myanmar
-
21.32
21.92
23.15
24.27
25.36
8
Philippines
9.89
12.39
12.95
13.50
14.50
14.60
9
Brazil
7.42
11.09
10.18
10.33
13.28
13.19
10
Nậht Bản
13.12
11.86
11.32
9.74
10.91
11.34
11
Myỹ
7.08
8.66
9.76
9.07
10.54
10.13
12
Pakistan
4.89
7.20
5.82
7.27
7.54
8.32
1.1.6.2 Tại Việt Nam
Nguồn: FAO,2006
Hình 1.2: Phân bố các quốc gia trồng lúa trên thế giới
(FAO, 1997)
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 22
Nước ta thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa nên rất thuận lợi cho nghề trồng
lúa. Nước ta có hai vùng trồng lúa chính là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng
sông Cửu Long.
Trong thời gian chiến tranh, diện tích trồng lúa cả nước chỉ dao động trong
khoảng 4.40 – 4.90 triệu ha, năng suất có tăng nhưng rất chậm, chỉ khoảng 700 kg
lúa/ha trong vòng 20 năm. Sản lượng lúa tổng cộng 2 miền chỉ trên dưới 10 triệu
tấn. Sau ngày giải phóng, cùng với phong trào khai hoang phục hóa diện tích lúa
tăng lên khá nhanh và ổn đònh ở khoảng 5.5 – 5.7 triệu ha. Nhưng do đất đai mới
khai hoang chưa được cải tạo, thiên tai, sâu bệnh và đặc biệt là cơ chế quản lý
nông nghiệp trì trệ không thích hợp nên năng suất bình quân trong thời kỳ này
giảm sút khá nghiêm trọng. Và bắt đầu từ năm 1980, do các công trình thủy lợi
trong cả nước bắt đầu có tác dụng và cơ chế quản lý nông nghiệp thoáng hơn nên
năng suất lúa có xu hướng tăng dần. Đến năm 1982, một loạt chính sách cải tạo
ruộng đất và đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thò trường, nông dân được giao
quyền sử dụng đất nên quan tâm, phấn khởi hơn và có toàn quyền quyết đònh
trong sản xuất của họ, vì vậy mà năng suất lúa đã tăng lên nhanh chóng từ 3
tấn/ha lên đến 4.9 tấn/ha vào năm 2005. Sản lượng lúa đã tăng hơn 3 lần so với
năm 1975. Nhờ thế, mà từ một đất nước phải nhập khẩu hàng năm Việt Nam đã
vươn lên là một trong những nước xuất khẩu lúa gạo hàng đầu của thế giới.
Bảng 1.5 : Diện tích, năng suất và sản lượng lúa ở Việt Nam qua các năm
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 23
Năm
Diện tích
(Triệu ha)
Năng suất
(t/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
1955
4.42
1.44
6.36
1960
4.6
1.99
9.17
1965
4.83
1.94
9.37
1970
7.72
2.15
10.17
1975
7.94
2.16
10.54
1980
5.54
2.11
11.68
1985
5.7
2.78
15.87
1990
5.96
3.21
19.14
1995
6.77
3.69
24.96
2000
7.67
4.24
32.53
2001
7.49
4.29
32.11
2002
7.5
4.59
34.45
2003
7.45
4.64
34.57
2004
7.45
4086
36.15
2005
7.33
4.89
35.79
Từ năm 1997 đến nay, hàng năm nước ta xuất khẩu trung bình trên dưới 4
triệu tấn gạo, đem về một nguồn thu ngoại tệ rất đáng kể. Hiện nay, Việt Nam
đứng hàng thứ 6 thế giới về diện tích gieo trồng lúa và đứng hàng thứ 5 về sản
lượng lúa.
1.2. RẦY NÂU HẠI LÚA
Nguồn: Nguyễn ngọc Đệ, 2008
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 24
1.2.1. Nguồn gốc và phân bố của rầy nâu
Rầy nâu (Nilaparvata lugens (Stal)) thuộc giống Nilaparvata, họ rầy
delphacidea, bộ nhỏ Fulgoromorpha, bộ phụ Auchenorrbyncha, bộ cánh đều
Homoptera (Nguyễn Xuân Hiển và cs., 1979). Nilaparvata lugens được Stal đặt
tên vào năm 1854. Giống Nilaparvata có 8 loài trong đó chỉ có Nilaparvata lugens
là gây hại trên lúa.
Nilaparvata lugens xuất hiện ở tất cả các nước trồng lúa như Ấn Độ, Sri
Lanka, Bangladesh, Campuchia, Thái Lan, Indonexia, Malaysia, Nhật Bản,
Philippin, Trung Quốc, Việt Nam … (Lê Thò Sen, 1999)
1.2.2 Tác hại của rầy nâu (Nilaparvata lugens)
Rầy nâu trở thành loài sâu hại nguy hiểm tại các nước trồng lúa từ nửa sau
thế kỷ XX. Những trận dòch rầy nâu đã ghi nhận xuất hiện tại nhiều nước trên thế
giới như Nhật Bản, Ấn Độ, Indonexia, Philippines, Malaysia, Thái Lan… đã gây
nhiều thiệt hại (Phạm Văn Lầm, 2006).
Theo Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thò Sen (2004) thì tại Việt Nam, rầy nâu
được ghi nhận xuất hiện trên lúa từ rất lâu nhưng không gây thành những trận dòch
lớn do chỉ trồng lúa mùa. Năm 1965 Viện Nghiên Cứu Lúa Gạo Quốc Tế đã đưa
vào Việt Nam các giống lúa ngắn ngày và được trồng đầu tiên ở Miền Trung. Các
giống lúa ngày được trồng nhiều vụ trong một năm là điều kiện để rầy nâu nhanh
chóng nhân mật số. Năm 1969 rầy nâu bắt đầu gây hại mạnh ở Phan Rang và một
số tỉnh miền Trung.
Từ năm 1971 – 1974, rầy nâu đã gây hại cây lúa tại nhiều vùng thuộc các
tỉnh duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long, diện tích bò hại năm
1974 lên đến 94.000 ha (Lê Thò Sen, 1999).
Năm 1974, phá hại lúa ở Quảng Nam, Bình Đònh, Khánh Hòa, Tây Ninh,
Long An, Vónh Long, An Giang. Từ tháng 11/1977, rầy nâu đã phát sinh thành dòch
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP GVHD: KS. HỨA QUYẾT CHIẾN
SVTH: PHAN THỊ LỆ CHI Trang 25
lớn ở các tỉnh Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp trên diện tích 100.000
ha, trong đó có 10.000 ha mất trắng, 90.000 ha bò hại từ 30 – 50% năng suất (Phạm
Văn Lầm, 2006).
Từ năm 1977 – 1979, rầy nâu đã gây thành dòch tại các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long với diện tích lúa bò phá hại khoảng một triệu hecta, nhiều nơi bò mất
trắng, thiệt hại đến hàng triệu tấn lúa.
Từ vụ Hè – Thu năm 1988 đến Đông – Xuân năm 1989 – 1990, rầy nâu đã
phát sinh và thành dòch gây thiệt hại nặng ở một số nơi như thành phố Hồ Chí
Minh, An Giang, Tiền Giang, Minh Hải (Bạc Liêu). Riêng năm 1990, ở đồng bằng
sông Cửu Long, tính cả 3 vụ sản xuất có khoảng 237.820 ha lúa bò nhiễm rầy nâu,
chiếm 8.3% diện tích lúa cả năm.
Năm 2006, đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ bò rầy nâu,
bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá làm thất thu hơn 600 ngàn tấn
Ngoài ra, rầy nâu còn là môi giới truyền bệnh virus dễn đến bệnh lúa cỏ và
lùn xoắn lá (Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thò Sen, 2004).
1.2.3 Nguyên nhân phát sinh rầy nâu
Do vụ Đông – Xuân và Hè – Thu gieo sạ cận nhau quá và không đồng loạt
nên tạo ra cầu nối cho rầy trưởng thành từ lúa Đông – Xuân mang mầm bệnh
truyền cho lúa Hè – Thu. Diện tích canh tác lúa nhiễm rầy cũng gia tăng và trồng
xen trong vùng lúa Đông Xuân mà không được xuống giống đồng loạt. Khả năng
kháng rầy của giống lúa đã suy yếu, do đã sử dụng trong thời gian quá lâu
(Nguyễn Văn Huỳnh, 2006).
1.2.4 Ký chủ